Seite auswählen

„thạch thảo là một loài hoa cúc chẳng liên quan gì đến Apollinaire, Georg Trakl và Heidegger. Nhưng chết rồi sẽ là một mùa thu khác chứ không phải mùa thu ấy, mùa thu của Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Bùi Giáng, Hoàng Nguyên Chương, của miền Nam trước 1975, khi ta ngắt đi một cụm hoa cúc mới.“    

 Phạm Thị Hoài

Khi dịch Thư gửi một nhà thơ trẻ[1] của Rainer Maria Rilke đầu những năm 90, tôi không biết đã có một bản dịch tiếng Việt khác, Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi của Hoàng Thu Uyên, do An Tiêm xuất bản ở Sài Gòn năm 1969. Cách đây vài năm, bắt gặp những dòng chữ mở đầu của mình xuất hiện dưới một cái tên khác, tôi mới biết đến bản dịch đó và có dịp thưởng thức tình trạng lộn xộn thú vị ngự trị trên cõi tự tung tự tác mà chúng ta gọi là internet: có trang đăng bản dịch của Hoàng Thu Uyên với bìa sách An Tiêm nhưng chêm phần lời dẫn từ bản dịch của tôi; có trang cũng đăng như vậy nhưng với bìa sách do NXB Văn hóa Sài Gòn tái bản năm 2008; có trang để tôi làm dịch giả cho bản dịch của Hoàng Thu Uyên; có trang cho Hoàng Thu Uyên đứng tên bản dịch của tôi. Sở dĩ cho đến nay tôi không nhầm mình là Hoàng Thu Uyên, vì đó là bút danh của một trong những gương mặt trí thức lừng lẫy nhất ở miền Nam Việt Nam trước 1975: Phạm Công Thiện.

 

Thông thạo cả chục ngoại ngữ cổ kim Đông Tây song lại “khinh bỉ những kẻ nào biết nhiều thứ tiếng” và cho rằng tiếng Việt là khó nhất vì “không có văn phạm và ngữ pháp”, Phạm Công Thiện đã dịch những tác giả thượng thặng như Heidegger, Nietzsche, Krishnamurti, Henry Miller, Nikos Kazantzakis, Rainer Maria Rilke nhưng ông không phải là một dịch giả theo nghĩa thông thường để có thể đem đặt vào một trường phái dịch thuật nhất định hay đánh giá bằng những nguyên lý và tiêu chí ngày càng phức tạp của nghề này; nhất là ở thời mà trí tuệ nhân tạo đã đủ sức chuyển phần xác của hầu hết mọi ngôn ngữ sang các ngôn ngữ khác trong chớp mắt song vẫn bó tay trước phần hồn và chúng ta, thua xa quy mô và tốc độ của AI, vẫn liều lĩnh và vô vọng đâm đầu vào những ngõ cụt của bất khả dịch. Không là dịch giả xuất sắc nhất cũng như không là thi sĩ sáng giá nhất, không là nhà văn đặc biệt nhất, không là học giả uyên bác nhất, không hẳn là một nhà tư tưởng dù thường được gọi là triết gia và lại càng không thực sự là một tu sĩ, song Phạm Công Thiện là tổng thể kỳ lạ nhất của ngôn ngữ, tư tưởng, nghệ thuật, tôn giáo và tinh thần thời đại mà miền Nam Việt Nam sinh ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi và đặc quánh của lịch sử, từ giữa thập niên sáu mươi đến biến cố tháng Tư 1975, trong vòng xoáy của một cuộc chiến leo thang từng ngày, giữa vỏ đạn, xác người và những chiến tuyến khốc liệt.

 

Trong lời giới thiệu Về thể tính của chân lý, dịch từ nguyên bản tiếng Đức Vom Wesen der Wahrheit của Martin Heidegger, ông tuyên bố bản dịch của mình “đánh dấu một biến cố quan trọng trong tư tưởng Việt Nam, vì dịch, theo Heidegger, có nghĩa nhảy, dịch chỉ có thể thành tựu được là nhờ một cái nhảy. Người dịch Heidegger phải bắt buộc làm hai cái nhảy: nhảy vào thể tính Đông phương qua ngôn ngữ Việt Nam và nhảy vào thể tính Tây phương qua ngôn ngữ Đức: điều kiện sơ đẳng của người dịch là phải nắm lấy tính thể Đông phương trong mười ngón tay mình và nắm lấy tính thể Tây phương trong mười ngón chân mình.” Chuyện mười ngón tay mười ngón chân chỉ là một cách nói điển hình Phạm Công Thiện, có thể cường điệu đại ngôn, có thể tu từ mê hoặc, có thể cực đoan lập dị và cả tào lao nonsense, nhưng bay bổng, nên thơ, độc đáo bất ngờ, quảng bác mà nóng rực như một dòng dung nham trẻ trung cường tráng, phun xối xả dăm năm rồi tắt vụt. Ông dịch cũng như viết, lang thang, ngẫu hứng, phóng túng, thậm chí bất cần, nhất là không cần “đau đáu đi tìm một tương đương” vì tiếng Việt đơn âm, trong sự tôn thờ đắm đuối của ông, mang một “khả tính siêu việt” và một trật tự hoàn toàn khác với trật tự tổng hợp của ngôn ngữ đa âm phương Tây, khiến dịch là “sờ mó tiếng Việt và bị tiếng Việt sờ mó, nâng từng chữ, bóp từng chỗ kín”, là “phục hồi lại ngôn ngữ Việt Nam, lắng nghe lại tất cả dư âm phong phú của từng chữ Việt, mỗi từ Việt là kết quả lâu dài gian nan của sự đấu tranh khủng khiếp, kết tinh tất cả hồn thiêng đất nước, là một bước chân của tổ tiên bước đi hoang vu vào đêm tối của dân tộc, té lên, té xuống, mở rộng ra chân trời rực sáng của non sông”, và rốt cuộc, dịch để hiểu “vì sao một chữ Đức, một chữ Hy Lạp lại quyết định chiến tranh Việt Nam”. Tiếng Việt là ngôi nhà đầy an ủi để hồn của một dân tộc đang thí xác cho bom Mỹ và súng trường Kalashnikov lui về nương náu.

Phạm Công Thiện không làm nghề dịch để phải bận tâm đến những chuẩn mực chao ôi là nghiêm cẩn mà chúng ta thường nép vào, dính chặt và nhiều khi chết gí ở đó. Ông chỉ dịch những tác giả ruột thịt với mình để nhờ tiếng Việt, quy chiếu từ một ngôn ngữ khác, phát ngôn tinh thần hư vô, thái độ khước từ và sự cô đơn của chính mình. Nên ông trung thành với bản thân hơn với bản gốc và nếu cần thì hy sinh bản gốc để bảo toàn hay thậm chí khuếch đại bản thân. Rilke của ông chệch với Rilke của Rilke khá nhiều, song đó là chủ định, đầy ý thức và thách thức, chứ không đơn giản là dịch ẩu hay dịch nhầm. Cách dịch của ông khiến tôi phải nhớ đến nhân vật Faust của văn hào Goethe, cũng là dịch giả nhiệt thành và một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết dịch thuật văn học ở Đức.

 

Faust muốn dịch nguyên bản Kinh thánh Tân ước sang tiếng Đức cho thỏa khát khao khải thị, và vấp ngay vào câu mở đầu lời dẫn Phúc âm theo Thánh Gioan: “Sách có ghi: Khởi thủy là Lời“. Chàng băn khoăn, không, không thể đề cao Lời quá mức như vậy, phải dịch khác. “Khởi thủy là Tư tưởng” chăng? Nhưng liệu tư tưởng có tác động và tạo ra tất cả không? Hay nên dịch thành “Khởi thủy là Sức mạnh“? Lựa chọn này vừa tính đến đã thấy không ổn. Và cuối cùng, như được thần linh dẫn dắt, chàng vững lòng đặt bút viết: “Khởi thủy là Hành động[2]. Khái niệm logos trong bản gốc tiếng Hy Lạp của câu này cho phép nhiều cách diễn giải. Bản tiếng Việt trùng với phần lớn các bản dịch ở những ngôn ngữ khác: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời“, trong khi ở bản tiếng Nhật và tiếng Hàn thì logos là chính Ki-tô, khi chưa có gì trong vũ trụ thì đã có Ki-tô; còn ở bản tiếng Trung thì “Thái sơ hữu đạo“, khởi thủy là Đạo chứ không phải Lời. Một cách dịch tuyệt vời, “mở ra một chân trời cho chiêm niệm”, theo tiêu chí dịch thuật của một dịch giả đặc biệt khác, thi sĩ Bùi Giáng, cũng một hiện tượng kỳ lạ và kỳ diệu của miền Nam trước 1975 và tương đồng về tinh thần hơn là tương phản trong hành động với Phạm Công Thiện. Cũng chuyện nhảy, từ Heidegger qua Phạm Công Thiện, cú nhảy trong dịch thuật ở Bùi Giáng là nhảy lùi, lùi xa khỏi bản gốc để trân trọng nó từ khoảng cách thích đáng và “nếu buộc phải dịch thì đành cưỡng bức”. Ông đã cưỡng 8 câu thơ tự do của Emily Dickinson vào 14 câu lục bát, trong đó một câu là trích nguyên văn từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ông không dịch, vì “kẻ biết dịch tối cao không bao giờ chịu dịch”.

 

Mỗi thời đại hay thực ra mỗi thế hệ đều cần bản dịch của thời đại mình, thế hệ mình. Mọi bản dịch đều sẽ đến lúc lỗi thời và thường lỗi thời nhanh hơn bản gốc. Nhiều trang dịch của Phạm Công Thiện, như chính con người quá đỗi khác thường và cuộc đời đầy đứt gãy của ông, tách khỏi ngữ cảnh của thời đại hố thẳm và thế hệ bơ vơ, khủng hoảng, quằn quại mà kiêu hãnh của ông, khó có thể khiến độc giả bây giờ hình dung sức lan tỏa và chấn động của chúng ở miền Nam nửa thế kỷ trước. Tôi không thuộc nhóm đệ tử vô điều kiện của ông để say sưa niệm những câu dịch bùa chú, như “Tính thể mà khi lập thể thì không có căn thể” (Sein als Gründendes hat keinen Grund), song mỗi lần lướt qua biết bao bản dịch rón rén sợ sệt, biết bao bản dịch rúm ró nhu nhược, biết bao bản dịch gò bó tủn mủn, biết bao bản dịch bẹp gí dưới bóng đè của bản gốc, biết bao bản dịch vô vị và nô lệ đang nghiễm nhiên sống khỏe thì nhành thạch thảo của Phạm Công Thiện lại hiện về.

 

Trong Ý thức mới trong văn nghệ và triết họcchương bảycuốn sách huyền thoại mà ông khởi viết lúc 19 tuổi để xuất hiện như một cơn địa chấn giữa một Sài Gòn đang chao đảo trong những biến cố kinh hoàng, Phạm Công Thiện đã trích dẫn bài thơ L’Adieu” của Guillaume Apollinaire trước khi Phạm Duy mở đầu ca khúc nổi tiếng của mình với Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi”, phổ lời Việt của bài thơ ấy. Hoàng Nguyên Chương và Bùi Giáng đều dịch bruyère là thạch thảo. Một phần tư thế kỷ sau, Phạm Công Thiện vẫn trở đi trở lại với thạch thảo trong Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Ông biết bruyère là loài thảo mộc đặc trưng của các vùng đồng hoang châu Âu mà ông dịch là “truông thạch thảo”, tiếng Đức là Heide trong một đoạn thơ của Georg Trakl được Heidegger – vẫn Heidegger! – trích trong Was heißt Denken?. Bây giờ, với trụ sở của Google trong não bộ, chúng ta thông thái ghê gớm. Chúng ta thừa biết thạch thảo là một loài hoa cúc chẳng liên quan gì đến Apollinaire, Georg Trakl và Heidegger. Nhưng chết rồi sẽ là một mùa thu khác chứ không phải mùa thu ấy, mùa thu của Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Bùi Giáng, Hoàng Nguyên Chương, của miền Nam trước 1975, khi ta ngắt đi một cụm hoa cúc mới.    

Phạm Công Thiện qua đời mười năm trước ở chốn lưu vong. Nếu không, hôm nay ông tròn tám mươi, tuổi bây giờ không còn quá hiếm.

 

Tuần báo Trẻ, 3/6/2021

[1] Bản mới hiệu đính đã đăng trên Tuần báo Trẻ tháng 4 & 5, 2021

[2] J. W. Goethe, Faust, phần I, câu 1217-1237, tr. 62-63, bản dịch của Quang Chiến, NXB Văn học, Hà Nội 2001

Nguồn: http://www.procontra.asia/?p=6393