Nguyễn Văn Huy
Phần Ba : …để hiểu và thông cảm lẫn nhau trong tiến trình xây dựng một tương lai chung
Từ trước đến nay, mỗi khi nhắc đến cộng đồng người Hoa tại Việt Nam người ta thường liên tưởng đến huyền thoại “Chú Hỏa”, một người Hoa di cư nghèo khó về sau đã trở thành giàu có nhờ may mắn và chịu khó làm việc. Người ta còn thêu dệt thêm nhiều chuyện kinh hồn khác quanh sinh hoạt của người Hoa như chuyện các thầy bùa, thầy ngải chuyên bắt cóc trinh nữ làm thần giữ của cho những gia đình Hoa giàu có, chuyện bắt cóc trẻ con làm xíu mại, chuyện tráo thịt chuột thay thịt heo, ăn óc khỉ v.v… Người bình dân thì truyền tai nhau những tin đồn về truyền thống sinh hoạt bí mật của người Hoa, cách thức làm giàu không lương thiện, làm hàng giả v.v… Tất cả những lập luận “dễ dàng” trên cho thấy một sự thiếu sót thông tin và thiếu thông cảm giữa người Hoa và người Việt.
Người Việt bản chất thật thà và kém hiểu biết trong nghề kinh doanh rất dễ tin theo những tin đồn bịa đặt đó. Người ta thường lấy bụng ta suy ra bụng người. Đối với người bình dân làm giàu là một việc làm khó khăn, vì cuộc sống gắn liền với nghề nông, nghề thủ công hay nghề làm công, sinh hoạt gia đình không bao giờ được sung túc. Nhiều người chỉ mơ đào được lu vàng hay trúng số độc đắc để vượt lên sự nghèo khó chứ không hề nghĩ nếu biết suy luận và chịu khó họ có thể có một đời sống khá hơn bằng cách tham gia trực tiếp vào sinh hoạt kinh doanh. Nếu như vậy thì quá dễ ai làm chẳng được, nhưng muốn làm kinh doanh phải nắm vững một số qui luật sơ đẳng : thích kinh doanh và tôn trọng lời hứa. Vốn liếng tuy quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định, người làm kinh doanh phải biết rõ khả năng của mình, nhạy cảm với nhu cầu của thị trường và biết thích ứng với những biến chuyển của thị trường. Người Hoa tại Việt Nam là một thí dụ về khả năng biết thích nghi đó.
Sinh hoạt của cộng đồng người Hoa không có gì bí hiểm. Sở dĩ người Hoa thành công là nhờ biết khai thác một số đặc tính trong của thị trường Việt Nam và thế giới. Những đặc tính đó đã góp phần tạo nên huyền thoại về sự giàu có của người Hoa. Tìm hiểu sinh hoạt của người Hoa là bước đầu của tiến trình thông cảm. Thông cảm là nền tảng của mọi cố gắng xây dựng một tương lai chung, tương lai của một nước Việt Nam có chỗ đứng và có tiếng nói cho mọi người.
I. Tìm hiểu những đặc tính của cộng đồng người Hoa
A. Giữ gìn bản thể trong mọi hoàn cảnh
Từ nhiều ngàn năm trước người Hoa đã tự xưng là Con Trời, Trung Hoa là nước ở giữa, trung tâm của hoàn vũ. Có một nhận định như vậy, người Hoa không thể nào chịu để mất bản thể, chấp nhận bị đồng hóa, vì họ là một dân tộc lớn.
Từ khi lập quốc đến thế kỷ thứ 13, đất nước Trung Hoa chỉ có loạn lạc nội chiến, người Hoa chỉ đi xâm lấn các lân bang và chưa bao giờ bị xâm lấn. Nhân vật đã đánh bại đế quốc Trung Hoa là Thành Cát Tư Hãn, người Mông Cổ, nhưng sau đó dân tộc Mông cũng đã bị dân tộc Hoa đồng hóa cả về văn hóa lẫn chính trị. Từ mốc thời gian đó, đế quốc Trung Hoa suy yếu hẳn, những cuộc xâm lấn về sau chỉ là một chuổi dài những thất bại. Những quốc gia nhỏ như Việt Nam đã đẩy lùi tất cả những cuộc tiến công, tệ hơn nữa Trung Hoa không những bị Tây phương và Nhật Bản đánh bại mà còn bị bảo hộ. Mặc dù vậy bản chất của một dân tộc lớn vẫn tồn tại, Trung Hoa là một thế giới hơn là một quốc gia.
Ngày nay tuy Trung Quốc không phải là một quốc gia giàu có, nhưng trong những cuộc đàm phán quốc tế sự tham dự của phái đoàn Trung Quốc lúc nào cũng giữ một tầm quan trọng quyết định. Những tranh chấp trong vùng Đông Nam Á, nếu Trung Quốc bất đồng ý kiến vấn đề coi như chưa được giải quyết. Một thí dụ điển hình là vấn đề tái lập hòa bình tại Kampuchea, nếu không có sự chấp thuận của Trung Quốc cho dù Liên Hiệp Quốc có trực tiếp đứng ra bảo trợ tình hình bất ổn vẫn luôn tồn tại.
Người Hoa trong nước có thể chia rẽ, đàn áp ức chế lẫn nhau, nhưng khi ra ngoài nước họ bảo vệ dân tộc tính một cách triệt để : người Hoa rất đoàn kết khi giữ gìn bản thể. Phong trào di dân xa khỏi lục địa chỉ bộc phát mạnh từ thế kỷ 13 khi một số gia đình quyền quí trốn chạy quân Nguyên (Mông Cổ). Nhiều đợt di cư quan trọng khác đã xảy ra khi nhà Minh bị nhà Mãn Thanh đánh bại (thế kỷ 16), nhất là khi triều đình Mãn Thanh bị các cường quốc Tây phương, Nhật Bản xâu xé và chiếm đóng (thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20). Thành phần di tản là những gia đình quan quyền, binh lính, thương gia, dân chúng không chấp nhận sự cai trị của đối phương. Đó là những người tị nạn chính trị. Họ là dân cư các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông và Triều Châu vượt biển chạy ra phía đông (Đài Loan, Hoa Kỳ và châu Âu) hay xuống phía nam (ASEAN, Đông Dương và Úc Đại Lợi). Đợt tị nạn chính trị quan trọng nhất là sau năm 1949 khi chế độ cộng sản được áp đặt trên toàn lãnh thổ Trung Hoa, hàng chục triệu người đã đổ bộ lên đảo Đài Loan, hàng triệu người khác chạy tản mát trên khắp thế giới, đông nhất là tại Đông Nam Á.
Do ảnh hưởng của những xáo động kinh tế và chính trị từ thế kỷ thứ 19, dân nghèo các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hạ Môn, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nàm v.v… di cư sang các quốc gia lân cận trong vùng Biển Đông. Họ rời quê hương nghèo khổ với hy vọng tìm những vùng đất mới để xây dựng một đời sống khá hơn. Đây là những người tị nạn kinh tế. Ý thức được thân phận hèn mọn của mình, những người này sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được để sinh sống : tạp dịch, bồi bàn, mua bán ve chai, cày thuê, cuốc mướn, nội dịch, khuân vác, cu-li, v.v… Với thời gian những người này, sau khi vượt lên những khó khăn ban đầu, đều dấn thân vào nghề kinh doanh và cho con cái ăn học thành tài để có một chỗ đứng danh dự nơi đất khách quê người.
Tuy phải sống xa quê hương, người Hoa di tản vẫn giữ nguyên bản chất của một dân tộc lớn: tự hào về nguồn gốc xuất thân và nền văn minh đã hấp thụ. Văn minh của người Hoa nền văn minh chữ Hán. Bất cứ nơi nào người Hoa cũng muốn phổ biến chữ viết của mình. Hán tự là gạch nối liền quan hệ người Hoa hải ngoại với nhau. Bất kỳ xuất thân từ nguồn gốc ngữ phương nào, người Hoa hải ngoại nhận diện lẫn nhau một cách dễ dàng qua chữ Hán. Chữ Hán là ký hiệu, là mẫu số chung của tất cả người Hoa hải ngoại. Cơ sở nào càng viết nhiều chữ Hán, nơi đó sẽ được đông đảo người Hoa ly hương chiếu cố. Lâu dần chữ Hán đồng nghĩa với bản thể Trung Hoa. Trung thành với chữ Hán là trung thành với bản thể Trung Hoa. Càng muốn duy trì bản thể Trung Hoa thì càng phải phổ biến rộng rãi văn minh chữ Hán. Người Hoa nào không nói, không đọc hay viết được chữ Hán, người đó không còn là người Hoa thuần túy.
Trẻ em Trung Hoa tại bất cứ quốc gia nào, chung đụng với bất cứ nền văn hóa nào, khi đến tuổi đi học đều phải học tập chữ Hán song song với nền giáo dục của quốc gia địa phương. Bang hội nào cũng dành ưu tiên cho việc dạy chữ Hán, đây là lãnh vực văn hóa để trẻ em Trung Hoa tìm hiểu bản thể. Tại nhiều nơi, thành phần trẻ thấy việc dạy kinh điển thánh hiền xưa đã lỗi thời nhưng không vì thế mà bỏ bê chữ Hán, những người lãnh đạo cộng đồng vẫn kiên chí duy trì việc phổ biến chữ Hán. Sách báo, lịch tam tông miếu thường được phát không cho người Hoa với những lời thánh hiền ghi trên từng trang giấy để mọi người không quên chữ Hán.
Tại những nơi định cư mới, người Hoa ngoài việc phổ biến rộng rãi nền văn minh chữ Hán: văn học, nghệ thuật, kinh sử, tín ngưỡng, kỹ thuật cầm quân luyện tướng, cách thức chế biến vật dụng, dệt vải và nhất là nghề buôn bán, họ còn làm nảy sinh một phong thái làm việc mới : cần cù, nhẫn nại, chịu khó làm việc trong những điều kiện khó khăn lúc ban đầu, chấp nhận rủi ro. Người Hoa còn thể hiện tinh thần đùm bọc trong tình gia tộc, nghĩa đồng hương với hy vọng có chung một mức sống xứng đáng và một cộng đồng mạnh.
Niềm tự hào về bản thể phần nào cũng do quá khứ để lại. Người Việt xưa kia bị liệt kê vào hạng Man Di thấp kém cùng với các giống dân Mông, Mán, Tạng, Hàn. Hơn nữa lịch sử xa xưa của Trung Hoa vẫn ghi miền Bắc Việt Nam là phần đất phía Nam của họ (Giao Chỉ bộ, Giao Châu hay An Nam phủ). Chính vì niềm tự hào đó mà những Hoa kiều này không muốn bị đồng hóa với các dân tộc bản địa thấp kém hơn. Cũng chính vì không muốn bị đồng hóa với bản thể Trung Hoa mà các quốc gia thuộc văn minh Trung Hoa đã sáng chế ra chữ viết riêng mặc dù vẫn lấy Hán tự làm căn bản. Nhật Bản, Triều Tiên,Việt Nam là những quốc gia thuộc ảnh hưởng của văn minh văn hóa Trung Hoa nhưng không muốn sử dụng chữ viết Trung Hoa.
Trong thực tế có rất nhiều người Hoa, ân sâu nghĩa nặng với các triều chính Việt Nam, quan niệm rằng Việt Nam là một quốc gia có chung nền văn hóa với Trung Hoa, khi hội nhập vào xã hội Việt Nam đó cũng chỉ là một hình thức hội nhập vào chính xã hội Trung Hoa. Vấn đề đặt ra là xã hội đó có chấp nhận cho người Hoa hội nhập bình thường vào đời sống hay không. Nhật Bản, Đại Hàn và Việt Nam, mặc dù có chung nền văn minh và văn hóa với Trung Hoa, nhưng vì có nhiều kinh nghiệm không hay với Trung Hoa đã không tạo nhiều điều kiện để cộng đồng người Hoa phát triển.
Dưới thời nhà Nguyễn, Hoa kiều nhà Thanh bị chỉ định cư trú và chịu nhiều khoản thuế đặc biệt. Đến thời Pháp thuộc số phận người Hoa có phần cải tiến nhưng vẫn không có một chính sách hội nhập bình thường, người Hoa là Hoa kiều. Sau đó vì những lý do kinh tế, chính trị dưới thời đệ nhất Cộng Hòa và chế độ cộng sản, người Hoa là đối tượng bị phân biệt đối xử. Nhưng tại nhiều quốc gia khác trong vùng như Kampuchea, Malaysia và Thái Lan (các quốc gia này chịu ảnh hưởng của nền văn minh, văn hóa Ấn Độ), người Hoa di tản gặp nhiều dễ dàng trong đời sống và trong kinh doanh. Khi ổn định được cuộc sống, họ tham gia sinh hoạt thương mại và làm phát triển luôn nền kinh tế địa phương (thường rất yếu kém). Có nơi cộng đồng người Hoa lập thành một quốc gia như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore.
Những nghi kỵ, dè dặt chẳng qua là những biện pháp đề phòng, vì thật ra cả hai dân tộc, Hoa và Việt, trong thâm tâm bên nào cũng muốn đồng hóa bên kia. Dưới thời Bắc thuộc người Hoa nhà Hán, sau đó là nhà Minh, bộc lộ ý đồ muốn đồng hóa dân Việt bằng cách xóa bỏ mọi căn bản tổ chức xã hội từ phong tục, ngôn ngữ đến nghi lễ thờ phượng để áp đặt văn minh, văn hóa, phong tục tập quán Trung Hoa. Ngược lại, người Hoa di cư trước thế kỷ thứ 17 tại miền Bắc không có điều kiện để phát triển đã phần nào tan biến vào xã hội Việt Nam, một số khác sống riêng lẽ trong những khu vực riêng biệt (Quảng Ninh, Hải Phòng và Hà Nội) và vẫn giữ quan hệ chặt chẽ với mẫu quốc. Khi có biến động hay gặp khó khăn, những người này sẵn sàng trở về quê cha đất tổ. Người Hoa đi theo Trần Thượng Xuyên và Mạc Cửu, vì ơn vì nghĩa quyết định chọn miền Nam làm quê hương thứ hai, đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam, họ là người Việt Nam. Nhiều nhân vật đã để lại tên tuổi trong văn học và lịch sử Việt Nam , đã bảo vệ và xây dựng đất nước, tranh thủ được nhiều cảm tình của quần chúng (xem Phụ lục 2). Con cháu của họ sau này sinh hoạt tự do về chính trị và kinh tế, nắm những địa vị cao trong triều đình, bản thể Trung Hoa vẫn được gìn giữ nguyên vẹn.
Nhiều người Việt Nam thường lầm tưởng người Hoa kỳ thị, không muốn giao thiệp với dân bản xứ. Thật ra họ biết rất rõ khi lập gia đình với các dân tộc địa phương họ sẽ không còn giữ nổi bản thể. Giữ gìn bản thể đối với người Hoa quí báu như giữ gìn một gia tài, mất gia tài đó người Hoa sẽ không còn là người Hoa nữa. Bản thể Trung Hoa là tài sản tinh thần cuối cùng khi rời bỏ quê cha đất tổ sống kiếp ly hương, do đó một số gia đình quyền quý, giàu có khuyến cáo con em họ không nên có những cuộc hôn nhân dị chủng. Cũng có một số gia đình Trung Hoa, còn giữ tinh thần gia tộc cực đoan, cho rằng hội nhập vào xã hội Việt Nam là không vinh quang vì Việt Nam là một dân tộc thấp kém đã từng bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm. Trong những gia tộc lớn, trưởng nam phải làm gương cho em út, phải lấy người đồng chủng. Thiếu nữ gốc Hoa cũng được khuyến cáo chỉ nên lấy người chồng Hoa nếu không sẽ bị mất gốc, mất họ. Có nhiều trường hợp thiếu nữ gốc Hoa cãi lệnh cha mẹ lấy trai Việt bị cả gia đình, bang hội đồng tộc từ bỏ.
Bản thể Trung Hoa được nung nấu cho trẻ em từ khi vừa chào đời. Các bậc trưởng thượng (cha mẹ, phụ huynh, thân hào, nhân sĩ) dùng tiếng Hoa để dạy con cái trong các điệu ru, khi tập nói, lúc tập viết. Trong gia đình người Hoa, nhiều thế hệ sống chung dưới một mái nhà, sự dạy dỗ trẻ em càng thêm chặt chẽ từ cách suy nghĩ đến lối cư xử. Khi lớn lên trẻ em được hướng dẫn tham gia sinh hoạt trong các hội đoàn, bang hội để khóa chặt vòng đai đồng tộc: chỉ kết giao thân mật với những người trong cùng tổ chức, theo châm ngôn “Tiên vi tộc, hậu vi sơ” (gia tộc trước nhất, kế mới đến người ngoài).
Bản thể Trung Hoa được gắn liền với truyền thống Nho giáo. Nho giáo là nền tảng căn bản giáo dục Trung Hoa, theo đó mỗi người đều có một bổn phận phải thi hành : con phải sống theo đúng đạo làm con, cha mẹ phải sống đúng cương vị làm cha làm mẹ, gia trưởng phải xử sự đúng theo vai trò gia trưởng, bang chúng cư xử đúng cương vị bang chúng. Đối với cộng đồng người Hoa, bổn phận của mỗi thành viên là phát huy bản thể Trung Hoa, hay đúng hơn tôn ti trật tự Nho giáo kiểu Trung Hoa. Nho giáo là bản thể tinh thần của cộng đồng người Hoa ly hương phải gìn giữ.
Thêm vào đó, triết lý Nho giáo luôn đề cao những gương Hiếu Để, Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, triết lý này được truyền tụng từ đời này sang đời nọ đã trở thành một đặc tính: truyền thống bảo vệ văn hóa Trung Hoa. Một người muốn trở thành lãnh tụ, muốn được mọi người quí trọng phải thể hiện truyền thống này trong cuộc sống: bảo vệ bản thể Trung Hoa.
Giữ gìn bản thể là một hình thức chứng tỏ sự trung thành đối với tổ tiên. Trung thành với tổ tiên, các đấng sinh thành là trung thành với nền văn hóa đã hấp thụ, do đó giữ gìn bản thể là duy trì niềm tự hào trong mỗi người Hoa. Giữ gìn bản thể cũng là một hình thức để nhận diện lẫn nhau nơi đất khách quê người. Là người Hoa tức phải để lộ bản thể Trung Hoa ra ngoài đời sống : nói đọc được chữ Hán, duy trì văn hóa Trung Hoa và phải sinh hoạt trong khuôn khổ của các bang hội Trung Hoa.
Nhưng trong cuộc sống, điều kiện sinh hoạt xã hội không diễn tiến đúng theo ý của những người có trách nhiệm. Những gia đình gốc Hoa đã sống chung chạ với người Việt, trẻ em gốc Hoa khi học chung với trẻ Việt, không nhiều thì ít mất dần bản thể. Đàn ông Hoa khi lấy vợ Việt, vài thế hệ sau con cháu không còn giữ gìn bản thể Trung Hoa Chỉ những nơi tập trung đông đảo người Hoa kiểu ốc đảo (oasis) nơi đó còn duy trì được truyền thống sinh hoạt cổ truyền. Tại Chợ Lớn, người Hoa còn giữ một vài sắc thái sinh hoạt của nếp sống cổ truyền Trung Hoa trong các quan hệ xã hội, nhất là trong các nghi thức về hôn nhân, tang chế.
Bản thể Trung Hoa đôi khi trùng lặp với bản thể Việt Nam. Văn hóa và tập quán của hai dân tộc không có nhiều khác biệt : các dịp lễ lạc (tết Nguyên Đán, tết Trung Thu, Vu Lan…) người Việt và người Hoa cử hành lễ giống nhau. Tại nhiều nơi dân chúng thường tổ chức những lễ lạc chung như lễ khánh thành các cơ sở hay phương tiện kinh doanh, lễ tất niên, lễ tân niên v.v… Những chùa, đền miếu của người Hoa được rất đông tín đồ Việt Nam đến chiêm bái, cầu tự, nhất là vào những dịp rằm hay lễ lớn. Phật Bà Quan êm, Thánh Mẫu, Quan Công (Quan Vân Trường) là những bậc thánh mà các tín đồ Việt-Hoa cùng thờ phượng. Các tuồng hát cổ (Hồ Quảng, Hát Bội…) được rất đông dân chúng Việt Nam ưa chuộng, ngược lại nhiều điệu nhạc Vọng Cổ hay Tân Nhạc cũng được rất nhiều người Hoa ưa thích. Làng tân nhạc Việt Nam có nhiều nghệ sĩ gốc Hoa tài danh (La Hối, Kim Anh). Về tín ngưỡng, Phật giáo đại thừa, đạo Nho, đạo Lão là đạo chung của rất đông tín đồ Việt và Hoa. Thờ cúng Ông Bà, Thần Tài là phong tục của rất đông người Việt và Hoa.
Về mặt xã hội, tâm lý lo sợ mất bản thể nói lên nỗi lo âu bị lạc loài, bị bỏ rơi nơi đất khách quê người, nhất là tại những quốc gia có nền văn minh tiến bộ và phát triển hơn (Tây phương). Tại những quốc gia châu Á khác, gìn giữ bản thể là gìn giữ sự đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau. Những bậc trưởng thượng – trước kia là giai cấp quyền quí, sĩ phu không chuyên việc đồng án, thủ công, hay là thành phần binh lính, nông dân – lo âu tuổi già không nơi nương tựa thường dạy con cháu phải thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau phòng khi sa cơ thất thế. Nhiều thế hệ phải sống chung với nhau trong một mái nhà để tìm sự bao che, sự đùm bọc.
Gần đây, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng để lộ ra nhiều dấu hiệu gìn giữ bản thể Việt Nam giống người Hoa, nhưng vì thiếu yếu tố là một dân tộc lớn và chưa có nhiều kinh nghiệm ly hương, vấn đề gìn giữ bản thể gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó triết lý Nho giáo không phải là những giá trị tuyệt đối của một số gia đình Việt Nam, bản thể Việt Nam được thể hiện theo cách riêng của từng gia đình. Chỉ những gia đình Việt Nam đã từng có kinh nghiệm ly hương đều có truyền thống giữ gìn bản thể như người Hoa, đặc biệt là cộng đồng Việt Nam tại Lào và Kampuchea.
B. Truyền thống tương thân tương trợ cao
Sau nhiều thế hệ ly hương, cộng đồng người Hoa ngày nay được biết đến như là một cộng đồng của sự đoàn kết, của tinh thần tương thân tương trợ. Sự đoàn kết của người Hoa có thể làm trường hợp mẫu cho những cộng đồng ly hương khác noi theo.
Thứ nhất, tinh thần tương thân tương trợ thể hiện qua lối sống tập trung kiểu làng xã. Nhất cử nhất động của mỗi gia đình, mỗi người trong khu phố được tất cả hàng xóm, láng giềng hay biết. Mỗi tập hợp dân cư đều có một người đại diện hay một bang hội riêng để quản trị tất cả những công việc có liên quan đến cộng đồng đó.
Những người thành công giàu có, hay có kiến thức, đều được mọi người quí trọng và cầu cạnh xin giúp đỡ. Những người yếu kém được sự giúp đỡ của gia đình, bà con, hàng xóm láng giềng hay của bang hội trực thuộc. Sự giúp đỡ cũng rất đặc biệt, ban đầu là ủng hộ tinh thần sau là cho vay những món tiền nhỏ để thoát khỏi cảnh sống khó khăn. Về sau nữa, nếu người vay mượn có khả năng vượt qua, bang hội chủ quản hay những người giàu có khác cho vay những món tiền lớn hơn để khuếch trương thêm công việc kinh doanh. Công việc kinh doanh của mỗi người được cả cộng đồng liên thuộc quan sát và theo dõi rất kỹ để tiếp tay khi cần.
Những nơi đông dân cư gốc Hoa cư ngụ, các bang hội xây cất những đình làng, nhà hội để mọi người có nơi họp mặt và sinh hoạt. Trong những công viên người già thường đến để hàn huyên hay luyện tập thể dục. Thanh thiếu niên sinh hoạt trong những lớp học Hoa ngữ, lớp võ thuật, các đội múa hát, văn nghệ, thể thao. Người trưởng thành thường họp mặt tại những tửu lầu của đồng hương để ủng hộ và khi có biến chuyển quan trọng họ được triệu tập đông đủ để lấy một thái độ hay một quyết định chung. Thông thường người lớn chỉ cần gặp nhau tại các quán ăn để tán gẩu, thoả thuận giá cả hay chỉ vẻ cho nhau những cơ hội làm ăn. Mỗi lần có dịp đình đám, kyï giổ, những gia đình gốc Hoa cố gắng phô trương khả năng tài chánh của mình qua cách chi tiêu trong các nhà hàng, thuê bao những đoàn ca múa nhạc có tiếng để được đồng hương nhắc đến.
Quan hệ trao đổi kinh tế của người Hoa trước hết trông cậy vào chính cộng đồng của họ. Người Hoa mua bán trước tiên giữa họ nhau, sau mới đến người ngoài. Vòng đai kinh tế của họ có mục đích bảo vệ và tương trợ lẫn nhau do đó rất khép kín. Người ta thường chú ý tới mặt nổi những hoạt động kinh doanh của người gốc Hoa nhưng ít ai để ý đến mặt chìm của những cố gắng của họ.
Trong đời sống gia đình, người Hoa rất tằn tiện kể cả những gia đình giàu có. Cách phối trí trong mỗi gia đình bình dân gốc Hoa rất bề bộn, chật vật và tối tăm. Họ không thích khoe tiền của, ham chưng diện nhưng khi cần họ có thể chi tiêu rất hào phóng để lo cho cộng đồng hay cho công việc kinh doanh. Chỉ họ với nhau mới biết ai là người có tiền của hay nghèo khó, nhìn thoáng qua bề ngoài khó có thể quyết đoán ai là người có đời sống thực sự sung túc.
Những chi tiêu có tính phô trương thường nhằm dễ dàng hóa công việc làm ăn hay tranh thủ lòng nể phục và kính yêu của bang chúng. Những nhân vật giàu có thường làm việc nghĩa cho chính bang ngữ phương của họ như xây trường học, cất đình, lập chùa, xây bệnh viện, cô nhi viện, nghĩa trang… để lấy tiếng thơm. Sự tiêu xài của họ cũng có mục đích tương trợ lẫn nhau : chi tiêu của người này sẽ làm tăng doanh thu của người khác, số tiền thu về sau đó được chi tiêu cho những nhu cầu khác như mua sản phẩm của đồng hương khác sản xuất ra. Vòng đai chi tiêu của người Hoa rất khép kín, tiền của người Hoa này bỏ ra, người Hoa khác thu vào, nói chung đồng tiền chỉ luân chuyển quanh quẩn trong cộng đồng người Hoa với nhau.
Thứ hai là ước muốn bảo vệ truyền thống cá biệt của từng địa phương xuất thân. Không cộng đồng người Hoa nào chịu thua kém cộng đồng người Hoa nào. Bang Quảng Châu không chịu lép vế bang Phúc Kiến, bang Hạ Phương không chịu nhường bang Triều Châu. Mỗi bang đều có niềm tự hào riêng và mọi người trong bang đều cố gắng gìn giữ, phát huy niềm tự hào đó.
Chính nhờ tinh thần ganh đua đó, mỗi bang ngữ phương không ngừng cải tiến phương thức quản trị nội bộ, tạo điều kiện để cho bang của mình phát triển mạnh hơn. Tinh thần ganh đua đôi khi dẫn đến nạn bè phái, bang chúng trở thành con tin của mỗi bang (người Triều Châu chỉ đi khám bệnh tại những bệnh viện Triều Châu, người Phúc Kiến chỉ đi chùa Phúc Kiến…). Nhưng trong mua bán họ không bao giờ hãm hại lẫn nhau, nếu có tranh chấp, các bang trưởng họp nhau dàn xếp ổn thỏa để không ai bị thiệt thòi hay mất mát. Người Hoa rất đoàn kết khi bảo vệ nguồn lợi kinh tế hay đời sống của tập thể. Sống khép kín, co cụm cũng là một hình thức phản kháng chính trị để tránh sự hội nhập.
Mỗi bang hội xây cất những đình, chùa, trường học, bệnh viện, võ đường, lập các đội lân, dàn nhạc đình đám riêng, tranh tiếng tăm với các bang hội khác. Khi hữu sự họ không ngần ngại làm cho sinh hoạt của bang hội của họ nổi bật hẳn lên : các lớp học có đông học sinh, đãi cơm chùa thật ngon, ban nhạc chơi thật ồn ào, mời những võ sư danh tiếng đến dạy võ thuật hay biểu diễn, tổ chức các đội múa lân thật độc đáo v.v… để mọi người hãnh diện về bang của mình.
Thứ ba, do phải chung đụng hằng ngày với những cộng đồng dân tộc bản xứ, tinh thần tương thân tương trợ thể hiện sự phản kháng thụ động trước các sức ép của xã hội địa phương. Sự phản kháng thụ động của người Hoa là tinh thần đoàn kết và cách sử dụng đồng tiền.
Đoàn kết để sinh tồn, để bảo vệ sắc thái sinh hoạt, bảo vệ niềm tự hào của một dân tộc lớn. Biết chắc không thể giữ những vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị tại các quốc gia định cư, vì là thiểu số, cộng đồng người Hoa chuyên chú vào dịch vụ thương mại, một lãnh vực mà các quốc gia địa phương rất cần nhưng yếu kém. Chính quyền của các quốc gia địa phương rất muốn loại trừ thế lực kinh tế của người Hoa, nhưng không thể một sớm một chiều loại hẳn ra khỏi địa bàn sinh hoạt quốc gia. Các công ty Hoa kiều biết rất rõ điều này nên thường tập trung đầu tư vào những ngành nghề nào có khả năng thu lợi nhanh mà không phải bỏ nhiều vốn.
Sức mạnh kinh tế của người Hoa là sự sung túc, sự giàu có. Đối với họ có tiền là có tất cả, không cần phải tham chính mới có. Để bảo vệ tiềm năng và sức mạnh kinh tế, cộng đồng người Hoa rất khép kín trong việc phổ biến những kỹ thuật cũng như mánh lới nghề nghiệp. Tất cả bí mật nghề nghiệp của người Hoa tập trung vào cách sử dụng đồng tiền. Kiếm tiền ai cũng có thể kiếm được, nhưng sử dụng như thế nào chỉ những người bản lãnh mới chủ động được. Một người Hoa thành công là người nắm vững kỹ thuật sử dụng đồng tiền.
Bên cạnh hai yếu tố đó, người Hoa còn nổi tiếng về bảo vệ bí mật nhà nghề. Những bí mật nghề nghiệp, đúng hơn là những kỹ thuật gia truyền, chỉ truyền dạy cho phái nam, nhất là con trai trưởng. Trưởng nam trong gia đình có nhiệm vụ gìn giữ, bảo vệ bí quyết gia truyền và chỉ truyền lại cho con trai và dòng dõi. Anh em trai trong gia đình có nhiệm vụ tương thân, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để duy trì thế lực của gia tộc. Những người thành công trong gia đình phải giúp cho thân nhân, bà con thân thuộc trước tiên, kế mới đến người ngoài.
Trên qui mô lớn hơn, bảo vệ bí mật nghề nghiệp là bảo vệ độc quyền. Người Hoa có thể rất hiền hòa, vui vẻ với mọi người trong giao tế hằng ngày nhưng khi quyền lợi bị đụng chạm họ sẽ phản ứng rất phủ phàng để tự bảo vệ và sẽ vận dụng mọi khả năng để bảo vệ độc quyền đó. Hợp pháp họ có thể sẽ huy động những số vốn lớn hơn vay mượn của đồng hương, bất hợp pháp họ sẽ mua chuộc, đút lót những viên chức có thẩm quyền để giữ độc quyền.
Người phụ nữ trong gia đình Trung Hoa chỉ giữ vai trò phụ thuộc, nhất là đối với những gia đình còn nặng óc phong kiến Nho giáo. Người phụ nữ ngoài chuyện sinh con đẻ cái, làm bếp núc còn có nhiệm vụ phụ giúp chồng, con trai và anh em trai của cha, của chồng trong việc làm ăn. Có nhiều trường hợp khi chồng là con trai trưởng mất sớm, người vợ phải lấy em chồng để bảo tồn nòi giống và sản nghiệp. Tuy nhiên cũng có nhiều phụ nử đã tỏ ra rất quáng xuyến trong việc kinh doanh của chồng con như trường hợp bà Trần Thị, vợ của Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, người được xếp hạng giàu có thứ nhì thời Pháp thuộc (nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Ích).
Thứ tư là bao che, tuy là một yếu tố tiêu cực nhưng là một biểu hiện của tinh thần tương thân tương trợ. Người gốc Hoa ý thức rất rõ thân phận tại quốc gia địa phương, do đó sẵn sàng chia sẻ với nhau những vinh nhục của kiếp sống ly hương. Cho dù là người Quảng Đông, Triều Châu hay Phúc Kiến, họ đều bênh vực lẫn nhau mỗi khi hữu sự. Người Hoa quan niệm khi một người Triều Châu hay Quảng Đông mang tiếng xấu, cả cộng đồng người Hoa mang tiếng xấu theo, do đó họ rất cẩn trọng trong việc giao tiếp với các cộng đồng bản xứ.
Người Hoa cũng có nhiều thói hư, tật xấu như bao sắc dân khác nhưng những sự xấu xa này ít khi tiết lộ ra ngoài, những tranh chấp nội tộc, gia đình đều được giải quyết “kín đáo”. Đây là bí ẩn của người Hoa mà rất nhiều chính quyền địa phương muốn biết nhưng không thể biết. Giữa người Hoa với nhau, những thu xếp và thanh toán nội bộ chỉ người liên hệ trực tiếp mới rõ, nhiều khi cả gia đình hay bà con thân thuộc không hay biết, và sẽ không ai biết gì cả khi người ngoài muốn tìm hiểu. Một số “hội kín” đã tỏ ra rất tàn bạo đối với những hội viên làm sai lời cam kết. Cách giải quyết những tranh chấp nội bộ của các bang hội làm nhiều người liên tưởng tới các nhóm mafia : nội bộ rất khắt khe, bên ngoài rất nhũn nhặn.
Quốc Dân Đảng Trung Hoa đã tỏ ra rất hữu hiệu khi vận dụng Hoa kiều hải ngoại góp tiền về giúp nước. Những ai chống đối thường bị xử kín (thủ tiêu hay làm tan gia bại sản) bởi những hội kín qua những hình thức tai nạn có vẻ bình thường như đụng xe, đứt gân máu, nghẽn mạch tim, trúng thực hay làm ăn thua lỗ phải tự vẫn.
Tố cáo đồng hương là một hành vi đồi bại khó được các hội kín và đồng hương tha thứ. Những bất đồng nội bộ nếu có, bang chúng trình bày rõ mọi chi tiết cho bang trưởng và người này trực tiếp giải quyết giữa hai bang chúng, hay tiếp xúc với bang trưởng có liên quan nếu là sự tranh chấp giữa bang chúng của hai bang. Điều này vừa là ưu điểm và cũng là khuyết điểm của họ. Ưu điểm vì ít khi người ngoài thấy được những bất đồng hay bí mật nội bộ. Khuyết điểm vì không hiểu rõ sinh hoạt của cộng đồng người Hoa, người bản xứ xem họ như những người xa lạ, không sẵn sàng thông cảm mỗi khi có biến động bất lợi cho họ.
Các chính quyền bản xứ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xét duyệt thương vụ của cộng đồng người Hoa. Sổ sách kinh doanh của họ không bao giờ rõ ràng, và khi khai thuế họ có đủ mánh lới lòn lách để chịu phần nhẹ nhất. Nhân viên gốc Hoa thường không biết hoặc không muốn nói rõ những hoạt động của chủ nhân, nhờ đó họ trở thành người thân tín của chủ nhân. Một hình thức rất phổ biến khác là khi công ty, xí nghiệp hay cơ sở kinh doanh sắp hết hạn được miễn thuế trong thời gian đầu, các chủ cơ sở kinh doanh thường sang nhượng cho thân nhân hay tuyên bố khánh tận để tránh thuế. Những công ty lớn luôn có một đội ngũ kế toán, thu ngân viên thân tín, nắm vững luật lệ về tài chánh và thuế khóa để bao che và bảo vệ quyền lợi cho chủ nhân.
Thái độ tiêu cực này đã khiến một số người Hoa có tiền ỷ lại vào sức lôi cuốn của đồng tiền và tỏ ra thờ ơ trước những nỗi đau hay ưu tư của phần còn lại của quốc gia địa phương. Trong thời kỳ chiến tranh, một số không ít thanh niên gốc Hoa tìm cách trốn lánh thi hành nghĩa vụ công dân, họ từ chối tham gia vào quân đội để bảo vệ phần đất mà gia đình họ đang được yên ổn sinh sống. Nhiều khu vực đông dân cư gốc Hoa trước kia là những an toàn khu của sự làm ăn phi pháp, trốn quân dịch, chứa chấp những cán bộ cộng sản nằm vùng.
Dân chúng bao che tất cả các hoạt động bất chính vì sợ báo thù hay mang tiếng phản bội. Tâm lý người Hoa có thể là không xen vào công việc của người khác, nhưng sự im lặng của họ chứng tỏ mạng lưới khủng bố tinh thần rất hiệu lực. Khủng bố đầu tiên là sợ bị đồng hương khinh rẻ.
Thứ năm, tinh thần tương trợ được duy trì bền chặt cũng nhờ sự điều động khéo léo của các bang hội. Bang trưởng là một người giàu có, nhiều uy tín hay đức độ cao được bang chúng trong khu vực mặc nhiên công nhận hay được đề cử giữa những vị trưởng thượng với nhau. Thường thì những vị trưởng gia tộc lớn hay chủ kinh doanh giàu có được những Hoa trong bang bầu lên giữ chức vị bang trưởng. Bang trưởng hành xử như một chủ gia, chăm sóc cộng đồng dưới tay như chăm sóc con cái trong nhà, bang chúng nghe lời bang trưởng một cách tuyệt đối.
Bang trưởng có nhiệm vụ giúp đỡ công ăn việc làm, kêu gọi vốn, hòa giải những mối bất đồng nội bộ và khuyến khích bang chúng yêu thương đùm bọc lẫn nhau (“lá lành đùm lá rách”) và rất khắt khe với những kẻ đi sai đường lạc lối. Bang trưởng còn có nhiệm vụ bênh vực bang chúng trước những áp lực hay cạnh tranh của những người khác. Bang trưởng thường xuất tiền riêng để xây cất những cơ sở vật chất có tính lợi ích tập thể như trường học, bệnh viện, chùa chiền, cô nhi viện, nghĩa trang, cấp học bổng cho những học sinh nghèo, tổ chức những hội chợ từ thiện hay giúp vốn cho những người có chí làm ăn đang gặp khó khăn v.v…
Có nhiều trường hợp một bang chúng không nghe lời gia đình nhưng khi được bang trưởng khuyến cáo, chỉ dạy người đó chấp hành ngay. Hình phạt nặng nhất của lối sống bang hội là bị khai trừ ra khỏi cộng đồng, sự gắn bó do đó chỉ càng thắt chặt. Tinh thần kỷ luật và ý thức tôn ti trật tự rất được tôn trọng trong mỗi bang, ai giữ vững nguyên tắc này ắt được sự tin tưởng và giúp đỡ của người khác. Nếu vị bang trưởng khu vực bất đồng ý kiến với ai thì cả cộng đồng đó bất đồng ý kiến theo. Tranh thủ sự hợp tác của bang trưởng khu vực là điều cần thiết khi muốn kêu gọi sự ủng hộ của tập thể cộng đồng người Hoa.
Thứ sáu, tinh thần tương thân tương trợ thể hiện tính đa quốc. Tinh thần này chỉ bắt đầu có khi những gia đình người Hoa giàu có ra đi khỏi nước. Ban đầu các sinh hoạt thương mại chỉ mang tính địa phương, khi phát triển nó vượt không gian địa phương sang các cộng đồng người Hoa tại những nước khác để sau đó kết hợp thành những tập đoàn kinh tế tài chánh lớn. Tại Đông Nam Á, nhất là tại ASEAN, người Hoa hải ngoại liên kết chặt chẽ với nhau trong tất cả mọi lãnh vực : văn hóa, xã hội, chính trị và kinh tế. Khi có một biến động liên quan đến một cộng đồng người Hoa địa phương nào đó trên thế giới, cả thế giới người Hoa lên tiếng bênh vực.
Để hỗ trợ lẫn nhau trên khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Hoa hải ngoại dành nhiều dễ dãi và nâng đỡ lẫn nhau trong việc kinh doanh. Sản phẩm của người Hoa xứ này được chấp nhận dễ dàng tại xứ kia. Các nhóm tài phiệt Hoa kiều liên quốc tận tình chỉ bảo cho nhau lãnh vực nào nên khai thác, lãnh vực nào nên thôi, phương tiện sản xuất nào nên bỏ, cần trang bị loại máy móc nào nhằm gia tăng hiệu quả kinh tế và luôn giữ địa vị dẫn đầu. Khi có cạnh tranh giữa hai nhóm kinh doanh người Hoa, những người có trách nhiệm tìm cách dàn xếp ổn thỏa mọi bất đồng để không ai bị thiệt thòi. Nguyên tắc của những nhà kinh doanh người Hoa là mỗi người một chợ, không ai được quyền xâm phạm đất sống của nhau. Trường hợp bang hội đã xử mà người trong cuộc vẫn tiếp tục vi phạm lời cam kết, cộng đồng người Hoa địa phương làm áp lực tẩy chay, và người đó khó có hy vọng trông cậy vào sự hỗ trợ của chính cộng đồng cuœa mình.
Bang đồng hương địa phương tận tình giúp đỡ bang đồng hương hải ngoại đầu tư tại quốc gia cư ngụ. Người Hoa địa phương cố vấn, chỉ vẻ cho các tập đoàn kinh doanh Hoa kiều quốc tế về phong tục, tập quán và luật pháp nơi cư ngụ. Những tin tức bí mật liên quan đến tình hình chính trị, kinh tế tài chánh tại mỗi quốc gia chỉ người trong bang mới được biết. Doanh nhân Hoa kiều luôn có những chấn chỉnh kịp thời để thích nghi với sự biến động liên tục của thị trường quốc tế qua trung gian các bang hội địa phương. Hệ thống thông tin liên lạc của người Hoa rất hữu hiệu và họ có nhiều phương tiện để hiện đại hóa hệ thống thông tin, nhất là thông tin về sinh hoạt kinh tế của các “quốc gia-thị trường” của họ. Quốc Dân Đảng Đài Loan xây dựng một mạng lưới kinh tế tài chánh to lớn và hùng mạnh nhất Đông Nam Á để bảo vệ quyền lợi kinh tế của cộng đồng người Hoa trong vùng.
Vai trò của các bang hội liên quốc rất quan trọng. Bang trưởng là người có uy tín, đại diện cho một sinh hoạt kinh doanh lớn của cộng đồng, thường là một người đứng đầu một ngân hàng lớn hay một tập đoàn kinh doanh lớn, có khả năng vận dụng nguồn nhân lực và tài chánh cao. Bang trưởng bang liên quốc đại diện các bang địa phương trong các cuộc thương nghị quốc tế hay khu vực về khả năng đầu tư và bảo vệ đời sống cư dân gốc Hoa. Đây là bộ phận đầu não lãnh đạo giới tài phiệt Hoa kiều hải ngoại thuộc hệ thống tư nhân, bên cạnh đó là hệ thống tài phiệt Quốc Dân Đảng của Đài Loan cũng rất hùng mạnh, chi phối luôn các bang trưởng liên quốc. Tại Đông Nam Á, không một vận động đầu tư lớn nào không có sự tham dự của ngân hàng China Trade? Development Corporation (Quốc Dân Đảng), ngân hàng OCBC (Overseas Chinese Banking Corporation), UOB (United Overseas Bank), AIC Development và các Liên Phòng Thương Mại ASEAN. Chủ tịch các tổ chức kinh tế tài chánh này thường là bang trưởng các bang ngữ phương, chủ tịch của các ngành từ nhiều quốc gia họp lại thường là bang trưởng bang ngữ phương liên quốc.
Doanh nhân Việt kiều đồn rằng khi nào thấy người Hoa di tản về lại Việt Nam làm ăn, người Việt có thể theo họ mà về. Người Hoa chỉ chịu bỏ vốn làm ăn khi biết chắc lợi tức thu về sẽ cao hơn số vốn bỏ ra. Tại hải ngoại nơi nào tập trung đông sinh hoạt của người Hoa nơi đó có phát triển. Sự nhạy bén doanh lợi của người Hoa cho thấy họ nắm rất vững tương lai kinh tế trong từng quốc gia hay từng địa phương. Tại châu Âu, Bắc Mỹ hay Úc Đại Lợi, người Hoa chỉ tập trung vào những khu vựcđịa dư có tiềm năng phát triển cao.
Trung Quốc và Đài Loan tuy là hai thể chế chính trị khác nhau, nhưng khi bênh vực cho quyền lợi của Hoa kiều họ là một. Khi người Hoa tại một nơi nào đó bị bách hại, cả hai quốc gia Trung Hoa này và toàn thể cộng đồng người Hoa hải ngoại lên tiếng bênh vực và bảo vệ. Có khi cộng đồng người Hoa hải ngoại tập trung làm áp lực kinh tế với quốc gia ngược đãi đồng hương của họ. Về kinh tế tài chánh, hai quốc gia Trung Hoa không ngừng yểm trợ và cố vấn thương gia Hoa kiều, qua trung gian các chuyên viên kinh tế của chính quyền, nhất là qua các định chế lớn của quốc gia : toà đại sứ, lãnh sự quán, hệ thống ngân hàng, văn phòng thương mại, ủy ban chuyên ngành.
C. Gắn bó với cộng đồng của họ hơn với các chính quyền quốc gia địa phương
Sự khôn ngoan của các lãnh tụ cộng đồng người Hoa khi di cư vào những vùng đất mới là không đe dọa chiếm đoạt đất đai hay đồng hóa các dân tộc địa phương, mặc dầu đời sống của các dân tộc địa phương còn quá lạc hậu. Người Hoa di cư được các dân tộc bản địa quí trọng vì không bị áp đặt văn hóa hay tín ngưỡng của thế giới Trung Hoa. Người Hoa không tìm cách đả phá, bài xích hay biểu lộ tham vọng chính trị đe dọa chỗ đứng của các lãnh tụ địa phương, do đó họ được tự do sinh hoạt kinh tế , cung cấp hàng hóa cho cư dân bản địa. Người Hoa có thể chất, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán gần giống với các dân tộc địa phương nên sự hiện diện của họ dễ dàng được chấp nhận hơn so với người Tây phương trong cùng thời kỳ. Thật ra chính vì cách sử dụng đồng tiền một cách rộng rãi của người Hoa mà họ dễ dàng chiếm được cảm tình của các dân t-ôc nơi cư ngụ. Tại nhiều nơi, người Hoa còn hợp tác với người địa phương chống lại sự xâm lấn của quân đội viễn chinh Tây phương.
Sự có mặt của người Tây phương tại Đông Nam Á trái ngược hẳn. Tây phương dùng sức mạnh quân sự để chiếm đoạt đất đai, tài sản và nô lệ hóa con người. Khi chiếm đoạt xong, họ áp đặt văn hóa Tây phương lên các dân tộc địa phương, chính vì thế mà Tây phương mặc dầu có xây dựng cơ sở hạ tầng, khai hóa trí thức nhưng họ vẫn bị dân cư địa phương chống đối vì sinh hoạt văn hóa cổ truyền bị đe đọa và nhất là vì mất độc lập. Tây phương cũng không đào tạo những nhà lãnh đạo hay chuyên viên kỹ thuật người bản xứ có tầm vóc vì sợ mất vai trò lãnh đạo.
Sự có mặt của các giáo sĩ Thiên chúa giáo lúc ban đầu tại một vài nơi được dân cư địa phương chấp nhận và mến chuộng. Các giáo sĩ truyền dạy cho người bản xứ những kỹ thuật mới về sản xuất, về phương thức tổ chức xã hội nhưng vì không cùng trình độ văn hóa, sự hấp thụ không được bao nhiêu. Hơn nữa tôn giáo của Tây phương không phù hợp với tín ngưỡng sẵn có của người bản xứ nên sự hợp tác cũng không cao.
Những người Hoa đầu tiên đến định cư Việt Nam là những người tị nạn chính trị, họ trốn chạy những chế độ khắt khe cai trị đất nước của họ (nhà Nguyên, nhà Thanh, chế độ cộng sản). Việt Nam có ưu điểm là có cùng phong tục, tập quán, văn hóa, tôn giáo và nếp sống gần với thế giới Trung Hoa nên người Hoa di cư ít cảm thấy bị xa lạ. Thêm vào đó dân tộc Việt Nam là một dân tộc hiếu hòa và hiếu khách, người Hoa hòa nhập vào cuộc sống khá dễ dàng. Đa số dân chúng gốc Hoa cũng hiếu hòa, họ lấy tinh thần “dĩ hòa vi quí” làm phương châm sống. Cộng đồng người Hoa chỉ muốn được đối xử công bằng và được sống yên ổn với dân cư địa phương. Nhưng vì những hành động xâm lược của đế quốc Trung Hoa trong quá khứ, các chính quyền Việt Nam luôn e dè sự lớn mạnh của cộng đồng này. Cứ mỗi lần cộng đồng người Hoa lớn mạnh lên (về kinh tế), các chính quyền Việt Nam luôn có những biện pháp chính trị để hạn chế thế lực của họ.
Cộng đồng người Hoa trước kia biết thần phục triều đình Việt Nam. Trong quá khứ những hành động phản loạn (nếu có) chỉ xảy ra dọc các vùng biên giới do những nhóm thổ phỉ gốc Hoa chủ xướng. Người Hoa tị nạn tại miền Nam không những có công khai phá đất mới mà còn góp công sức vào sự nghiệp bảo vệ vùng đất nơi cư trú. Trần Thượng Xuyên và Mạc Cửu sau khi bình định những vùng đất hoang đã dâng lên chúa Nguyễn và chịu làm người nước Nam. Con cháu của họ đã phụ giúp các chính quyền địa phương quản trị những vùng đất mới, đa số đã hội nhập và tan biến hoàn toàn vào xã hội Việt Nam.
Người Hoa rất biết ơn những chính quyền nào tận tình cưu mang tổ tiên họ trong lúc hoạn nạn, đã hết sức trung thành với chính quyền đó. Lịch sử đã ghi lại những hành động vì nghĩa của cộng đồng người Hoa tại miền Nam, mặc dầu bị quân Tây Sơn nhiều lần sát hại, họ vẫn một mực trung thành và ủng hộ chúa Nguyễn. Nhưng từ khi có nhiều đợt di dân khác (đa số là những người tị nạn kinh tế) vào Việt Nam dân số gốc Hoa tăng nhanh, vua chúa ta áp dụng chính sách phân biệt đối xử : ưu đãi người này (người Minh Hương), bạc đãi người kia (Hoa kiều nhà Thanh). Bản năng sinh tồn thúc đẩy những nhóm di cư nhà Thanh tổ chức thành những cụm dân cư biệt lập để tự bảo vệ và nương tựa lẫn nhau.
Với thời gian, vì cùng sinh hoạt kinh tế, những nhóm tị nạn chính trị và tị nạn kinh tế kết hợp lại thành một cộng đồng duy nhất: cộng đồng người Hoa miền Nam. Và cũng vì chỉ chuyên chú vào các hoạt động thương mãi, cộng đồng người Hoa xa dần với thực tại chính trị của quốc gia Việt Nam và nhiều lúc đã lẫn lộn chính quyền Việt Nam với các chính quyền Trung Hoa. Tại Việt Nam họ hưởng đầy đủ quyền lợi của một công dân Việt nhưng lại muốn trực thuộc chính trị vào một quốc gia Trung Hoa để tránh thi hành những nghĩa vụ công dân.
Càng xa rời thực tại chính trị của quốc gia lưu ngụ, cộng đồng người Hoa càng muốn tự trị và sống biệt lập. Dưới bất cứ chế độ nào, cộng đồng người Hoa cũng tìm cách hưởng qui chế tự trị, đổi lại họ sẵn sàng đóng góp công sức, tiền của vào việc kinh doanh, làm phát triển kinh tế quốc gia địa phương. Tâm lý này xuất phát từ niềm tự hào của một dân tộc lớn: không muốn bị cai trị trực tiếp. Điều kiện này trước kia được chấp thuận vì cộng đồng người Hoa di cư biết tuân phục triều đình Việt Nam và đã tích cực phụ lực với triều đình trong việc khai hoang những vùng đất mới tại miền Nam.
Thực dân Pháp, do áp lực của Trung Hoa và trong ý đồ chia để trị, cho người Hoa ngoài quyền tự trị còn quyền độc lập với sinh hoạt chung của đất nước, tạo điều kiện cho người Hoa trở thành những “khách trú” ưu đãi: miễn đóng thuế thân, miễn tạp dịch và thi hành quân dịch. Tự trị đối với người Hoa về sau còn mang ý nghĩa độc lập. Đây là một lập luận nguy hiểm đòi hỏi một sự quan tâm đặc biệt, nó là đầu mối của mọi hành vi thù địch, phân biệt đối xử người Hoa trong nước và làm ung nhọt mọi quan hệ ngoại giao với thế giới Trung Hoa sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương.
Sau 1954, người Hoa miền Bắc tin rằng với sự giúp đỡ tận tình của Trung Quốc, họ sẽ được hưởng qui chế đặc biệt. Người Hoa miền Nam tin rằng chế độ cộng hòa còn phôi thai ở miền Nam rất cần sự giúp đỡ của các quốc gia chống cộng như Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, sẽ dành cho người Hoa nhiều dễ dãi để được giúp đỡ. Chính quyền hai miền đều lúng túng trong việc giải quyết vấn đề hội nhập người Hoa vào cuộc sống. Miền Bắc áp dụng chính sách thân thiện với Trung Quốc, dành cho người Hoa quyền chọn lựa quốc tịch hay lệ thuộc tinh thần vào Trung Quốc. Những cải cách liên quan đến cộng đồng người Hoa miền Bắc về chính trị đều phải có sự ưng thuận của sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Miền Nam áp dụng chính sách hội nhập cưỡng bách : hoặc là người Việt, hoặc là Hoa kiều chứ không thể vừa là người Hoa vừa là công dân Việt, quốc gia không dành cho Hoa kiều qui chế ưu đãi. Nói chung cả hai chính quyền Nam-BắcViệt Nam đều nghi ngờ ước muốn tự trị của người Hoa. Những bài học về tự trị kiểu Hồng Kông và Singapore làm cho hai chính quyền Việt Nam e ngại.
Tâm lý nghi ngại người Hoa có lẽ còn tồn đọng trong ký ức tập thể: hai ngàn năm trước nhà Hán sáp nhập miền Bắc vào lãnh thổ Trung Hoa, và gần đây thế giới Trung Hoa có khuynh hướng nhìn nhận người Hoa sinh sống tại Việt Nam là con dân của Trung Quốc, của Đài Loan. Việt Nam chưa bao giờ được yên ổn tồn tại bên cạnh thế giới Trung Hoa. Thêm vào đó trong những tranh chấp về lãnh hải và lãnh thổ, Trung Quốc thường áp dụng nguyên tắc “lấy thịt đè người”, tâm lý kẻ cả lúc nào cũng muốn “dạy cho Việt Nam bài học” khiến mọi quan hệ bình đẳng trở nên khó khăn. Nạn nhân của những tranh chấp này là cộng đồng người Hoa trong nước và những nhóm gốc Hoa sống gần biên giới Việt-Trung. Sự có mặt đông đảo của thương gia Hoa kiều tại Việt Nam từ sau 1986 càng làm nhiều người e ngại: Việt Nam có thể sẽ trở thành một thuộc địa văn hóa hay kinh tế của thế giới Trung Hoa?
D. Biết cách sử dụng đồng tiền
Người Hoa có lối suy nghĩ rất thực tiễn: có tiền là có tất cả. Trẻ em gốc Hoa khi bắt đầu biết nói đã biết cách kiếm tiền và tiêu tiền. Những bậc trưởng thượng, phụ huynh thường tạo cơ hội cho thanh niên gốc Hoa trực tiếp xúc với môi trường tiền bạc để làm chủ được lòng ham muốn. Kiếm tiến đối với người Hoa là một khả năng, một nghề nghiệp mà bất cứ ai cũng phải biết. Nếu được sống trong một môi trường lành mạnh, người Hoa sẽ là những công dân lương thiện. Trái lại nếu phải sống trong một môi trường không lành mạnh, người Hoa sẽ sinh hoạt không lương thiện để tồn tại và để không bị ức hiếp.
Dưới thời nhà Nguyễn, người Hoa gần như độc quyền khai thác và cung cấp dịch vụ và hàng hóa cho toàn xã hội. Toàn thể cộng đồng người Hoa, trừ một số gia đình quí phái Minh Hương, đều tham gia vào việc kiếm tiền. Họ làm tất cả các nghề để sống, đa số tập trung vào thương mại. Cộng đồng người Hoa đã góp tiền của rất nhiều cho triều Nguyễn tiến hành công cuộc khôi phục và thống nhất đất nước. Những lãnh tụ cộng đồng người Hoa miền Nam thay mặt triều đình gom góp tiền của trong quần chúng gốc Hoa, bù lại nhà Nguyễn để người Hoa toàn quyền định giá cả hàng hóa và nông phẩm.
Sang thời Pháp thuộc doanh nhân gốc Hoa vừa là đồng minh của chính quyền thuộc địa vừa là đối thủ của doanh nhân Pháp. Doanh nhân gốc Hoa tránh không đụng chạm đến những ngành công nghiệp hay dịch vụ mà người Pháp muốn độc quyền như khai thác cây công nghiệp, các ngành sản xuất đòi hỏi một trình độ kỹ thuật cao như thuốc lá, thuốc Tây, hóa chất v.v… Một số thương gia giàu có gốc Hoa tại miền Nam đã trở thành người thân tín của chế độ thuộc địa (xem Chú Hỏa, Quách Đàm, Phụ lục 2). Khi có tiền người Hoa không mua ruộng đất, vườn tược hay tính chuyện ra đi như người Việt, họ tái đầu tư vào các ngành kinh doanh khác để tăng thêm tích sản cố định. Những số tiền thặng dư, người Hoa xây đình, dựng chùa, mở bệnh viện, cất trường học cho cộng đồng của họ.
Sau 1954, cộng đồng người Hoa có một đời sống sung túc, họ không còn quan tâm nhiều đến sự sống còn của chính quyền còn non yếu miền Nam, đã sống tách biệt hẳn với phần còn lại của đất nước. Những gia đình trở nên giàu có đầu tư vào những ngành sản xuất hay dịch vụ có kỹ thuật cao trong các ngành vận tải và chế biến công nghệ để tăng thêm lợi tức. Khi bị áp lực hội nhập từ phía chính quyền, người gốc Hoa dùng tiền bạc để mua chuộc sự yên thân. Sự giàu có của người Hoa cũng gợi lòng ham muốn của một số viên chức trong chính quyền. Tệ nạn tham nhũng, hối lộ bắt đầu xuất hiện, những người đại diện chính quyền quản trị khu vực đông cư dân gốc Hoa lưu ngụ dễ trở nên giàu có hơn những viên chức chính quyền khác.
Khi tham nhũng đã trở thành thông lệ, người Hoa không còn e ngại gì nữa, họ có thể dùng tiền bạc mua chuộc bất cứ nhân vật nào trong chính quyền để được yên thân buôn bán. Họ chẳng cần phải tham gia vào các sinh hoạt chính trị của quốc gia địa phương mới được việc, vì theo họ “có tiền mua tiên cũng được”, “đồng bạc đâm toạc tờ giấy”. Lối suy nghĩ này rất tai hại, nó làm ung thối mọi cố gắng lương thiện nhằm phục hồi sự lương thiện của con người. Người Hoa rất khéo léo trong việc chiếm cảm tình của những người mà họ nghĩ rằng có thẩm quyền quyết định. Đây cũng là sở trường của một số tài phiệt gốc Hoa, chỉ người sử dụng đồng tiền khéo léo nhất mới có khả năng đứng vững trong mọi tình huống. Hơn nữa đối với họ, bỏ tiền ra để mua chuộc người khác cũng là một hình thức đầu tư.
Một số người, nhất là những viên chức chính quyền quan niệm người Hoa là “những con bò sữa” cần phải vắt. Một số không ít người Hoa cũng quan niệm nếu không đút lót thì khó làm ăn, làm càng lớn càng đút lót lớn. Chính vì vậy cả hai phía, ai cũng thấy chuyện đút lót là chuyện bình thường, tham nhũng trở thành một nếp sống, không ai cản ngăn và mạnh ai nấy làm. Đại diện chính quyền nào càng dành cho người Hoa nhiều ưu đãi thì càng nhận được nhiều lợi lộc vật chất đáp lễ. Chỉ thành phần cán bộ nào liêm chính và lương thiện là bị thiệt thòi, những cố gắng giữ cho trong sạch cuối cùng chỉ dẫn đến một chỗ đứng khiêm nhường trong xã hội. Một số người Hoa quan niệm chẳng cần phải học cao mới có địa vị, khi có tiền họ có thể thuê mướn thành phần trí thức có trình độ chuyên môn cao để suy nghĩ hay quản trị thay cho họ, khi không cần họ có thể sa thải.
Rất nhiều nhân vật chính trị muốn thực hiện những ước vọng riêng tư, đã cậy nhờ rất nhiều vào cộng đồng người Hoa về tài chánh, đổi lại họ sẵn sàng nhượng cho người Hoa quyền khai thác những dịch vụ quan trọng trong sinh hoạt kinh tế, bất chấp quyền lợi quốc gia. Cộng đồng người Hoa, dưới mắt một số chính khách, không phải là những đối thủ chính trị lợi hại có thể tranh giành vai trò lãnh đạo quốc gia. Thương gia gốc Hoa cũng chỉ mong được chừng đó: được nhiều dễ dãi trong kinh doanh và được yên ổn sống với nền văn hóa của họ. Họ là những con bò sữa tinh khôn. Khi khả năng kinh tế tài chánh của tài phiệt gốc Hoa đã trở thành một thế lực, những lãnh tụ chính trị bản xứ không thể không tham khảo ý kiến của họ trong những hoạt động chính trị. Đối với một số tài phiệt gốc Hoa, tiền bạc là một phương tiện có thể làm biến cải những quyết định chính trị thuận lợi cho họ mà không phải tham gia trực tiếp.
E- Phát triển mạnh tại những nơi không có cạnh tranh
Sự thành công về kinh tế của cộng đồng người Hoa là hậu quả của sự yếu kém về kinh doanh của người bản xứ. Càng phát triển, họ càng có khả năng vận dụng những nguồn tư bản lớn hơn qua những bang hội liên quốc trong khu vực. Doanh nhân bản xứ, vì thiếu kinh nghiệm và không có sức tập trung vốn cao gần như bị đè bẹp và chấp nhận sự khống chế, trực tiếp hay gián tiếp, của doanh nhân gốc Hoa. Tại các nước Tây phương hay châu Á phát triển khác, cộng đồng người Hoa không gặt hái nhiều thành quả như tại các nước đang trên đường phát triển hay còn chậm tiến.
Khi di cư vào Đông Nam Á, cộng đồng người Hoa gặp một hoàn cảnh thuận lợi: các quốc gia tại đây hoặc chưa phát triển, hoặc đang mải mê tranh giành quyền lực đánh phá lẫn nhau, nền kinh tế gần như bị bỏ ngỏ, và quan trọng nhất là thiếu vắng một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc. Người Hoa lấp ngay thiếu sót đó bằng một đội ngũ thương gia cần cù, nhiều kinh nghiệm và phi chính trị, họ đứng ra cung ứng và thỏa mãn những nhu cầu thường nhật của dân cư bản địa. Người Hoa luôn giữ vị thế trung lập trong các tranh chấp để trở thành người cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho tất cả mọi người. Khi tranh chấp chấm dứt, họ là người cung cấp hàng hóa và dịch vụ để tái thiết những đổ vỡ vật chất do chiến tranh. Nói chung người Hoa sống sung mãn với thị trường nội địa các quốc gia Đông Nam Á suốt hơn ba thế kỷ và đã trở thành một thế lực kinh tế mang tầm vóc quốc tế.
Tại những quốc gia phát triển, cộng đồng người Hoa không gặp hoàn cảnh thuận lợi như các đồng hương di cư ở Châu Á. Tại Hoa Kỳ, trong cùng thời gian, những người Hoa di cư chỉ làm những nghề vặt vãnh như thầu giặt ủi, phu đường sắt, phụ bếp hay chủ tiệm chạp phô nhỏ. Tại Nhật Bản, người Hoa không được định cư và chỉ làm những nghề khuân vác bến tàu, bồi bàn hay mua bán lén lút. Thân phận Hoa kiều tại Úc Đại Lợi và châu Âu không sáng sủa gì hơn, họ bị kỳ thị và bạc đãi.
Cộng đồng người Hoa hải ngoại chỉ phát triển mạnh sau 1945 khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa, do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, hợp tác với Đồng Minh đánh thắng phe Trục (Đức-Ý-Nhật). Đài Loan, Hồng Kông, Singapore đều được hưởng qui chế tối huệ quốc khi buôn bán với Tây phương. Từ đó nhân cách Hoa kiều trên thế giới được tôn trọng, người Hoa hải ngoại được dành nhiều dễ dãi và nâng đỡ trong thương mãi. Hoa kiều được nhập cư dễ dàng vào Châu Âu, Úc, Canada. Lợi dụng sự ưu đãi này, một số người Hoa tổ chức buôn lậu và mở mang cơ sở kín giữa họ với nhau trong những ốc đảo chinatown tại New York, San Francisco, Vancouver, Paris, London… Huyền thoại về các băng đảng mafia Trung Hoa tung hoành trong giới thương gia gốc Hoa qua trục Hồng Kông – Hoa Kỳ được mô tả trong các truyện và phim trinh thám. Tuy vậy kiểu làm ăn kín này chưa thể so sánh với lối buôn lậu có qui mô quốc tế như các băng đảng Mafia (Ý) hay nhóm Cartel (Châu Mỹ La Tinh). Nguyên tắc buôn chui bán lậu của cộng đồng người Hoa là sự kín đáo, một lối omerta (kín miệng) kiểu châu Á.
Nhưng sự phát triển này có giới hạn, người Hoa tại các quốc gia Tây phương chỉ thành công trong những dịch vụ ăn uống và buôn bán, họ chưa có khả năng cạnh tranh với những tập đoàn kinh tế tài chánh của Tây phương về sản xuất và dịch vụ lớn. Thực ra tâm lý của người Mỹ là không muốn sống xen kẻ với các dân cư gốc châu Á, chính nhờ vậy mà những “chinatown” được yên ổn phát triển. Khi những “chinatown” đã được củng cố, không gì có thể ngăn cản sự phát triển họ tại Bắc Mỹ. Những chinatown được nổi tiếng qua những dịch vụ “bất chánh” của họ. “Bất chánh” ở đây có nghĩa là không kiểm soát được.
Vốn của người Hoa lục địa trốn chạy chế độ cộng sản sau 1949 đổ vào các quốc gia tự do, một phần không nhỏ đã chuyển sang Hoa Kỳ, Pháp, nhưng doanh nhân gốc Hoa vẫn chưa đủ khả năng cạnh tranh khả năng và phương tiện với Tây phương. Mặc dầu vậy, sinh hoạt kinh tế của người Hoa có thay đổi : biết áp dụng những phương thức tổ chức kinh doanh của Tây phương, biết tôn trọng luật pháp và guữ gìn vệ sinh. Nhưng sự thành công của người Hoa không do những yếu tố đó tạo nên mà do biết lấy công làm lời và nhất là có sẵn một thị trường người châu Á ly hương làm hậu thuẩn. Khách hàng chủ yếu của họ là cộng đồng người Hoa và người Châu Á, về sau mới có thêm khách hàng thuộc các cộng đồng ly hương khác : Trung Đông và châu Phi tại Châu Âu, Mễ và Trung Nam Mỹ tại Bắc Mỹ.
Cũng sau 1949, doanh nhân Hoa kiều có đủ yếu tố để được xếp ngang hàng với doanh nhân Tây phương trong một số lãnh vực thương nghiệp và dịch vụ, nhưng cách tổ chức và trình bày cửa hàng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Người gốc Hoa làm việc gấp đôi người Tây phương lợi tức chỉ bằng phân nửa, nhưng giàu có hơn vì ít bị lôi cuốn vào những quyến rủ vật chất của một xã hội tiêu thụ như nhà cao cửa rộng, chưng diện xa hoa, ăn uống sang trọng và đi du lịch.
Tóm lại tại các quốc gia phát triển, cộng đồng người Hoa là một cộng đồng nhỏ về kinh tế lẫn dân số. Chính vì luôn ý thức mình là một cộng đồng nhỏ, người Hoa hải ngoại luôn cố gắng bảo vệ, bao che và bênh vực lẫn nhau để cùng tồn tại. Nhưng so với các cộng đồng ly hương gốc châu Á khác, người Hoa vẫn là cộng đồng lớn mạnh nhất về tài chánh và văn hóa, mỗi khi có dịp tổ chức lễ lạc theo phong tục Á Đông, cộng đồng người Hoa được nhắc nhở đến nhiều nhất.
Tại Đông Nam Á, cộng đồng người Hoa sinh hoạt thành công nhất. Ba quốc gia thuộc thế giới Trung Hoa tại Đông Nam Á đã trở thành những con rồng kinh tế : Đài Loan, Hồng Kông và Singapore. Đây là những đại bản doanh kinh tế tài chánh của Hoa kiều hải ngoại. Tư bản đổ vào Đài Loan phần lớn là của những gia đình tài phiệt gốc Phúc Kiến, Hoa Kỳ và đầu tư quốc tế. Nguồn tư bản của Hồng Kông do vốn của những gia đình tài phiệt gốc Quảng Đông lục địa, Hoa Kỳ và đồng minh bỏ vào vì Anh Quốc dành cho vùng đất này qui chế phi mậu dịch. Nguồn tư bản của Singapore phần lớn được cấu tạo bởi những nhóm tài phiệt người Hoa tại Đài Loan, Hồng Kông, Hoa Kỳ. Nói chung, tất cả những nguồn tư bản tại ba quốc gia này phần lớn đều do những gia đình tài phiệt lục địa chạy nạn, Hoa Kỳ và Tây phương đổ vào.
Nhờ vị trí địa dư thuận lợi, tư bản của Hoa kiều trong vùng di chuyển rất nhanh và đã trở thành một thế lực kinh tế tài chánh có khả năng cạnh tranh với Tây phương và Nhật Bản. Thị trường các quốc gia Đông Nam Á rất thuận lợi cho sự phát triển thương mại của người Hoa : đông dân, đất đai rộng lớn, tài nguyên dồi dào, mãi lực cao, và nhất là không có đối thủ người bản xứ để cạnh tranh, kể cả thành phần doanh nhân chính quyền. Một lợi điểm khác là người Hoa sinh sống tại đây nắm rất rõ tâm lý và tập quán tiêu thụ của các dân tộc địa phương và biết cách khai thác nó. Ưu thế này gần đây có phần sút giảm vì người Nhật và người Đại Hàn đang xâm nhập mạnh mẽ với những kỹ thuật tân tiến và nguồn tài chánh dồi dào.
F- Gắn bó với truyền thống Nho giáo
Sự phát triển mạnh mẽ của cộng đồng người Hoa một phần nhờ vào truyền thống Nho giáo. Người Hoa hải ngoại muốn làm sống lại truyền thống Nho giáo của thời xa xưa, “Trung Hoa là nước ở giữa”. Duy trì truyền thống Nho giáo là một hình thức tranh đua với Tây phương về ý thức hệ và cách tổ chức xã hội. Sức mạnh của ý thức hệ Tây phương là tự do, dân chủ, nhà nước pháp trị, hòa bình, đối thoại, nhân quyền, lợi nhuận. Sức mạnh của ý thức hệ Nho giáo là trật tự xã hội, quyền lợi tập thể, ý thức bổn phận.
Đây cũng là một cách sống để phân biệt với chế độ cộng sản Hoa lục. Nho giáo tuy không đối đầu với ý thức hệ cộng sản nhưng là một triết lý sống phù hợp với lối tổ chức xã hội của người Á Đông. Bốn quốc gia thành công nhất tại Châu Á, sau Nhật Bản, là bốn quốc gia có truyền thống Nho giáo từ lâu đời, trong đó có ba quốc gia thuộc thế giới Trung Hoa (Đài Loan, Hồng Kông và Singapore). Xã hội Nho giáo của người Hoa hải ngoại tôn trọng vai trò của các định chế tư nhân mặc dầu cách tổ chức chính quyền không mang tính dân chủ. Trong khi đó Trung Quốc mặc dầu là một quốc gia theo chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giai cấp, quốc hữu hóa các phương tiện sản xuất, nhưng cách tổ chức chính quyền không nhiều thì ít vẫn dựa theo cách tổ chức kiểu Nho giáo : đề cao vai trò lãnh đạo của cá nhân, độc đoán, chấp nhận phần nào những sinh hoạt kinh tế nhỏ của tư nhân.
Tinh thần Nho giáo có những giá trị không thể phủ nhận : Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín. Bất cứ người Hoa nào cũng thể hiện những giá trị trên trong cuộc sống. Chữ Tín đối với người Hoa là một giá trị tuyệt đối, mất uy tín là mất cả tương lai lẫn sự nghiệp. Khi một người Hoa ký kết một giao kèo hay khế ước với ai, những lời cam kết sẽ được tôn trọng một cách tuyệt đối cho dù họ có bị thiệt hại sau khi đã ký kết. Người châu Á nào cũng muốn làm ăn với người Hoa vì tin chắc sẽ không bị lật lọng hay bị phản bội.
Tinh thần Nho giáo buộc con người phải sống trong bổn phận, kính trọng tiền nhân, thần phục cấp trên, giúp đỡ kẻ dưới. Không một người Hoa nào nghĩ đến chuyện đập phá vòng đai Nho giáo đã có từ lâu đời trong sinh hoạt của họ. Cá nhân một người Hoa sẽ trở thành vô nghĩa nếu vượt ra ngoài vòng đai sinh hoạt truyền thống Nho giáo của cộng đồng. Khi áp dụng những kỹ thuật mới, doanh nhân gốc Hoa có thể Tây phương hóa trong quan hệ sản xuất nhưng quan hệ giữa chủ và thợ vẫn là quan hệ theo tinh thần Nho giáo. Chủ nhân là người cha tinh thần của nhân viên, xí nghiệp là nhà của công nhân. Chủ nhân được nhân viên tuân lời tuyệt đối. Thường nhân viên làm việc trong các xí nghiệp được chủ nhân bảo đảm các vấn đề về an sinh xã hội và hưu bổng.
Xã hội Nho giáo là xã hội của tôn ti trật tự, một thứ trật tự phong kiến, kẻ dưới không có quyền cải lệnh người trên. Nhờ trật tự này, xã hội dân sự của cộng đồng người Hoa hải ngoại phát triển không có đối kháng. Không một cá nhân hay tập đoàn nào thành công ngoài vòng đai Nho giáo của cộng đồng người Hoa. Mất truyền thống Nho giáo, người Hoa sẽ không còn là người Hoa. Mất truyền thống Nho giáo cộng đồng người Hoa không thành công và nổi tiếng như ngày nay.
Bang chúng gốc Hoa đều có chung một mục đích là làm thăng hoa cộng đồng của mình trong mọi lãnh vực. Người Hoa trong mỗi cộng đồng phải làm điều gì đó có ích cho gia đình, có lợi cho tập thể. Bang chúng phải tự đặt dưới quyền chỉ đạo của một thủ lĩnh để nhận sự chỉ bảo hay sự giúp đỡ. Lãnh tụ cộng đồng người Hoa là những người có tài năng, đức độ được cả cộng đồng mặc nhiên công nhận, là người đứng ra giải quyết tất cả công việc của quần chúng, từ việc trong nhà đến chuyện ngoài phố. Lãnh tụ cộng đồng thường là những bang trưởng bang ngữ phương. Bang trưởng là người cha tinh thần của bang ngữ phương. Chủ xí nghiệp, chủ cơ sở kinh doanh là những người lãnh đạo trong phạm vi hẹp hơn. Chủ nhân những định chế tài chánh hay cơ xưởng lớn là những người có khả năng tài chánh cao, có thể trở thành bang trưởng nếu đức độ cao và được cả cộng đồng tín nhiệm. Bang trưởng hay chủ xí nghiệp thường xây cất những cơ sở vật chất có tính phúc lợi tập thể cho cả cộng đồng.
Truyền thống Nho giáo trong sinh hoạt của cộng đồng người Hoa đôi khi làm cản trở sự hội nhập của người Hoa vào xã hội của người địa phương. Văn hóa và ngôn ngữ của người Hoa thường khác biệt với văn hóa và ngôn ngữ của quốc gia địa phương, do đó cộng đồng người Hoa duy trì hệ thống sinh hoạt khép kín giữa họ với nhau. Bang chúng chỉ nghe lệnh của bang trưởng chứ không qua người đại diện của chính quyền. Mọi công việc quan trọng liên quan đến cộng đồng người Hoa đều do bang trưởng quyết định. Sự kiện này gây tranh chấp về uy quyền lãnh đạo giữa lãnh tụ các cộng đồng gốc Hoa và các chính quyền địa phương. Vấn đề tự trị hay tự quản của người Hoa tùy mỗi chế độ chính trị mà được tôn trọng hay bị áp chế.
Trong sinh hoạt nội bộ của người Hoa, tinh thần Nho giáo làm cho những lãnh tụ tham lam quyền lực, thích được suy tôn, không muốn nhường cho người khác. Tinh thần này cũng làm cộng đồng người Hoa chia năm sẻ bảy. Mỗi bang, mỗi hội đều muốn bang hội của mình hơn bang hội kia, không bang hội nào nhường nhịn nhau trong việc gây thanh thế. Nó làm bang chúng quên đi những nhu cầu riêng tư như đi lại, hưởng thụ, và chỉ tập trung sức lực để hơn thua nhau, bao nhiêu tiền của làm ra phần lớn phải góp cho bang hội để gây thanh thế cho riêng cộng đồng của mình. Về lâu về dài, tinh thần địa phương làm bang chúng kiệt quệ, mất hết sáng kiến, trở nên thụ động, máy móc và trở thành con tin của bang hội. Do đó mới có tin đồn bang chúng không thể công một mình mà phải thành công chung với bang ngữ phương của mình.
II. Từ những kinh nghiệm thương nghiệp của người Hoa nhận thức về một số vấn đề
Tiếp cận với thế giới Trung Hoa từ nhiều thế kỷ, và gần đây với “bốn con rồng” châu Á, lẽ ra Việt Nam phải là một quốc gia phát triển và tiến bộ, nhưng hiện nay đất nước vẫn chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu. Kinh nghiệm phát triển của các quốc gia lân bang, đặc biệt là những quốc gia có đông cư dân gốc Hoa, hình như không làm cho những nhà lãnh đạo Việt Nam tự vấn lương tâm tại sao và làm cách nào để bắt địp sự chậm trể đó.
Có nhiều nguyên do giải thích sự trì trệ đó. Nguyên do xa là chính trị. Từ khi lập quốc đến nay, chưa có chế độ nào khuyến khích sự phát triển kinh thương của người trong nước. Giai cấp thương gia bị xếp vào hạng sau cùng trong phẩm trật sinh hoạt xã hội phong kiến và mất hẳn trong quan niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa cộng sản. Những nhà lãnh đạo quốc gia dành phần lớn thời giờ để gây và chống chiến tranh, củng cố địa vị và vun đắp tài sản riêng hơn là tìm cách phát triển đất nước. Những cố gắng của tư nhân tuy có phần khích lệ nhưng vẫn còn quá nhỏ so với tầm vóc quốc gia và thiếu sự giúp đỡ đến từ phía chính quyền.
Nguyên nhân gần là thiếu kinh nghiệm. Người Việt thường có mặc cảm tự ti, không chịu quan sát, học hỏi ở những người đã từng hoạt động thương nghiệp ngay trong nước : cộng đồng người Hoa. Người Hoa sau nhiều thế kỷ có mặt trên lãnh thổ Việt Nam đã giúp cho người Việt nhận thấy sự yếu kém của mình trong việc phát triển và bảo vệ độc lập kinh tế. Không những thế, họ còn là kho tàng kinh nghiệm cho những ai muốn dấn thân vào con đường doanh nghiệp học hỏi.
A. Nhận thức sự yếu kém về ngành hàng hải và ngoại thương
Việt Nam là một thị trường lớn với 70 triệu dân (năm 1991), nhưng là một thị trường chưa được người Việt Nam tận lực khai thác. Những quốc gia ít dân hơn, nhờ biết khai thác thị trường nội địa, đã phát triển và lấn chiếm các thị trường quốc tế.
Với một dân số đứng hàng thứ 13 trên thế giới, chúng ta chưa biết khai thác tài nguyên dân số to lớn của mình. Người Hoa di cư đã thấy và làm việc đó hộ ta, nền tảng thương nghiệp mà chúng ta thừa hưởng ngày nay một phần lớn là do người Hoa góp phần tạo dựng lên. Sự có mặt của doanh nhân gốc Hoa trở thành một bộ phận không thể thiếu trong guồng máy kinh tế của quốc gia. Tuy nhiên, doanh nhân gốc Hoa và Hoa kiều vẫn có những giới hạn nhất định, họ không đông và không thể làm hết mọi chuyện. Người Việt cần học hỏi nhiều ở những anh em này để biết khai thác thị trường của chính đất nước mình. Ban đầu có thể là những ngành kinh doanh nhỏ, nhưng nếu có quyết tâm và có thêm kinh nghiệm, doanh nhân Việt Nam có thể đảm nhận những vai trò cao hơn trên thương trường quốc nội và quốc tế.
Cho đến nay, mặc dù có một bờ biển dài thuận lợi cho việc giao thương, Việt Nam vẫn duy trì nếp sống của một dân tộc lục địa. Người Việt Nam xưa kia quen sống với ruộng đất nay vẫn tiếp tục gắn bó với đất. Dân tộc chúng ta không có những nhà phiêu lưu, những nhà mạo hiểm và kinh doanh lớn. Tổ tiên chúng ta trước kia không dám tiến ra biển cả, ngày nay chúng ta cũng không dám tiến ra biển, dân tộc Việt Nam đã an phận với đất liền từ ngày lập quốc. Các chế độ cầm quyền chưa bao giờ biết lợi dụng ưu điểm địa lý chính trị của biển cả để tổ chức giao thương quốc tế. Chính vì thế Việt Nam chưa bao giờ là một quốc gia hùng mạnh cho dù đã đánh thắng đủ loại giặc ngoại xâm. Chúng ta chưa bao giờ tự túc được về kinh tế.
Từ ngày lập quốc cho đến nay, người Việt chỉ biết mỗi một nền văn hóa Trung Hoa. Sau gần một trăm năm bị Pháp đô hộ, dân tộc Việt vẫn mực trung thành với khuôn mẫu Trung Hoa, vẫn gắn bó với những lời chỉ dạy của thánh hiền Trung Hoa, nhiều người rất hãnh diện về phong cách Nho gia của mình trongcuộc sống. Người Việt biết rất nhiều về nền văn hóa Trung Hoa nhưng không học gì cả về nghề kinh doanh. Dân tộc Trung Hoa là một dân tộc giỏi kinh doanh, họ đã có mặt trên những thương trường quốc tế cách đây trên hai ngàn năm và đã biến bờ biển miền Đông Trung Hoa thành những trung tâm thương mại lớn. Thương gia Trung Hoa đã xuất hiện cách đây cũng trên ba ngàn năm, địa vị của họ ngày càng trở nên quan trọng có thể chi phối toàn bộ sinh hoạt của các chính quyền lân bang.
Thành phần doanh nhân Việt Nam chỉ mới xuất hiện trong thời Pháp thuộc, họ là những người được đào tạo trong môi trường Tây học để làm việc cho Pháp. Những người này biết áp dụng phương pháp quản trị khoa học kiểu Tây phương trong công việc nhưng không có quyền quyết định và hoạch định, đa số vẫn thích hoạt động trong những ngành có liên quan đến văn phòng, sách vở và bàn giấy. Chỉ từ giữa thế kỷ 20 mới thấy xuất hiện thành phần doanh nhân tự lập tầm vóc nhỏ chuyên làm đại lý xuất nhập cảng, bào chế dược phẩm, ấn loát và dệt vải. Những người này chưa thể được xếp vào hạng kỹ nghệ gia. Thành phần thật sự tham gia vào những lãnh sản xuất kỹ nghệ có qui mô vẫn là người Hoa hay gốc Hoa.
Người Pháp đã cho chúng ta thấy một điều : một quốc gia hùng mạnh trước hết phải là một quốc gia hàng hải. Nắm vững được kỹ thuật hành hải thì mới có thể đi chinh phục được thế giới. Với vài chiến thuyền, một vài chục thủy quân, người Pháp đã tiến chiếm Việt Nam một cách dễ dàng. Đế quốc Trung Hoa cho đến giữa thế kỷ 20 mặc dù là một quốc gia rộng lớn, đông dân vẫn chưa thể liệt vào hàng cường quốc vì không có lực lượng hải quân hùng mạnh, chính vì thế Trung Hoa đã bị các đại cường hàng hải xâu xé và bảo hộ. Chỉ mới gần đây chính quyền Hoa lục mới ý thức được sự yếu kém này đã vận động người Hoa hải ngoại về giúp nước vì có nhiều kinh nghiệm về giao thương quốc tế và hàng hải.
Nửa đầu thế kỷ hai mươi, cụ Phan Bội Châu đã tổ chức phong trào Đông Du đưa thanh niên Việt Nam sang Nhật học hỏi những kỹ thuật mới để về canh tân đất nước. Mục đích không ngoài chuyện mở mang kiến thức dân Việt để tìm cách đánh lại quân Pháp. Phong trào Đông Du bị trù dập ngay từ trong trứng nước vì Pháp biết Nhật là một quốc gia hàng hải, Nhật mạnh là nhờ có một đội thương thuyền và một lực lượng hải quân hùng hậu có thể giúp đánh bật Pháp ra khỏi Đông Dương. Chúng ta đã mất một dịp để học hỏi kỹ thuật làm chủ biển cả. Những lãnh tụ kháng Pháp còn lại tiếp tục duy trì đường lối đấu tranh rập theo khuôn mẫu Trung Hoa. Một lối đấu tranh theo kiểu Nho giáo, một thứ Nho giáo đất liền chỉ muốn giữ chân con ngườinơi chôn nhau cắt rún, giam hãm sự tiến hóa. Người Pháp biết rõ tâm lý này nên đã tìm cách nâng đỡ thành phần hương quản làm trung gian cai trị.
Người Pháp có đào tạo thanh niên Việt để bổ xung vào lực lượng hải quân nhưng lực lượng này chỉ dùng để bảo vệ quyền lợi của Pháp tại Đông Dương. Tâm lý quần chúng Việt Nam thời đó chưa sẵn sàng dấn thân ra xa ngoài biển cả, những ai được Pháp tuyển chọn vào lực lượng hải quân là một bất hạnh vì phải sống xađất liền, hơn nữa những người này chỉ được quyền phục dịch chứ chưa được phép tham gia vào việc điều hành. Người Mỹ sau này có đào tạo thêm nhiều sĩ quan hải quân Việt Nam nhưng những người này hiện nay hoặc đã di tản sang các quốc gia Tây phương hoặc đang bị trù ếm tại quê nhà không còn tiếp xúc với biển cải. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa có đưa một số chuyên viên ra ngoại quốc tu nghiệp về ngành hàng hải chưa được bao lâu thì miền Nam rơi vào tay phe cộng sản, những người này hoặc đã tị nạn tại các quốc gia Tây phương, hoặc chuyển qua nghề khác sinh sống nếu còn ở lại trong nước. Chế độ cộng sản cũng được Liên Xô huấn luyện cho một số chuyên viên hải quân nhưng những người này không thể trở thành chuyên viên hàng hải quốc tế vì chính Liên Xô đã không phải là một cường quốc hàng hải quốc tế. Nói chung ngành hàng hải Việt Nam cho tới nay vẫn là con số không.
Vì yếu kém về ngành hàng hải, ngoại thương của Việt Nam nằm trong tay người ngoại quốc và người Hoa. Các chính quyền Việt Nam có thuê bao một số thuyền buôn quốc tế để vận chuyển hàng hóa xuất khẩu, thủy thủ đoàn Việt Nam nếu có chỉ thích buôn lậu hơn là thực hiện chức năng hàng hải quốc tế.
Từ sau 1954, hai miền đất nước không có độc lập kinh tế. Nền kinh tế quốc gia bỏ ngõ cho ngoại bang mặc tình khai thác. Các chế độ cai trị sống nhờ viện trợ kinh tế của ngoại bang để tồn tại. Muốn tồn tại, lãnh đạo hai miền đất nước phải thi hành một số chính sách của ngoại bang : giúp bành trướng thế lực của các đại cường trong cuộc chiến tranh lạnh.
Không một dân tộc nào được xem là hùng mạnh nếu không nắm trong tay một đội thương thuyền, một lực lượng hải quân hùng mạnh. Khả năng làm chủ biển cả là thước đo sự phát triển của từng quốc gia. Pháp, Nhật, Hoa Kỳ là những quốc gia hùng mạnh, nền kinh tế của họ phát triển nhanh một phần lớn nhờ vào biển cả. Những quốc gia này nắm vững kỹ thuật đóng tàu, hải hành và biết khai thác ngoại thương. Thế giới Trung Hoa sau này đã học hỏi Tây phương và Nhật Bản làm chủ kỹ thuật đi biển, biết phát triển ngoại thương và đã trở nên giàu có.
Việt Nam có 3.200 km đường biển và 11.000 km đường sông đi lại được, nhưng không có xưởng đóng tàu xứng đáng với tầm quan trọng của sông biển. Đất nước chưa sản sinh được những nhà phiêu lưu, những nhà hàng hải lớn. Bến cảng của Việt Nam chỉ là bến đỗ của các quốc gia khác. Tư nhân Việt Nam chỉ có khả năng đóng tàu đánh cá nhỏ bằng gỗ không có khả năng viễn dương, ” biển bạc” chưa được khai thác triệt để.
Một vài tư nhân miền Nam (Phan Nuôi, Phạm Quang Khai) sở hữu một vài đội thương thuyền nhưng đó là những loại sà-lan, sa-lúp, tàu thuyền có trọng tải nhỏ, cũ xưa, chỉ có khả năng đi trên sông và hải hành ở cự ly gần, không mang lại hiệu quả kinh tế cao. Trong khi đó, người gốc Hoa (Chú Hỷ, Tăng Tài) làm chủ nhiều đội tàu vận tải đường sông gần như độc quyền chuyên chở hàng hóa tại đồng bằng sông Cửu Long và Kampuchea.
Đất nước không có nổi một xưởng đóng tàu đánh cá tân tiến hay một xưởng đóng tàu ven dương hay viễn dương loại nhỏ. Cảng Hải Phòng là nơi bốc dỡ hàng hóa hơn là nơi sản xuất tàu bè đi biển. Chỉ những làng đánh cá ven duyên mới đóng vỏ tàu đánh cá bằng gỗ và chỉ sản sản xuất những loại tàu có trọng tải nhỏ. Miền Nam và cảng Sài Gòn có đóng một số tàu thuyền vận tải đường sông và một số đò qua sông vỏ sắt. Nói chung Việt Nam chưa có gì để hãnh diện về khả năng hàng hải của mình. Khả năng đóng tàu đi biển duy nhất là một vài vỏ tàu bọc bê-tông, trọng tải nhỏ không mang lại hiệu quả kinh tế cao, thật ra đó là sản phẩm của hãng Caric và Denis Frères (Pháp) sản xuất trước 1975. Xưởng Ba Son (cũng do Pháp dựng lên) trên sông Sài Gòn chỉ là nơi tu sửa, tân trang các loại tàu thuyền có trước 1975.
Vì không ý thức được những lợi ích khi làm chủ biển cả, sự có mặt của thương nhân Tây phương từ thế kỷ 16 và người Hoa thế kỷ 17 không làm những nhà lãnh đạo Việt Nam thời đó nhận thấy sự yếu kém về mặt phòng thủ bờ biển. Trong giai đoạn này chưa người Việt nào sử dụng thành thạo kỹ thuật hải hành để có thể phòng vệ hay phiêu ngoài biển Đông. Những người Hoa đầu tiên là thành phần quân nhân quen với lối sống có tổ chức, có kỹ luật, quen với biển cả và nắm vững kỹ thuật đi biển. Họ đã giúp các triều Nguyễn cải tiến kỹ thuật đi biển, đóng tàu và thủy chiến. Lực lượng thủy binh gốc Hoa đã giúp chúa Nguyễn chống lại chúa Trịnh, Tây Sơn, quân Xiêm La nhưng đã không chống cự lại với các chiến thuyền bằng sắt to lớn của Pháp. Những ụ đóng và sửa tàu tại các bến cảng đều do người Hoa trong Thiên Địa Hội đảm trách. Vào thế kỷ 19, Nguyễn Trường Tộ và một số nhân sĩ khác điều trần trước triều đình về kỹ thuật đi biển của Tây phương, đề nghị việc cải tiến kỹ thuật đóng tàu chiến và đào tạo nhân sự nhưng không được nhà vua chú ý.
Về ngoại thương, người Hoa đến định cư tại Việt Nam giúp chúng ta ý thức được sự yếu kém của mình. Sau khi ổn định cư trú, người Hoa di cư mời những thành phần doanh nhân Hoa kiều tại các quốc gia Đông Nam Á có nhiều kinh nghiệm về hàng hải quen tiếp xúc và trao đổi với các thương thuyền Nhật Bản, Nam Dương và Tây phương đến định cư. Hai thành phần này tập trung định cư vào những nơi thuận lợi cho việc giao thương (cạnh sông biển) để xây nhà, cất phố, lập chợ, mở mang thương nghiệp và ngoại thương.
Khác với người Hoa sống sâu trong nội địa, những người sống ven biển có nhiều năng khiếu trong việc buôn bán trao đổi qui mô lớn. Khi di cư sang Việt Nam, họ mang theo chức năng này, ngoài việc tổ chức tốt cộng đồng, họ làm thay đổi sinh hoạt kinh tế của Việt Nam : phát triển công thương nghiệp, và nhờ biết trao đổi quốc tế họ làm chủ ngành vận tải đường thủy.
B. Những kinh nghiệm trong nghề kinh doanh
Kinh doanh là chức năng quan trọng nhất của bất cứ dân tộc lớn nào. Một dân tộc giàu mạnh ngoài tài nguyên thiên nhiên phong phú, khả năng quân sự cao phải là một dân tộc giỏi buôn bán. Nhiều quốc gia tuy nhỏ nhưng giỏi kinh doanh vẫn là những quốc gia mạnh : Thụy Sĩ, Singapore, Hồng Kông. Muốn giỏi về kinh doanh trước hết là biết khai thác thị trường nội địa, muốn nắm vững thị trường nội địa phải biết tìm hiểu và thỏa mãn những nhu cầu của nó. Thụy Sĩ, Singapore, Hồng Kông không những đã thỏa mãn đủ nhu cầu nội địa mà còn dư thừa để xuất khẩu.
Về kinh nghiệm trong nghề kinh doanh, người Hoa định cư tại Việt Nam cho chúng ta nhiều bài học quí báu. Những bài học đó ở ngay trước mắt nếu chịu khó quan sát. Cho đến nay những kinh nghiệm trong nghề kinh doanh chưa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, nhiều người vẫn còn nghĩ buôn bán là một nghề rất khó. Tất cả chỉ là vấn đề tâm lý, thắng được tâm lý nhút nhát, sợ hãi người Việt sẽ tiến rất xa trong nghề kinh doanh. Kinh doanh có những nguyên tắc sơ đẳng nhưng rất khoa học. Tại Việt Nam người Việt chỉ cần học hỏi trực tiếp nơi người Hoa cũng tạm đủ để tự đứng ra kinh doanh, sau đó sẽ tìm cơ hội tiến xa hơn.
Trước hết là biết cách chế biến và tồn trữ thức ăn lâu dài. Người Hoa phổ biến nhiều món ăn khô có thể tồn trữ và di chuyển dễ dàng, có hàm lượng dinh dưỡng cao như thịt khô, bột gạo, bột đậu, mì bún khô, nước tương đậu nành, các loại rau cải muối, dầu đậu phọng, dầu dừa, đường mía, bánh kẹo… Đây là những món ăn mới lạ hợp khẩu vị của người Việt vì trước đây nông dân Việt Nam chỉ sản xuất được loại thực phẩm nguyên chất như lúa, cá khô và muối mắm có thể tồn trữ lâu (vài tháng). Tổ tiên chúng ta không biết cách chế biến nào khác để đa dạng hóa khẩu vị. Bản chất là một dân tộc lục địa, người Việt lệ thuộc rất nhiều vào thời tiết. Mỗi khi bị thiên tai giông bão hay hạn hán, nạn đói đe dọa tất cả mọi người. Những năm mất mùa, thành phần sản xuất trực tiếp ra lúa gạo cũng bị đói, nông dân thiếu ăn mất luôn sức làm việc cho những mùa sau. Binh lực của triều đình trong những năm mất mùa cũng bất lực trước ngoại xâm và loạn lạc. Công việc bảo vệ đất nước, chống trả ngoại xâm chỉ tiến hành tốt đẹp trong những năm được mùa, quân lương đầy đủ.
Một nước chịu ảnh hưởng nhiều về thời tiết như Việt Nam, chiến tranh lại xảy ra liên tục, thức ăn khô có hàm lượng dinh dưỡng cao, có khả năng tồn trữ lâu dài và dễ di chuyển là rất cần thiết. Cho đến nay những hoạt động chế biến và phân phối thực phẩm khô có tầm vóc đa số đều do thương nhân gốc Hoa chủ động chế biến và nắm giữ. Ngày nay người Hoa cũng chủ động trong việc trang bị máy móc hiện đại, áp dụng khoa học kỹ thuật mới trong công nghiệp chế biến thực phẩm. Tại hải ngoại, những món ăn được gọi là quốc hồn quốc túy (nước mắm, mắm nêm, mắm ruốc, bánh tráng, củ kiệu, chả giò, chả lụa…) đều do thương nhân Hoa kiều sản xuất và phân phối, người Việt chỉ là khách tiêu thụ.
Thứ hai là vận chuyển và phân phối. Trước đây hàng hóa thường được trao đổi trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu thụ (thật ra cũng chỉ là muối, gạo của đồng bằng đổi lấy thịt rừng và gỗ quí của miền núi). Thể thức trao đổi cũng rất giản dị : hàng đổi hàng, hoặc tiền đổi hàng. Sự vận chuyển hàng hóa hai chiều cũng chỉ là những dịch vụ của riêng từng gia đình, chưa ai nghĩ đến việc thành lập một cơ chế vận chuyển chuyên nghiệp giữa đồng bằng và miền núi, từ địa phương này sang một địa phương khác, từ nước này sang nước nọ cho dù chỉ cách nhau một con sông hay một núi rừng.
Người Hoa phổ biến cách trao đổi qua trung gian. Đây là một khám phá mới, một dịch vụ thương mại mới đối người Việt. Nông dân cần vốn để làm mùa, họ cho vay vốn ; khi lúa chín họ thu mua, thuê gặt và thực hiện luôn việc tồn trữ, chuyên chở. Người trung gian cung cấp tại chỗ đủ loại hàng hóa liên tục trong năm với giá cả khá ổn định. Vai trò của lối buôn bán trung gian là đáp ứng ngay tại chỗ những nhu cầu cấp bách của người tiêu thụ và đảm bảo luôn các khâu tiếp thị khác như ấn định giá thành, chế biến, đóng gói, vận chuyển và phân phối. Thương gia bán sỉ là những người có khả năng tập trung tư bản lớn và đôi khi còn giúp vốn cho thương gia bán lẻ với lãi suất hợp lý. Người Hoa đã làm chủ dịch vụ chuyên chở hàng hóa hai chiều từ nông thôn ra thành thị, từ đồng bằng lên miền núi và cung ứng hàng hóa cho tất cả các thị trường.
Sinh hoạt nổi bật thứ ba của người Hoa là tín dụng. Tại nông thôn, nông dân nào cũng cần tiền để chi tiêu hay làm mùa, nhưng tiền thì không phải ai cũng có sẵn. Nông dân phải đi vay. Đi vay cũng không phải dễ, ai có dư tiền để cho vay và người vay cũng phải như thế nào mới được cho vay. Nông dân giàu có chẳng bao giờ vay nợ của ai. Tâm lý của nông dân nghèo là không muốn ra ngân hàng nông nghiệp hay các định chế tài chánh của chính quyền vay tiền vì ngại những thủ tục hành chánh quá rườm rà.
Người Hoa, đúng hơn là người Phúc Kiến, đứng ra đảm nhiệm khâu cung ứng tín dụng quan trọng này. Chỉ người nghèo mới đi vay mà nghèo (phải là thành phần nông dân lương thiện chịu khó làm ăn) thì không thể được cho vay những khoảng tiền lớn, do đó chủ nợ người Hoa không sợ nông dân qu-yt nợ. Số tiền cho vay không lớn hơn tài sản của nông dân có, nếu bị quyït số tiền mất cũng chẳng là bao. Chủ nợ gốc Hoa tin vào sự thành thật của nông dân và nông dân cũng tin vào sự thành thật của chủ nợ. Chữ Tín là căn bản của mọi dịch vụ trao đổi. Chỉ cần một lời hứa, nông dân có thể vay những số tiền nhỏ của chủ nợ gốc Hoa đểlàm mùa. Chủ nợ gốc Hoa đòi hỏi nông dân phải thế chấp tài sản như bằng khoán ruộng đất, nhà cửa, xe cộ, thuyền bè hay đồ đạc trong nhà nếu muốn vay những khoản tiền lớn.
Có vay thì có trả. Người Hoa không cần người vay phải trả bằng tiền mặt, họ có thể trả bằng hàng hóa mặc dù chưa có ngay như lúa gạo, hoa quả hay cá mắm. Đây cũng là bái toán nan giải của giới nông dân. Lãi suất của chủ nợ người Hoa khá cao : từ 2 đế 5% mỗi tháng, trung bình là 20%/năm. Ngân hàng tín dụng nông thôn của các chính quyền Việt Nam được thành lập để giúp nông dân làm mùa (lãi suất trung bình từ 6 đến 8%/năm), chỉ nông dân có học có tài sản mới ra vay ngân hàng. Thành phần nông dân loại này còn quá ít, nông dân nghèo khó hay tiểu nông vẫn thích sống trong cái vòng lẩn quẩn khó ra của hệ thống tín dụng người Hoa. Hơn nữa, người Hoa thường tìm cách vay hết tiền của ngân hàng tín dụng nông thôn rồi lấy tiền đó cho nông dân vay lại với lãi suất cao gấp hai ba lần. Thương gia gốc Hoa địa phương nắm rất rõ khả năng vay trả của từng nông dân, người này làm cố vấn hay đại diện những thương gia gốc Hoa giàu có tkhác tại các thành phố lốn. Tất cả dịch vụ tín dụng tại nông thôn đều qua trung gian thương gia địa phương, ít ai được chủ nợ cho vay trực tiếp.
Thứ tư là tìm hiểu thị trường. Doanh nhân gốc Hoa tập trung khả năng vào việc giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người : ăn mặc và nhà ở. Thương gia tìm cách đáp ứng, hướng dẫn, cải tiến và thỏa mãn nhu cầu của người tiêu thụ như đồ gia vị, áo quần, dụng cụ bếp núc, vật liệu trang trí nhà cửa… Tại nhiều nơi, người Hoa mở những cửa hàng chuyên mua bán về một loại hàng : điện nhà, điện máy, phụ tùng xe hơi, trang trí để thoả mãn những nhu cầu đặc biệt của người tiêu thụ. Người bán nắm rõ nhu cầu của dân chúng địa phương, khi mua hàng về bán họ biết chọn những mặt hàng nào mà khách hàng địa phương của họ cần, hơn nữa thương gia gốc Hoa còn có nhiệm vụ giới thiệu những mặt hàng mới với hy vọng đáp ứng những nhu cầu mới và cao hơn của người tiêu dùng. Chính nhờ thế mà người Hoa đã có công phát triển và làm lan rộng mạng lưới kinh tế hạ tầng tại khắp nơi trên đất nước.
Thí điểm ban đầu vẫn là những nơi đông dân cư gốc Hoa cư ngụ, sau đó mới lan truyền ra những nơi khác. Những chốt thí điểm là các cửa hàng tạp hóa (chạp phô) tại mỗi đơn vị dân cư (khu phố, làng, xã, quận huyện, thành phố). Khách hàng đầu tiên là những người Hoa (đồng hương của họ) vì những người này quen tiêu thụ những mặt hàng của những đồng hương khác sản xuất ra. Để quảng cáo những mặt hàng mới, thương gia bán sỉ và bán lẻ thường hạ giá bán lúc ban đầu để kiếm khách, sau đó mới bán theo đúng trị giá của món hàng khi thương vụ bắt đầu tăng. Nhiều thương gia đầu cơ những mặt hàng đang bán chạy trên thị trường, chờ khi thuận lợi tung hàng ra bán để thu lợi nhiều hơn.
Thứ năm là tiếp thị (marketing). Dịch vụ quảng cáo tuy không ồn ào như kiểu Tây phương nhưng rất hiệu quả. Người bán sỉ cung cấp lượng hàng mới cho người bán lẻ ở các chốt thí điểm, người bán lẻ cố vấn và tập người tiêu thụ quen dần với những món ăn, những hàng hóa mới. Các thức thanh toán cũng dễ chịu cho người bán lẻ, nếu là khách hàng quen thuộc, thương gia bán sỉ chấp nhận cho bán trước trả tiền sau và tại một vài nơi thương gia bán lẻ cho nông dân mua chịu khi được mùa sẽ thanh toán sau, dĩ nhiên là thêm tiền lãi.
Sự chiều chuộng khách hàng và cách ấn định giá cả của người Hoa là cả một nghệ thuật, không ai không hài lòng về giá cả và sự tiếp đãi của họ. Người sản xuất, bán sỉ và bán lẻ đôi khi còn tặng cho khách hàng quen thuộc những món quà nhỏ, trị giá không là bao nhiêu nhưng người mua rất hài lòng vì có cảm tưởng được trọng vọng : hàng hóa mẫu, lịch treo tường, lịch tam tông miếu, màn sáo treo cửa (những tặng phẩm này đều ghi sẵn tên hiệu và địa chỉ của người sản xuất hay người bán). Khách hàng được tặng quà sẽ quảng cáo không công cho người tặng. Người Hoa rất thành thạo trong lối quảng cáo rỉ tai truyền miệng. Đối với người Hoa không gì chinh phục lòng tin của khách tiêu thụ bằng hành động cụ thể. Cửa hàng của người Hoa có thể rất bề bộn, dơ bẩn nhưng lúc nào người bán cũng xuề xòa vui vẻ, giá bán không bao giờ đắt hơn nơi khác và giá mua cũng không thấp hơn người khác, khách vẫn tới đông. Giữ uy tín, kiên nhẫn nghe khách hàng là một cách thức quảng cáo hiệu quả nhất.
Thứ sáu là hình thức góp vốn tập thể. Người Hoa không bao giờ để đồng tiền ở không. Không cần phải là ngân hàng, người dân nào cũng có thể làm sinh lợi đồng tiền ở không qua hình thức chơi hụi. Chơi hụi là lối cho vay trả góp nhiều lần những món tiền nhỏ cộng với lãi. Lối vay vốn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự tín cẩn và lãi suất tùy thuộc vào nhu cầu cần tiền của người khác. Người góp hụi khi không cần tiền thường chỉ góp một số tiền thấp hơn trị giá cố định của phần hụi, sự sai biệt là khoảng tiền lời mà người hốt hụi phải đóngthay cho mình (đóng hụi chết)thời gian sau đó. Lối cho vay hỗ tương này giúp nhiều người trong cơn túng quẫn nhất thời có cơ hội vượt qua khó khăn và tiến lên.
Hiệu quả của hình thức tín dụng này rất đáng kể, nó tập người ta phải có một tác phong mới trong giao dịch : tin tưởng người khác và giữ gìn chữ Tín. Nó làm người cho vay và người mượn vốn gắn bó với nhau hơn và có thể hợp tác với nhau trong những cơ hội làm ăn khác mà một cá nhân không thể làm nổi. Thông thường một bàn hụi chỉ gồm những người đã quen biết nhau, người ngoài phải do một người có uy tín giới thiệu và được cả bàn hụi chấp nhận mới được làm con hụi. Nếu bị úp, chủ hụi chịu hoàn toàn trách nhiệm và phải thay mặt người quịt nợ thanh toán cho các con hụi. Để tránh bị giựt nợ, chủ hụi và con hụi thường lập một gieo kèo thành văn hay bất thành văn để thi hành. Chữ Tín và Danh Dự cá nhân là tinh thần chính của mọi giao ước.
Một lối quyên góp tài chánh khác là các bang hội. Thường một hội viên hay bang chúng gia nhập vào một đoàn thể phải đóng một số tiền gia nhập : nguyệt liễm hay niên liễm tùy theo mỗi nơi. Với số tiền này, những người quản trị bang hội quyết định sẽ đầu tư, cho đoàn viên túng thiếu vay hay dùng để xây cất những công trình công cộng. Hội viên hay bang chúng vay tiền phải trả tiền lời với lãi suất nhẹ hay lãi suất thỏa thuận để có vốn kinh doanh. Khi không trả nổi, những hội viên khác giúp đỡ tinh thần, cho ý kiến hay chỉ vẻ thêm cơ hội để vượt qua. Thường những đoàn viên trong tổ chức đều vượt qua những khó khăn về vốn liếng lúc ban đầu. Nguyên tắc vẫn là chữ Tín nhưng còn thêm hai chữ Thân, Tình.
Thứ bảy là biết sống lâu dài trong kinh doanh: “lời ít nhưng lời lâu”. Nhiều người gốc Hoa giàu có ngày nay có một quá khứ nghèo khó và cực khổ. Có người hành nghề buôn bán ve chai (chú Hỏa), tạp dịch (Quách Đàm), cọ rửa thùng (Trần Thành) về sau trở thành những nhân vật giàu có, làm chủ những cơ sở to lớn là nhờ biết dành dụm, chịu khó và nhạy bén trước cơ hội. Những kinh nghiệm sống này gần như người Hoa nào cũng biết và còn tiếp tục chỉ dạy cho người đi sau. Bài học kinh doanh đầu tiên của người Hoa là phải biết nhìn xa để lấy một quyết định lâu dài, không để bị cám dỗ trước những món lợi nhất thời. Triết lý sống lâu dài trong kinh doanh là biết giữ gìn chữ Tín. Sở dĩ phải nhắc lại nhiều lần chữ Tín vì đó là tất cả những bí quyết thành công của người Hoa, nó bàng bạc trong mọi sinh hoạt của đời sống.
Người gốc Hoa dù sống trong hoàn cảnh nào cũng lạc quan, tin tưởng vào ngày mai xán lạn. Chủ trương của họ là lời ít, bán nhanh, bán nhiều, tổng lợi tức sẽ tăng cao. Do bán nhanh, hàng hóa không ứ đọng, vốn không kẹt, họ có điều kiện đầu tư hay kinh doanh vào những mặt hàng mới có trị giá thương mại cao, tỷ lệ lời sẽ tăng theo. Đồng tiền xoay nhiều vòng trong một thời gian ngắn, mức lời tuy ít nhưng tăng nhiều lần theo vòng xoay sẽ thành nhiều. Nguyên tắc sử dụng tiền trong kinh doanh rất giản dị : không để đồng tiền nằm chết trong tủ sắt. Khi có cạnh tranh, họ sẵn sàng hạ giá bán dưới giá thành, chịu lỗ trong một thời gian để giữ khách và sau khi hạ được đối thủ, họ sẽ nâng giá bán để gỡ lại những lỗ lã ban đầu. Trong trường hợp này chỉ thương gia nào có thật nhiều vốn hay nhiều nguồn tài trợ mới chịu đựng nổi. Người Hoa luôn luôn muốn giữ độc quyền khai thác một sản phẩm hay một thị trường, họ sẽ làm đủ mọi cách để giữ độc quyền đó. Bang hội giữ một vai trò rất quan trọng các cạnh tranh thương mại và chữ Tín hay Danh Dự cá nhân lúc này được xét đoán rất kỹ lưỡng trước khi được giúp đỡ. Thông thường người Hoa không cạnh tranh lẫn nhau, nếu nhiều người cùng sản xuất hay kinh doanh một mặt hàng, họ tự động hay “được” người cung cấp buộc phải chia nhau thị trường để cùng tồn tại.
Thứ tám là thái độ kinh doanh. Cộng đồng người Hoa không phân biệt thành phần khách hàng, vì mọi người là khách hàng. Thái độ kinh doanh của người Hoa rất giản dị : giao thiệp vui vẻ với tất cả mọi người, không phân biệt người này chống cộng, người kia thân cộng, người này Công giáo, người kia Phật giáo, người này trí thức, kẻ nọ bình dân, người này miền Bắc, người kia miền Nam, người này trong nước, người kia ngoài nước v.v… Người Hoa không thích tham gia vào những sinh hoạt chính trị của địa phương, họ luôn tránh né việc lấy một thái độ chính trị, do đó cho dù sống dưới chế độ nào họ cũng có một chỗ đứng an toàn và ngày càng có thêm khách hàng. Khi không muốn giao dịch với ai, người Hoa không bày tỏ thái độ xổ sàng mà chỉ tránh né. Khác với người Hoa, người Việt sống nhiều với đam mê hơn với thực tế, khó cho một người làm kinh doanh mà không có một thái độ chính trị nào đó.
Giữ thế trung lập lúc nào cũng có lợi : khách hàng của thương gia Việt Nam đại diện một khuynh hướng chính trị nào đó, khi bị thất vọng và không muốn mua hàng của thương gia Việt Nam thuộc khuynh hướng chính trị khác, đều tìm đến họ. Một đặc điểm khác là người Hoa rất muốn khách hàng của mình trở nên giàu có, càng có tiền sức tiêu thụ càng mạnh, công việc mua bán của họ nhờ đó sẽ phát đạt thêm. Trong các cửa hàng Trung Hoa, khách nhiều tiền được tiếp đãi ân cần, khách ít tiền được dành cho nhiều dễ dãi (cho mua thiếu) vì biết đâu trong tương lai họ khá giả trở lại và sẽ trung thành hơn với cửa hàng. Nói chung đối với thương gia Trung Hoa ai cũng là thân chủ, ai cũng là khách hàng. Người Hoa không sợ người Việt cạnh tranh vì biết chắc người Việt còn rất lâu mới đủ khả năng đương đầu với họ trong nghề kinh doanh.
Về nguồn hàng, thương gia Trung Hoa không phân biệt nguồn gốc sản xuất. Mặt hàng nào giá cả phải chăng, tốt, có tỷ lệ kiếm lời cao, nhiều người mua là họ kinh doanh. Có nhiều trường hợp tại một cửa hàng Trung Hoa, người bán trưng bày hàng của Trung Quốc lẫn hàng của Đài Loan, hàng của khối cộng sản lẫn hàng của khối tư bản. Người Hoa không bỏ lỡ một cơ hội kinh doanh nào cho dù phải sống dưới những chế độ chính trị khắt khe. Thái độ phi chính trị cộng với sự vui tính của người bán hàng làm khách mua không chú ý tới sự trình bày luộm thuộm, chật chội của các cửa hàng và đôi khi rộng lượng bỏ qua khía cạnh vệ sinh của món hàng.
Thứ chín là tinh thần chấp nhận rủi ro. Làm kinh doanh là đánh cuộc với tương lai, người giỏi kinh doanh phải biết tự tin, phát huy sáng kiến. Không ai thành công mà không phải một giá nào đó cho sự rủi ro. Tinh thần chấp nhận rủi ro khuyến khích những người khao khát thành công muốn vươn lên thực hiện những suy nghĩ hay sáng kiến của riêng mình và dám nhận lãnh trách nhiệm.
Khác với người Hoa sống sâu trong nội địa hay nơi thôn dã, người Hoa hải ngoại vì cuộc sống mới luôn tìm cách thăng tiến đời mình. Một người Hoa ly hương bình thường trong suốt cuộc đời ít nhất cũng đã một lần dám chấp nhận rủi ro để thay đổi nếp sống : thử làm chủ. Dĩ nhiên sau lưng họ có đồng hương làm hậu thuẫn, nhưng sáng kiến ban đầu vẫn là của riêng họ. Đó là lý do tại sao người Hoa chiếm lĩnh nhanh chóng một số sinh hoạt thương mại tại những quốc gia chậm tiến và đông dân không biết khai thác thị trường nội địa.
Thứ mười là nhạy bén trước cơ hội. Cuộc sống có biết bao nhu cầu ít ai nghĩ đến, chỉ người Hoa mới quan tâm và tìm cách khai thác những nhu cầu tầm thường nhất. Cũng ít người Việt nghĩ đến việc khai thác những nhu cầu lặt vặt như sản xuất tăm xỉa răng, đồ ngoái tai, bao bì bằng giấy vở học trò v.v… Cũng ít người chịu kinh doanh bao ny-lông cũ, giấy đã dùng rồi, chai bể, lon đã khui v.v… Người Hoa tận dụng mọi vật liệu phế thải và dám đứng ra khai thác những dịch vụ đó và đã trở nên giàu có. Khi vượt lên trên sự sợ hải lúc ban đầu (kinh doanh là sống liên tục với rủi ro), họ khám phá thêm nhiều cơ hội mới, biết thích ứng với những biến số mới, và sẽ dễ thành công hơn những người khác vì đã có tự tin và kinh nghiệm.
Nhạy bén trước cơ hội cũng là một hình thức chiến thắng sự lười biếng. Sự lười biếng thường làm con người mất hết sáng kiến và ý chí, nó chỉ sinh ra lòng ganh tị, máu tham lam và tinh thần phá hoại. Người Việt, sau nhiều năm chinh chiến và bị đô hộ quen tâm lý vâng lệnh, mất sáng kiến và ỷ lại (người khác sẽ làm giùm), đã trở thành nhút nhát. Ít ai chấp nhận đi từ số không bằng sự lương thiện, không thiếu gì những người trong bổng chốc trở nên giàu có và cũng không thiếu gì những người chỉ trong tích tắc tiêu tan sự nghiệp vì nhạy hay không nhạy trước cơ hội . Người Hoa không thụ động chờ đợi cơ hội. Thương nhân gốc Hoa dễ thành công hơn người bản xứ nhờ biết khai thác sáng kiến mới trong cuộc sống hằng ngày. Vì phải đem cả gia tài hay sự nghiệp ra đánh cuộc, người Hoa luôn luôn xông xáo, đôi khi rất phủ phàng khi bảo vệ những thành quả đang có.
C. Nhu cầu cần hình thành một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc
Khi nhận thấy thế lực kinh tế của người gốc Hoa có thể gây nhiều bất ổn xã hội, chính sách của một số quốc gia Đông Nam Á cố gắng tạo điều kiện để hình thành một giai cấp tư bản dân tộc làm đối trọng hầu tìm một thế cân bằng lực lượng. Các quốc gia Đông Nam Á ý thức rất rõ tiềm năng kinh tế – tài chánh của tư bản gốc Hoa nên rất thận trọng trong việc xét duyệt các chính sách đầu tư. Cộng đồng người Hoa ngày nay không như ngày trước, họ không còn sống biệt lập. Không còn ranh giới phân chia người Hoa quốc gia này với người Hoa quốc gia khác. Cộng đồng người Hoa hải ngoại là một khối liên lập, thuần nhất trong các dịch vụ thương mại.
Gần đây Trung Quốc, ý thức về sức mạnh tư bản của người Hoa hải ngoại, đang có nhiều biện pháp thu hút tình cảm của doanh nhân Hoa kiều về nước đầu tư. Thay vì đi tìm một sự cảm thông với các quốc gia có đông người Hoa, Bắc Kinh hô hào Hoa kiều Đông Nam Á thay mặt Trung Quốc bành trướng thế lực kinh tế tài chánh của họ. Trong nước Trung Quốc dành cho Hoa kiều nhiều đặc quyền mà người trong nước không có : quyền sở hữu đất đai, quyền di chuyển tư bản… Trung Quốc kêu gọi con dân ly hương đầu tư vào một số khu chế xuất (exportzone) dọc bờ biển các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông để xuất cảng. Khu chế xuất kiểu Singapore là mẫu mực được Trung Quốc bắt chước nhiều nhất. Qua những nâng đỡ này, Trung Quốc là thị trường khai thác của chính con dân ly hương của họ. Tư bản Hoa kiều ngày nay không tôn sùng chủ nghĩa mà chỉ tôn sùng lợi nhuận, nơi nào có lợi thì họ đầu tư. Họ muốn mượn danh Trung Quốc, đang được hưởng qui chế tối huệ quốc, để xuất cảng hàng hóa sang các quốc gia Tây phương.
Việt Nam, với sự dễ dãi của chính quyền cộng sản, đang là thị trường khai thác của Hoa kiều Đông Nam Á. Đối với họ, Việt Nam là một thị trường còn trinh nguyên vốn đầu tư quốc tế. Việt Nam là một địa bàn thuận lợi không thể bỏ qua trong một thế giới mà sự cạnh tranh và tỷ lệ lợi nhuận ngày càng khó khăn. Một thuận lợi khác là Việt Nam đang trông cậy rất nhiều vào nguồn tư bản của Hoa kiều.
Việt Nam có đủ yếu tố để trở thành một vùng đất lý tưởng để tư bản Hoa kiều bỏ vốn đầu tư : một thị trường lớn với hơn 70 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên còn dồi dào, nhân công rẻ, trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, dân tình chia rẽ, thị dân khá giả có nhu cầu tiêu dùng cao, không có đội ngũ doanh nhân có tầm vóc và chuyên viên quản trị giỏi. Việt Nam còn có một thuận lợi khác là có một bờ biển dài thuận lợi cho việc giao thương quốc tế mà người Việt Nam chưa biết khai thác. Quan trọng hơn hết là những người đang nắm bộ máy công quyền kém hiểu biết và rất tham lam dễ bị mua chuộc.
Hiện nay tư bản Hoa kiều được chính quyền cộng sản đặc biệt chiếu cố vì họ bất chấp lệnh phong tỏa kinh tế của Hoa Kỳ, họ là cái phao cấp cứu của chế độ trong cơn nguy khốn. Thương gia Hoa kiều chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản không phải vì yêu mến chế độ, nhưng vì họ biết nếu có mặt sớm sẽ được độc quyền khai thác một số lãnh vực kinh tế quan trọng. Họ không muốn tư bản Nhật và Đại Hàn chiếm ưu thế tại Việt Nam. Tư bản Hoa kiều rất lo ngại khi lệnh phong tỏa của Hoa Kỳ được giải tỏa, tư bản của các quốc gia Tây phương và Nhật Bản đổ vào, họ sẽ mất đi thế thượng phong. Thêm vào đó, ngày nào lệnh cấm vận được thu hồi Việt Nam sẽ được hưởng qui chế tối huệ quốc như trung Quốc, những cơ sở sản xuất hàng hóa của người Hoa sẽ gián tiếp tuôn vào thị trường các quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ, những thị trường mà doanh nhân Trung Hoa đang gặp nhiều khó khăn trong việc xuất cảng trực tiếp.
Người Hoa dầu sao vẫn còn mặc cảm thua kém Nhật Bản và Tây phương trên nhiều lãnh vực nên không chấp nhận để bị lấn át trên một vùng đất mà từ lâu họ đã có mặt. Có lẽ giới tư bản Hoa kiều Đông Nam Á cho rằng vùng đất này thuộc ảnh hưởng của họ, người Hoa sinh sống tại Việt Nam vừa là đồng hương, vừa là đồng minh, do đó bằng mọi cách họ phải đi trước.
Hậu thuẫn cho những dự án đầu tư của tư bản Hoa kiều là cộng đồng người Hoa trong nước. Được sự cố vấn của người gốc Hoa, vốn Hoa kiều Đông Nam Á trong giai đoạn đầu là đầu tư vào các ngành dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, giải trí và ngân hàng. Mục đích là tổ chức nguồn tiếp vận và nguồn thu nhận những số tiền của Hoa kiều tiêu xài tại Việt nam. Một phần lớn tư bản Hồng Kông được chuyển ngầm vào tay những thương gia gốc Hoa chờ thời cơ thuận lợi sẽ xuất hiện. Nếu có đầu tư vào sản xuất họ chỉ tân trang máy móc sản xuất trong công nghiệp nhẹ với những cơ sở có sẵn như các nhà máy xay lúa, các hãng dệt, chế biến nông sản thực phẩm xuất khẩu. Những máy móc tân trang mang tới cũng chỉ là những dụng cụ đang tới hồi phế thải, gây ô nhiễm tại chính quốc, và nếu có bị chính quyền cộng sản quốc hữu hóa họ cũng không mất gì cả. Khi đã củng cố sự hiện diện, tư bản Hoa kiều đầu tư vào những dự án có tầm vóc hơn trong sản xuất công nghiệp với điều kiện được tự do di chuyển nguồn tư bản và hàng hóa ra khỏi nước.
Đây là những dịch vụ thuần túy kinh tế nhưng người ta vẫn không khỏi e dè ý đồ bành trướng thế lực kinh tế đang lên của Hoa kiều trong vùng. Trong điều kiện còn bị khó khăn bởi hệ thống luật pháp tùy nghi và lệnh cấm vận của Hoa Kỳ, tư bản Hoa kiều Đông Nam Á tập trung chủ yếu vào việc mua đất đai, nhà cửa, cơ xưởng, nhiều nhất là quanh khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn để giữ chỗ. Mặt khác, họ giúp người Hoa tại chỗ những số vốn nhỏ sống cầm chừng chờ cơ hội. Người hoa sẽ không nhường bước trước bất cứ một thế lực kinh tế nào khác sẽ đổ vốn vào Việt Nam.
Chính quyền cộng sản Việt Nam cũng đang lấy lòng các quốc gia ASEAN để được giúp đỡ. Hoa kiều Đông Nam Á là đầu cầu lý tưởng để thực hiện giấc mơ đó. ASEAN là một tập hợp những quốc gia độc tài nhưng phát triển, được vào ASEAN chế độ cộng sản Việt Nam đã có một điều kiện đủ : độc tài. Chính vì thế mà gần đây Hà Nội đã yêu cầu sự cố vấn kinh tế của nhiều nhân vật tiếng tăm. Gia nhập ASEAN không còn là giả thuyết mà chỉ là vấn đề thời gian. Việt Nam sẽ không có khả năng đứng một mình trong cơn bão tiến bộ ở chung quanh. Người Hoa bất chấp chế độ chính trị nào cai trị tại Việt Nam, đối với họ ngày nào còn dễ dàng làm ăn họ còn gắn bó chế độ. Dân chủ hay độc tài không phải là vấn đề của tư bản Hoa kiều, nó là vấn đề của người Việt.
Trước hiện trạng này số doanh nhân Việt Nam chân chính, bị nhà nước cộng sản kềm chế, không có điều kiện phát triển và gần như bị biến mất. Cơ sở tư doanh của người Việt có thể bị quốc hữu hóa hay tịch thu bất cứ lúc nào nếu không hợp ý chính quyền, do đó không ai dám làm ăn lớn, kể cả doanh nhân Việt kiều. Số người hoạt động kinh doanh chính thức trong nước, nếu không là thân tín của chính quyền thì cũng là những người ma mãnh, giỏi phe phẩy. Họ làm lợi cho đất nước thì ít, làm hại thì nhiều.
Có người quan niệm chẳng thà để người Việt Nam làm giàu trên lưng người Việt Nam còn hơn để dành cho người ngoại quốc. Quan điểm này được rất đông những người được coi là thành phần “giàu có mới” chia sẻ, những người này không đầu tư vào sản xuất mà chỉ tham gia khai thác dịch vụ được sự che chở của một số quan chức chính quyền : phòng trà ca nhạc, nhà hàng vũ trường, khách sạn, mãi dâm v.v… Một số khác, lương thiện hơn, không quen biết lớn cung cấp sự phục dịch. Chỉ còn lại thành phần tư nhân, vì muốn sống trong danh dự, tiếp tục cung ứng của cải vật chất cho xã hội, họ sử dụng những máy móc, phương tiện sản xuất cũ xưa nên không cạnh tranh nổi với hàng hóa ngoại nhập, đa số dở sống dở chết, có nơi phải đóng cửa hay chuyển sang khai thác dịch vụ. Thành phần tư nhân này không thể gọi là doanh nhân có tầm vóc, họ không có khả năng quản trị khoa học hay đầu tư lớn, cơ xưởng sản xuất, buôn bán là nhà ở của chính gia đình họ. Những người trí thức hay có kiến thức ít tham gia vào nghề kinh doanh.
Tại hải ngoại, doanh nhân Việt Nam cũng rất yếu kém, thua doanh nhân Tây phương về đủ mọi mặt, từ vốn liếng đến khả năng và thái độ kinh doanh. Vốn của doanh nhân Việt Nam đa số là vốn do gia đình chắt chiu, dành dụm không thể gọi là nhiều. Doanh nhân Việt Nam không có tinh thần đồng đội, không muốn chia sẻ những cơ hội, không tin ai, không muốn người khác trội hơn mình, và nhất là không dám phiêu lưu, chấp nhận rủi ro lớn nên không thể hình thành những tập đoàn lớn. Nói chung thành phần doanh nhân Việt Nam hải ngoại thiếu tầm vóc và thiếu tự tin.
Doanh nhân Việt Nam thiếu tinh thần bao dung rất dễ bị đáng ngã. Khi một doanh nhân gặp khó khăn hay bị khánh tận, doanh nhân đồng hương khác càng khoái trá dèm pha thêm thay vì gởi đến sự an ủi. Khách hàng của doanh nhân Việt Nam nếu có cũng chỉ bằng phân nửa của người Hoa và luôn luôn thay đổi, không thể duy trì sự trung thành lâu dài một số khách hàng vì lý do này hay lý do khác. Trong tương lai gần, doanh nhân Việt Nam chưa có khả năng và điều kiện để sánh ngang với doanh nhân trong vùng. Doanh nhân Việt Nam chưa thể tranh đua với doanh nhân quốc tế ngay trên thị trường quốc nội. Doanh nhân Hoa kiều vẫn còn những ngày nắng đẹp trước mắt.
Trước một bối cảnh chính trị, kinh tế và xã hội như vậy, việc hình thành một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc là rất cần thiết. Một quốc gia có độc lập kinh tế không thể thiếu vắng một giai cấp thương nhân. Thành phần thương nhân hiện nay chưa thể gọi là thương nhân vì họ chưa thực sự kinh doanh, tất cả đang còn loay hoay tìm một chỗ đứng trong một xã hội mà tham nhũng và hối lộ là vốn đầu tư cơ bản. Trong hoàn cảnh hiện nay, doanh nhân trong nước chỉ là những người đầu cơ cơ hội, chưa dấn thân thực sự vào nghề kinh doanh.
Thành phần doanh nhân Việt Nam tương lai trước hết phải là những người biết phân biệt thế nào là quyền lợi của đất nước và quyền lợi của ngoại bang. Họ phải là những người ham thích và biết tôn trọng những giá trị đạo đức của nghề kinh thương : lương thiện, có kiến thức chuyên môn, tôn trọng luật pháp và biết giữ gìn chữ Tín.
D. Cần thay đổi một số quan niệm xã hội về kinh thương
Thực lực doanh nhân còn quá yếu kém, nhận thức xã hội cũng không khá gì hơn. Xã hội Việt Nam ngày nay không khác gì xã hội phong kiến thời nhà Nguyễn, giai cấp cầm quyền độc đoán với nhân dân, nhu nhược trước ngoại bang. Giai cấp cầm quyền đề cao thành phần sĩ nông, rẻ rúng thành phần công thương, chế độ cộng sản chỉ đề cao giai cấp công nông. Thành phần “sĩ” ở đây phải hiểu là những người đang cầm quyền, những trí thức cộng sản đứng về phía cầm quyền. Người có kiến thức thật sự (kẻ sĩ chân chính) đa số không có chỗ đứng xứng đáng trong xã hội, nếu có thì cũng chỉ làm những công việc hành chánh và lãnh lương tháng hơn là tham gia trực tiếp vào kinh doanh hay sản xuất.
Sự khinh thường thương nghiệp thể hiện qua cách sống, ai có nhiều bằng cấp, làm công ở những địa vị cao được cả xã hội kính trọng. Tâm lý này rất phổ biến trong quần chúng, người ta có thể thù ghét nhau vì đồng lương. Câu hỏi xã giao thân tình vẫn là “lương cao không?”. Tiền lương là thước đo địa vị của thành phần trí thức Việt Nam. Những chữ “sĩ, sư” tượng trưng cho sự thành công, sang trọng. Gia đình nào có người làm bác sĩ, kỹ sư tự nhiên được kính trọng, là gương sáng cho gia đình khác. Sự giàu sang được đa số người Việt đánh giá qua đồng lương lãnh được mỗi tháng. Những người hành nghề tự do (bác sĩ, nha sĩ, luật sư, cố vấn, chuyên gia) cũng chỉ là những người có đồng lương cao người khác.
Thành phần trí thức “kém may mắn” (không lãnh lương cao) lại chuộng sự thanh bần. Không thiếu gì những câu ca dao, bài nhạc ca ngợi sự thanh bần. Lợi nhuận có lẽ không hấp dẫn bằng sự thanh bần. Trong đời sống thường ngày những người được gọi là “lương thiện” thường gay gắt lên án những người giàu có. Lịch sử và văn học Việt Nam cũng đã lên án gắt gao những bậc vua chúa sống trong xa hoa, những vị quan gian ác, những người giàu có và đề cao những bậc sĩ phu sống trong bần hàn. Nhiều người hãnh diện vì sự nghèo khó của mình. Giàu sang theo quan niệm của nhiều người là một cái tội nên ít ai dám phô trương sự giàu có.
Xã hội Việt Nam vẫn còn trọng lễ nghĩa hơn phú quí. Ai cũng biết câu “phi thương bất phú”, nhưng những ai làm nghề thương mại đều bị coi là xấu. “Phú quí sinh lễ nghĩa”, ý nói những người giàu có không có giáo dục, chỉ khi có tiền mới học đòi làm sang. Nhiều người giàu có vừa kể cố gắng mua cho được một tước trí thức để có thể hành diện với người khác.
Thành phần tiểu thương không có chỗ đứng quan trọng, họ luôn mang mặc cảm vì là thành phần “con buôn”. Để trả thù, những thương gia này cố dành dụm chút vốn liếng, cho con em ăn học thành tài, để khi đỗ đạt sẽ trở thành những “sư và sĩ”, làm việc trí tuệ, ăn lương tháng như những “sĩ, sư” khác. Đỗ đạt “sĩ, sư” là làm rạng danh gia tộc, là đã đáp hiếu cha mẹ.
Sự giàu sang cũng được quan niệm phải đến từ chức quan. Làm quan đồng nghĩa với quyền bính, quyền bính đồng nghĩa với giàu sang. Nhiều người quan niệm có quyền là có tất cả. Không thiếu gì những quan chức chính quyền lúc đầu bần hàn sau nhờ tham nhũng trở nên giàu có. Nhiều bậc cha mẹ đã hy sinh cuộc sống vật chất gia đình đầu tư vào con cái cho ăn học thành tài, đỗ đạt làm quan để sau đó nhờ con trả hiếu bằng cách lạm dụng quyền thế gây dựng tài sản riêng tư để trở nên giàu có. Nổi tiếng giàu có là điều cấm kyï nhưng ít ai cưỡng lại sức cám dỗ của đồng tiền khi có quyền bính. Rất nhiều cán bộ, viên chức chính quyền, lúc ban đầu vì lý tưởng cao đẹp có đời sống rất “thanh bần” nhưng về sau đã trở thành cường hào, ác bá mà trước đó họ đã từng lên án.
Những người làm chính trị chân chính cũng không tránh khỏi những lời dèm pha loại này. Chính trị đối với người Việt Nam là xấu xa, cần phải xa lánh vì chính trị được nhiều người quan niệm là mưu mô thủ đoạn, là tàn bạo v.v… Có lẽ từ trước đến nay có quá nhiều gương xấu của những người làm chính trị vì lợi lộc riêng tư nên ngày nay chính trị đồng nghĩa với gian trá và thủ đoạn. Không ít người thành tâm muốn làm tốt xã hội nhưng quá chán ngán sinh hoạt chính trường đã rút vào bóng tối sống ẩn dật mặc cho tệ đoan xã hội tác oai tác quái.
Qua một số quan niệm như vừa kể, thành phần doanh nhân Việt Nam không thể trong một sớm một chiều vượt lên những mặc cảm tự ti và thành kiến của xã hội. Đây là một công tác tâm lý lâu dài mà những người còn giữ quyết tâm thay đổi xã hội Việt Nam đi vào con đường tiến bộ phải suy nghĩ và tìm ra giải pháp.
III. Xây dựng một tương lai chung
Tìm một phương hướng tốt đẹp để các cộng đồng dân tộc tham gia vào sinh hoạt chung của đất nước là ước muốn của mọi chính quyền. Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, chính quyền vẫn là của riêng một đảng, rất khó có sự thông cảm để xây dựng một tương lai chung. Không thể có sự hòa hợp tốt đẹp nào khi một bên là một thiểu số độc tài tự cho mình đủ mọi quyền hành để cai trị, và một bên là đại đa số quần chúng chỉ có quyền cuối đầu gập lưng. Cán cân tương quan quyền lực hiện nay quá chênh lệch, đất nước chưa thể cất cánh bay vào không gian tiến bộ trong một tương lai gần.
Chế độ độc tài hiện nay đã đánh mất niềm tin của dân chúng vào tương lai đất nước. Tinh thần dân tộc đang bị giải thể, nhiều người thích phục vụ cho ngoại bang hơn phục vụ cho đất nước. Doanh nhân ngoại quốc được cả chính quyền lẫn dân chúng trọng vọng vì có nhiều tiền của. Đời sống quá khó khăn khiến nhiều người chỉ còn một nỗi bận tâm : kiếm sống. Triết lý dân gian hiện nay là mạnh ai nấy sống, khôn nhờ dại chịu, tương lai đất nước ra sao mặc kệ. Cuộc tranh đấu để tìm cuộc sống khá hơn nhiều lúc trở nên khó khăn, ước mơ thầm kín của nhiều người là muốn trở thành công dân một nước khác để có cuộc sống khá hơn.
Ai cũng biết là vượt biên là nguy hiểm, không còn quốc gia nào chấp nhận cho định cư nữa nhưng vì quá tuyệt vọng nhiều người vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Đối với dân chúng, ra được xứ người tự do sẽ có, giàu sang sẽ đến. Người Việt Nam có lẽ quen sống trợ cấp đã mất ý chí cố gắng. Nhiều người quan niệm một cách sai lầm về cuộc sống tại những quốc gia tiền tiến, họ cho rằng Việt Nam là lương tâm của nhân loại, thế giới phải đến giúp đỡ. Thêm vào đó, một số Việt kiều “vô tư cách” về nước phô trương tiền của khiến người trong nước càng quan niệm sai về cuộc sống của người Việt hải ngoại. Một số người trong nước sẵn sàng làm đủ mọi cách để có cuộc sống vật chất ngang với dân chúng tại những quốc gia tiền tiến. Hoa kiều là nguồn cung cấp tiền của và vật chất.
Hiện nay đứng bên ngoài chính quyền, chúng ta có nhiều điều kiện để đầu tư suy nghĩ, tìm phương hướng giải quyết cho những vấn đề còn nguyên vẹn và rối bòng này: vấn đề hội nhập người Hoa tại Việt Nam. Đầu tư quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay là tìm lại đồng thuận dân tộc, hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam là ưu tiên hàng đầu của bất cứ chế độ chính trị nào. Giải quyết được vấn đề người Hoa, chúng ta có quyền hy vọng rút ngắn thời gian dẫn đưa đất nước đi vào quỹ đạo tiến bộ.
Trong đoạn này người viết thử đưa ra một vài hướng giải quyết có tính chủ quan. Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là những gợi ý với hy vọng được đón nhận thêm những ý kiến và giải pháp khác. Có trao đổi, có tranh cãi chúng ta mới hy vọng tìm ra lời giải đáp thích hợp nhất. Theo chủ quan riêng, có nhiều hướng giải quyết vấn đề hội nhập của người Hoa vào xã hội Việt Nam. Hướng đầu tiên là tìm lại đồng thuận dân tộc. Đồng thuận trong một thể chế tự do dân chủ, trong đó mọi người đều có tiếng nói và chỗ đứng ngang nhau. Hướng thứ hai là nhận định lại một số giá trị tinh thần mới trong nổ lực đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Ba là đề nghị một số biện pháp trong một chính sách phát triển cộng đồng hợp tình hợp lý. Bốn là cụ thể hóa một số điều kiện giao hảo bình đẳng với các quốc gia trong thế giới Trung Hoa và thế giới.
A. Viết lại lịch sử và nhận định về một số nguyên tắc quản trị của các cộng đồng
Viết lại lịch sử Việt Nam là viết lại đồng thuận dân tộc. Những nhà nghiên cứu, những nhà chính trị phải giúp trả lời những câu hỏi về đồng thuận dân tộc. Tại sao dân tộc Việt Nam chỉ đoàn kết khi chống ngoại xâm và chia rẻ khi có độc lập? Tại sao người Việt Nam chỉ thành công trong việc chiến chinh mà không thành công trong việc xây dựng đất nước? Tại sao lịch sử chỉ nhắc đến công lao của những tiền nhân gốc Kinh mà không nhắc tới công lao dựng nước của những tiền nhân khác? Đây là những đề tài tranh luận cần sự tham gia của mọi thành phần dân tộc. Tinh thần chỉ đạo của cuộc tranh luận phải là tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
Lịch sử khai quốc có thể bắt đầu bằng tục truyền về họ Hồng Bàng. Họ Hồng Bàng là dòng họ cầm quyền đầu tiên ở nước ta thời thượng cổ. Trong thời này, cấu trúc tổ chức xã hội đã là một hợp chủng quốc : nhiều sắc dân khác nhau đã biết sống kết hợp trong một lãnh thổ, đã cùng nhau xây dựng và bảo vệ lãnh thổ đó.
Nguồn gốc của họ Hồng Bàng được giải thích khác nhau, nhưng đa số xác nhận có nhiều liên hệ chủng tộc với Trung Hoa. Theo đó những vị tổ đầu tiên : vua Đế Minh (cháu ba đời vua Thần Nông), Lộc Tục (Kinh Dương Vương) làm vua phương Nam gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Kinh Dương Vương lấy bà Long Nữ (con gái Động Đình Quân, một vị vua ở Thủy Phủ) đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ (con gái vua Đế Lai, Đế Lai là con Đế Nghi, vai chú bác với Lạc Long Quân) sinh ra một cái bọc, bảy ngày sau cái bọc đó nở ra trăm trứng, mỗi trứng nở ra một người con trai. Một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng : “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, người ở dưới nước, người ở trên cạn. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng dòng giống tương khắc như nước với lửa, không thể ở với nhau lâu dài được. Nay ta mang 50 con xuống Thủy Phủ, còn 50 con sẽ ở lại với nàng trên cạn, chia đất ra mà trị”.
Âu Cơ và 50 con đến đồng bằng sông Hồng, cùác con tôn anh trưởng lên làm vua hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, thủ đô đặt ở Phong Châu, mở đầu dòng họ Hồng Bàng, tổ tiên của người Việt Nam. Những người theo cha xuống Thủy Phủ ít được ai nhắc tới.
Về mặt chủng tộc, có nhiều bất đồng ý kiến giữa những nhà nghiên cứu chủng tộc học. Trường phái thứ nhất cho rằng dân tộc Việt xuất phát từ Tây Tạng (giống như các dân tộc Thái, Miến, Khmer, Lào, v.v…) theo thời gian di cư dần xuống phía Nam và Đông Nam Á. Trường phái thứ hai cho rằng nguồn gốc dân tộc Việt là giống dân Mã Lai (Malayo Polynésien hay Nam Đảo) từ các hải đảo ở biển Đông di cư vào đất liền. Trường phái thứ ba cho rằng tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt là nhóm Việt tộc (Bách Việt) sống ở miền Nam Trung Hoa, đã có những tiếp xúc với giống dân Mongoloĩde. Nhiều nhà khảo cổ đã tìm được nhiều vết tích về nguồn gốc dân tộc Việt tại vùng Bắc Sơn và tạm kết luận rằng dân tộc Việt Nam là tập hợp của ba chủng tộc trên, ngày nay được gọi chung là dân tộc Kinh.
Trên thực tế nhóm Việt tộc, văn minh hơn và đông hơn, sống hòa trộn với các sắc dân đã định cư trước đây tại đồng bằng sông Hồng (gốc Tây Tạng và Nam Đảo) tạo ra một nền văn minh hỗn hợp gọi là văn minh Đông Sơn. Văn minh Đông Sơn là một sự kết hợp văn hóa giữa lối sống định cư (làng xã), trồng lúa nước, đúc vật dụng bằng đồng (trống đồng), điêu khắc (trên đồ gốm) và lối sống du canh du mục, hái lượm rau quả, cất nhà sàn, săn thú trên rừng, săn cá dưới biển. Từ đó người Việt được nhiều người nhìn nhận là chủng tộc chính tại Việt Nam. Người Việt thích sống tập trung trong các làng xã, nơi có phố xá tại đồng bằng nên có thêm tên gọi là người Kinh. Kinh là những người sống tại những nơi phồn hoa đô hội (kinh thành) để phân biệt với những sắc dân khác sống trên các núi rừng hay trên cao nguyên (Thái, Tày, Nùng, Mường, Thượng, v.v…). Đây cũng là một cách gọi để phân biệt với chủng tộc Hán hay Hoa vì trong lục địa Trung Hoa cũng có chủng tộc Việt. Trong thực chất, thật khó tách biệt quan hệ văn hóa giữa chủng tộc Kinh và chủng tộc Hoa.
Với thời gian, người ta gán ghép dân tộc Kinh là toàn thể người Việt. Đây là một gán ghép dễ dàng. Việt Nam tuy có một lịch sử dài nhưng cũng là một lịch sử mới. Nước ta đã tiếp thu rất nhiều đóng góp mới về đất đai và chủng tộc : miền Trung nơi người Chăm thuộc vương quốc cổ Chiêm Thành được hội nhập từ hơn 400 năm, miền Nam nơi người Khmer Thủy Chân Lạp cư ngụ chỉ mới được hội nhập cách đây gần 300 năm và Tây Nguyên nơi người Thượng sinh sống chỉ hơn 100 năm. Mặc dù vậy tổ chức xã hội của ta lại không thích hợp những thay đổi đó và vẫn được quan niệm một cách sai lầm như là đất nước của một cộng đồng duy nhất, cộng đồng người Kinh. Lịch sử của Việt Nam là lịch sử của người Kinh, chỉ nói về người Kinh. Các quan niệm về đạo lý, xã hội, luật pháp đều dựa trên người Kinh và nhằm phục vụ người Kinh. Trong suốt dòng lịch sử người Kinh chưa hề nhìn nhận một trách nhiệm nào đối với các sắc tộc ít người mà chỉ áp đặt khuôn mẫu của mình, nếu cần bằng bạo lực. Tình trạng này phải chấm dứt.
Người Kinh hiện nay tuy là đa số (87% dân số) nhưng không vì thế mà độc quyền có lịch sử. Những cộng đồng sắc tộc cao nguyên miền Bắc đã góp công rất nhiều trong việc bảo vệ và xây dựng khu vực biên giới Việt-Hoa. Người Chăm đã có công khai phá duyên hải miền Trung, người Hoa và người Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long đã góp công khai phá miền Nam và chống trả lại sự xâm lược củ đế quốc Xiêm La, người Thượng tại Tây Nguyên đã chống lại sự bành trướng của các đế quốc Miến Điện, Xiêm La và Láng Cháng, những thành phần này cũng có quyền được đối xử một cách công bình và có chỗ đứng như mọi người khác.
Trong tương lai chúng ta không những phải bảo đảm cho những sắc tộc ít người các quyền lợi ngang hàng với người Kinh mà còn phải ưu ái họ hơn cộng đồng người Kinh để sửa chữa những sai lầm trong quá khứ và để giúp họ tiến lên, bắt kịp trình độ tiến hóa của đại khối dân tộc. Cộng đồng người Hoacũng có quyền được đối xử một cách công bình để họ trở thành những công dân Việt Nam hoàn toàn, với tất cả quyền lợi và bổn phận. Dân tộc Việt Nam không được định nghĩa bằng một chủng tộc mà bằng sự thỏa thuận chia sẻ một tương lai chung.
Danh từ công dân sau này cũng không thể định nghĩa bằng quyền huyết thống mà phải bằng quyền thổ cư và quyền ý chí. Ai cũng có thể trở thành công dân Việt Nam nếu thực tâm mong muốn, ngược lại cũng có nhiều người được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam hay có nguồn gốc Kinh nhưng không muốn làm công dân Việt Nam, phủ nhận bản thể Việt Nam sẽ không được công nhận là công dân Việt Nam (qui chế ngoại kiều sẽ được áp dụng cho những thành phần này). Chúng ta cũng phải tiên liệu sau này sẽ có những công dân Tây phương muốn phục vụ đất nước Việt Nam cũng có quyền xin có quốc tịch Việt Nam. Đây là một vấn đề thỏa thuận hành chánh và hộ tịch giữa những quốc gia Tây phương và Việt Nam.
Về mặt chủng tộc, Việt Nam đã là một quốc gia hợp chủng từ ngày lập quốc. Người Mường, người Thổ, người Mèo, người Mán, người Tày, người Thái, người Nùng v.v… đã cùng các vua Hùng dựng nước và giữ nước, họ đã cùng viết lên những trang lịch sử oai hùng. Những công lao này không thiếu gì trong kho tàng truyện dân gian của các sắc tộc thiểu số miền Bắc. Việt Nam đã tiếp nhận thêm người Chăm (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 17) ở miền Trung, người Khmer, người Hoa (thế kỷ 17) ở miền Nam và người Thượng (từ giữa thế kỷ 19). Lịch sử Việt Nam, ngoài công lao của các vị tổ Hùng Vương, phải kể đến công lao của những tiền nhân có công khai sơn lập quốc gốc Chăm, gốc Khmer, gốc Hoa và gốc Thượng. Cho đến nay lịch sử khai sơn lập quốc của những công dân này chưa được phổ biến trong các chương trình giáo khoa và được giảng dạy ở các trường đại học.
Tổ tiên của những sắc tộc thiểu số này cũng phải được tôn vinh là những vị tổ chung của dân tộc, công lao khai quốc của họ là công lao khai quốc của dân tộc Việt Nam. Viết lại lịch sử Việt Nam là viết lại lịch sử của từng cộng đồng dân tộc trong công cuộc xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Viết lại lịch sử Việt Nam là viết lại giấc mơ chung, là viết lại đồng thuận dân tộc, là nhận lại anh em tìm lại bạn bè, là viết lại một dự án chung cho tương lai.
Không gì lố bịch khi dạy trẻ em gốc Chăm, gốc Khmer, gốc Hoa hay gốc Thượng sinh sống tại Việt Nam là con cháu của các vị vua Hùng Vương, họ Hồng Bàng. Ngày 10 tháng 3 âm lịch là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, có thể được ghi nhận là Ngày Khai Quốc của quốc gia Việt Nam. Các vua Hùng có thể là những vị tổ đầu tiên của dân tộc Việt Nam nhưng không phải là những vị tổ duy nhất.
Tiền nhân của dân tộc Việt Nam đã rất sáng suốt. “Con Rồng cháu Tiên” thật ra là huyền thoại của những người Hoa ly khai ra khỏi đế quốc Trung Hoa để thành lập một quốc gia riêng biệt mà chúng ta thừa hưởng ngày nay : nước Việt Nam độc lập (Nam quốc sơn hà Nam đế cư). Quốc gia Việt Nam ngày càng mở rộng và lớn mạnh. Huyền thoại “một mẹ trăm con” là trí tưởng tượng của một dân tộc siêu việt, những người nghĩ ra nó đã nhìn xa thấy rộng, đã tiên liệu một sự kết hợp rộng rãi giữa các thành phần chủng tộc và sắc tộc : một nước Việt Nam hợp chủng. Năm mươi người theo mẹ ở lại đất liền là những người sống bằng nghề nông (được nhiều người đồng hóa với người Kinh), năm mươi người theo cha (ít được nhắc tới) thật ra là những người sinh sống về nghề biển và nghề rừng (nhiều người nói là các sắc tộc thiểu số). Thực trạng của huyền thoại này vẫn còn bàng bạc trong thực tế : 80% dân số sống bằng nghề nông, 5% sống trên các vùng rừng nú, 15% còn lại đã biết tổ chức lối sống hợp quần, thành lập làng xã, phố chợ để cùng viết lên những trang sử chung.
Chỉ dân tộc Việt Nam mới có danh từ “đồng bào” (cùng sinh trong một bọc). Hai chữ “đồng bào” không mang tính khoa học nhưng nó phản ánh một tình cảm thân thương : tình ruột thịt, tình anh em một nhà. “Đồng bào” là một cách gọi tình cảm, nó nhắc nhở mọi công dân Việt Nam phải yêu thương, đùm bọc và đối xử với nhau như anh em một nhà. Nhưng bài học ruột thịt này có lúc bị lãng quên, anh em một nhà đánh giết lẫn nhau chỉ vì những lợi ích riêng tư, và đã có lúc đất nước Việt Nam trở thành đất nước của kẻ mạnh nhất, bất kể kẻ mạnh đó là người ngoại quốc hay người bản xứ. Vua chúa Việt Nam có lúc đã ngược đãi những nhóm dân cư đã có mặt từ trước trên những vùng đất vừa tiếp thu. Chưa bao giờ sử sách Việt Nam nhìn nhận những sai trái đã phạm mà chỉ nói đến lỗi lầm hay sự ngỗ ngáo của những sắc tộc ít người để biện minh cho những thái độ đối xử thô bạo. Những sắc dân bị bạc đãi chỉ chực chờ cơ hội phục thù, khôi phục lại những vùng đất bị mất, đất nước chưa bao giờ có được đồng thuận như định nghĩa của hai chữ “đồng bào”.
Những người lãnh đạo đất nước sau này phải có can đảm thay mặt tổ quốc ăn năn, xin lỗi những người bị phân biệt đối xử do lỗi lầm của các bậc tiền nhân trong quá khứ. Sự chuộc lỗi phải thể hiện bằng những hành động cụ thể : viết lại lịch sử Việt Nam, phục hồi gốc tích chủng tộc và văn hóa những sắc tộc thiểu số, tận tình giúp đỡ những sắc tộc ít người trước kia bị bạc đãi… Tổ quốc phải hòa giải với chính công dân của nó trước khi cùng nhau bắt tay đi vào tương lai. Sự ăn năn này phải thể hiện qua những đạo luật nâng đỡ đời sống của những sắc tộc thiểu số để họ thấy tương lai của cá nhân, gia đình và cộng đồng của họ là đất nước Việt Nam, một nước Việt Nam hợp chủng và đa nguyên. Dân tộc Việt Nam đã được biết đến như là nạn nhân của hận thù và chia rẽ, của óc độc quyền lẽ phải thì Việt Nam sau này sẽ được biết đến như là vùng đất của sự bao dung, như là mẫu mực thành công của tình anh em tìm lại, của sự hồi sinh sau cơn bạo bệnh.
Nhiều nhà lãnh đạo nghĩ rằng phát huy văn hóa và nghệ thuật của từng sắc tộc là đã phát huy tinh thần hòa giải, đã xây dựng đồng thuận dân tộc. Thực ra chưa đủ, đây là phong thái của những người lãnh đạo thiếu bản lãnh. Họ sợ các sắc tộc thiểu số “được voi đòi tiên”. Họ sợ khi được bình đẳng những sắc tộc thiểu số sẽ đòi tự trị. Cần phải đánh tan lập luận đơn giản : tự trị đồng nghĩa với độc lập. Tự trị (autogestion, autodépendance) không có nghĩa là độc lập (indépendance). Tự trị là quyền tự nhiên của mỗi cộng đồng. Không ai thông thuộc văn hóa, phong tục, tập quán sinh hoạt của một cộng đồng dân tộc bằng chính cộng đồng đó. Quyền tự trị không phải là quyền tổ chức cơ cấu chính quyền trong một chính quyền. Quyền tự trị phải cụ thể hóa bằng một đạo luật riêng biệt : đạo luật phát triển các cộng đồng sắc tộc. Đạo luật này phải được bàn bạc, tham khảo với đủ mọi thành phần dân tộc : chính trị gia, chuyên viên xã hội học, thành phần trí thức, những đại diện của các cộng đồng. Đạo luật phải qui định rõ qui chế tổ chức và điều hành của các cộng đồng sắc tộc.
Những người lãnh đạo của cộng đồng phải được dân chúng trong cộng đồng đó bầu ra và được chính quyền công nhận. Đại diện các cộng đồng không thể có những định chế như một chính phủ (quyền bang giao ở cấp quốc gia, quyền tổ chức quốc phòng và quyền ban hành luật pháp riêng) nhưng sẽ có quyền tổ chức địa phương theo cách riêng miễn sao không trái hiến pháp và luật pháp chung. Chính quyền phải tạo cơ hội và giúp phương tiện cho những công dân này tham gia vào việc tổ chức cộng đồng địa phương theo đúng ước nguyện, phong tục, tập quán của cộng đồng đó. Chính quyền là gạch nối giữa những người lãnh đạo cộng đồng và các chính sách chung của quốc gia.
B. Bình thường hóa một số quan niệm về chính trị và xã hội
Hai chữ doanh nhân phải được bình thường hóa để mọi người khi nghe đều sẽ suy nghĩ như nhau : một giai cấp làm giàu cho xứ sở. Gương thành công của những doanh nhân lớn cần được nhắc nhở trong giới sinh viên học sinh như những trường hợp mẫu (case study) để nghiên cứu và học tập. Những sự tích về sự giàu có bằng sự cố gắng lương thiện phải được phổ biến rộng rãi trên mọi phương tiện truyền thông và trong các sách giáo khoa. Thành phần thương gia lương thiện phải được kính trọng như những học giả, giáo sư, những nhà chính trị. Dân chúng Việt Nam phải tập quen với lối sống, làm việc và suy nghĩ của những người làm kinh doanh : nhạy bén trước cơ hội, quyết định nhanh và thận trọng.
Các giáo hội, các tôn giáo, các hội đoàn có mục đích từ thiện đều có quyền kinh doanh và cần khuyến khích kinh doanh để có độc lập về tài chánh. Các đảng phái hay cộng đồng dân sự đều có quyền kinh doanh và phải kinh doanh để tránh sự lệ thuộc vào sự tài trợ của các thế lực bên ngoài. Khi có độc lập về tài chánh, tôn giáo, đảng phái chính trị hay hội đoàn dân sự sẽ không là con tin của bất cứ một thế lực nào và quốc gia sẽ bớt đi gánh nặng tài trợ hay ủng hộ tài chánh.
Nếu tự do kinh doanh là một quyền thì lợi nhuận là mục đích của quyền đó. Tự do kinh doanh đồng nghĩa với tự do truy tìm lợi nhuận. Không thể kinh doanh mà không có lợi nhuận. Lợi nhuận là phần thưởng của sáng kiến, ý chí và hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận có thể là có thêm tiền bạc, của cải để phục vụ mạnh hơn nhu cầu của xã hội và cũng có thể là gây thêm cảm tình hay giúp đỡ được nhiều người hơn. Công dân có quyền làm giàu bằng mọi sáng kiến lương thiện. Giàu sang vừa là một giá trị vật chất vừa là một giá trị tinh thần mà mọi người phải đạt tới. Sự giàu có phải là ước muốn chung của toàn xã hội và được đo lường qua số lượng tài sản sở hữu hợp pháp và mức sống trong xã hội. Vấn đề đặt ra là sử dụng phần lợi nhuận đó như thế nào để không gây bất công xã hội, không đào sâu hố cách biệt giữa trung tâm thành phố và ngoại ô, giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi, đây là trách nhiệm của những nhà chính trị và xã hội.
Quyền truy tìm lợi nhuận phải trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp quốc gia. Gian lận và dối trá trong kinh doanh là những xúc phạm đến giá trị tinh thần quốc gia, cần bị lên án và nghiêm phạt. Xâm phạm tài sản của công dân là một trọng tội. Buôn lậu, bóc lột, trốn thuế và tham nhũng là những tội hình sự cần phải qui định cụ thể bằng luật pháp và phải bị trừng phạt đích đáng (phạt tiền, phạt tù, phạt danh dự). Tố cáo những người làm giàu lương thiện vì người đó thuộc phe nhóm chính trị khác với mình là một tội hình sự, nó làm giảm bớt sự hăng say đóng góp của người đó vào xã hội. Đề cao sự thanh bần là một hình thức xâm phạm đến những giá trị tinh thần cần nghiêm phạt, không ai có thể cống hiến nhiều cho đất nước trong sự nghèo khó. Thanh bần có thể là ý thích của một số người nhưng sẽ không là ý thích của toàn xã hội. Những nhà phê bình văn học nên phân tích hoàn cảnh sản sinh ra loại văn chương ca tụng sự thanh bần.
Hiến pháp phải dành một chương qui định quyền bình đẳng giữa các cộng đồng dân tộc và dành cho những cộng đồng thiểu số nhiều ưu tiên trong cuộc sống để bắt kịp đà tiến chung của xã hội. Những hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc phải bị loại ra ngoài vòng pháp luật. Kỳ thị chủng tộc là một tội hình sự, cần bị chế tài xứng đáng. Các cộng đồng dân tộc chỉ có thể giúp thăng hoa đất nước khi thấy quyền lợi và hạnh phúc của họ được tôn trọng và được bảo vệ. Những nhà lập pháp cần phải sáng suốt và bao dung khi soạn thảo luật pháp để không để bị chi phối bởi những áp lực hay quyền lợi ngắn hạn chủ quan trước mắt.
Sử và sách giáo khoa phải ghi một cách trung thực công lao và đóng góp của những người Hoa đầu tiên có công khai hóa văn học và những vùng đất mới. Việt Nam không thiếu những gương danh nhân gốc Hoa có công khai hóa dân trí và mở mang bờ cỏi (Sĩ Nhiếp, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ, v.v…). Rất nhiều vị quan và danh tướng gốc Hoa như Võ Trường Toản, Đỗ Thành Nhân, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Châu Văn Tiếp, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản, Trương Minh Giảng, Trương Tấn Bửu, Lý Văn Phức đã góp công rất nhiều vào thời Nguyễn sơ và nhà Nguyễn. Lý Liễu là một chiến sĩ cách mạng chống Pháp trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu. Châu Thượng Văn là một nhà cách mạng bạn với Huỳnh Thúc Kháng trong phong trào kháng thuế tại Quảng Nam năm 1908. Nhiều nhà báo, ký giả gốc Hoa đã làm trưởng thành nghề làm báo và ấn loát tại miền Nam : tờ Gia Định Báo với Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký v.v… Thời cận đại cũng không thiếu người gốc Hoa góp phần mở mang nền kinh tế, xây dựng nhiều cơ sở từ thiện và tôn giáo (xem Phụ lục 2).
C. Doanh nhân gốc Hoa rất cần thiết trong sinh hoạt kinh tế của Việt Nam
Nền kinh tế của Việt Nam rất cần sự tham gia và đóng góp của người Hoa. Cộng đồng người Hoa là một trong những động lực thúc đẩy sự đi lên của đất nước. Người Hoa trong nước có quyền kêu gọi sự giúp đỡ của Hoa kiều từ khắp nơi để kinh doanh trên đất nước Việt Nam, nhưng phải tôn trọng và theo luật pháp Việt Nam. Chính quyền Việt Nam phải qui định rõ ràngbằng những đạo luật chung về tài chánh, thuế má và kế toán để tránh tình trạng bối rối khi khai thuế hay đánh thuế. Chính quyền cần đào tạo một đội ngũ chuyên viên thuế vụ, kế toán chuyên nghiệp để thi hành việc kiểm soát sự điều hành của các xí nghiệp đúng theo luật pháp. Chính quyền cũng phải bảo đảm cho những nhân viên này một mức sống tương đối để không bị ảnh hưởng bởi những hành vi có thể có của những doanh nhân không lương thiện.
Sinh hoạt nổi bật của người Hoa được nhắc tới nhiều nhất là trong kinh doanh. Thương nhân gốc Hoa tại Việt Nam đã bỏ rất nhiều công sức và cố gắng mới tạo được sự nghiệp như ngày nay. Phần tích sản của họ cho đến nay có thể rất lớn đối với người dân bình thường nhưng chưa thể gọi là lớn so với tầm vóc của quốc gia nhưng cộng đồng người Hoa xứng đáng được hưởng những thành quả do chính họ làm ra. Phần tích sản đó đã góp phần quan trọng trong việc làm gia tổng sản lượng quốc gia. Chỉ những hành vi buôn gian bán lậu mới làm hại cho đất nước, cần bị nghiêm phạt. Hiện nay do tình trạng suy đồi chung của xã hội, với sự tiếp tay của một số quan chức chính quyền, những hành vi bất chánh loại này còn rất nhiều cần phải loại trừ.
Bỏ qua khía cạnh tiêu cực, với những cơ sở hạ tầng sẵn có, doanh nhân gốc Hoa đã trực tiếp sản xuất của cải vật chất rất nhiều cho xã hội. Lợi tức của họ thu vào có thể nhiều hơn những doanh nhân khác, nhưng trên bình diện quốc gia hoạt động sản xuất của họ giúp quốc gia tiết kiệm rất nhiều ngoại tệ. Việt Nam đã không phải nhập cảng hàng hóa để giải quyết những nhu cầu tiêu dùng hằng ngày. Nhập cảng hàng ngoại, quốc gia không những tốn ngoại tệ mà còn bóp nghẹt nền sản xuất trong nước. Hàng hóa do người Hoa sản xuất trong nước do những cố gắng cải tiến không ngừng về kỹ thuật có phẩm chất không kém gì hàng ngoại nhập. Nhiều doanh nhân gốc Hoa chân chính, khổ sở vì không cạnh tranh với hàng nhập lậu, đã phải lên tiếng yêu cầu chính quyền can thiệp.
Nhiều người thấy người Hoa có mặt trong đủ mọi ngành kinh doanh lo sợ bị thao túng đã tìm cách hạn chế thế lực kinh tế của họ. Những hành vi thiếu sáng suốt này chận đứng sự phát triển của đất nước và khuyến khích những hành vi gian lận, buôn chui bán lậu. Không ai dám xuất đầu lộ diện đầu tư lớn vì sợ bị lên án thao túng thị trường. Trên bình diện quốc gia, lợi tức thu vào của bất kỳ một công dân nào đều góp phần làm tăng thêm tổng sản lượng quốc gia. Chỉ gọi là mất nếu nguồn lợi tức đó lọt vào tay ngoại nhân. Thật đáng buồn nếu còn những người cho rằng lợi tức do doanh nhân Việt Nam gốc Hoa thu vào là một sự mất mát. Có lẽ họ vẫn nghĩ công dân gốc Hoa không phải là công dân Việt Nam. Những suy nghĩ loại này cho thấy sự thiếu hiểu biết về sinh hoạt kinh doanh : không ai muốn làm ăn để bị lỗ và cũng không ai muốn bỏ tiền ra để bị mất.
Khách quan nhận xét, nếu quyết đoán lợi tức do doanh nhân gốc Hoa thu vào là mất thì mất về tay người nhà vẫn hơn là mất về tay người ngoài. Vấn đề là phần lợi tức đó sẽ được sử dụng như thế nào, tỷ lệ doanh lợi đó được tái đầu tư vào xã hội là bao nhiêu. Tái đầu tư là một vấn đề chính sách, chính quyền nào cũng cần phải có một chính sách khuyến khích tái đầu tư. Phần lợi tức thu vào nếu được chi tiêu trong nước vẫn có lợi hơn là chi tiêu ở ngoài nước. Sự chi tiêu đó sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho một số người khác. Phải biết áp dụng vòng quay của tư bản trong nền kinh tế quốc gia như vòng quay của đồng tiền trong nội bộ cộng đồng người Hoa. Điều này không có nghĩa Trung Hoa hóa sinh hoạt kinh tế của quốc gia nhưng nên biết sử dụng một cách khôn ngoan kinh nghiệm của người Hoa.
Nhìn lại sinh hoạt kinh tế của người gốc Hoa, chính họ đã giúp cho đất nước giảm nạn chảy máu vàng. Nếu Việt Nam phải nhập cảng hàng tiêu dùng thường ngày, chắc chắn cũng chỉ có thể nhập cảng hàng hóa từ thế giới Trung Hoa vì rẻ hơn hàng của Tây phương và Nhật Bản và phải trả bằng ngoại tệ mạnh. Doanh nhân gốc Hoa đã có công mua sắm máy móc, trang thiết bị để sản xuất hàng hóa thỏa mãn nhu cầu trong nước thay vì phải nhập cảng. Họ biết tận dụng nhân công và nguyên liệu trong nước hay chỉ mua nguyên liệu của ngoại quốc để sản xuất ra những mặt hàng có phẩm chất tương đương. Họ là những công dân Việt Nam đang góp công bảo vệ độc lập kinh tế. Người Việt gốc Hoa không muốn Hoa kiều Đông Nam Á thao túng thị trường Việt Nam vì Việt Nam dầu sao cũng là quê hương của họ, đất nước của họ. Không nên lẫn lộn những người nói tiếng Hoa sinh sống tại Việt Nam với những Hoa kiều đến Việt Nam đầu tư. Vấn đề là làm sao để những công dân gốc Hoa tham gia trực tiếp vào những sinh hoạt khác ngoài chuyện kinh doanh, giúp họ ý thức hơn trong bổn phận công dân. Vì những lý do đó người Hoa là thành phần không thể thiếu trong sinh hoạt kinh tế của Việt Nam.
Doanh nhân Việt Nam hiện nay quá ít và rất yếu kém, doanh nhân gốc Hoa là một bổ túc. Tuy nhiên về lâu về dài, doanh nhân Việt Nam (gồm cả doanh nhân gốc Hoa) phải đảm nhiệm toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nước. Người Hoa có nhiều kinh nghiệm về sinh hoạt doanh nghiệp, hãy để họ hoạt động doanh nghiệp. Sự sung túc trong đời sống là phần thưởng tự nhiên không những xứng đáng được hưởng mà còn khuyến khích hơn nữa. Phải để ước muốn làm giàu hướng dẫn người dân phát huy sáng kiến. Đất nước Việt Nam phải là vùng đất hứa của sự giàu sang. Hãy để “giấc mơ Việt Nam” chế ngự con tim những người Việt Nam muốn truy tìm một đời sống sung túc. Hãy để động cơ tư lợi thúc đẩy sáng kiến của tư nhân, chính quyền chỉ nên giữ vai trò trọng tài và hòa giải.
Không nên so sánh lòng yêu nước của công dân này với công dân khác, mỗi công dân đều có quyền yêu nước theo ý riêng. Người Hoa tại Việt Nam cũng yêu đất nước này không kém những công dân khác, đôi khi có phần hơn vì họ tạo ra của cải vật chất nhiều hơn những công dân khác. Không thể yêu cầu người gốc Hoa yêu đất nước Việt Nam hơn những người Việt Nam khác và cũng không thể yêu cầu họ hy sinh nhiều hơn những người Việt Nam khác. Vấn đề sang bằng hố cách biệt giàu nghèo là vấn đề của quốc gia, của chính quyền. Những chính sách phát triển cũng không thể buộc thành phần này làm việc hơn để nuôi thành phần khác mà không có một phần thưởng tương xứng. Đời sống người dân nghèo hay giàu tùy thuộc vào chính sách quản trị của chính quyền và sự hưởng ứng của dân chúng đối với chính quyền đó.
Một quốc gia nghèo như Việt Nam, ngoại thương là một dịch vụ kinh tế quan trọng mang về ngoại tệ. Ngoại thương hiện nay nằm trong tay một số gia đình lớn của chính quyền, đa số không biết luật thương mại quốc tế chỉ biết vơ vét vào túi riêng, đã làm thiệt hại cho đất nước rất nhiều. Trong khi đó thành phần có nhiều kinh nghiệm về ngoại thương là người gốc Hoa, hiện nay họ phải mượn danh nghĩa của những Hoa kiều để hoạt động, lợi tức thu được không nằm trong tay người Việt Nam.
Doanh nhân trong nước không có chỗ đứng trong nền kinh tế hiện nay, họ không có quyền trao đổi quốc tế. Tất cả mọi dịch vụ trao đổi quốc tế phải qua trung gian của chính quyền do đó không thể phát triển được. Nền sản xuất tư nhân cũng không phát triển, giai cấp công nhân không có điều kiện sản xuất đã không đóng góp được gì nhiều cho đất nước . Thành phần trí thức cũng vậy, họ không thể đóng góp được gì cho đất nước vì bị khóa tay kháo chân, và do không biết xoay sở đời sống của gia đình và bản thân họ càng thêm bi đát. Người nông dân gắn liền đời sống với đất sản xuất không đủ ăn phải xoay sở bằng mọi cách để sống. Trong khi đó những người không biết gì về kinh doanh nắm hết huyết mạch của nền kinh tế, giai cấp nông dân-chính quyền (đảng cộng sản) chi phối nặng nề mọi sinh hoạt của xã hội. Quốc gia sẽ kiệt quệ nếu không hài hòa được bốn thành phần căn bản của xã hội và cũng sẽ không còn thứ tự ưu tiên cho bất cứ thành phần nào, vì thành phần nào cũng rất cần thiết.
Việt Nam không thể tiến lên nếu chỉ có đơn thuần một thành phần làm công tác trí tuệ và sản xuất nông nghiệp, giai cấp sĩ-nông. Chế độ cộng sản Việt Nam tuy đề cao giai cấp công-nông nhưng thực chất là chỉ giai cấp nông dân. Giai cấp sĩ (trí thức) đúng nghĩa không có chỗ đứng và không giữ những địa vị cao trong xã hội vô sản. Thành phần trí thức do đảng cộng sản tạo ra chỉ là những nhà minh họa, chỉ biết thừa hành và không có ý kiến. Thành phần có năng lực điều động tư bản, sản xuất công nghiệp và làm thương mại bị coi là thành phần tư sản mại bản, gia cấp bóc lột đã bị loại trừ.
Cộng đồng người Hoa chỉ chiếm 2% dân số nhưng là đại diện của giai cấp công-thương Việt Nam (doanh nhân gốc Hoa là những người đại diện cho Việt Nam trong những cuộc triển lãm quốc tế từ thời Pháp thuộc đến nay). Trong tổng số 2% đó – một con số vô nghĩa nếu so với toàn thể dân số Việt Nam – chỉ 10% có khả năng tài chánh cao tượng trưng cho sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và quản lý của cộng đồng gốc Hoa, nhưng đã tạo ra gần 30% của cải vật chất cho toàn xã hội và hơn 40% sản phẩm công nghiệp nhẹ, 5% hoạt động trong ngành hành chánh, dịch vụ và nghề tự do (nha y sĩ, y dược dân tộc), 85% còn lại là thành phần lao động : 40% làm nghề nông (60% dân số nông dân gốc Hoa tập trung tại đồng bằng sông Cửu Long), 30% là tiểu thương và 15% là công nhân xí nghiệp. Thành phần công-nông này có thể trở thành doanh nhân bất cứ lúc nào nếu có cơ hội.
Chính sách kinh tế thị trường hiện nay là địa bàn hoạt động của loại tư bản rừng rú và của tệ đoan xã hội, tham nhũng và buôn lậu. Thành phần doanh nhân Việt Nam lương thiện chưa có điều kiện hoạt động, đã vắng mặt trong mọi ngành kinh tế quan trọng. Những người đang kinh doanh hiện nay chỉ là thành phần ăn sổi ở thì, không ai tính chuyện làm ăn lâu dài, xây dựng cơ sở qui mô. Những ai muốn làm ăn lớn hoặc phải là người của nhà nước, hoặc phải khoác lên vai chiếc áo doanh nhân ngoại quốc mới được an toàn, đa số khoác áo doanh nhân Hoa kiều Đông Nam Á.
Chính vì những lý do trên giới thương nhân Việt Nam và doanh nhân gốc Hoa phải là hai hằng số của bài toán phát triển. Nước Việt Nam tương lai trước hết phải trông cậy vào chính hai thành phần này để tạo sức đẩy cho nền kinh tế đi lên. Doanh nhân ngoại quốc đến Việt Nam đầu tư là cần thiết nhưng không vì thế mà bỏ rơi thành phần doanh nhân trong nước. Hai thành phần doanh nhân này tuy có bị một số hạn chế kềm hảm khả năng hoạt động (vốn liếng, kinh nghiệm, giao tế) nhưng là thành duy nhất có thể làm chạy lại guồng máy kinh tế. Không thể trông cậy vào hệ thống kinh tế quốc doanh của chế độ cộng sản, trong tương lai tất cả sẽ được giải tư, nhà nước sẽ không làm chức năng của tư nhân.
Doanh nhân gốc Hoa có lối kinh doanh của họ, đó là lối làm ăn kiểu bang hội có tính gia đình và liên lập. Do có từ lâu đời, hệ thống thông tin của họ rất nhanh và nhạy với những biến thiên của thị trường, họ lại sẵn sàng chỉ vẻ cho nhau những cơ hội tốt xấu để làm hay tránh né. Lối làm ăn của họ sẽ rất lợi ích nếu quốc gia có một hệ thống luật pháp rõ ràng, dễ hiểu và dễ thi hành. Sự phát triển những cơ sở của người gốc Hoa sẽ tạo thêm phần của cải vật chất cho quốc gia, quan trọng hơn hết là sẽ sử dụng một lực lượng nhân công hiện nay đang bị khiếm dụng.
Doanh nhân Việt Nam vì còn mới, một số đã hấp thụ được nhiều kiến thức khoa học trong tổ chức và quản trị kiểu Tây phương có thể đóng góp hữu hiệu hơn qua hình thức kinh doanh góp vốn kiểu công ty cổ phần. Các phân khoa đại học Việt Nam trước 1975 đã đào tạo rất nhiều sinh viên trong ngành doanh thương (trường Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt, đại học Minh Đức, Vạn Hạnh, trường Luật Sài Gòn), ngoài ra còn phải kể đến những du học sinh tốt nghiệp tại các trường kinh doanh nổi tiếng ở các quốc gia Tây phương. Mặc dù kinh nghiệm nghề nghiệp chưa có nhiều nhưng ít ra người Việt cũng đã có cố gắng đi vào nghề kinh doanh khoa học. Lối kinh doanh này trong tương lai sẽ rất phổ biến, vì nó tạo cơ hội cho nhiều người muốn đầu tư nhưng ít vốn cũng có thể tham gia. Loại công ty cổ phần rất thích hợp với tâm tính người Việt Nam : không muốn nhận lãnh những rủi ro và trách nhiệm, thích những người chuyên môn quản trị số tiền thặng dư của mình. Thế hệ trẻ Việt Nam không mặc cảm, có ý chí muốn vươn lên và không muốn bị thua kém, có thể là giải đáp để hình thành một giai cấp doanh nhân chuyên nghiệp có tầm vóc. Vấn đề là phải đào tạo và đào tạo nhanh. Quan trọng hơn nữa là phải biết sử dụng khả năng và kiến thức của những trí thức trẻ mới tốt nghiệp.
Thành phần tiểu thương Việt Nam so với người gốc Hoa cũng còn yếu kém cả về vốn lẫn thái độ kinh doanh. Phải cần nhiều năm kinh nghiệm hơn nữa để tiểu thương Việt Nam khám phá sự yếu kém của mình và tìm cách vượt lên. Các gia đình tiểu thương đã có nhiều cố gắng cho con em ăn học đến nơi đến chốn để thay thế cha mẹ kinh doanh hữu hiệu hơn. Người gốc Hoa có tư bản Hoa kiều Đông Nam Á hậu thuẫn, người Việt được hậu thuẫn bởi sự cố gắng của chính mình, của Việt kiều hải ngoại và tư bản Tây phương. Trong ngắn hạn, tư bản gốc Hoa còn nắm giữ vai trò then chốt và phải trải qua nhiều năm nữa doanh nhân Việt Nam mới bắt kịp.
Chính quyền phải có biện pháp nâng đỡ và khuyến khích tư nhân kinh doanh. Khi nhiều tư nhân tham gia kinh doanh, bộ mặt xã hội sẽ thay đổi và đội quân thất nghiệp sẽ càng ngày cànggiảm đi. Mỗi xí nghiệp gia đình tận dụng ít nhất là hai nhân công, càng nhiều xí nghiệp gia đình mở ra, số người thất nghiệp sẽ giảm đi. Sự thành công của người này sẽ kích thích người kia cố gắng hơn. Lợi nhuận phải được nâng lên thành chính sách. Phải biết khai thác hố cách biệt giàu nghèo, điều không tránh khỏi trong một xã hội tự do kinh doanh, để làm động lực thúc đẩy sáng kiến và cố gắng cá nhân.
Những giao kèo do chính quyền cộng sản ký kết với tư bản Hoa kiều, với người gốc Hoa, phải được tôn trọng vì sự liên tục của quốc gia. Nội dung của những ký kết đó phải hợp hiến và hợp pháp. Người ngoại quốc không thể có những quyền mà người Việt Nam không có, doanh nhân Việt Nam cũng không thể có những quyền mà công dân khác không có. Cộng đồng người Hoa có thể là một thế lực kinh tế, nhưng không vì đó mà có thể khuynh loát toàn bộ sinh hoạt của quốc gia bằng mua gian bán lận, đút lót, mua chuộc chính quyền, trốn thuế. Những kết hợp tư bản qui mô kiểu liên doanh (joint venture) cần được khuyến khích nhưng không vì đó mà bóp chết hoạt động của những xí nghiệp nhỏ trong nước. Tất cả mọi hoạt động kinh doanh hay chính trị phải chính danh, sổ sách phải rõ ràng, hợp pháp. Trốn tránh hay gian lận thuế là một tội hình sự.
D. Chính sách phát triển cộng đồng
Vấn đề hội nhập người Hoa vào xã hội Việt Nam là một vấn đề khó khăn và sẽ còn khó khăn hơn nếu ngay từ bây giờ không mở ra những định hướng mới. Khó khăn không chỉ cho riêng người Việt Nammà cho cả người gốc Hoa. Một chính sách phát triển cộng đồng do đó không thể thiếu vắng sự đóng góp ý kiến của cộng đồng người Hoa tại Việt Nam, và người Việt gốc Hoa tại hải ngoại.
Sự e ngại người Hoa còn tiềm tàng trong tâm lý đại đa số quần chúng Việt Nam. Nền kinh tế vẫn còn thiếu vắng những gương mặt lớn không gốc Hoa, đa số còn mặc cảm thua kém trước khả năng tích tụ của cải vật chất và sự đoàn kết của người Hoa. Những sinh hoạt kinh tế tư nhân có tính qui mô thường do người Hoa nắm giữ. Khả năng điều động tư bản của người Hoa quá mạnh. Những buổi lễ lạc của người Hoa được tổ chức một cách linh đình, phô trương sự giàu có trong một xã hội đầy bất công cho thấy người Hoa vẫn làm chủ tình hình trong mọi hoàn cảnh khó khăn. Những yếu tố đó làm tăng thêm mặc cảm trong một số nhân vật lãnh đạo cực đoan, dẫn đến việc ban hành những chính sách chèn ép người Hoa.
Về phía dân chúng, nhất là thành phần lao động sống triền miên dưới các chế độ độc tài, bi quan trước tương lai của con cháu, chỉ có một quan tâm duy nhất là được sống. Nhiều người (dân chúng tại các đô thị miền Nam) nghĩ rằng nếu “được” người Hoa quản trị, xã hội chắc sẽ khá hơn vì trước mắt họ nơi nào có sự hiện diện của người Hoa nơi đó có phát triển, sinh hoạt rất dễ dàng. Hàng hóa xuất phát từ thế giới Trung Hoa lúc nào cũng rẻ hơn hàng nhập từ các quốc gia khác, dĩ nhiên là tốt hơn hàng nội đị, nguồn hàng đó đáp ứng đúng thị hiếu của đa số quần chúng. Hợp tác hay làm ăn chung với người Hoa lúc nào cũng có lợi vì không bao giờ bị phản bội. êớc muốn này là một thái độ chối bỏ các chế độ chính trị tại Việt Nam : người Việt không thể trông cậy nhau trong cuộc sống. Ai cũng biết câu chuyện về “ba người Nhật và ba người Việt”. Người Việt thua các cộng đồng dân tộc khác vì không biết tin cậy vào chính đồng hương của mình.
Trước viễn ảnh bị giải thể về tinh thần và tình cảm của người Việt Nam, một chính sách phát triển cộng đồng hợp tình hợp lý là rất cần thiết. Chính sách này trước hết phải là một chính sách hòa giải : hòa giải người Việt với người Việt, hòa giải người Kinh với người Hoa, hòa giải quan hệ chính quyền với mọi cộng đồng dân tộc. Chính sách này tạo cơ hội cho mọi thành phần dân tộc Việt Nam cảm thấy là niềm vui khi chia sẻ một tương lai chung. Chính sách này bao trùm nhiều lãnh vực, trong đó kinh tế là lãnh vực then chốt. Chính sách này sẽ được bổ túc tùy từng thời điểm và hoàn cảnh đất nước để sự tham gia của toàn dân thêm phần tích cực và hữu hiệu. Cộng đồng gốc Hoa được khuyến khích để tiếp tục tham gia nhiều hơn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Về chính trị, trong khuôn khổ một nhà nước nhẹ và tản quyền, những đại biểu nhân dân có quyền ra ứng cử và tranh cử tại những địa phương mà họ muốn. Tinh thần dân chủ cần phải được mang ra xa hơn các thành phố, dân chủ phải đến tận những làng xã xa xôi. Dân chúng có thể lúc ban đầu chưa quen với sinh hoạt dân chủ nhưng với thời gian và ý chí của một nhà nước nhẹ và tản quyền, dân chủ sẽ thành một nếp sống của tất cả mọi thành phần dân tộc.
Công dân gốc Hoa không những có quyền tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào đời sống chính trị, mà còn phải tranh đấu để những quyền này được tôn trọng. Sự tham gia này phải thường xuyên và không giới hạn trong không gian, thời gian. Ý nguyện và quyền lợi của cộng đồng này phải được phát biểu bằng lá phiếu hay qua trung gian các tổ chức đảng phái chính trị, bang hội hay đoàn thể chứ không bằng hành vi bạo hành hay mua gian bán lận. Tại những nơi có đông đảo đồng bào gốc Hoa cư ngụ, những đại biểu xuất phát từ cộng đồng này có nhiều cơ hội đắc cử, chính quyền phải để cho họ trọn quyền quản trị địa phương của họ khi đắc cử miễn không trái với hiến pháp và luật pháp quốc gia.
Một đảng chính trị đại diện cho quyền lợi của người gốc Hoa là một cần thiết, sự gia nhập của cộng đồng gốc Hoa một cách hợp pháp vào sinh hoạt chính trị quốc gia là một hữu ích. Tại sao không thể không bầu cho một vị lãnh đạo gốc Hoa nếu người đó tận tâm phục vụ và dẫn đưa đất nước Việt Nam đi vào quỹ đạo tiến bộ? Những nhà chính trị, kinh tế gốc Hoa có bổn phận cố vấn hay tham gia trực tiếp soạn thảo những dự án lớn cho đất nước. Quyền lợi của Việt Nam dầu sao cũng phải hơn quyền lợi của các nhóm tài phiệt Hoa kiều khu vực, những nhà kinh doanh gốc Hoa phải ý thức điều đó. Trong những cuộc thương thảo với các quốc gia ASEAN hay quốc tế, sự đóng góp ý kiến của những chuyên gia gốc Hoa trong một số lãnh vực chuyên môn như kinh tế, tài chánh, ngoại thương, quản trị rất cần thiết.
Chính quyền tương lai phải là một nhà nước pháp trị. Bộ luật căn bản của quốc gia (hiến pháp) phải dành một chương riêng biệt nói về quyền lợi và bổn phận của các cộng đồng dân tộc, kỳ thị chủng tộc hay phân biệt đối xử là một tội hình sự, là vi hiến. Bộ hình luật phải qui định chi tiết những chế tài thích đáng cho những hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc hay vi phạm nhân quyền. Để khuyến khích kinh doanh, quốc gia phải có một bộ Luật Thương Mại, Luật Lao Động, Luật Tổ Chức Xí Nghiệp, Luật Dân Sự Tố Tụng dễ hiểu, dễ áp dụng, Luật Đầu Tư minh bạch và công bằng cho doanh nhân quốc nội, kiều bào và người ngoại quốc. Qui chế ngoại kiều phải qui định rõ ràng những quyền lợi và bổn phận của ngoại kiều về việc di trú. Chính sách thuế khóa phải công bằng và hợp lý để khuyến khích sản xuất, và phải nghiêm trị những hành động gian lận, trốn thuế và tham nhũng. Chính phủ cũng phải tạo điều kiện cho sinh hoạt kinh doanh được lành mạnh để tránh trường hợp cá lớn nuốt cá bé, các tập đoàn sản xuất lớn đè bẹp các cơ sở xí nghiệp nhỏ, ít vốn hơn.
Về chính sách đối với các cộng đồng, chính quyền cộng sản hiện nay sẽ rất sai lầm khi sử dụng một cách bừa bãi hai chữ “dân tộc”. Đối với họ dân tộc có nghĩa là tất cả các nhóm sắc tộc, đa số hay thiểu số. Không thể có sự lầm lẫn giữa dân tộc với sắc tộc, không làm gì có một dân tộc nhỏ trong một dân tộc lớn như theo định nghĩa của chính quyền cộng sản về dân tộc thiểu số (hay dân tộc ít người). Một quốc gia có thể nhiều chủng tộc hay nhiều sắc tộc, những chủng tộc hay sắc tộc đó kết hợp thành một quốc gia, một dân tộc. Một quốc gia chỉ có một dân tộc.
Đề cao tính chất dân tộc của các sắc tộc thiểu số là một chính sách mị dân. Chính sách dân tộc của chính quyền cộng sản hiện nay là một hình thức mị dân, bắt chước theo khuôn mẫu Liên Xô cũ vì Liên Xô là quốc gia lãnh đạo khối cộng sản, Việt Nam là một quốc gia chư hầu phải tuân theo. Dân tộc ở đây có nghĩa là nationalité, tức là những người thuộc một nhóm sắc tộc đã có mặt từ lâu đời trong một địa bàn nhất định (một lãnh thổ), có một ngôn ngữ riêng, sinh hoạt theo một số qui luật riêng và có một số quyền độc lập với trung ương trừ quyền quốc phòng và quyền ngoại giao. Những dân tộc sống trên lãnh thổ của Liên bang Xô Viết cũ là những sắc dân riêng biệt, không có quan hệ truyền thống gì với sắc tộc Slave (sắc tộc chính và đông nhất của Liên Xô cũ). Tất cả chỉ liên hệ với nhau qua một chủ nghĩa, khi chủ nghĩa mất quan hệ đó cũng mất, những sắc tộc trong Liên Bang Xô Viết cũ đã thành lập những quốc gia độc lập. Dân tộc Việt Nam không có những nét đặc thù đó, dân tộc Việt Nam là một khối liên lập, không có địa bàn nào các sắc tộc thiểu số chiếm đa số, tất cả đã sống hòa trộn với nhau và đã cùng chia sẻ những nỗi thăng trầm của đất nước từ nhiều đời. Người gốc Hoa sinh sống tại Việt Nam không thể có hai qui chế vừa là ngoại kiều vừa là công dân Việt Nam. Nếu là Hoa kiều thì sinh hoạt theo qui chế ngoại kiều, là công dân Việt Nam thì sinh hoạt theo quyền lợi và bổn phận của công dân Việt Nam.
Quyền tự trị của những sắc tộc thiểu số cũng cần phải qui định cho rõ. Người cộng sản khi nói “quyền tự trị” (auto-dépendance) của các sắc tộc thiểu số phải hiểu theo hai nghĩa. Lúc thì có nghĩa “tự túc” (autonome) khi không muốn giúp đỡ hay không còn khả năng giúp đỡ các sắc tộc thiểu số nâng cao mức sống, đề cao quyền tự trị ở đây là khuyến khích các sắc tộc tự giải quyết lấy các vấn đề về lương thực và y tế, giáo dục. Lúc thì có nghĩa “tự quyết” (auto-détermination) khi phong trào xúi giục các sắc tộc thiểu số Tây Nguyên chống lại thực dân Pháp và chống lại các chính quyền miền Nam khi đòi quyền tự trị. Lúc thì có nghĩa “tự quản” (auto-gestion) khi vuốt ve những bất mãn của các sắc tộc, dành cho họ quyền quản trị địa phương của họ. Người cộng sản chưa bao giờ định nghĩa và qui định một cách rõ ràng quyền tự trị của các sắc tộc. Nhiều người thuộc phe đối lập cũng không hiểu rõ thế nào là tự trị cũng hứa hẹn quyền tự trị cho các sắc tộc thiểu số.
Hậu quả của các hứa hẹn này sẽ mang đến tai hại cho các chính quyền nào đã lạm dụng danh nghĩa của nó. Những người lãnh đạo các sắc tộc thiểu số đều hiểu quyền tự trị theo nghĩa được độc lập (indépendance). Trong một quốc gia thống nhất, quyền tự trị không thể được hiểu là độc lập. Độc lập trong một quốc gia độc lập là điều không thể có. Tự trị phải được hiểu là quyền tự quản trị những công việc hành chánh theo phong tục tập quán của từng địa phương, nói theo ngôn ngữ luật pháp là quyền quản trị nội bộ.
Riêng tại Việt Nam, sự tập trung đông đảo dân cư gốc Hoa tại một địa phương không thể được coi là khu tự trị và có những luật pháp khác biệt với luật pháp của quốc gia. Thời phong kiến và thời Pháp thuộc cộng đồng người có thể được nhiều ưu đãi trong việc hợp tác với các chính quyền đương thời, nhưng đó là những chính sách hội nhập giai đoạn. Khi sự hội nhập đã hoàn tất, vấn đề quản trị độc lập với chính quyền không còn chỗ đứng : những công dân gốc Hoa đã trở thành những công dân của một nước Việt Nam độc lập. Một quốc gia độc lập không thể có hai thành phần công dân. Hơn nữa không nơi nào người Hoa chiếm đa số, kể cả khu vực Chợ Lớn. Vấn đề là làm sao vận động những công dân gốc Hoa tham gia tốt đẹp vào sinh hoạt chung của quốc gia, nhất là sinh hoạt chính trị.
Sự có mặt của người gốc Hoa trong sinh hoạt chính trị có thể làm trong sạch sinh hoạt chính trị của nước Việt Nam, vì những lãnh tụ gốc Hoa thường tỏ ra khéo léo trong các vấn đề về quản trị, có tinh thần trách nhiệm và đạo đức cao. Sự thiếu vắng những gương mặt gốc Hoa trong sinh hoạt chính trị của Việt Nam là một thiếu sót lớn. Người gốc Hoa không tham gia vào chính trị vì họ không được đối xử bình đẳng. Hiện nay, những gương mặt gốc Hoa trong quốc hội chỉ là những nhà minh họa, được chế độ cộng sản đưa lên để tuyên truyền vì họ không có quyền quyết định, và chính họ cũng không được dân chúng tự do chọn lựa.
Về giáo dục, chính quyền cố gắng tạo điều kiện cho cộng đồng người Hoa phát huy văn hóa gốc của họ. Nhiều trường trung tiểu học có thể được thiết lập tại những khu đông người Hoa cư ngụ. Chương trình giáo dục sẽ đơn thuần bằng Việt ngữ, hoặc song ngữ (Việt-Hoa), hoặc đa ngữ (Việt-Hoa-Anh-Pháp…). Ngôn ngữ giảng dạy không quan trọng, dạy tiếng gì cũng được miễn là nội dung giảng dạy phải làm cho trẻ em gốc Hoa yêu thương đất nước này như chính gia đình của các em. Bằng cấp của các trường dạy song ngữ hay đa ngữ phải có giá trị tương đương với bằng cấp Việt Nam và phải được mọi người, mọi xí nghiệp Việt Nam chấp nhận. Môn sử và công dân giáo dục là những môn học quan trọng ở bậc tiểu học và trung học để học sinh gốc Hoa ý thức vai trò của một công dân Việt Nam. Người gốc Hoa có thể tài trợ hay thành lập một hay nhiều đại học Việt ngữ hay đa ngữ (Anh, Hoa, Pháp, Đức…) để thu hút sinh viên quốc nội (hạn chế chi phí du học) và sinh viên ngoại quốc (Đông Dương hay Đông Nam Á) vào học. Sinh viên gốc Hoa có thể đi tu nghiệp ở ngoại quốc sau đó nếu muốn. Chương trình giáo dục phải cưỡng bách đối với các trẻ em gốc Hoa ít nhất là hết lớp 9 (hết bật trung học đệ nhất cấp), vì hiện nay 40% trẻ em gốc Hoa từ 6 đến 14 tuổi không biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Về văn hóa, phải phạt vạ nặng những loại tác phẩm, bài vở mang tính kỳ thị chủng tộc, kêu gọi bạo lực, đề cao tệ đoan xã hội. Nhà nước tạo cơ hội và điều kiện cho những nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch, những nghệ sĩ gốc Hoa sáng tác và phổ biến rộng rãi tác phẩm của họ trong quần chúng. Những tác phẩm đó phải được tôn vinh đúng với giá trị của nó trong văn đàn và văn học Việt Nam. Một ủy ban văn hóa (kiểu Hàn Lâm Viện) nên được thành lập để truy tìm và xét duyệt giá trị văn học của một số tác phẩm mà tác giả là người gốc Hoa để đưa vào văn học Việt Nam. Những truyện kịch Hồ Quảng, những bài hát Tiều, hát Bộ (rất được đông đảo đồng bào miền Nam ưa chuộng) cần được phổ biến rộng rãi với những nội dung mới hơn thay vì chỉ dựa vào những điển tích cổ xưa để không bị mai một.
Sách báo Hoa ngữ được tự do phổ biến. Đó là những phương tiện cung cấp cung cấp tin tức và phổ biến văn hóa của người gốc Hoa hữu hiệu nhất và là những trung tâm quyền lực dân sự nhằm duy trì sự công bằng và tính đa nguyên của xã hội. Việc du nhập văn hóa phẩm, phim ảnh Trung Hoa phải cân bằng với việc du nhập những văn hóa phẩm từ các quốc gia khác và không bóp chết nghệ thuật Việt Nam. Các biển quảng cáo phải chứa đựng ít nhất 50% chữ Việt để mọi người cùng hiểu. Người gốc Hoa có thể trao đổi bằng Hoa ngữ với nhau nhưng phải biết sử dụng Việt ngữ trong trao đổi với người Việt Nam. Những phong tục cổ truyền của người Hoa cần được bảo vệ và phát huy, vì một số lễ lạc, phong tục của họ đã trở thành phong tục và tập quán của quốc gia : tết Nguyên Đán, tết Trung Thu, lễ Vu Lan…
Về kinh tế, cộng đồng người Hoa phải được xem như một đội ngũ doanh nhân nồng cốt. Trong lãnh vực thương mãi, cộng đồng người Hoa đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt, không cần phải chỉ vẻ thêm. Chính quyền chỉ khuyến khích người gốc Hoa canh tân và đầu tư thêm vào một số lãnh vực thương mại, sản xuất công nghiệp nhẹ, nông phẩm kỹ nghệ và dịch vụ để có thể cạnh tranh với thương nhân quốc tế và tiết kiệm ngoại tệ nhập cảng. Đất nước rất cần sự đóng góp của người gốc Hoa và người gốc Hoa, ngược lại, cũng rất cần đất nước Việt Nam. Người gốc Hoa có thể tập trung sinh hoạt thương nghiệp trong một hay nhiều vùng, nhưng sự tập trung này không phải là một đặc quyền để làm áp lực hay trở thành một tổ chức ngoài quyền kiểm soát của chính quyền. Một điều quan trọng là phải sinh hoạt lương thiện, chấp hành các luật thuế khóa. Chính quyền sẽ nghiêm phạt bất cứ hành vi gian lận, tham nhũng, hối lộ hay mua chuộc của bất cứ công dân nào.
Về xã hội, cộng đồng người Hoa có quyền tự do thành lập bang hội của riêng họ. Đó là những xã hội công dân có vai trò kết hợp sinh hoạt của cá nhân vào sinh hoạt chung của quốc gia. Một bang hội lớn có tầm vóc quốc gia, thống nhất các bang hội địa phương, cần được thành lập, vì qua đó những ý kiến hay yêu cầu của cộng đồng người Hoa sẽ có tiếng nói mạnh hơn với chính quyền. Bang hội của người Hoa phải được thành lập một cách hợp pháp. Nhân sự của các bang hội phải có đầy đủ quyền công dân hay tư cách pháp nhân. Nhưng không nên lẫn lộn vai trò của bang địa phương với các bang liên quốc. Người Hoa sinh sống tại Việt Nam là công dân Việt Nam do đó không thể phục vụ cho quyền lợi của các bang hay các quốc gia có đông người Hoa, do đó mọi sự kết hợp phải rất thận trọng.
Chế độ bang trưởng cần được duy trì. Bang trưởng có nhiệm vụ phổ biến luật pháp của quốc gia cho bang chúng của họ hiểu và chấp hành. Chính quyền chỉ can thiệp trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng đến an ninh trật tự công cộng, xâm phạm đến tài sản và danh dự của công dân khác. Những cuộc tranh chấp có tính nội bộ, giữa bang chúng gốc Hoa với nhau, trước hết phải qua trung gian những bang trưởng, khi tranh chấp không thể giải quyết trong tinh thần nội bộ hay địa phương, chính quyền mới can thiệp. Quyền hạn của bang trưởng cũng không thể vượt quá hay trùng lấp với quyền hạn của chính quyền địa phương và trung ương. Chính quyền có thể giao phó cho các bang trưởng đôn đốc công dân gốc Hoa thi hành nghĩa vụ công dân như đi bầu, đóng thuế v.v… Vấn đề an ninh khu phố của người Hoa phải do những công dân cư ngụ trong khu phố đảm trách cùng với chính quyền địa phương. Chính quyền trung ương chỉ can thiệp khi nào vấn đề kéo dài và trở nên trầm trọng.
Chính quyền khuyến khích những hình thức bảo trợ giữa những khu phố giàu và những khu phố nghèo, giữa những cơ sở thương mại lớn và những cơ sở từ thiện , cơ quan văn hóa giáo dục, giữa những tư nhân giàu có và học sinh, sinh viên hiếu học nhưng nghèo, giữa xí nghiệp và trường học, v.v… Những trao đổi này sẽ giúp giải quyết được phần nào nạn thất nghiệp, nạn khiếm dụng nhân sự trong giai đoạn khó khăn, nhất là cho sinh viên, học sinh mới ra trường. Hình thức bảo trợ này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc tìm hiểu và thông cảm lẫn nhau để đi đến đồng thuận. Tài trợ cho những dự án xã hội được giảm thuế tùy theo tầm vóc của dự án. Chính quyền cũng khuyến khích những trao đổi chuyên môn giữa Việt Nam với quốc tế, giữa ngành với ngành… Sự trao đổi này cũng nhằm mục đích để một số doanh nhân gốc Hoa làm quen với hệ thống luật pháp và thuế khóa, nhất là vấn đề khai báo sổ sách để nắm vững tổng sản lượng quốc gia. Lề lối quản trị và tổ chức của người gốc Hoa cần được phổ biến rộng rãi trong các môi trường giáo dục và kinh doanh để học tập và rút kinh nghiệm (ưu và khuyết điểm).
Nhiều nghiệp đoàn chủ nhân, chuyên viên chuyên ngành cần được thành lập để bảo vệ quyền lợi và trao đổi lẫn nhau. Sau là để tạo thành một lực lượng doanh nhân có tầm vóc hòng đáp ứng tương đối nhu cầu phát triển quốc gia. Hiện nay doanh nhân Việt Nam hải ngoại, đa số là người gốc Hoa, có thể tự tổ chức thành lập nghiệp đoàn chủ nhân tại mỗi quốc gia định cư, nghiệp đoàn của nhiều quốc gia tạo thành tổng liên đoàn chủ nhân hải ngoại. Tổng liên đoàn đó có đủ tầm vóc đối thoại bình đẳng với chế độ cộng sản và những chính quyền sau này về những vấn đề có liên quan đến đất nước. Một tổng liên đoàn chủ nhân Đông Dương hay ASEAN cũng rất cần thiết khi quốc gia đang trong giai đoạn “cất cánh” (take-off). Quản trị là một khoa học kết hợp kinh nghiệm với lý thuyết mà cả hai dân tộc Việt và gốc Hoa có thể cùng nhau bổ túc.
E. Đặt lại nền tảng những quan hệ ngoại giao và kinh tế với thế giới Trung Hoa
1. Với Trung Quốc
Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phải là một quan hệ bình đẳng, cả hai quốc gia phải tuyên bố thôi cổ võ những hiềm khích chủng tộc, tham vọng đất đai và long trọng xác nhận những vùng biên giới hiện hữu. Không nên lẫn lộn vào những cuộc thương thảo về kinh tế và chủng tộc. Chủ quyền các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải đặt vào một khung cảnh đối thoại riêng biệt giữa những quốc gia liên hệ. Số phận của người gốc Hoa di tản sang Trung Quốc sẽ được thương thảo trong tinh thần trách nhiệm chung. Biên giới giữa hai nước phải được triệt để tôn trọng. Những tranh chấp tại vùng biên giới cần được giải quyết trong tinh thần đối thoại và hữu nghị.
Việt Nam vẫn còn nhiều ràng buộc về kinh tế với Trung Quốc. Biên giới phía bắc là một thị trường quan trọng giữa hai nước, vì nó tạo công ăn việc làm cho một số gia đình, nhất là dân cư của hai nước sống ven biên. Những quan hệ mậu dịch tại vùng biên giới phải được cả hai chính quyền hợp thức hóa chứ không phải qua trung gian những tay buôn lậu như hiện nay. Trung Quốc cũng không cần giao thương với Việt Nam qua trung gian hải cảng Hồng Kông, hai nước có thể trao đổi trực tiếp, chính thức và lâu bền với nhau. Hai nước cần bàn thảo về một qui chế dẫn độ những công dân phạm pháp về nước truy tố.
Dân chúng phía Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông) rất cần những trao đổi kinh tế với Việt Nam và ngược lại. Những trao đổi này sẽ làm nảy sinh một số nghiệp vụ có lợi cho nhân dân hai nước. Doanh nhân Việt Nam có thể nghiên cứu, tìm kiếm những sản phẩm thích hợp với thị hiếu dân chúng Trung Quốc như nông sản thực phẩm (ngũ cốc), hàng công nghệ (vật dụng cơ khí, điện tử, xe gắn máy) đáp ứng phần nào những nhu cầu của thị trường các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông và Quảng Tây. Giá cả hàng hóa của Việt Nam dầu sao cũng còn quá rẻ so với các quốc gia khác, nhưng không thể để tình trạng mua bán hỗn loạn như hiện nay tại vùng biên giới. Những chốt trao đổi hàng lậu tại vùng biên giới phải hợp thức hóa hay loại trừ hẳn đi. Nếu Trung Quốc không chấp nhận tự do trao đổi thì hàng hóa lậu qua lại biên giới phải bị đóng thuế và chính quyền Việt Nam phải tỏ ra cương quyết trong vấn đề này.
Ảnh hưởng của những trao đổi phi mậu dịch này rất tai hại cho nền kinh tế Việt Nam : nhiều cơ xưởng sản xuất phải đóng cửa vì không cạnh tranh nổi với hàng lậu nhập từ Trung Quốc, nó còn khuyến khích nạn trộm cắp và phá hoại kinh tế quốc gia (cắt trộm giây điện đồng, mỗi ngày có hơn 4 tấn đồng đỏ được lén lút chuyển qua biên giới), thu mua vô tổ chức phế liệu kim khí (sắt, nhôm, kẽm, chì), vơ vét thức ăn gia súc, thạch cao, v.v…, và quan trọng hơn hết là cả hai quốc gia đều bị chảy máu vàng và ngoại tệ mạnh, tất cả đều lọt vào tay giới buôn lậu. Số lượng hàng trao đổi lậu từ Trung Quốc sang Việt Nam tại biên giới trong 6 tháng đầu năm 1989 đã lên đến 12,5 triệu USD. Mấy năm gần đây, buôn bán qua biên giới (theo ước tính của Trung Quốc) riêng của tỉnh Nam Ninh (Quảng Tây) trên 2 tỉ nhân dân tệ (yuan), khoảng 400 triệu USD. Riêng tại cửa khẩu Bằng Tường, mỗi ngày có khoảng 7.000 người Trung Quốc và Việt Nam tới đây mua bán, với doanh số tới 1 triệu yuan, gần 200.000 USD. Gần đây tại các cửa khẩu tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam), hàng đoàn xe vận tải chở hàng từ miền Nam ra bán thẳng qua biên giới. Những điểm buôn bán ở biên giới cần được mở rộng và sẽ do tư nhân thực hiện và chính quyền hai nước kiểm soát.
Việt Nam cũng trông cậy rất nhiều khả năng đầu tư của Trung Quốc vào những công trình có tầm vóc như xây dựng các công trình công chánh tại biên giới (đường xe lửa Hữu Nghị), bảo trì những cầu lớn trên sông Hồng, những nhà máy chế biến phân bón (Lào Cai, Lâm Thao), đồ gốm (Hải Hưng), hàng công nghệ quanh các quặng mỏ kim khí và than đá tại Quy Xà (Hoàng Liên Sơn) và Quảng Ninh. Những kỹ thuật về y học cổ truyền của Trung Quốc cũng rất cần được phổ biến trong giới y học tại Việt Nam.
Ngoài ra hai nước cần phải ký những hợp đồng hỗ tương về trật tự an ninh, khủng bố hay đạo đức (mua bán phụ nữ, trẻ em…) để dẫn độ những người phạm pháp. Những biện pháp kiểm soát hải quan tại biên giới phải có sự hợp tác song phương vì số lượng người qua lại biên giới mỗi ngày rất đông và cũng để ngăn chặn sự đào thoát của những thành phần bất hảo hay di dân bất hợp pháp. Trung Quốc và Việt Nam còn rất nhiều ràng buộc khác trong sinh hoạt quốc tế : chia sẻ chung số phận “người da vàng” lạc hậu và kém mở mang. Hai nước sẽ không gặt hái lợi lộc gì khi cứ nghi ngại nhau tại vùng biên giới. Lịch sử là chuyện đã qua, nhân dân hai nước phải chấp nhận hiện tại của nhau và tìm cách cùng nhau đi tới tương lai trong tinh thần bình đẳng và tương trợ.
Ngoài tòa đại sứ đặt tại thủ đô, nhiều lãnh sự quán cũng nên có tại các thành phố lớn của hai nước. Nhưng phạm vi hoạt động của các tòa lãnh sự không vượt ra khỏi những qui ước đã ký kết.
2. Với Hồng Kông
Hồng Kông là thuộc địa của Anh Quốc, sẽ được trả lại cho Trung Quốc vào đầu năm 1997. Hồng Kông hiện là một trong “tứ long” của Đông Nam Á. Lợi tức đầu người hiện nay gần 9.500 USD/năm. Vùng đất này là hậu phương kinh tế lớn của người Hoa gốc Quảng Đông tại Việt Nam (đại đa số dân Hồng Kông gốc Quảng Đông). Mặc dầu sẽ trực thuộc vào Trung Quốc trong vài năm nữa, Hồng Kông sẽ hưởng một qui chế đặc biệt trong sinh hoạt kinh tế do đó Việt Nam phải xem trọng khả năng tư bản (đã đầu tư 400 triệu USD vào Việt Nam năm 1991) và kỹ thuật của Hồng Kông (bao bì, điện tử, ngoại thương, vận tải hàng hải…).
Việt Nam từ trước tới nay vẫn là thị trường xuất nhập cảng của Hồng Kông. Sự trao đổi với Hồng Kông luôn có lợi cho Việt Nam : năm 1988 cán cân mậu dịch đã thặng dư 40 triệu USD so với năm trước đó : 135,5/95,5 triệu USD. Thật ra Hồng Kông là thị trường tái xuất nhập cảng của Việt Nam với các nước khác như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan. Số doanh vụ những năm sau này ngày càng gia tăng.
Thêm vào đó vấn đề thuyền nhân Việt Nam còn kẹt trong các trại cấm tại Hồng Kông phải được thương lượng trong tinh thần trách nhiệm chung. Chúng ta cảm thông gánh nặng và những phiền toái của Hồng Kông khi cho những người này tạm cư vào đất họ, nhưng không vì vậy mà phải chấp nhận sự miệt thị và đối xử tàn tệ với đồng bào ruột thịt của ta. Hiện nay cũng đã có nhiều người dân Hồng kông đang tìm cách bỏ nước ra đi sang quốc gia khác lập nghiệp. Hai nước cần hợp tác để kiểm soát chặt chẽ số người di cư bất hợp pháp.
Trong tương lai, ngoài tòa đại sứ và các lãnh sự quán của Trung Quốc, nhiều Văn Phòng Thương Mại của Hồng Kông nên có mặt tại nhiều thành phố lớn, đặc biệt là tại miền Bắc và cần được dành nhiều dễ dàng cho doanh nhân Hồng Kông đầu tư vì hiện nay chưa có.
3. Với Đài Loan
Đài Loan tuy là một hòn đảo, một quốc gia nhỏ so với Trung Quốc nhưng luôn nhận lãnh trách nhiệm đối với những Hoa kiều sống tại hải ngoại phủ nhận vai trò của Trung Quốc. Không nên quên rằng Đài Loan hiện nay là một “tứ long” của Đông Nam Á, một quốc gia đang trên đường kỹ nghệ hóa mà lợi tức đầu người gần 7.000 USD/năm (1989) và ngoại tệ dự trữ trên 70 tỷ USD. Đài Loan là một trong vài nước bất chấp lệnh cấm vận của Hoa Kỳ, đã để tư nhân tự do đầu tư vào Việt Nam với sự hợp tác của doanh nhân gốc Hoa trong nước.
Tổng số vốn đầu tư năm 1990 của Hoa kiều, đa số là của Đài Loan, 500 triệu USD, đây là một trong những con số đầu tư ngoại quốc cao nhất (ngoài dầu khí) sau khi bộ Luật Đầu Tư được ban hành năm 1987. Số vốn đầu tư thực tế có thể còn cao hơn nhiều vì nhiều doanh nhân thích đầu tư “lậu”, không thể khám phá và nắm được con số. Doanh nhân Đài Loan hiện nay là lực lượng thương gia ngoại quốc đến Việt Nam đông nhất, trong giai đoạn họ đầu chỉ đầu tư vào những dịch vụ khai thác du lịch và sản xuất nhỏ có tỷ lệ lời cao và khả năng hoàn vốn nhanh (thỏa mãn ngay nhu cầu tiêu dùng trong nước). Thật ra đây không phải là một sự hưởng ứng đầu tư của Việt Nam mà là hành động đi trước những tư bản ngoại quốc khác muốn đầu tư nhưng còn do dự để giành lấy phần lợi và có sẳn chỗ đứng khi đảng cộng sản không còn độc quyền chính trị.
Gần đây doanh nhân Đài Loan đầu tư vào những công trình có tính lâu bền hơn vào công nghiệp nhẹ và chế biến thực phẩm, họ đã thuê dài hạn nhiều khu đất lớn để chuẩn bị khai thác thương mại. Trong tương lai, Đài Loan là đầu cầu tài chánh lớn nhưng chính quyền dân chủ tương lai của Việt Nam phải có một chính sách trao đổi khôn ngoan về kinh tế và văn hóa để tránh cho công dân gốc Hoa có cảm tưởng quê hương của họ là Đài Loan. Sự trao đổi song phương này phải do những chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao (nắm vững những qui luật về ngoại thương và công pháp quốc tế) đảm trách, không nhất thiết phải là những nhân vật chính trị.
Vì lý do chỉ có một nước Trung Hoa đại diện tại Liên Hiệp Quốc, một cơ quan đại diện chính thức của chính quyền Đài Loan đặt tại thủ đô và nhiều Văn Phòng Thương Mại nên được thiết lập tại các thành phố lớn của Việt Nam để theo dõi, can thiệp và cố vấn những vấn đề về đầu tư. Vấn đề tranh chấp chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được triệu tập riêng với sự tham gia của nhiều quốc gia liên hệ khác.
4. Với Singapore
Singapore là một trong số “tứ long” ở Đông Nam Á, lợi tức đầu người cao hơn Đài Loan (gần 11.000 USD/năm) và là trục phân phối chính về kinh tế và tài chính của ASEAN. Những thương nghị quan trọng về tài chánh và đầu tư trong khu vực phải có sự ủng hộ hay chấp thuận của Singapore.
Khuôn mẫu phát triển của Singapore ảnh hưởng rất nhiều đến việc thành lập những khu chế xuất (exportzone) vùng ven duyên các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến của Trung Quốc. Hoa kiều gốc Phúc Kiến, Triều Châu và Quảng Đông có rất nhiều ảnh hưởng đến người gốc Hoa tại Chợ Lớn và các hoạt động trao đổi (xuất nhập cảng) của miền Nam hiện nay phần lớn là với Singapore. Tổng số vốn đầu tư của doanh nhân Singapore vào Việt Nam suýt soát với Đài Loan và Hồng Kông, nhưng lượng hàng trao đổi giữa Singapore và Việt Nam chiếm tỷ trọng cao hơn hẳn (30 đến 35%), chỉ sau Nhật Bản (35 đến 40%) vì khoảng cách địa dư không quan trọng.
Singapore là một quốc gia trước kia rất chống cộng, hiện nay tuy chưa có thái độ dứt khoát với lời kêu gọi đầu tư của Việt Nam nhưng cũng không cấm doanh doanh Singapore đầu tư hay giúp đỡ doanh nhân gốc Hoa tại Việt Nam bằng tài vật. Chính sách phát triển kinh tế, nhất là kêu gọi vốn đầu tư quốc tế, phải có sự tham gia tích cực của Singapore, hơn nữa với những cơ sở lọc dầu sẵn có của Singapore, dầu khí sản xuất ngoài khơi Việt Nam có thể giao cho Singapore gia công lọc và chế biến trong thời gian 5 năm đầu trước khi xây dựng xong những nhà máy lọc dầu trong nước thay vì phải bán dầu thô như hiện nay.
Trong tương lai có thể yêu cầu Singapore ủng hộViệt Nam gia nhập ASEAN vì lá phiếu của Singapore có tính quyết định. Nhân sự Việt Nam khi tham gia vào ASEAN phải là những chuyên gia kinh tế, tài chánh có trình độ và khả năng kỹ thuật cao để sinh hoạt và quản lý chung những chương trình phát triển của vùng như khai thác bờ biển, bảo vệ môi sinh, chỉnh trang lưu vực sông Cửu Long… Một tòa đại sứ sẽ được thiết lập tại thủ đô nhưng văn phòng đại diện chính thức nên đặt tại Sài Gòn vì sinh hoạt thương mại của Singapore tập trung nhiều nhất ở miền Nam.
5. Với những quốc gia có đông người Hoa khác
Cũng nên cải đổi lại những quan hệ ngoại giao với những quốc gia có đông người gốc Hoa sinh hoạt thương mại như Thái Lan, Indonésia, Malaysia và Philippines. Hiện nay đa số các dịch vụ đầu tư xuất phát từ các quốc gia này phần lớn là của những gia đình gốc Hoa lớn. Ngoài những tòa đại sứ chính thức cần phải thành lập nhiều văn phòng thương mại tại những thành phố lớn nơi những công ty, xí nghiệp của họ có mặt đông đảo. Cần khuyến khích những chương trình trao đổi song phương chất xám và kinh nghiệm quản trị với các quốc gia này nhằm cập nhật hóa kiến thức của doanh gia, chuyên gia và sinh viên Việt Nam.
Chúng ta cũng nên cải thiện mối giao hảo tốt với những cộng đồng người Hoa tại Hoa Kỳ và châu Âu vì đó là những thị trường và đầu cầu tốt trong việc xuất khẩu cảng hàng hóa của Việt Nam mà doanh nhân gốc Hoa trong và ngoài nước sẽ góp phần tích cực. Chính sách ngoại giao và phát triển kinh tế tương lai sẽ không dành độc quyền cho bất cứ quốc gia nào muốn có mặt tại Việt Nam. Vấn đề của chúng ta là phải có một lực lượng nhân sự chính trị khôn ngoan, một lực lượng doanh nhân có tầm vóc và một lực lượng nhân công có khả năng để thích ứng với những nhu cầu về kỹ thuật phát triển ngày càng cao. Một ưu điểm là cộng đồng gốc Hoa tại các quốc gia Tây phương phần lớn là người Việt tị nạn sau 1975, họ vẫn còn giữ quan hệ tốt với quê hương.
6. Thế giới Trung Hoa và Luật đầu tư
Gần đây, khi các chế độ cộng sản quốc tế tan vỡ và muốn vượt ra bế tắc kinh tế trong nước, ngày 29-12-1987, chính quyền cộng sản Việt Nam ban hành bộ Luật về Đầu Tư. Bộ luật này được tu bổ nhiều lần và, nhất là sau khi Liên Xô không còn viện trợ bất hồi hoán và khối COMECON bị giải tán từ tháng 7-1991, nó càng dành cho tư bản quốc tế những quyền mà người Việt Nam không có (quyền không bị quốc hữu hóa, quyền mua bán và thuê mướn đất đai, nhân công, cơ xưởng, quyền nghiên cứu tìm hiểu thị trường quốc nội và quốc tế v.v…).
Từ ba năm qua, nó làm khởi sắc nhiều phong trào về Việt Nam nghiên cứu và tìm hiểu thị trường của những người gốc Hoa ly hương và sau đó là những Hoa kiều Đông Nam Á. Các công ty Tây phương chỉ đầu tư vào việc dò tìm dầu hỏa ngoài khơi Biển Đông vì đây là mặt hàng chiến lược không thể vắng mặt (đương nhiên là với sự đồng ý của Hoa Kỳ vì vốn của các công ty đa quốc này phần lớn do tư bản Hoa Kỳ sở hữu). Các chính phủ Đông Nam Á khác không trực tiếp tham gia đầu tư nhưng đã có nhiều cuộc tiếp xúc riêng, dàn xếp cho tư nhân của nước họ đầu tư tại Việt Nam.
Đầu tư là một nhu cầu rất cần thiết cho nước Việt Nam sau này. Tuy nhiên luật đầu tư của chế độ cộng sản hiện nay cần phải bỏ vì nó quá gò bó và dành cho người ngoại quốc những quyền mà người trong nước không có. Nó còn chia rẽ người trong nước với người nước ngoài. Trong tương lai người đầu tư nước ngoài sẽ có tất cả những quyền hạn mà họ đang có và sẽ có nhiều tự do hơn hiện nay, nhưng sẽ không thể có những quyền mà người Việt không có.
7. Lệnh cấm vận và thế giới Trung Hoa
Lệnh cấm vận được ban hành và có hiệu lực kể từ khi bộ đội cộng sản Việt Nam tiến chiếm Kampuchea tháng 12-1978, đó là một sự liên tục áp dụng đạo luật về giao thương với các nước thù địch của Hoa Kỳ. Các quốc gia thuộc phe thế giới tự do chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ không được giao dịch hay trao đổi thương mại với Việt Nam. Lệnh này cho đến nay vẫn còn hiệu lực.
Lệnh cấm vận của Hoa Kỳ chắc chắn đã và đang gây thiệt hại lớn cho chế độ cộng sản, nhưng về lâu về dài lệnh này có những tác hại khác cho dân tộc Việt Nam. Thứ nhất, nó làm hạn chế khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật của Tây phương trong một số lãnh vực vì từ hơn 17 năm qua dân tộc Việt Nam không làm gì khác hơn là sử dụng lại những phương tiện đã có trước 1975. Thứ hai, nó làm cho những lãnh tụ cộng sản tha hồ đập phá đất nước mà không sợ bị thế giới lên án (phá rừng, săn bắt thú hiếm, đánh bắt cá con, phá hoại di tích, gây thiệt hại tài sản xí nghiệp, kinh doanh mãi dâm, v.v…), hay tự do tham nhũng, ăn cắp của công. Thứ ba, nó làm cho đất nước ngày càng lệ thuộc vào tư bản Hoa kiều, một thế lực đang lên trong vùng. Thứ tư, nó làm cho một số người Việt mất khả năng trông cậy vào sức mình vì nghĩ rằng người ngoại quốc có khả năng vượt trội hơn hẳn về mọi mặt, khi họ có mặt nơi đâu thì nơi đó khó làm ăn, chấp nhận sống dưới sự kềm tỏa của tư bản ngoại quốc.
Lệnh cấm vận do đó được bãi bỏ càng sớm càng tốt, nhưng khi vận động bãi bỏ lệnh này chúng ta phải thật bình tỉnh và sáng suốt. Có rất nhiều điều lợi khi lệnh này được bãi bỏ. Thứ nhất, hợp tác với thế giới tự do có những điều kiện của thế giới tự do : phải có tự do (tự do đi lại, tự do phát biểu ý kiến, tự do sinh hoạt kinh tế, chính trị), phải có dân chủ (bầu cử tự do, tôn trọng nhân quyền) và phải là một nhà nước pháp trị (cai trị bằng luật pháp chứ không bằng nghị quyết, quyết định, thông cáo v.v…). Thứ hai, doanh nhân Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền khoa học kỹ thuật khác hơn là của thế giới cộng sản và thế giới Trung Hoa. Thứ ba, không một nền văn minh ngoại quốc nào độc quyền trong cách sống và lối suy nghĩ. Thứ tư, với sự thúc đẩy và tiến bộ trong kinh tế, chế độ cộng sản không thể độc quyền mãi về lãnh đạo, nhiều trung tâm quyền lực mới sẽ xuất hiện và đại diện cho một trào lưu mới đối kháng với chính quyền cộng sản, một giai cấp chính trị, chuyên viên khoa học, kỹ thuật có khả năng, có đạo đức sẽ thay thế dần thế lực phản động trì kéo sự đi lên của đất nước. Nhưng việc bãi bỏ lệnh cấm hoàn toàn tùy thuộc vào quyền lợi và chính sách của chính phủ Hoa Kỳ.
Lời kết
Nhìn lại cộng đồng người Hoa qua các thời đại, sự hội nhập của họ vào xã hội Việt Nam đã trải qua nhiều nỗi thăng trầm. Ban đầu sinh hoạt của người Hoa có tính rụt rè, dò xét, về sau khi xác định được chỗ đứng không gì có thể ngăn cản sự phát triển vượt bực của họ. Càng đứng vững họ càng tạo thêm thế lực và đã nắm gần như toàn bộ hệ thống phân phối thương nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù vậy cộng đồng người Hoa vẫn sống bên lề một xã hội mà trong đó họ thừa hưởng tất cả những quyền lợi. Người Hoa tỏ ra ít hăng say trong việc tham gia vào các sinh hoạt chính trị của Việt Nam. Họ rất tích cực trong các sinh hoạt của bang hội nhưng vắng mặt trong sinh hoạt chung của quốc gia.
Trở ngại chính có lẽ là Việt Nam chưa có một chính sách hội nhập rõ ràng. Từ hơn 100 năm qua sự hội nhập tự nhiên của người Hoa vào xã hội Việt Nam đã bị khựng lại, họ là nạn nhân của rất nhiều chính sách phân biệt đối xử để rồi nhận thấy họ chỉ là một cộng đồng riêng biệt không dính líu gì đến vận mạng của vùng đất họ đang sinh sống.
Trong thời quân chủ, mặc dầu có nhiều hạn chế, cộng đồng người Hoa đã hội nhập một cách bình thường vào đời sống Việt Nam. Nhưng từ khi đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, sự hội nhập tự nhiên bị khựng lại, người Hoa sinh sống tại Việt Nam không trực thuộc chính quyền Việt Nam mà trực thuộc chính quyền Trung Hoa. Sau khi giành được độc lập, người Hoa sống tại miền Bắc lúc thì được tâng bốc quá đáng lúc thì bị xua đuổi như những tên phản bội ; tại miền Nam lúc thì bị bạc đãi hất hủi, lúc thì tự do tung hoành, họ không còn biết mảnh đất Việt Nam là gì đối với họ cả.
Ngày nay, cộng đồng người Hoa vẫn tiếp tục sinh sống nhưng, từ mặc cảm bị bỏ rơi, càng ngày càng tỏ ra ít thiết tha tới mảnh đất đang nuôi dưỡng gia đình họ. Nhiều người đã cấu kết với những thế lực tài phiệt Hoa kiều đang lên trong vùng Đông Nam Á để trục lợi với sự đồng lõa của một số viên chức trong chính quyền địa phương. Những hành vi hối lộ, mua gian bán lận, kinh doanh mãi dâm, ăn chơi trác táng hiện nay của tư bản Hoa kiều, có sự tiếp tay của một số người Hoa trong nước, đang làm nứt rạn giềng mối đạo đức, phá hoại chất liệu nhân xã Việt Nam ; nó đang làm thanh niên Việt Nam bạc nhược tinh thần, sống buông thả, mất hết ý chí và vọng ngoại, đặc biệt là vọng lối sống Trung Hoa.
Khía cạnh tiêu cực của những hành vi này gợi lại mặc cảm thua kém, dẫn đến tinh thần “bài Hoa” một cách sơ đẳng của một thiểu số cầm quyền cực đoan, làm cản trở không ít tiến trình dẫn đưa đất nước đi vào quỹ đạo dân chủ và tiến bộ. Những hành vi gian dối trong kinh doanh và dịch vụ trước đây không làm tăng uy thế của cộng đồng người Hoa mà chỉ hạ thấp nó xuống. Những cấu kết với tư bản Hoa kiều các nước để bòn rút những gì còn sót lại của tinh hoa và tài nguyên Việt Nam chỉ làm căng thẳng thêm những quan hệ đáng lý không có. Với chế độ độc tài hiện nay, mặc dù được nâng đỡ và ưu đãi, thế đứng của doanh nhân người Hoa không nhờ thế mà vững hơn.
Chính vì những lý do vừa kể cho đến nay cộng đồng người Hoa vẫn chưa có một chỗ đứng bình thường trong xã hội Việt Nam. Mỗi khi đề cập tới vấn đề hội nhập của người Hoa, sự tranh cãi vẫn còn tiếp tục và tiếp tục với nhiều nỗi đam mê. Thế đứng của người Hoa do đó cần được xác định lại đúng với tầm quan trọng của nó. Thế đứng đó chỉ có thể có trong một xã hội lương thiện, có tự do, có tình có nghĩa và quan trọng nhất là có đồng thuận dân tộc. Đồng thuận đầu tiên cần phải có là nhìm lại anh em, nhận lại bạn bè.
Cộng đồng người Hoa là những anh em từ nhiều đời đã có mặt trên đất nước Việt Nam và những hoạt động về kinh tế của họ đã cấu tạo một phần không nhỏ vào tích sản chung của xã hội việt Nam. Họ là những con người dũng cảm đã góp công sức để thành hình một quốc gia mới, nước Văn Lang, làm sống được vùng đất sình lầy tại miền Nam trước đây. Họ là những người làm việc cần cù trong các hầm mỏ miền Bắc, những nông dân trong những ruộng lúa miền Nam. Đó là những thương gia, chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, họ là những người đang âm thầm góp công, góp của làm giàu quốc gia Việt Nam. Từ những đóng góp đó, cộng đồng người Hoa phải vui hưởng đầy đủ quyền lợi và bổn phận như những công dân khác.
Cộng đồng người Hoa cũng phải hiểu rằng chỗ đứng của họ phải ở trong lòng dân tộc chứ không ở bên ngoài dân tộc. Người Hoa sinh sống tại Việt Nam cũng có một trách nhiệm rất lớn đối với đất nước Việt Nam. Những công dân gốc Hoa phải yêu đất nước này như yêu thương chính gia đình họ, họ có nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước này như bảo vệ và xây dựng chính bang hội của họ. Nhưng khái niệm Việt Nam đang phai lạt trong tâm tưởng của nhiều người Việt, kể cả người Hoa. Không thể có một quốc gia nếu trong đó mọi người không hề có ý định xây dựng một tương lai chung và không đồng ý với nhau về một mục tiêu nào cả.
Chế độ độc tài cộng sản hiện nay đang để lại những hậu quả nguy hại cho mai sau. Chế độ này không muốn cho người Việt Nam có quyền làm giàu trên đất nước của mình. Mọi cố gắng qui mô của tư nhân đều bị bóp nghẹt hay bị trấn áp bởi những biện pháp chủ quan, duy ý chí. Nhà nước cộng sản đang thi hành một chính sách làm bạc nhược tinh thần thanh niên Việt Nam. Họ ưu đãi người ngoại quốc một cách quá đáng để thu tiền (cho phép kinh doanh mãi dâm, cổ vỏ lối sống trụy lạc) mà không nghĩ đến danh dự quốc gia. Người ngoại quốc có quyền hành hạ thanh niên, thiếu nữ Việt Nam mà không kiêng dè uy quyền của nhà nước vì đã có ăn chịu với nhau. Chế độ độc tài hiện nay đang cấu kùết với tài phiệt Hoa kiều Đông Nam Á cai trị đất nước Việt Nam.
Mục đích của đảng cộng sản Việt Nam là duy trì vô thời hạn quyền lãnh đạo đất nước, do đó phải tiêu diệt mọi khát vọng về tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu chế độ này còn kéo dài và nếu không còn một ai phản ứng, ước vọng của đảng cộng sản Việt Nam có thể biến thành sự thật : Việt Nam sẽ biến thành thuộc địa kinh tế của các thế lực tư bản quốc tế, đặc biệt là của tư bản Hoa kiều, và đảng cộng sản Việt Nam đảm nhiệm vai trò cai thầu, kềm kẹp nhân dân của họ cho những quyền lợi của chủ nhân ngoại bang.
Ngược lại, thể chế dân tộc cực đoan, bài ngoại chắc chắn không phải là giải pháp tốt đẹp dẫn đưa đất nước ra khỏi lầm than. Nó chỉ dẫn đến một tình trạng tranh chấp không lối thoát giữa các cộng đồng dân tộc, Việt Nam sẽ bị cô lập và bị tẩy chay trong các dư luận quốc tế. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan chỉ mang tai hại về cho đất nước. Ngày nay, xã hội Việt Nam đang bị tan nát một phần cũng vì hậu quả của các chính sách dân tộc cực đoan từ xưa để lại.
Việt Nam phải được định nghĩa là đất nước của những cộng đồng. Thể chế dân chủ đa nguyên là chế độ chính trị lý tưởng của người Việt Nam. Dân chủ đa nguyên nhìn nhận tiếng nói và chỗ đứng ngang nhau cho mọi người và cho mỗi người, trong đó sẽ không có thành phần này chèn ép, áp bức thành phần kia. Đó là thể chế thể hiện đồng thuận dân tộc. Đồng thuận là chìa khóa mở cửa tất cả những bế tắc. Có được đồng thuận đất nước mới hồi sinh. Có đồng thuận dân tộc ngườiViệt Nam mới gây lại niềm tin và sẽ cùng nhau chia sẻ và xây dựng lại một tương lai chung.
Đối với người Hoa, dân chủ đa nguyên là cơ hội tốt nhất để bình thường hóa sự hội nhập. Người Hoa phải tiếp tay với những lực lượng dân chủ để tranh đấu và xây dựng cho bằng được thể chế dân chủ đa nguyên. Tham gia vận động cho một thể chế dân chủ đa nguyên, người Hoa tại Việt Nam tiếp nối truyền thống anh em một nhà của những tiền nhân gốc Hoa xưa kia. Mọi đầu tư đứng đắn cũng chỉ có thể có trong một xã hội lành mạnh.
Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ tương lai là chăm sóc và nâng đỡ thật tình cộng đồng người Hoa để cho con cháu của họ hiểu và yêu thương đất nước này như chính gia đình chính bang hội của họ, và tham gia tích cực hơn vào sinh hoạt chung của đại gia đình Việt Nam. Chính quyền phải tạo điều kiện cho cộng đồng này phát triển, khuyến khích họ gia tăng sáng kiến để giàu có thêm, nhất là trong lãnh vực thương mại – một lãnh vực mà họ có rất nhiều năng khiếu để làm đầu tầu kéo nền kinh tế còn non yếu của Việt Nam tiến lên. Chính quyền dân chủ Việt Nam cũng phải xây dựng và đào tạo cho bằng được một đội ngũ doanh nhân có tầm vóc để tiếp nối truyền thống kinh doanh của người Hoa.
Phụ lục 1 : Hồi ký về người Hoa ở Việt Nam của Nguyễn Anh Tuấn
(Nguyễn Anh Tuấn, 60 tuổi, người gốc Hoa, cựu giáo sư ngữ học tại Hải Phòng, hiện nay là giáo sư ngôn ngữ Language lecturer của trường Đại Học London).
Tôi vẫn còn rất nhớ vào những ngày đầu Cách Mạng Tháng Tám 1945, quê tôi rợp bóng cờ đỏ sao vàng với những cán bộ cấp huyện, cấp tỉnh nườm nượp đổ về dựng nên những buổi mít-tinh trọng thể cho ra đời bản hiến pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Hồi ấy quê tôi có một cán bộ cộng sản Trung Hoa cấp bộ tỉnh ủy viên từ Trung Quốc chạy sang Việt Nam lánh nạn truy lùng của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Tên ông là Phùng Đạt Kiên, có bà vợ, dáng người mảnh khảnh rất dịu hiền và cũng là đồng chí của ông Phùng, hoạt động chính trị trong giới trí thức Trung Hoa cùng chồng chạy sang Việt Nam lánh nạn. Hai vợ chồng chính trị gia cộng sản Trung Hoa này đã tình nguyện ở lại quê tôi dạy một nhóm trẻ con người Hoa học tiếng Trung Hoa. Và trong những tháng đầu tiên của Cách Mạng Tháng Tám, các cán bộ Việt Nam địa phương đã hết sức tôn sùng đôi vợ chồng trí thức cộng sản Trung Hoa này. Họ kéo đến nhà riêng để hỏi ý kiến về hiến pháp Việt Nam, về đường lối đấu tranh cách mạng, và trong những buổi mít-tinh trọng thể ở huyện lyï, vợ chồng ông Phùng được mời tham dự như những vị thượng khách, được mời đăng dàn diễn thuyết bằng tiếng Trung Hoa, và đích thân vị bí thư huyện ủy đứng ra làm phiên dịch.
Lúc ấy tôi còn nhỏ lắm, nhưng tôi cũng hiểu được đôi chút về nội dung những cuộc đàm thoại giữa những người cách mạngViệt Nam và Trung Quốc. Họ nói rằng nhìn vào lịch sử dựng nước Việt Nam, ông cha ta thuở xưa chính là những người miền Nam Trung Quốc di cư xuống phía nam hợp lực với dân bản xứ tạo thành nước Việt Nam ngày nay. Những năm đầy đen tối của cách mạng Việt Nam, dưới sự cai trị hà khắc khủng bố tàn nhẫn của thực dân Pháp, những đứa con của cách mạng Việt Nam đã được nhân dân Trung Quốc che chở ở phía bên kia biên giới. Có người được học ở trường võ bị Hoàng Phố, tỉnh Quảng Châu, có người theo hồng quân Trung Hoa đánh Nhật, cùng chịu đựng gian truân trong cuộc trường chinh vượt vòng vây của quân Tưởng Giới Thạch, cùng với Mao Trạch Đông lên Diên An lập căn cứ kháng chiến. Tình nghĩa ấm lòng người dân Hoa – Việt.
Nhưng cũng vào thời kỳ giao điểm đó, đoàn quân của tướng Lư Hán từ Vân Nam kéo vào miền Bắc Việt Nam để tước khí giới quân đội Nhật. Những người lính quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch này không phải là bạn đồng chí của cách mạng Việt Nam như vợ chồng nhà cách mạng Phùng Đạt Kiên, nên đã bị cách mạng Việt Nam tiếp đãi bằng những thái độ thù địch, bằng những vụ thủ tiêu ngầm hoặc xúi dục dân chúng quá khích giết hại những tên lính Trung Hoa Tưởng Giới Thạch trên các đường phố. Tôi đã được chứng kiến cảnh đánh giết lẫn nhau giữa lính Trung Hoa quốc dân đảng với bộ đội Việt Minh ở thị xã Thái Bình và thị xã Hải Dương.
Quả thật có những chú lính Trung Hoa tuổi đời còn rất trẻ, rất ngô nghê khi mới đến Việt Nam, chỉ vì ngôn ngữ bất đồng, không được minh bạch trong khi mua bán nên đã xảy ra cãi vã và dẫn đến đánh chém lẫn nhau. Nhiều người đã bị giết oan trong những vụ xô xát đó.
Ở Huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình có một người Hoa tên Thập Nhất chỉ vì làm thông ngôn cho quân Tưởng Giới Thạch mà bị nghi là Hán gian và bị chính quyền Việt Minh lôi đi xử bắn, để lại một vợ trẻ và hai đứa con thơ. Bố anh Thập Nhất, chủ hiệu Tá Sinh Đường, vì quá uất ức đã thắt cổ tự tử. Hồi đó người lớn dạy bọn trẻ con hát nhạo quên tàu Tưởng như sau : “Đoàn quân tàu ô đi đâu mà ốm thế, bước chân phù lang thang trên khắp đất nước Việt Nam…”.
Những người Hoa ở miền Bắc Việt Nam lúc ấy rất dễ bị chết oan một khi bị vu là thổ phỉ hay Hán gian. Ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Phòng, có một người Hoa có tên thầy Măng, vì ông ta bán thuốc bắc và chữa bệnh cho người Việt Nam ở chợ Măng nên thiên hạ gọi là thầy Măng. Cái ông thầy Măng này cũng đã từng bị du kích xích tay sắp đem ra bắn vì bị nghi là Hán gian. Ông ta không nói được thạo tiếng Việt để trình bày thân phận lang y của mình khi ngao du sơn thủy một mình để đi chữa bệnh cứu người. May có một phụ nữ Việt Nam đã kịp thời chạy ra nhận ông là chồng, vì trước kia ông đã có công cứu sống bà. Nhờ đó mà ông thầy Măng thoát chết và được ở lại chợ Măng tiếp tục làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho dân bản xứ.
Hồi đó bọn trẻ con chúng tôi rất khoái được chạy theo đoàn biểu tình xem hình nộm ông Nguyễn Hải Thần nằm dài dí đôi tai bẹp xuống gối, rụt cổ rít thuốc phiện với cái tẩu to quá khổ trông đến nực cười. Bọn trẻ con chỉ biết mang máng rằng Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam là tay sai quân tàu Tưởng, là bọn nghiện hút, ăn hại, chứ chúng tôi hoàn toàn không biết ông ta là nhà cách mạng, và làm phó chủ tịch nước bên cạnh Hồ Chí Minh.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp, từ 1945 đến 1949, do thái độ hằn thù và chính sách phân biệt đối xử của chính quyền Việt Minh, hầu hết những người Hoa ở miền Bắc không hợp tác với Việt Minh, và tìm cách chạy vào vùng Pháp tạm chiếm để làm ăn buôn bán. Có những gia đình người Hoa buôn bán ở thị trấn Diêm Điền, Thụy Anh, tỉnh Thái Bình, như gia đình anh Cầm Quốc Quang đã bỏ đất Việt Minh chạy vào Hải Phòng làm ăn buôn bán và mở tiệm bán vải rất lớn ở phố Phan Bội Châu, lấy tên hiệu là Phương Thái. Năm 1955, gia đình Phương Thái lại chạy nạn cộng sản vào Sài Gòn và tiếp tục kinh doanh rất thành đạt. Sau khi Sài Gòn rơi vào tay cộng sản, gia đình Phương Thái đã đi Mỹ. Anh Cầm Quốc Quang, con trai duy nhất của gia đình này, đỗ bằng tiến sĩ kinh tế học ở Tokyo, lấy vợ Nhật, hiện nay kinh doanh buôn bán ở Tokyo. Em gái anh là Cầm Quốc Chân, đỗ thạc sĩ toán học ở Pháp và đang dạy học ở Pháp.
Năm 1949, luồng gió bài Hoa của Việt Minh đã đổi chiều khi quân quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch bị hồng quân Trung Hoa hất ra ngoài biển và giải phóng một vùng rộng lớn gần biên giới Việt – Trung. Các chiến dịch Cao Bắc Lạng, Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, rồi chiến dịch Điện Biên Phủ của Việt Minh đều có sự hỗ trợ đắc lực của hồng quân Trung Hoa. Trong những năm từ 1949 đến 1954, hàng loạt cán bộ trung cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam đã được đưa sang bên kia biên giới Trung Quốc để chỉnh huấn, chỉnh quân, chỉnh đảng. Các cán bộ cộng sản Việt Nam được Trung Quốc bồi dưỡng, ăn uống, thuốc men rất chu đáo, được học tập trang bị lý luận Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông để trở về nước tiếp tục kháng chiến. Những cán bộ đảng viên này rất biết ơn Trung Quốc và ca ngợi tình hữu nghị Việt – Trung như “răng với môi, núi liền núi, sông liền sông, mối tình hữu nghị Việt – Trung như biển Đông…”. Những bài hát ca ngợi hồng quân Trung Hoa, ca ngợi đảng cộng sản Trung Quốc, ca ngợi Mao Trạch Đông được truyền tụng trong quảng đại quần chúng. Họ bắt đầu tìm đến những người Hoa còn sót lại trong các căn cứ địa Việt Minh và cố lôi những ông, những bà người Hoa ra công tác để lấy lòng đảng cộng sản Trung Quốc. Một trong những người Hoa bất đắc dĩ này phải ra nhận công tác của Việt Minh là ông Long Vân, chủ hiệu tạp hóa thuốc bắc ở Hải Dương đã bị sa sút vì kháng chiến và loạn lạc. Ông Trần Khải Nhân, tỉnh ủy viên đặc trách Hoa vận của tỉnh đã đến tận nhà nài nỉ ông Vân ra công tác, để rồi một ngày kia cả hai ông Nhân và Vân bị Pháp sục hầm bí mật bắt được. Ông Nhân bị bắn chết tại chỗ vì không chịu chui ra khỏi hầm bí mật, ông Vân bị bắt đưa lên thị xã Hải Dương, bị Deuxième Bureau, tức Phòng Nhì Sở Mật Thám Pháp, đánh đập, tra tấn, sau đó bị đưa xuống Phòng Nhì và Phòng Phản Gián Hải Phòng, Hà Nội để tiếp tục bị tra tấn lấy khẩu cung. Mãi về sau khi nhận thấy ông Vân đã gần chết, chân bị què, Sở Mật Thám Pháp mới cho phép người nhà bảo lãnh và bị quản thúc tại gia ở thị xã Hải Dương, chấm dứt thời kỳ làm chủ nhiệm Hoa vận tỉnh và ủy viên Liên Việt, tỉnh Hải Dương.
Không phải chỉ có một trường hợp như ông Long Vân được trên tín nhiệm giao công tác để chuốc lấy những tù đầy, tra tấn, mà nhiều người Việt gốc Hoa khác cũng cùng chung một số phận. Ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, lúc đó là nơi tập trung nhiều người gốc Hoa nhất. Việt Minh đã khéo léo sử dụng những người gốc Hoa ở vùng nông thôn Thái Bình, Quảng Ninh, Hải Dương xâm nhập vào nội thành để tìm đường bắt mối lập ra các tổ chức ngầm hoạt động ngay trong vùng Pháp tạm chiếm.
Những tổ chức quần chúng của Hoa Kiều Tân Dân Chủ Liên Hiệp Hội đã được thành hình và hoạt động ở ngay trong các thành phố bị Pháp chiếm đóng như Hà Nội, Hải Phòng. Đồng thời Việt Minh cũng tuyển lựa nhiều người Hoa ở Quảng Ninh, Bắc Giang đưa vào quân đội để đánh Pháp. Có những đơn vị người Hoa chiến đấu rất dũng cảm và một số người Hoa được đề bạt lên cấp chỉ huy đại đội và tiểu đoàn. Rất nhiều người Hoa đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Chị Cao Anh, nữ công nhân xưởng làm đèn pin Quang Minh ở Hải Phòng, là một trong những người Hoa đã hy sinh cho cách mạng Việt Nam. Chị hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, mới 18 tuổi xuân đã bị thực dân Pháp đánh chết trong nhà giam của Deuxième Bureau Hải Phòng. Gương liệt sĩ Cao Anh đã được truyền tụng, suy tôn một thời để động viên những người Hoa còn lại tích cực tham gia phong trào Việt Minh chống Pháp. Nhiều người Hoa ở miền Bắc đã hy sinh đóng góp cho việc đánh thắng quân đội Pháp, giải phóng quê hương. Nhưng ngay sau ngày Hải Phòng giải phóng, người anh trai của liệt sĩ Cao Anh, tên Cao Nhị, bị bắt đưa đi cải tạo ở trong rừng vì bị nghi oan là gián điệp. Anh Cao Nhị trước đây là sĩ quan tình báo của Tưởng Giới Thạch, nhưng đã theo đảng cộng sản Trung Quốc và được đảng cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam để giúp đỡ cách mạng Việt Nam. Anh là cán bộ tuyên huấn tham gia huấn luyện những cán bộ trẻ người Hoa ở vùng căn cứ để đưa vào hoạt động trong nội thành Hải Phòng. Vợ anh Cao Nhị là chị Đàm, biên tập viên tòa báo Lao Động ở Hà Nội, cũng bị bắt vì bị nghi là gián điệp. Năm 1979, anh Cao Nhị chạy về được Trung Quốc để sống cho hết những ngày tàn già nua với đồng lương hưu nho nhỏ của chính phủ Trung Quốc ban cho. Còn chị Đàm vì quá khẳng khái nên không được tha. Khi cán bộ công an bắt chị Đàm làm bản tự thú nhận tội lỗi để được tha, chị đã trả lời rằng : “Tôi không có tội gì mà nhận. Chính các anh mới là người có tội vì đã bắt oan và bỏ tù oan tôi hơn chục năm trời”. Kết quả là chị không được tha và đã chết ở trong tù, mang theo nỗi uất hận xuống suối vàng để giải bày với em chồng là liệt sĩ Cao Anh.
Trong số cán bộ quân đội tỉnh Quảng Ninh, có anh đại úy Quan Dung (tên gọi tiếng Trung Quốc là Cún Đồng). Anh Dung là sĩ quan quân đội trong kháng chiến chống Pháp, và được Đảng cử về Hà Nội, Hải Phòng làm cán bộ công an. Năm 1979, anh Dung được Bộ Công An cử vào Nam để tổ chức cho người Hoa giàu có ở Sài Gòn ra nước ngoài bằng con đường bán công khai, nộp vàng cho nhà nước. Sau khi làm xong nhiệm vụ, anh Dung cũng bị bắt luôn và nghe nói anh đã chết trong tù. Vợ anh là chị Tôn Thúy hiện nay cùng các con tị nạn ở Úc Đại Lợi.
Trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nhà kinh doanh gốc Hoa ở miền Bắc chỉ có thể hoạt động được trong các thành phố Pháp tạm chiếm như Hà Nội, Hải Phòng. Những nhà kinh doanh lớn như Liên Hưng, Liên Hưng Xương, Lai Thành, Lễ Hòa, Phương Thái đều di cư vào Nam trong những năm 1954-1955. Những người Hoa buôn bán khác, ở lại miền Bắc, đã điêu tàn qua các trận đánh tư sản bằng thuế tồn kho, bằng cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Một tư sản người Hoa là chủ hãng tàu chạy đường sông đã nhảy xuống sông tự tử. Những người khác, gặp thời thế thế thời phải thế, chịu uốn mình nhận lỗi với Đảng là có bóc lột nên mới giàu, được sống sót để chờ cơ hội cao bay xa chạy như trường hợp nhà tư sản xuất nhập khẩu Lưu Chấn Quang. Ông Quang đã tình nguyện hiến tài sản và còn nhận làm chủ nhiệm tổng hội Hoa Liên Hải Phòng để chờ thời chạy sang Mỹ và làm giàu ở bên đó.
Cái thời điểm vàng son của mối tình hữu nghị Việt – Trung là vào lúc Trung Quốc bắt dân nhịn đói để viện trợ lương thực và vũ khí đạn dược cho quân đội Việt Nam đánh Pháp. Khi bộ đội Việt Minh vào tiếp quản các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, người ta nhận thấy từ đầu đến chân anh bộ đội Việt Nam đều trang bị bằng quân trang, quân dụng của Trung Quốc. Từ chiếc mũ nan, đôi giầy vải, bộ quần áo kaki, khẩu súng AK đến cả cái ca uống nước cũng đều do Trung Quốc cung cấp. Những người Hoa trong các thành phố mới được giải phóng cũng vui mừng hớn hở dựng nên những chiếc cổng chào thật lộng lẩy, cầm cờ hoa ra đón chào bộ đội vào giải phóng quê hương. Họ có ngờ đâu sau đó họ lại bị đuổi ra khỏi quê hương mà từ nay người ta bảo rằng đó không phải là quê hương của họ, và bảo họ tốt hơn là hãy ra đi.
Những quan hệ bất hòa giữa hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã âm ỉ từ lâu, và đã bùng lên bằng trận chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979. Nhưng người Hoa ở miền Bắc Việt Nam là những nạn nhân của sự mâu thuẫn thù địch đó của hai đảng cộng sản cầm quyền. Khi nghe cô phát thanh viên của đài Hà Nội loan tin quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam, nhiều người Hoa ở miền Bắc Việt Nam đã khóc. Họ khóc vì không biết cuộc đời mình sẽ ra sao. Họ khóc vì thương đau cho cảnh hai nước anh em, hai dân tộc anh em sẽ chém giết lẫn nhau ở vùng biên giới, làm vật hy sinh cho những kẻ cầm quyền.
Một người Hoa ở Đông Triều đang đêm thoát chết, bồng con chạy rạt xuống Hải Phòng để quỳ xuống lạy ông chủ thuyền Lý Duy Man xin một chỗ để đi ra biển. Trong lúc hốt hoảng chạy loạn, ông không kịp mang theo tiền bạc, chỉ kịp ôm được đứa con hai tuổi chạy bán sống bán chết xuống được Hải Phòng để tìm đường ra biển. Vì sao người Hoa này lại sợ hãi làm vậy? Theo như ông kể : Ông đã nhìn thấy bộ đội và công an, du kích Việt Nam bắt trói hàng loạt người Hoa mang đi biệt tích. Những người Hoa bất hạnh đó bị trói giựt cánh khuỷu ra phía sau, bị vất lên xe quân đội và chở đi đâu không ai biết.
Những cán bộ gốc Hoa đang giữ những cương vị cao, quan trọng đều bị hạ tầng công tác, và bị làm nhục bằng cách cho làm lao công ngay ở cái cơ quan anh ta đã từng làm thủ trưởng. Nhà nước cộng sản Việt Nam ra sắc lệnh cấm những người Hoa không được làm những nghề như cán bộ khoa học, giáo sư, và những ngành nghề quan trọng trong các cơ quan nhà nước. Luồng gió độc bài Hoa do những chính sách thù địch, phân biệt đối xử và những đợt truyền thanh báo chí chống Trung Quốc của chính quyền cộng sản Việt Nam đã bùng lên mạnh mẽ. Ngọn gió độc này đã cuốn đi từng mảnh lớn dân cư người Hoa ở các vùng nông thôn và ven biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, và quét đi sạch sành sanh dân cư gốc Hoa ở vùng biên giới như Đồng Đăng, Lạng Sơn, Móng Cái, Quảng Ninh. Những dân cư gốc Hoa này từ lâu đã được coi như là người bản xứ. Nhưng nay phải bồng bế nhau, dắt trâu, dắt bò, gồng gồng gánh gánh chạy loạn sang bên kia biên giới hoặc rong buồm chạy trốn sang Hồng Kông. Ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, người Hoa đem đồ đạc bán la liệt ở chợ trời và ở trước cửa nhà họ để chuẩn bị ra khơi, liều thân với biển cả. Nhiều chiếc thuyền bé bỏng được đóng hoặc tu sửa vội vã để ra khơi, những người may mắn đã đến bờ đến bến, những người bất hạnh bị chết chìm ngoài biển khơi.
Khi ngòi lửa chiến tranh sắp bùng nổ, cửa biên giới bỗng nhiên đóng sập lại. Hàng vạn người, đang nao nức lo âu chạy về Trung Quốc, bị kẹt lại giữa gọng kìm của quân đội hai bên đang giàn quân chuẩn bị một trận chém giết. Họ bị thiếu nước, thiếu cơm và còn bị những phần tử xấu xúi giục làm loạn nên đã xảy ra những vụ đánh giết lẫn nhau với quân đội, công an biên phòng Việt Nam. Nhiều người Hoa bị chém giết. Về phía công an Việt Nam có thượng sĩ Lê Đình Chinh bị dao quắm của bọn gây loạn đâm chết.
Ngọn lửa căm thù người Hoa và Trung Quốc bùng lên dữ dội sau một chiến dịch tố cáo trên đài phát thanh, báo chí và phim ảnh Việt Nam. Trong không khí sục sôi căm thù đó, những người Hoa còn lại ở Việt Nam không dám ra đường. Phải giả câm, giả điếc, cúi mặt, cúi đầu mỗi khi nghe tiếng người chửi. Anh Cách Sinh, một cán bộ gốc Hoa cũ của biệt động đội Hải Phòng, người đã góp công rất nhiều trong công cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, bị chết chém trong các vụ xô xát đẩm máu ở vùng biên giới. Anh Lý Tâm Minh, cán bộ của Ban Thể Thao Thể Dục Trung êơng bị bắt và buộc phải đọc lời thú tội chống phá cách mạng Việt Nam trước màn ảnh trong cuốn phim “Sự Thật Lên Tiếng”, tố cáo những người Hoa làm tay sai cho Trung Quốc chống phá Việt Nam. Anh Lý Tâm Minh đã từng là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam và đã từng được dụ làm tổng thư ký Tổng Hội Hoa Liên Trung êơng.
Cuộc chiến tranh đẩm máu đã nổ ra trên vùng biên giới. Nó giết đi hàng chục vạn cuộc đời son trẻ của hai nước Việt – Hoa. Nó đã reo đau thương cho những mái nhà người Hoa đang sống êm ấm trong tình nghĩa vợ chồng, bạn bè xóm láng. Những người Hoa nặng tình nhất đối với đất nước Việt Nam đã phải gạt lệ ra đi. Đó là những người Hoa sống lâu đời ở Việt Nam và đã trở thành người Việt Nam từ lâu. Nhiều người không biết nói một câu tiếng Trung Quốc. Họ lấy vợ, lấy chồng, sinh con trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhưng họ đã bị nhà cầm quyền moi móc lý lịch từ mấy đời về trước, tìm xem họ có nguồn gốc Trung Quốc hay không, rồi xếp họ vào loại cần phải theo dõi. Ngay những người này cũng bị chửi bới, mạt sát thậm tệ và bị ngược đãi bất công nên họ đã phải cắn răng gạt lệ tìm đường ra biển. Có nhiều cảnh vợ ở chồng đi, vợ đi chồng ở. Những cảnh chia tay vĩnh biệt của những đôi vợ chồng, của những đứa con vĩnh biệt song thân mới não nùng ai oán làm sao! Ai mà biết được sẽ còn có một ngày về, một ngày trở lại để được ôm lấy nhau đoàn tụ. Ai mà biết được khi trở về thăm quê, cha mẹ liệu có còn không hay đã an nghỉ ngàn thu nơi chín suối. Có những người vợ muốn đi theo chồng đã bị gia đình bắt giữ lại. Có những người chồng muốn theo vợ ra đi đã bị người ta chửi mắng là đồ hèn bám theo gấu quần phụ nữ, quên cả tổ tiên, non sông đất nước.
Thật là:
Buồn thay những tối tháng năm
Đường ra bến cảng âm thầm tiễn nhau
Xạc xào gió vuốt cành lau
Trùng dương sóng vỗ một màu xanh xanh.
Lịch sử mỗi dân tộc đều mang trên mình những vết thương đau đó. Chính những đứa con trong lòng nó mang lại những hiểu lầm, những tranh chấp về ý thức hệ, những ganh đua về quyền lợi. Nếu chúng ta không biết tha thứ cho nhau, quên đi những bóng đen của dĩ vãng, hướng nhìn về tương lai để cùng nắm tay nhau tiến bước, thì những vết thương cũ sẽ không bao giờ lành và còn tiếp tục nữa những điều bất hạnh.
Nếu chúng ta nhìn vào nước Mỹ, một nước được coi là hợp chủng quốc Hoa Kỳ với đầy đủ ý nghĩa của nó, chính ở nơi đây những người da trắng từ Anh, Pháp, Tây Ban Nha kéo sang đã tiêu diệt những người địa phương da đỏ và có những trận lùng bắt những người da đen Châu Phi mang sang bán làm nô lệ ở Mỹ nên đã hình thành một nước Mỹ có nhiều sắc tộc. Nếu con cháu những người Mỹ không biết tha thứ những lỗi lầm của quá khứ để cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng đất nước thì nước Mỹ không bao giờ được là một siêu cường quốc như ngày nay.
Nhìn vào lịch sử Việt Nam, sự hội nhập của các sắc tộc trong đại cộng đồng dân tộc không đến nỗi đau thương như nước Mỹ. Đã từ lâu nước Việt Nam là một khối cộng đồng của nhiều sắc tộc, trong đó người Hoa ở Việt Nam là một sắc tộc hợp thành dân tộc từ mấy ngàn năm lịch sử, và có công đấu tranh dựng nước, bảo vệ tổ quốc.
Nếu ai đã từng sống ở miền Bắc Việt Nam, đã từng đi viếng thăm những nơi người Hoa ở, các bạn sẽ thấy sắc tộc người Hoa trong cộng đồng dân tộc Việt Nam là những người lao động cần cù, là những con người sống rất có tình, có nghĩa, là những người đã cùng gian khó có nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi với những sắc tộc khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Từ các tỉnh biên giới phía Bắc : Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, ở miền núi đến tỉnh Quảng Ninh, vùng ven biển, những bản làng của người gốc Hoa sống yên vui bên cạnh những bản làng các sắc tộc khác. Sáng sáng, họ cùng vác dao vác cuốc, đánh trâu ra đồng ra nương, phát rừng khai phá đất hoang, cày sâu cấy lúa trên ruộng đồng, đốt nương, trồng khoai, trồng sắn trên nương trên rẫy. Họ nói những ngôn ngữ địa phương khác nhau nhưng họ đều là những sắc tộc trong cộng đồng dân tộc và họ đã và đang dùng sức lao động của mình để làm ra lúa gạo, sắn khoai, góp phần cho toàn dân được cơm no, áo ấm.
Dọc theo con sông Hồng, bắt nguồn từ đại lục Trung Quốc, sẽ đưa bạn đi qua các tỉnh Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú, qua các thị xã Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Yên, rồi xuôi buồm chảy về Hà Nội, xuống Hà Nam vào Thanh Hóa, xuôi dòng xuống phía Nam. Ở những vùng ven con sông vĩ đại đó, những người dân gốc Hoa và Việt đã sống bên nhau, nương tựa vào nhau để khai phá đất đai, lập nên những vùng dân cư trù phú. Họ thương yêu nhau, kết hôn với nhau và nuôi dạy con cái trở thành những công dân có ích cho đất nước.
Tôi đã từng đi thăm vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Ở các vùng mỏ, làm ăn vất vã sớm chiều, mồ hôi nước mắt trộn chung cùng sỏi đá này, đều có mặt những người Hoa làm ăn quần quật để kiếm sống, để dựng nên những xóm làng, phố xá, cùng chung sống thân thương với những người sắc tộc gốc Kinh. Sáng sáng những con người còn nhiều sinh lực, sau một đêm dài ngủ say dưỡng sức, hăng hái vác xà-beng, cuốc chim chui vào những hầm than đen ngòm, sâu thẳm, khi chiều đến những con đường hầm sâu hoắm này lại nhả ra những thân hình còm cõi, đen nhẻm đen nhem, mệt nhoài sau một ngày lao động cực nhọc dưới hầm sâu. Khó có ai nhận ra ai là người gốc Hoa, gốc Kinh, gốc Nùng, gốc Thái, thậm chí cả thân nhân của họ cũng khó nhận ra ai là chồng, ai là cha nếu không nhìn vào đôi mắt tinh anh đang tươi cười hướng về phía họ. Chính những con người đen thủi đen thui như hòn than dưới mỏ này đã góp phần làm giàu cho đất nước Việt Nam bằng sức lao động cần cù dũng cảm của họ. Họ chung vai, chung sức hùng hục đào than dưới hầm sâu, vợ con họ còng lưng đẩy những chiếc xe goòng đầy ắp than đá dưới ánh nắng hầm hập, mồ hôi vã ra như tắm, trong những trưa hè trời nắng như thiêu.
Ăn cơm với cá mòi he
Lấy chồng thợ mỏ đun xe suốt đời.
Cuộc đời của những anh chị thợ mỏ cay đắng nhiều hơn là ngọt bùi. Thảm thương thay khi có tin sập hầm, chôn sống những người chồng, người con thân yêu của họ. Ai có thể cầm được lòng để khỏi xót xa rơi lệ khi chứng kiến những người vợ trẻ lăn lộn, ôm lấy xác chồng bám đầy than bụi, mới được móc ở hầm lên. Ai mà chẳng xót thương khi nghe tiếng khóc than của những trẻ thơ mất cha, những mẹ già mất con trong các tai nạn sập hầm khủng khiếp. Nhiều người thợ mỏ gốc Hoa, gốc Kinh, gốc Nùng, gốc Thượng cùng nằm chung trong một huyệt dưới tận đáy sâu của lòng đất Việt Nam trong khu mỏ than nổi tiếng một thời có loại than đá cực tốt xuất khẩu để làm giàu cho đất nước, để cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, Hà Nội mang ánh sáng cho rất nhiều người.
Bạn ơi, bạn đã từng đến thăm thành phố Hải Phòng, một trong những nơi tập trung nhiều người Hoa nhất ở miền Bắc hay chưa? Ở nơi đây, nơi được mệnh danh là đồng chua nước mặn này, đời sống của những công nhân gốc Hoa cảng Hải Phòng không hơn gì đời sống công nhân vùng mỏ.
Trước hết xin bạn hãy đến thăm cảng Hải Phòng, bạn sẽ thấy số công nhân bốc vác ở nơi này hầu hết là người gốc Hoa. Đây có phải đâu là một thứ nghề được trọng đãi, đây là một loại lao động cực khổ mà nhiều người gốc Kinh sợ không dám làm. Những công nhân bốc vác này trước đây bị người ta gọi một cách khinh mạn là phu bốc vác, cu-li. Những phu bốc vác này, mình trần, da xạm nắng, vắt trên vai một cái khăn màu thẩm, nối đuôi nhau leo xuống các cầu tàu vác lên những kiện hàng to và nặng gấp hai lần cơ thể họ, còng lưng leo một cách khó nhọc lên boong xếp thành những núi hàng hóa trên bến Sáu Kho để cho các xe tải vào ăn hàng. Có người đã chết vì những kiện hàng lớn đổ xuống đè phải, nhiều người khác bị cần cẩu vô ý quệt vào hất xuống chết chìm trong dòng sông Bính Sáu Kho. Những tai nạn như vậy vẫn thường xảy ra ngay cả khi chính phủ mới Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa có cho thi hành những biện pháp bảo vệ an toàn lao động.
Tôi đã vào thăm nhà máy xi-măng Hải Phòng. Nơi có những lò nung sức nóng lên tới ngàn độ. Những ống khói nhà máy xi-măng hằng ngày phun ra những luồng khói đen đầy bụi bặm, làm ô nhiễm cả một vùng rộng lớn của thành phố và vùng lân cận. Những công nhân xi-măng có rất nhiều người là gốc Hoa. Có những gia đình làm việc tới mấy đời trong cái nhà máy khốn khổ này. Những công nhân lò nung của nhà máy xi-măng Hải Phòng phải làm việc với cái nóng hầm hập suốt ngày đêm đến nghẹt thở. Hầu hết họ để mình trần, mặc độc một chiếc quần cộc, đầu đội mũ ca-nô xếp bằng bao giấy xi-măng, tóc tai, người ngợm phủ kín một màng bụi xi-măng màu xanh nhạt. Bát cơm, chén nước của họ cũng phủ đầy chất bụi cát xi-măng nên nhiều người trong bọn họ đã bị lao lực, nhiễm độc mà chết.
Ai ơi có đến Hải Phòng
Lò nung, bến cảng xin đừng có vô.
Đó là những lời nhắc nhở của những con người đã từng chịu đựng nỗi khổ cực trong cảng Hải Phòng và nhà máy xi-măng.
Ở Hải Phòng và Hà Nội, hai thành phố to nhất miền Bắc Việt Nam, có những hiệu buôn người Hoa giang ra tấp nập đông vui ở các phố Hàng Buồm, Hàng Đào, Hàng Ngang (Hà Nội), ở các phố trù phú sầm uất như Phan Bội Châu, Phố Khách (Hải Phòng). Ở những nơi ấy, quả thật có những ông “lẩu pản” bụng phệ rất giàu, dễ có những người ganh ghét đặt vè nói xấu : “Cái nỉ là nỉ pến tàu. Cái nỉ là nỉ mới sang… Sáng sang Nam Việt pán puôn, pán puôn làm giàu…”. Những người hay ghét ghen khác lại đặt vè nói xấu thêm : “Cái nỉ là nỉ pán thoòng khếu. Cái nỉ là nỉ táo dầm. Cái nỉ là nỉ đi vô thùng…”.
Thật vậy, có những người Hoa đã kinh doanh thành đạt và trở nên giàu có, nhưng cũng có vô vàn người Hoa ở hai cái thành phố lớn này lam lũ làm ăn rất cơ cực, đánh vật với đời để đổi lấy miếng cơm. Họ không ngần ngại làm bất cứ việc gì để tự nuôi sống chờ ngày vươn kịp bằng người. Sự cần cù nhẫn nại của họ trong lao động là những gì đáng học tập chứ phải đâu là một thứ riễu cợt mang đầy ác ý chia rẽ.
Nếu như mùa hè năm 1979, chính quyền cộng sản Việt Nam cố tình dồn ép người Hoa phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn lao ra biển tìm tự do đến nỗi nhiều gia đình phải tan cửa nát nhà, kẻ chết ngoài khơi như mẹ anh Tô Như Sinh (hiện nay ở London, Anh Quốc), hay con trai ông Trương Hữu Quý (hiện đang làm ăn ở Mỹ), kẻ bị thất tán chết trong đám loạn quân ở trong rừng như em ông Lý Hồng Phi (ở London)… thì liệu có lúc nào đó họ nghĩ đến công lao của những người gốc Hoa ở Việt Nam đã từng chung lưng lao động, làm ăn vất vã bên cạnh những sắc tộc khác ra sao. Liệu họ có còn nhớ đến những người đã hy sinh, nằm xuống cho cách mạng Việt Nam tiến lên trong thời kỳ Pháp thuộc, trong kháng chiến chống Pháp. Liệu họ còn nhớ đến những công nhân gốc Hoa như anh Nguyễn Văn Vi đã tan mất xác khi đang làm việc ở lò nung trong nhà máy xi-măng vì bị bom Mỹ ném trúng!
Xin hãy để cho lương tâm của thời đại suy ngẫm và trả lời. Nếu một dân tộc không lấy hòa giải và hòa hợp dân tộc làm phương châm hành động thì dân tộc ấy sẽ còn bị phân hóa. Những vết thương sẽ còn hằn rất lâu trên mình lịch sử và sẽ còn tiếp tục rỉ máu mãi đến những thế hệ mai sau.
Tôi nghĩ rằng : Một người Việt Nam yêu nước, trước hết, phải là một người tán thành đường lối hòa giải hoà hợp dân tộc để cùng với khối cộng đồng dân tộc nắm tay nhau xây dựng lại đất nước.
Phụ Lục 2 : Một vài số liệu về người Hoa tại miền Nam trước 1975
I. Dân số
1. Người Hoa tại Đông Dương (1921-1931)
Trong vòng 10 năm số người Hoa tại Đông Dương tăng trên các địa danh
a.- Nam Kỳ từ 156.000 người lên 205.000 (tỉ lệ 31%)
b.- Trung Kỳ từ 7.000 lên 10.000 (43%)
c.- Bắc Kỳ từ 32.000 lên 52.000 (62%)
d.- Campuchia từ 91.000 lên 148.000 (63%)
e.- Lào từ 7.000 giảm xuống còn 3.000 ( – 57%)
Nguồn : Tsai Maw Kuey: Les Chinois au Sud Viet Nam, Paris 1968, tr.41.
Tỉ lệ gia tăng dân số người Hoa tại Đông Dương trong thập niên 1920-1930 trung bình là 30%.
Trong thập niên này, chính quyền thực dân Pháp tiếp nhận ồ ạt người Hoa di cư vào Đông Dương nhằm bổ túc số lao động đang thiếu tại các công trường lớn. Tại miền Bắc người Hoa được tuyển vào khai thác các quặng mỏ ở Quảng Ninh và Tuyên Quang. Tại miền Trung, người Hoa được tuyển dụng vào khai thác các hầm mỏ ở Quảng Nam Đà Nẵng và các đồn điền trà, cà phê ở Tây Nguyên. Tại miền Nam và Cam Bốt, người Hoa được tuyển dụng vào việc trồng và cạo mủ cao su ở các đồn điền. Một số đông nhân công trong các đồn điền cao su sau đó đã dời về các thành phố lớn sinh sống và hòa nhập hẳn vào cộng đồng gốc Hoa đã có từ trước.
Riêng tại Lào vì khí hậu khắc nghiệt và không có hấp lực kinh tế cao, việc khai thác gỗ quí đã do các sắc tộc thiểu số địa phương đảm nhận, người Hoa không được khuyến khích vào đây lập nghiệp. Trong khi đó một số cư dân người Hoa đã định cư trước đây tại Lào đã tái di cư xuống Cam Bốt hay vào miền Nam sinh sống.
2. Những nhóm gốc Hoa tại Đông Dương năm 1950
a.- Quảng Đông : dân số tại ViệtNam là 337.500 người. trong khi tại Lảo và Campuchia là 50.000 người
b.- Tiều Châu : tại VN là 225.000 tại Lào & Campuchia 150.000 người
c.- Hẹ : Tại VN là 75.000 – Tại Lào & Campuchia là 10.000 người
d.- Phúc Kiến : Tại VN là 60.000 – Tại Lào & Campuchia là 15.500 người
e.- Hải Nam : Tại VN là 30.000 – Tại Lào & Campuchia là 10.000.
Tỉ lệ dân gốc Hoa tại VN khoảng 75% – Tại Lào & Campuchia khoảng 25%
Nguồn: Skinner C. William : Report on the Chinese in Southeast Asia, tr.80, trích lại tài liệu “L’Emigration Chinoise dans le Sud Est Asiatique”, La Documentation Française, Notes et Etudes Documentaires, no 2035, ngày 21-6-1955, tr.6.
Tại Việt Nam, có khoảng 20 nhóm ngôn ngữ gốc Hoa khác nhau nhưng tựu chung người ta chỉ đề cập đến bốn nhóm chính trên. Dân số Quảng Đông chiếm đa số, hơn 46%, nhưng tại hai nước bạn họ chỉ chiếm hơn 21% dân số gốc Hoa. Người Triều Châu đa số tại Lào và Cam Bốt (63,7%) trong khi tại Việt Nam họ chỉ chiếm gần 31%. Những nhóm thiểu số khác giữ vị trí tương đối nhỏ so với hai cộng đồng chính gốc Hoa này.
Những nhóm thiểu số gốc Hoa đa số là những di dân giữa thế kỷ 19 (sau cuộc chiến tranh nha phiến). Họ xuất phát từ các tỉnh nghèo tại Quảng Châu, Quảng Tây, Phúc Kiến, Lôi Châu và Liễu Châu. Những nhóm thiểu số tự đã là thiểu số tại chính bản quốc.
Do yếu kém về dân số, những nhóm thiểu số tự chuyên môn hóa trong một số ngành nghề nhất định để tránh bị đè bẹp. Từ đó, sự chuyên môn nghề nghiệp ngày càng tăng khiến những nhóm địa phương khác khó có thể lấn lướt họ trong một số lãnh vực kinh tế. Chính vì được chuyên môn hóa, nhiều tranh chấp nghề nghiệp đã diễn ra rất gay gắt ngay trong nội bộ của những nhóm thiểu số. Tuy nhiên những cạnh tranh nghề nghiệp nội bộ không dẫn đến phá sản mà thường được giải quyết một cách khéo léo qua trung gian của vị bang trưởng.
3 – Những nhóm ngôn ngữ gốc Hoa tại Sài Gòn – Chợ Lớn năm 1948
Quảng Đông : 128.030
Triều Châu :114.390
Phúc Kiến : 24.180
Hẹ : 32.860
Hải Nam : 10.540
Nguồn : Đông Dương Kinh Tế Thời Báo, Số mới, t. 44 “Sinh hoạt kinh tế tại Chợ Lớn”, Sài Gòn, 1948.
Thật khó xác định sự chính xác về số người sử dụng một ngôn ngữ gốc, vì có những pha trộn nguồn gốc khi người Hoa lập gia đình với nhau. Người Quảng Đông lấy người Triều Châu, người Phúc Kiến lập gia đình với người đã mang sẵn hai, có khi ba giòng máu nguồn gốc địa phương khác nhau. Nói chung sự phân chia này dựa vào những bang của mỗi địa phương.
Tại Sài Gòn – Chợ Lớn, người Quảng Đông chiếm tỉ lệ dân số gốc Hoa đông nhất (41,3%), kế là người Triều Châu (36,9%). Sự đại diện này cũng tiêu biểu cho dân số gốc trong cả nước: khoảng 45% dân số Hoa là người Quảng, 30% người Tiều. Số còn lại tùy theo địa phương tập trung mà tăng hay giảm, nhưng nói chung con số đại diện dân số địa phương gốc Hoa cũng đúng với hiện trạng.
Tất cả những người sinh hoạt thương mại đều biết ít nhất hai thứ tiếng địa phương : hoặc Quảng với Tiều, hoặc Phúc Kiến với Quảng, hoặc Hải Nam với Quảng, v.v…
Dân số người Hoa trước và sau ngày ban hành luật quốc tịch (6-9-1956)
Sài Gòn-Chợ Lớn : 440.350 giảm xuống còn :106.816. (sai biệt :333.532)
Các tỉnh khác: 180.508 giảm xuống còn :16.820 (sai biệt :163.688)
Tổng cộng 620.858 giảm 123.636 sai biệt :497.220
Nguồn : Nha Thống Kê Sài Gòn, 1958.
Con số sai biệt gần nửa triệu người Hoa này có thể được giải thích như là đã gia nhập quốc tịch Việt. Nhưng trong thực tế, theo báo cáo của Bộ Nội Vụ, năm 1961, số người đã xin nhập tịch là 234.753 người (gần phân nửa của con số sai biệt). Vậy số 262.467 người kia đi đâu ?
Theo báo cáo của tòa Tống lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc, cho đến ngày 19-7-1957 đã có 52.144 người hoàn tất hồ sơ xin hồi hương. Phía Việt Nam Cộng Hòa cho biết chỉ có khoảng 3.000 người. Vậy con số trên 200.000 kia được giải thích như được minh nhiên có quốc tịch. Vì từ ngày 7-12-1955, đạo dụ số 10 qui định tất cả người Minh Hương (gốc Hoa hay mang trong người hai dòng máu Việt – Hoa) là người Việt. Danh từ Minh Hương biến mất trên các bản khai sanh, thế vì khai sanh hay trên các thể căn cước. Các văn kiện chính thức, hồ sơ hộ tịch xóa bỏ hẳn hai chữ Minh Hương.
(Minh Hương là gì ? xem TẠI ĐÂY )
Vấn đề còn lại là con cái những Hoa kiều được sinh ra tại Việt Việt Nam hóa tên các trẻ em Hoa kiều trong các hồ sơ hộ tịch. Tất cả những người gốc Hoa bị cấm viết tên bằng chữ Hoa trong những văn kiện chính thức.
II- Những tổ chức đoàn thể
Tổ chức đoàn thể của người Hoa tại Việt Nam có nhiều hình thức : quần chúng, gia đình và nghề nghiệp. Thường những tổ chức đoàn thể được gọi một cách giản dị là bang hội.
A – Những tổ chức quần chúng : Bang
Bang là một tập hợp của nhiều người cùng một địa phương xuất phát hay nguồn gốc tổ tiên nói cùng một thổ âm hay có những phong tục tập quán của một địa phương bên Trung Hoa, nhưng sống tại hải ngoại. Mục đích của bang là duy trì sự đoàn kết, phát huy văn hóa của địa phương và giúp đỡ lẫn nhau. Tổ chức cách thức sinh hoạt nội bộ và quản lý nhân sự khác nhau. Đứng đầu mỗi bang là một bang trưởng được bầu theo uy tín hay tuổi tác và mỗi bang trưởng có một hội đồng chuyên viên cố vấn. Tầm vóc của mỗi bang tùy theo số bang chúng gia nhập.
Về mặt tổ chức, bang là một tổ chức chính trị vì có qui mô lớn và tôn ti trật tự. Chính quyền địa phương chỉ cần tiếp xúc với những người trách nhiệm của mỗi bang là có thể thông tin cho tất cả người Hoa của mỗi bang.
Những bang địa phương gốc Hoa tại Việt Nam được thành lập từ năm 1787 dưới triều đại các chúa Nguyễn. Đây là lần đầu tiên những bang địa phương gốc Hoa được thành lập ngoài lãnh thổ Trung Hoa. Ban đầu chỉ có bốn bang, về sau thành bảy bang (1814), nhưng từ năm 1885 được cải tổ thành năm bang. Bang đông người nhất hiện nay là bang Quảng Đông, kế là bang Quảng Châu nhưng mạnh về tài chánh là bang Phúc Kiến. Đến năm 1947, chính quyền thuộc địa Pháp giải tán các bang và thành lập Hội Hoa Liên trực thuộc Tòa tổng lãnh sự Trung Hoa.
Hình thức tổ chức các bang bị nhà cầm quyền Trung Hoa thời đó chỉ trích mạnh mẽ. Họ cho rằng đó là một hình thức gây chia rẽ cộng đồng người Hoa hải ngoại. Ngược lại đối với người Hoa ly hương, đó là một hình thức quản trị để tạo tình đoàn kết và tương thân tương trợ lẫn nhau, và cũng là một đơn vị hành chánh được thành lập nhằm giải quyết một cách linh động những tranh chấp nội giữa người Hoa với nhau thay vì phải qua trung gian chính quyền Trung Hoa (ở quá xa và độc đoán). Về sau dưới thời Quốc Dân Đảng, bang là một hình thức tổ chức nhân sự được chính quyền Trùng Khánh công nhận, nhưng phải nằm dưới sự kiểm soát của trung ương (chính quyền Trung Hoa Dân Quốc).
Đối với chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, Bang người Hoa là cơ quan tiếp nhận những chỉ thị hay trung gian phổ biến những chính sách của chính quyền Quốc Dân Đảng. Bù lại bang chúng trong mỗi bang được chính quyền Trung Hoa bảo vệ hay can thiệp mỗi khi có vấn nạn tại quốc gia địa phương. Tại mỗi quốc gia định cư, tổ chức bang địa phương có thể nói đó là một loại chính phủ bỏ túi.
1. Bang Quảng Đông
Dân số Quảng Đông đông nhất tại Việt Nam, 41% dân số tại Sài Gòn và 46% trên toàn quốc. Bản chất là dân miền Nam bờ biển Trung Hoa, người Quảng Đông rất cởi mở, hăng hái nhưng nóng tính, thiếu kiên nhẫn, ít cần cù hơn người gốc Triều Châu và Hạ Phương. Đặc tính của người Quảng là xoay sở rất nhanh và lúc nào cũng tìm cách biết thêm về kỹ thuật, nhất là những kỹ thuật mới của Tây Phương.
Tại Chợ Lớn, tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ thông dụng nhất trong giới người Hoa. Nhiều danh từ Quảng Đông trở thành thông dụng trong dân gian như chữ “chạp phô” chẳng hạn. Chạp phô là nơi buôn bán đủ các loại hàng hóa. Sau này người Việt thay thế bằng chữ “tạp hóa”, “bách hóa” cũng mang nội dung tương tự.
Nghề chạp phô gần như độc quyền nằm trong tay người Quảng Đông tại Việt Nam. Năm 1950 có khoảng 110 cơ sở xuất nhập khẩu về hàng tạp hóa. Người Quảng đã thành lập một nghiệp đoàn chạp phô có tên Liên Hiệp Chủ Nhân Tạp Hóa từ những năm 1940. Đến đầu thời kỳ chính phủ Ngô Đình Diệm, năm 1954-1956, có đến 433 chủ nhân tạp hóa gia nhập nghiệp đoàn. Con số cửa tiệm tạp hóa trong thực tế cao hơn nhiều vì những những chủ tiệm có vốn nhỏ không gia nhập nghiệp đoàn.
Người Quảng Đông cũng rất nổi tiếng về nghề phục vụ ăn uống. Trong những năm đầu chế độ miền Nam, tại Chợ Lớn có 26 nhà hàng lớn gồm có cả phòng tổ chức lễ lạc, phòng ăn lớn và 54 nhà hàng bậc trung (không có phòng tổ chức lễ lạc). Ngoài ra rất nhiều tiểu chủ nhân các quầy thịt quay (heo, vịt, xá xíu, phá lẩu…) buôn bán khắp địa bàn chợ lớn và các thành phố lớn khác. Nổi tiếng về thịt quay là các đường Phùng Hưng, Tản Đà (Chợ Lớn) và khu Chợ Cũ, Nguyễn Công Trứ, Hai Bà Trưng (Sài Gòn).
Người Quảng cũng gần như độc quyền về các nghề buôn bán trái cây. Trong năm 1950, có 30 nhà khai thác và 11 chủ vựa bán sĩ gốc Quảng Đông tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Họ tập trung tại những vựa trái cây lớn như Cầu Muối, Phú Nhuận, Gò Vấp, An Đông, Bình Tây, Phú Giáo, Phú Thọ Hòa… Ngoài ra, họ còn biết chế biến thức ăn khô như làm mứt (21 cơ sở), dầm muối (3 cơ sở sản xuất và 75 cửa tiệm bán hàng). Số người Quảng bán mì nước, chè ngọt rất đông, khoảng 2.000 xe. Những cơ sở chế biến đậu nành đều nằm trong tay người Quảng Đông.
Ngành may mặc cũng có rất nhiều người Quảng tham gia. Họ làm chủ hơn 200 xưởng may, 15 cửa hàng cung cấp hàng thêu, cờ xí và áo quần trong các dịp lẽ lớn. Họ còn làm chủ 13 tiệm may áo, 10 tiệm nhuộm và 85 tiệm giặt ủi.
Ngành xây cất cũng nằm trong tay người Quảng (30 xí nghiệp tại Chợ Lớn). Nhân công và cai thầu Quảng Đông rất lành nghề. Người Phúc Kiến rất khổ sở khi phải cạnh tranh với những cơ Quảng Đông trong nghề khai thác gỗ. Người Quảng làm chủ 30 xí nghiệp khai thác rừng, 62 xí nghiệp gỗ xây cất, 68 xưởng cưa, 51 xưởng mộc, 48 cửa hàng than củi, 20 cơ sở sản xuất guốc, 40 xưởng đóng thùng gỗ và 14 cơ sở đan cần xé, thúng tre mây, rổ rá.
Về dịch vụ giải trí và du lịch, người Quảng sở hữu 54 khách sạn (khoảng 600 giường), 18 rạp ci-nê, 2 rạp hát kịch (tổng cộng hơn 16.000 chỗ ngồi). Nổi tiếng nhất là rạp xi-nê Splendid (Khải Hoàn) tại Chợ Lớn. Ngoài ra họ còn làm chủ 85 thẩm mỹ viện (những phụ nữ Hoa từ 20 đến 40 tuổi thường đi cắt tóc ở tiệm).
Về cơ khí, người Quảng nổi tiếng là không máy gì không sửa được. Họ làm chủ 52 trạm bán xăng, 25 xưởng sửa xe hơi, 3 tiệm sửa xe ba bánh, 8 tiệm sửa xe đạp. Nổi bật nhất là họ mua lại những chiến xa phế thải của quân đội, rồi cải biến động cơ để trang bị cho những xà lang chở hàng trên sông. Họ còn làm chủ 160 tiệm sửa chữa cơ khí đủ loại : đóng thùng xe tải, xe đò, làm nồi niêu, xoong chảo, phụ tùng xe hơi và gia dụng. Người Quảng làm chủ 16 xí nghiệp chuyên chở chuyên nghiệp : dọn nhà cửa, đám tang, xe cưới…
Về nông nghiệp, người Quảng còn chuyên môn trong ngành chăn nuôi vịt (lấy lông, trứng và thịt). Năm 1953, họ còn phát minh ra nghề chăn nuôi chim cút. Họ làm chủ 22 xí nghiệp chăn nuôi gia cầm. Người Việt Nam rất ăn thích trứng vịt lộn do người Quảng cung cấp. Ngoài ra họ còn biết cách khai thác trứng vịt muối và bách thảo để bán trong các tiệm nhậu hay các dịp lễ lạc (Trung thu, Nguyên Đán). Việc chăn nuôi thường ở ngoại thành Chợ Lớn, gần những bờ sông hay chốn sình lầy. Người Quảng không chăn nuôi gà vì sự cạnh tranh của người Khmer, nhưng độc quyền chuyên chở gà từ Nam Vang về Sài Gòn. Người Quảng Đông về mặt thủ thuật kinh doanh đã thành công trong vụ “chim cút” những năm 1966-1968 khi làm khan hiếm rồi phá giá mua trứng chim cút.
2. Bang Triều Châu
Người Triều Châu di cư nhiều nhất qua Thái Lan và Campuchea hồi đầu thế kỷ (60% dân số gốc Hoa là người Triều Châu). Là nhóm người Hoa đông thứ hai tại Việt Nam, người Triều Châu chiếm tỉ lệ gần 31% trên toàn quốc và gần 37% tại Sài Gòn – Chợ Lớn. Người Triều Châu có nguồn gốc địa phương là tỉnh Quảng Châu (Trung Quốc) như người Quảng Đông nhưng ngôn ngữ của họ lại gần giống lối phát âm của vùng Hạ Môn (Amoy) tỉnh Phúc Kiến. Người Triều Châu và Phúc Kiến hiểu nhau rất dễ dàng trong giao dịch. Trong một vài quan hệ gia tộc, người Quảng Châu đôi khi có kỳ thị người Triều khi gả cưới con cái vì bị chê là nghèo (nhất là những người Tiều ở tỉnh nhỏ không có gia tộc định cư ở Sài Gòn – Chợ Lớn).
Đặc điểm của người Triều Châu là kinh doanh trà. Họ làm chủ 42 tiệm bán trà tại Chợ Lớn. Cho đến năm 1949, số trà tiêu thụ tại Việt Nam được nhập thẳng từ Trung Hoa. Khi cộng sản Trung Hoa lên nắm chính quyền, việc thương mại bị gián đoạn, người Tiều phải tìm mua trà ở các đồn điền vùng Cao Nguyên Trung phần (đặc biệt là tại Bảo Lộc và Cầu Đất – Đà Lạt). Danh từ “trà” là cách phát âm đến từ ngôn ngữ Triều Châu.
Người Triều Châu chuyên môn trong ngành chế biến hải sản. Họ làm chủ 25 xí nghiệp chế biến cá (làm mắm, cá khô). Ngư dân Việt Nam đánh cá đem về bán cho các chủ vựa cá người Triều Châu. Tại đồng bằng sông Cửu Long, 60 gia đình Triều Châu độc quyền thu mua và chế biến hải sản. Từ năm 1945, người Triều Châu bắt đầu chú ý tới nghề làm nước mắm, họ làm chủ 12 hãng nước mắm tại Phan Thiết, Phan Rang và Phan Rí và mạng lưới phân phối của họ rất hữu hiệu. Tất cả các chủ hãng sản xuất đều làm chủ những phương tiện chuyên chở nước mắm của riêng họ (ghe tàu và xe tải).
Nghề buôn bán thuốc bắc, người Triều Châu chia sẻ sự độc quyền với người Hẹ. Họ nhập các rễ thuốc ở dạng nguyên trạng sau đó chế biến lại và tung ra thị trường. Những tiệm thuốc bắc lớn tập trung ở đường Khổng Tử Chợ Lớn.
Nghành chế biến đường mía độc quyền nằm trong tay người Tiều cho đến năm 1956, sau đó người Việt thay thế. Hãng đường lớn nhất của người Triều Châu ở Tây Ninh nhưng phải bỏ vì chiến tranh.
Phần lớn phương tiện chuyên chở tại miền Nam đều nằm trong tay các gia đình người Tiều. Họ làm chủ 25 hãng xe khách liên tỉnh và Việt Nam – Cam Bốt trong tổng số 30 hãng xe đò tại Việt Nam trước 1975.
Ưu điểm của người Triều Châu là ngoại thương. Mặc dầu dân số có ít hơn người Quảng nhưng họ có quan hệ mật thiết với những gia đình tài phiệt khác ở Đông Nam Á. Đối với người Tiều, ngoại thương đôi khi là chuyện nội bộ của gia tộc. Đường giây thông tin liên lạc của nhóm người này rất hữu hiệu : những biến động của thị trường đều được loan đi nhanh chóng giữa những người trong bang hội liên quốc.
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát nguồn giao lưu tư bản của họ (thường là những chuyển ngân bất hợp pháp) khiến ngoại tệ mạnh ngày càng hiếm trên thị trường. Giá ngoại tệ trên thị trường tự do đều do những nhóm tài phiệt Triều Châu quyết định, giá cả lên xuống tùy theo giá tại các thị trường hối đoái Hồng Kông, Bangkok, Singapore, đôi khi của thị trường New York hay Paris. Người Triều Châu rất lương thiện và biết giữ uy tín trong việc trao đổi ngoại tệ với đệ tam nhân một khi đã chịu giá. Cho đến nay (1991), người Triều Châu vẫn còn độc quyền trên thị trường này, nhưng rất kín đáo. Nạn chảy máu vàng và ngoại tệ cho đến nay vẫn còn tiếp tục, không có giải pháp.
3. Bang Phúc Kiến
Về mặt dân số, người Phúc Kiến chỉ tượng trưng gần 8% dân số gốc Hoa tại miền Nam. Vì là một nhóm thiểu số trong cộng đồng người Hoa, người Phúc Kiến thể hiện lòng nhẫn nại, tính kiên quyết, sự linh động và tình đoàn kết trong sinh hoạt. Bang Phúc Kiến nổi tiếng là một bang hòa thuận nhất tại Việt Nam.
Điểm nổi bật của người Phúc Kiến tại miền Nam l^à nắm quyền chủ động trong việc thu mua và phân phối lúa gạo. Họ nắm độc quyền về các hoạt động mua bán vật liệu kim loại tạp nham và kim khí. Đa số những thợ uốn tóc lành nghề là người Phúc Kiến.
Nhóm Phúc Kiến của tỉnh Hạ Môn tạo thành một trục kinh tế tài chánh vững chắc tại vùng Chợ Lớn. Người Phúc Kiến của tỉnh Phúc Châu chỉ tập trung tại Chợ Lớn.
Đối với dân cư bản địa, người Phúc Kiến biết cách giao thiệp để lấy lòng như thiết lập quan hệ gia đình với người địa phương (cưới gả con cái với người Việt). Do những liên hệ gia tộc đó, người Phúc Kiến nắm rõ tình hình sản xuất lúa gạo của từng hộ canh tác tại miền Nam, rồi từ đó tìm cách cung ứng những nhu cầu của các gia đình nông dân. Nông dân sản xuất lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long chỉ bán lúa gạo cho những thương gia Phúc Kiến. Tín dụng của người Phúc Kiến dành cho nông dân canh tác rất dễ dàng, ngược lại nông dân cũng không được quyền bán lúa cho người khác. Nhiều ngân hàng tín dụng nông nghiệp tư được thành lập với đa số vốn của tài phiệt Phúc Kiến. Thời gian đen tối của những chủ vựa gạo Phúc kiến là trong những năm 1965-1968 khi Việt Nam cho nhập gạo Mỹ vào thị trường nội địa, nhiều thương gia đã sạt nghiệp. Năm 1964, một thương gia Phúc Kiền tên Tạ Vinh bị xử tử vì đầu cơ gạo, Tạ Vinh cho người mua hết lượng gạo của tư nhân và chính phủ (Quân Tiếp Vụ) rồi nâng giá. Bù lại, thương gia Phúc Kiến có một thị trường lúa gạo mới là cung cấp gạo cho bộ đội miền Bắc qua trung gian những tay kinh tài cộng sản đang hoạt động ở miền Nam trong những năm 1960-1975.
Trong hai cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, thương gia kinh doanh sắt thép vụn gốc Phúc Kiến độc quyền thu mua các phương tiện chiến tranh phế thải, sau đó tân trang rồi bán lại trên thị trường hoặc xuất khẩu sang Nhật Bản, Hồng Kông và Singapore. Những người mua bán ve chai, kim khí vụn, đồ phế thải trên khắp đường phố miền Nam đa số là người Phúc Kiến. Những cơ sở mua bán kim loại đều tập trung tại Sài Gòn – Chợ Lớn (Chợ Thiết quận 11, quận 6 và quận 8), Phú Giáo. Nhóm Phúc Kiến sở hữu 188 tiệm sắt thép, 57 tiệm đồng thau, 50 cửa hàng kim loại tạp nham, 121 tiệm bán đồ phụ tùng bằng kim loại, 20 tiệm bán vật dụng kim khí tân trang và rất nhiều tiệm mua bán đồ nhôm. Hiện nay, vì bị chính quyền cộng sản kiểm soát gắt gao, thương gia Phúc Kiến tập trung sản xuất hàng kim loại kiểu gia đình, tập trung đông nhất là tại quận 6, 8 và 11 Sài Gòn : phụ tùng xe đạp, xe gắn máy, máy nổ…
Vì vấn đề cạnh tranh nghề nghiệp, khuyết điểm của nhóm tài phiệt Phúc Kiến là sẵn sàng bỏ tiền mua chuộc hay hối lộ những viên chức chính quyền để được trúng thầu những lô hàng quân sự phế thải. Thương gia Nhật Bản cũng không thể cạnh tranh với người Phúc Kiến vì không biết đút lót và không có người tại chỗ nên đành phải mua lại của họ những lô hàng sắt thép vụn. Chiến tranh càng dữ dội, thương gia Phúc Kiến càng trúng mối vì nguồn hàng dồi dào và có thể mua chuộc nhân viên chính phủ, sau đó ép giá thầu để mua với giá hạ.
4. Bang Hạ Phương (Hẹ)
Người Hạ Phương trước kia ở miền Bắc Trung Hoa (Thượng Phương), di dân vào Quảng Tây, Phúc Kiến rồi sau đó định cư tại Quảng Châu ở thế kỷ thứ 13. Không có lằn ranh địa dư để phân biệt người Quảng Đông và Hạ Phương. Ngôn ngữ Hạ Phương là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất tại Quảng Châu sau tiếng Quảng Đông. Người Hạ Phương ở Quảng Châu đôi khi phải sử dụng tiếng Quảng Đông để trao đổi, do đó họ thông thạo cả hai ngôn ngữ.
Tại Việt Nam, người Hạ Phương tượng trưng khoảng 10% dân số gốc Hoa. Do phải tranh đấu hằng ngày để tồn tại, người Hạ Phương có tinh thần vượt khó và lòng độ lượng rất cao. Tính nhẫn nại của họ cao hơn những nhóm khác.
Người Hạ Phương độc quyền về nghề thuốc bắc và cung cấp bánh mì. Trong hai nghề này không có nhóm gốc Hoa hay người Việt nào cạnh tranh nổi với họ. Sự hiện diện của họ có tại khắp nơi, từ những làng xã xa xôi hẻo lánh đến chốn phồn hoa đô hội. Riêng tại Sóc Trăng vì sự tập trung dân cư gốc Triều Châu quá đông, các cửa hiệu thuốc bắc của người Hạ Phương ít hơn người Triều Châu. Nhưng sự tập trung chính của họ vẫn là Sài Gòn – Chợ Lớn. Tại đây, họ nhập cảng từ Hồng Kông, Đài Loan, Nam Hàn, đôi khi nhập gián tiếp từ Trung Quốc những loại cây lá thuốc, sau đó chế biến, đóng gói, cân đo lại rồi bán lại cho những hiệu thuốc bắc bán lẻ.
Nghiệp đoàn xuất nhập cảng Y Dược (thuốc bắc) qui tụ 81 hội viên, trong đó chỉ có vài người Quảng Đông, tuyệt đại đa số là người Hạ Phương. Trên khắp cõi miền Nam có khoảng 250 tiệm thuốc bắc tại các thành phố lớn, số tiệm ở các làng xã xa xôi thì vô số.
Nghiệp đoàn sản xuất bánh mì được thành lập từ năm 1938, qui tụ 26 thành viên. Năm 1953 tăng lên 43 nhưng sau năm 1955 còn lại 29, vì khách hàng chính là lực lượng viễn chinh Pháp đã rút hết về nước, khách hàng còn lại là người Việt Nam.
Cũng trong lãnh vực lúa mì, người Hạ Phương làm chủ rất nhiều lò xây bột mì. Từ năm 1926, nghiệp đoàn xay bột mì qui tụ được 13 chủ lò ; năm 1965, có 18 lò đang hoạt động. Người Hạ Phương chiếm đa số trong nghề làm sợi mì : 7 cơ sở sản xuất mì khô, 5 cơ sở mì tươi. Về phân phối, họ làm chủ 40 cửa hàng bán sỉ, 21 tiệm bán mì tươi và 7 tiệm sản xuất bột đậu nành.
Ngoài ra, người Hạ Phương còn chuyên môn về nghề làm da thuộc. Những tiệm thuốc bắc tại các làng xã còn có nhiệm vụ thu mua da thú vật do nông dân hay thợ săn Việt Nam, sau đó mang về Sài Gòn bán lại cho những người Hạ Phương khác làm nghề thuộc da ở Phú Thọ Hòa. Nghiệp đoàn da thuộc qui tụ 35 trong tổng số 48 tiệm thuộc da. Khách hàng của nghề này là các cơ sở sản xuất vật dụng bằng da. Nghiệp đoàn sản xuất giầy da năm 1948 có 105 xí nghiệp. Nghề sản xuất vật liệu bằng da (va-li, cặp-táp, túi xách…) qui tụ 38 nhà sản xuất nhưng không có nghiệp đoàn. Tất cả những cửa hiệu bán đồ da trên đường Đồng Khánh và quanh đó đều nằm trong tay người Hạ Phương. Những người Việt Nam từ miền Bắc di cư cũng làm nghề da thuộc nhưng không có sự cạnh tranh lẫn nhau vì cả hai đầu có thị trường riêng. Nhưng về tầm vóc và qui mô hoạt động, người Việt Nam không thể sánh bằng.
Vì không thể cạnh tranh với người Quảng Đông và Triều Châu trong dịch vụ thương mại, người Hạ Phương chuyên chú vào lãnh vực tiểu thủ công nghiệp và kỹ nghệ, đặc biệt là trong ngành dệt vải. Chỉ riêng về ngành dệt vải bông (gòn) có 580 cơ sở của người Hạ Phương sử dụng từ 1 đến 50 nhân công. Được biết đến nhiều nhất là hãng dệt tân tiến Vinatexco, hãng này bị hư hại sau vụ Mậu Thân 1968 (quân cộng sản vào ẩn nấp bị máy bay Mỹ ném bom). Năm 1970, hãng này được tân trang lại với tư bản Đài Loan.
Khi nghề da không còn ăn khách, người Hạ Phương chuyển sang nghề sản xuất vật dụng bằng nhựa dẻo PVC. Ngành này phát triển rất nhanh chóng vì thị trường Việt Nam đang thiếu. Cái bung của nghề này đánh dấu một giai đoạn kỹ nghệ hóa trong công nghiệp nhẹ. Tất cả vật dụng bằng da đều được “nhựa hóa” : văn phòng phẩm, dụng cụ học đường, đồ gia dụng, trang trí, đồ chơi trẻ em… Sự may mắn của những “kỹ nghệ gia” Hạ Phương là không cần bỏ vốn nhiều và có tỉ lệ thu lời nhanh.
Người Hạ Phương còn chuyên môn trong nghề làm đồ gốm (chén bát, tô chậu bằng sành). Đa số cơ sở ở vùng ngoại ô Sài Gòn và Đà Lạt (Trại Mát và Cầu Đất).
Sau cùng là nghề chữa răng. Nghề này do những người Thượng Phương đảm nhi_ệm, họ đa số là nha công hơn là nha sĩ vì không có bằng cấp đại học. Người Thượng Phương hành nghề chữa răng theo những cách thức cổ truyền như bắt sâu răng, nhét thuốc trừ sâu, làm răng vàng, v.v… Nha sĩ có cấp bằng đại học đa số là người Quảng Đông và Việt Nam. Tuy nhiên người Thượng Phương làm chủ trên 3.000 phòng chữa răng trên toàn cõi Đông Nam Á, trong đó có khoảng 1.000 phòng tại Đông Dương. Riêng tại Chợ Lớn họ có khoảng 100 phòng khám và chữa răng.
5. Bang Hải Nam
Người Hải Nam gồm những dân cư trên đảo Hải Nam và bán đảo Lôi Châu. Người Hải Nam có tỉ lệ dân số thấp nhất (trên 3%) trong cộng đồng gốc Hoa tại Việt Nam.
Do có một dân số ít, người Hải Nam tự chuyên môn hóa trong ngành ăn uống phục vụ các thức ăn tây phương để tránh cạnh tranh với người Quảng Đông về các món ăn Trung Hoa. Không có cạnh tranh. Tại Sài Gòn khoảng 12 nhà hàng kiểu này, được biết đến nhiều nhất là nhà hàng Chí Tài, Tháp Ngà và Sing Sing. Ngoài ra còn có hơn 50 nhà hàng nhỏ phục vụ kiểu tây phương (có dao, muỗng, nỉa). Tại các thành phố khác những nhà hàng kiểu này đều do người Hải Nam làm chủ.
Hoạt động nổi bật nhất của họ là làm chủ những quán nước ở các góc đường phố chính tại các thành phố : quán cóc, tiệm cà-phê, quày bán rượu v.v… Đó là nơi tụ họp của những thương gia, công nhân viên, những người lao động, sinh viên học sinh đến giải khát và ăn uống. Tại Sài Gòn – Chợ Lớn có 375 quán nước loại này. Ở các tỉnh nơi nào có chừng mươi căn nhà là có một tiệm nước như vậy. Một số người Quảng Đông cũng làm chủ một vài tiệm nước kiểu này nhưng quan trọng bằng người Hải Nam.
Nghiệp đoàn quán nước năm 1926 đã qui tụ hơn 200 chủ quán. Ngoài ra còn phải kể thêm khoảng 450 quán ăn vây quanh chỉ để phục vụ khách hàng của các quán nước. Đại để sinh hoạt của họ như thế này. Khách hàng đến quán giải khát của người Hải Nam muốn ăn mì và chè, phô kyï (bồi bàn) quán nước kêu một chủ xe mì (có thể là người Quảng hay Tiều) gần đó mang tô mì, sau đó kêu một chủ xe bán chè cũng gần đó mang chè v.v… Khi tính tiền, phổ kyï hoặc tính chung các thức ăn và giải khát, hoặc kêu từng chủ xe tới tính tiền với khách hàng. Chủ tiệm nước chỉ bán nước giải khát. Cuối tháng hay đầu tháng, các chủ xe thức ăn chung quanh phải trả tiền thuê chỗ cho chủ quán nước. Các chủ xe bán thức ăn không cần phải trang bị bàn ghế hay phòng ăn.
Đôi khi, nếu địa thế làm ăn thuận lợi, các chủ quán Hải Nam thuê người Quảng Đông làm bếp rồi phục vụ trực tiếp khách hàng, những chủ xe bán hàng ăn chung quanh cung cấp những món ăn khác như chè, đồ nhậu, hột vịt lộn, bột chiên, giò chéo quảy, bánh bao, bánh ngọt, v.v… Những nơi nổi tiếng nhất là tại các trung tâm thành phố, đường Tổng Đốc Phương, khu La Cai, Tản Đà, Chợ Cũ, ngã Sáu, ngã Bảy, An Đông, Nguyễn Thiện Thuật, Tân Định, Đa Kao, Bà Chiểu, v.v… Khách hàng đến những nơi này ăn uống không phải lo lắng về vấn đề an ninh cá nhân hay xe cộ. Tất cả đều được chú ý, lo lắng chu đáo.
Bên cạnh sinh hoạt vừa nói trên, người Hải Nam còn làm chủ 79 phòng trà, 59 quán rượu bia, 86 quày giải khát, 68 tiệm bánh ngọt. Nghiệp đoàn nhập cảng rượu tây qui tụ 70 chủ xí nghiệp Hải Nam. Họ còn làm chủ 65 lò sản xuất rượu đế, 35 tiệm bán kem và nước mía (tiệm nước mía Viễn Đông, đường Pasteur rất nổi tiếng). Ngoài ra họ còn làm chủ 10 hãng nước đá, 7 hãng làm si-rô nước trái cây và 2 xí nghiệp lớn sản xuất nước giải khát có hơi (đa số vốn của hãng SEGI là của người Hải Nam).
Trong những năm 1960-1970, người Hải Nam tập trung vào việc nhập cảng phim ảnh ngoại quốc (của Tây Phương, Hồng Kông và Đài Loan) rồi cho phiên âm ra tiếng Việt. Nhưng các rạp hát vẫn thuộc quyền sở hữu của người Quảng Đông. Người Hải Nam có nhiều phần hùn trong các hãng làm phim và hãng chuyển âm phim truyện ngoại quốc ra Việt ngữ.