Hàng không mẫu hạm Mỹ trên Biển Đông lúc ông Trump họp ở Việt Nam

© Flickr/ U.S. Pacific Command

Nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis (CVN-74) đang tiến hành các hoạt động an ninh trên Biển Đông trong bối cảnh TT Trump đến Việt Nam hội đàm với Chủ tịch Kim Jong Un, Zing phản ánh.

Hải quân Mỹ thường triển khai một nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm ở gần quốc gia mà tổng thống Mỹ đến thăm và công tác để đảm bảo an ninh dự phòng cho các tình huống khẩn cấp.

CVN-74 vừa kết thúc cuộc tập trận chung mang tên Hổ mang Vàng với quân đội Hoàng gia Thái Lanvà 29 nước đối tác.

USS John C. Stennis là tàu thứ 7 thuộc siêu hàng không mẫu hạm lớp Nimitz. Tàu được đặt theo tên Thượng nghị sĩ John C. Stennis, đảng Dân chủ, bang Mississippi. CVN-74 được hạ thủy vào năm 1993, đưa vào sử dụng từ năm 1995.

Tàu có chiều dài 332 m, rộng lớn nhất 76,8 m, mớn nước 11,3 m, lượng choán nước toàn tải 115.700 tấn. Boong tàu được bố trí 4 máy phóng thủy lực cho phép triển khai nhiều máy bay cùng lúc, gồm máy bay cánh cố định tải trọng lớn.

Tàu có thể mang theo 90 máy bay các loại, trong đó, nòng cốt cho sức mạnh tấn công và phòng thủ là các tiêm kích trên hạm F/A-18E/F Super Hornet. Mỗi Hàng không mẫu hạm lớp Nimitz thường mang theo 36 tiêm kích F/A-18, cùng một số máy bay khác.

Mỗi Hàng không mẫu hạm lớp Nimitz, gồm CVN-74 thường mang theo 4 phi đội tiêm kích, một phi đội tác chiến điện tử, một phi đội cảnh báo sớm, một phi đội trực thăng chiến đấu, một phi đội trực thăng hỗ trợ và phi đội hậu cần.Máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không E 2C Hawkeye chuẩn bị cất cánh. Radar trên máy bay có tầm trinh sát tới 400 km giúp mở rộng phạm vi cảnh giới và chỉ huy phi đội chiến đấu.

Tàu ngầm tấn công hạt nhân USS North Dakota (SSN-748), lớp Virginia cũng có mặt trong đội hình hộ tống cho Hàng không mẫu hạm USS John C. Stennis. Đây là lớp tàu ngầm đầu tiên trên thế giới được trang bị hệ thống cột buồm lượng tử ánh sáng để quan sát bên ngoài thay cho kính tiềm vọng.

Sputnik News

Hải quân Trung cộng bất ngờ triệt thoái hàng trăm chiến hạm khỏi Biển Đông

Ngày 24/2, tờ Bưu điện Hoa Nam (SCMP) dẫn thông báo từ Hải quân Trung cộng cho biết, Hải quân nước này đã bất ngờ rút hàng trăm chiến hạm rời khỏi khu vực Biển Đông.

Hạm đội Nam Hải của Trung cộng hoạt động trái phép tại khu vực Biển Đông của Việt Nam

Thông tin trên được SCMP dẫn lời từ Phó đô đốc Thẩm Kim Long, Tư lệnh Hải quân Trung cộng. Theo đó ông Long cho biết, đã chỉ đạo Hạm đội Nam Hải rút toàn bộ chiến hạm mặt nước của Hạm đội này về quân cảng Du Lâm, đóng tại đảo Hải Nam.

Việc rút quân bất ngờ này, theo như thông cáo cho biết: “Dựa vào báo cáo của Cục Hải dương Trung cộng dự báo về tình hình thời tiết bất lợi sắp diễn ra trên diện rộng ở khu vực Biển Đông, Cục Hải quân TQ quyết định rút toàn bộ chiến hạm của Hạm đội Nam Hải về các căn cứ quân sự để bảo đảm an toàn cho các chiến hạm. Quân lệnh có hiệu lực ngay lập tức, bắt đầu từ 9 giờ sáng ngày 25/2.”

Thế nhưng, theo thông báo định kỳ từ Cục thời tiết quốc gia Hoa Kỳ cho biết, hiện khu vực Biển Đông và xa hơn là Thái Bình Dương, không hề ghi nhận sự hình thành của bất cứ cơn bão và áp thấp nhiệt đới nào.

Theo nhận định của giáo sư Carl Thayers, việc Hải quân Trung cộng bất ngờ rút chiến hạm của mình ra khỏi khu vực, có thể do chính cuộc gặp sắp tới giữa Tổng thống Donald Trump và ông Kim Jong-un diễn ra tại Hà Nội.

Khi Tổng thống Donald Trump tới Việt Nam tham dự thượng đỉnh với Triều Tiên, theo thông lệ thì Hải quân Mỹ cũng sẽ triển khai một hạm đội hùng hậu ở khu vực gần nơi Tổng thống của họ có mặt. Theo đó, Hạm đội 7 Thái Bình Dương và Hạm đội 3 Ấn Độ dương dự kiến sẽ triển khai 2 nhóm tác chiến Hàng không mẫu hạm vào khu vực Biển Đông. Nhiều khả năng đó sẽ là hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson và USS Ronald Reagan (CVN-76), một trong những Hàng không mẫu hạm hiện đại nhất của hải quân Hoa Kỳ. Với dàn hộ tống hạm lên đến cả trăm chiếc gồm tàu khu trục, tàu đổ bộ, tàu săn ngầm và cả những chiếc tàu ngầm khổng lồ mang theo các đầu đạn hạt nhân….

Theo lý do đó, việc hàng trăm chiến hạm của quân đội Mỹ xuất hiện quá dày đặt tại một khu vực có thể sẽ dễ xảy ra những va chạm không đáng có với lực lượng Hải quân Trung cộng đang hoạt động trái phép tại Biển Đông.

Được biết, đây không phải là lần đầu tiên Hải quân Trung cộng phải tạm rút quân trước dàn chiến hạm hùng hậu của Hải quân Hoa Kỳ. Được biết, khi Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson neo đậu trong vịnh Đà Nẵng vào tháng 3/2018, Hạm đội Nam Hải của Trung cộng cũng buộc phải rút hàng chục chiến hạm của họ đang hoạt động trái phép về tận quân cảng trên đảo Hải Nam.

Hội nghị thượng đỉnh lần hai giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un dự kiến diễn ra tại Hà Nội ngày 27-28/2. Chủ tịch Kim Jong-un đã lên tàu hỏa khởi hành đến Hà Nội vào chiều 23/2, dự kiến mất hơn hai ngày để vượt hàng nghìn km qua lãnh thổ Trung cộng đến Việt Nam. Tổng thống Trump hôm 24/2 cũng thông báo trên Twitter sẽ lên đường tới Hà Nội vào sáng 25/2.

Mỹ đưa tàu qua eo biển Đài Loan, chọc giận Trung cộng

Tàu khu trục USS Stethem (trong bức ảnh chụp ngày 22/3/2017 do Hải quân Mỹ cung cấp) đã đi qua eo biển Đài Loan hôm 25/2.

Ngày 25-2, 2 tàu hải quân Mỹ đi qua eo biển Đài Loan trong bối cảnh quân đội Mỹ tăng cường tần suất di chuyển qua tuyến đường biển chiến lược này bất chấp sự phản đối từ Trung cộng.

Hành động này của Mỹ có nguy cơ khiến căng thẳng leo thang với Trung cộng.  Trong khi đó, chính quyền Đài Loan xem đây là dấu hiệu ủng hộ từ chính quyền Tổng thống Donald Trump giữa lúc Bắc Kinh và Đài Bắc có dấu hiệu căng thẳng.

Động thái mới nhất của tàu hải quân Mỹ diễn ra ngay sau khi ông Trump tuyên bố Mỹ và Trung cộng đang tiến “rất, rất gần” đến một thỏa thuận chấm dứt chiến tranh thương mại kéo dài hàng tháng trời. 

Việc các tàu đi qua eo biển Đài Loan cho thấy cam kết của Mỹ đối với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và rộng mở,” Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ nói trong một thông cáo.

Thông cáo này cho biết hai tàu của Mỹ được nhận dạng là tàu khu trục Stethem và tàu vận tải Cesar Chavez. Eo biển Đài Loan rộng 180km chia cắt Đài Loan với Trung cộng.

Trung cộng đã bày tỏ tức giận về hành động này của Mỹ.

Chúng tôi cương quyết phản đối hành động gây hấn của Mỹ. Hành động đó không có lợi cho hòa bình và sự ổn định trên eo biển Đài Loan,” người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung cộng Lục Khảng nói tại một cuộc họp báo hôm 26/2.

Cơ quan Phòng vệ Đài Loan ngày 26-2 thông báo tàu hải quân Mỹ đã đi qua eo biển và di chuyển theo hướng Bắc. Được biết, các lực lượng vũ trang Đài Loan đã theo dõi 2 con tàu trên và không phát hiện điều gì bất thường.

Các lực lượng có vũ trang của Đài Loan cho biết họ luôn theo dõi việc di chuyển của các tàu này và không thấy có gì khác thường do đó không có lý do gì phải báo động.

Dù không có quan hệ chính thức với Đài Loan nhưng Washington bị ràng buộc bởi luật pháp để bảo vệ vùng lãnh thổ này. 

Sputnik News

Hải quân Anh, Mỹ tập trận huấn luyện chung trên Biển Đông

Thủy quân lục chiến và Hải quân Hoàng gia Anh trên tàu hộ tống HMS Monstrose diễn tập huấn luyện cùng với tàu chở dầu tiếp liệu USNS Guadalupe của Hải quân Mỹ.

Các tàu hải quân Hoa Kỳ và Anh trong tuần này đã tiến hành huấn luyện an ninh hàng hải và hậu cần ở Biển Đông. Đây là cuộc diễn tập chung lần thứ ba của hai hạm đội tàu hải quân ở Tây Thái Bình Dương, theo trang tin chính thức của Hải quân Hoa Kỳ.

Tham gia cuộc tập trận có tàu chở dầu tiếp liệu USNS Guadalupe của Hải quân Mỹ, tàu hộ tống HMS Monstrose của Hải quân Hoàng gia Anh, và các chỉ huy của hải quân hai nước.

Trong cuộc tập trận, các sĩ quan hải quân đã diễn tập các hoạt động đổ bộ lên tàu, khám xét và bắt giữ. Ngoài ra, các con tàu cũng được thực tập hoạt động tiếp liệu trên biển theo quy trình của NATO nhằm đảm bảo hoạt động này được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả.

Trung tá Conor O’Neill, chỉ huy tàu HMS Montrose, cho biết đây là đợt diễn tập quan trọng để giữ cho cả Hải quân Hoàng gia và Thủy quân lục chiến của Anh luôn trong tư thế sẵn sàng để thi hành bất kỳ nhiệm vụ nào được giao phó.

Việc chúng tôi có thể thực hiện đợt huấn luyện này và cuộc diễn tập tiếp liệu sau đó là một minh chứng cho mối quan hệ gần gũi giữa Hải quân Hoàng gia và Hải quân Hoa Kỳ, cả ở Thái Bình Dương và những nơi khác trên toàn cầu”, chỉ huy Conor O’Neill nói.

Trong khi đó, ông Eric Naranjo, trưởng nhóm thủy thủ dân sự trên tàu USNS Guadalupe, nói rằng cuộc tập trận giúp cho cả hai bên mở rộng khả năng hợp tác.

Đây là đợt hợp tác huấn luyện lần thứ ba giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh trong vài tháng gần đây. Trước đó, tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS McCampbell của Hải quân Mỹ và tàu hộ vệ HMS Argyll của Hải quân Hoàng gia Anh đã tiến hành cuộc tập trận chung ở Biển Đông vào tháng 1, và một cuộc tập trận chống ngầm ba bên giữa Hải quân Hoa Kỳ, Hải quân Hoàng gia Anh và Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản cũng được tổ chức vào tháng 12/2018.

Guadalupe là tàu tiếp liệu lớp Henry J. Kaiser thứ 14, có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động thường ngày và hỗ trợ hậu cần cho Hải quân Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh hoạt động trong khu vực thuộc trách nhiệm của Hạm đội 7.

VOA

Đã đến lúc Mỹ lãnh đạo một liên minh bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông?

Gregory Poling và Bonnie S. Glaser

Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan và tàu khu trục Nhật JS Hyuga cùng 16 tàu chiến khác giàn đội hình trong cuộc tập trận Keen Sword 2018 trên vùng biển Phi Luật Tân hồi tháng 11/2018. Ảnh: Kalia v. Peters/US Navy via Reuters

Trong suốt hai năm cầm quyền vừa qua, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã lớn tiếng khinh bỉ hầu hết các hình thức của chủ nghĩa đa phương. Tuy nhiên, khi nói đến hai vấn đề hàng hải cấp bách ở Đông Á, chính quyền của ông nhận ra giá trị của bạn bè.

Trước hết là vấn đề ngăn chặn việc vận chuyển nhiên liệu bất hợp pháp cho các tàu chở dầu của Triều Tiên ở biển Hoa Đông, một chiến thuật mà Bình Nhưỡng sử dụng nhằm lách các lệnh trừng phạt của Mỹ và Liên Hiệp Quốc. Để đập tan nạn buôn lậu, Mỹ và Nhật đã tập hợp được một liên minh các quốc gia nhằm xác định và báo cáo về những con tàu tham gia vào việc chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia một cách bất hợp pháp.

Sau đó là Biển Đông, nơi Bắc Kinh tiếp tục gia tăng lực lượng quân sự và đã tăng gấp đôi các yêu sách về hàng hải trái với luật pháp quốc tế. Các lực lượng hải quân bên trong và bên ngoài khu vực đã phản ứng với hành xử hung hăng của Trung cộng bằng cách tiến hành nhiều hoạt động hơn, trong đó có tập trận, thu thập thông tin tình báo và đi qua các vùng biển đang tranh chấp nhằm duy trì tự do đi lại trên không và trên biển, một công tác mà các quan chức Hoa Kỳ ủng hộ.

Hải quân Mỹ và Nhật có thể đóng vai trò đặc biệt ở các vùng biển gần Trung cộng. Ảnh: Michael Yon

Thật không may là người ta chỉ thấy vai trò lãnh đạo của Mỹ tại một trong hai khu vực này mà thôi. Washington đã và đang là động lực phía sau những nỗ lực đa phương nhằm đập tan hành động buôn lậu của Triều Tiên nhưng trong việc phối hợp với các quốc gia có cùng chí hướng nhằm bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông thì hoạt động của Mỹ kém hiệu quả hơn hẳn. Muốn đẩy lùi những đòi hỏi xét lại của Trung cộng thì cần phải có các nỗ lực quốc tế mà Washington đang ở vị thế lý tưởng nhất. Muốn tìm ra cách làm tốt nhất, Washington có thể lấy ngay một phần kịch bản của chính mình ở biển Hoa Đông là đủ.

Liên minh thành công

Tháng 10/2017, Mỹ đã bắt đầu các chuyến bay giám sát trên biển Hoa Đông nhằm theo dõi và ngăn chặn hoạt động của những con tàu bị nghi ngờ vi phạm lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên.

Đầu năm 2018, chính quyền Trump đã quyết định khuếch trương những nỗ lực đó bằng cách lôi kéo thêm nhiều quốc gia tham gia theo dõi những con tàu được cho là đang chở hàng cấm.

Tháng 02/2018, Asahi Shimbun, một tờ báo của Nhật, viết rằng Mỹ và Nhật đã lập kế hoạch tổ chức một hội nghị quốc tế nhằm thành lập liên minh này. Úc, Pháp, Singapore, Hàn Quốc và Vương quốc Anh là những nước được mời tham gia.

Từ tháng 05/2018, Úc, Canada, New Zealand và Vương quốc Anh đã cho các máy bay giám sát trực chiến tại căn cứ không quân của quân đội Mỹ ở Kadena, Okinawa, để tiến hành những cuộc tuần tra thường xuyên trên biển Hoa Đông và biển Nhật Bản. Một tàu chiến của Anh cũng được đưa tới Nhật Bản nhằm hỗ trợ nỗ lực này. Máy bay giám sát liên tục thu thập thông tin về những con tàu bị nghi ngờ vi phạm lệnh trừng phạt Triều Tiên. Những máy bay này đã chụp được rất nhiều ảnh tàu thuyền tham gia vận chuyển dầu bất hợp pháp từ tàu này sang tàu kia và báo cáo với Liên Hiệp Quốc. Điều này giúp buộc những bên tham gia buôn lậu phải giải trình bằng cách đưa những con tàu và công ty liên quan vào danh sách đen và gây áp lực lên các quốc gia thành viên, đặc biệt là Trung cộng và Nga, để có biện pháp chế tài những người vi phạm.

Tháng 9, liên minh này mở rộng thêm với việc thành lập Trung tâm Điều phối Biện pháp thực thi đặt trên tàu USS Blue Ridge. Trên con tàu này có hơn 50 nhân viên người Úc, Canada, Pháp, Nhật, New Zealand, Hàn Quốc và Vương quốc Anh. Người ta nói rằng, một trong những mục đích của trung tâm là tạo điều kiện cho việc liên lạc giữa các con tàu của liên minh với những con tàu bị nghi là buôn lậu. Tháng 11, Đô đốc Phil Davidson, tư lệnh Mỹ trong khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, nói rằng Washington đã dành riêng hai tàu cho việc tuần tra này và tăng số lượng các chuyến bay giám sát thêm 50%.

Cho đến nay, những nỗ lực của liên minh cho kết quả không rõ ràng. Tháng 12, một quan chức quốc phòng Mỹ nói với kênh NBC rằng kể từ tháng 10/2017, những kẻ buôn lậu đã bỏ, không chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia 30 lần vì bị các tàu tuần tra theo dõi. […] Hoạt động buôn lậu đã chuyển ra khỏi biển Hoa Đông và biển Nhật Bản để vào vùng lãnh hải lân bang, ví dụ như Trung cộng, nhằm tránh bị phát hiện. Kết quả là việc chuyển dầu từ tàu này sang tàu kia đang gia tăng.

Trong tương lai, chúng ta sẽ được chứng kiến liên minh này có hiệu quả như thế nào trong việc ngăn chặn các vụ vi phạm lệnh trừng phạt Triều Tiên, nhưng nỗ lực đa phương đầy tham vọng đã thu được thành công không thể chối cãi trong việc gia tăng áp lực lên những kẻ vi phạm lệnh trừng phạt và gia tăng áp lực lên các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc đang nhắm mắt làm ngơ trước các hoạt động của những kẻ vi phạm.

Phản công Bắc Kinh

Nếu liên minh chống buôn lậu ở biển Hoa Đông phần lớn là do Washington dàn xếp, thì sự tham gia ngày càng tăng của các bên thứ ba vào các hoạt động ở Biển Đông nhằm phản công lại Bắc Kinh đã và đang gắn bó hơn. Trong mấy năm qua, Mỹ đã lặng lẽ kêu gọi các quốc gia có cùng chí hướng tăng cường sự hiện diện của mình ở Biển Đông nhằm giúp khẳng định quyền tự do hàng hải, bất chấp các yêu sách quá mức của Trung cộng. Nhưng, Washington vẫn chưa tìm cách xây dựng một liên minh chính thức để thực hiện các mục tiêu này, mặc cho các quốc gia khác “đơn thương độc mã” khẳng định quyền của mình.

Những lời kêu gọi của Mỹ có thể góp phần thúc đẩy các quốc gia khác tăng cường hoạt động ở Biển Đông trong năm nay, nhưng quá trình quân sự hóa do Trung cộng tiến hành trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, đặc biệt là việc triển khai các tên lửa hành trình đất đối không và tên lửa chống hạm trên các đảo này vào tháng 5 dường như có vai trò to lớn hơn nhiều.

Quân sự hóa và triển khai tên lửa làm gia tăng lo ngại rằng Bắc Kinh đang thắt chặt kiểm soát trên biển và trên không ở Biển Đông, có thể làm suy yếu các nguyên tắc pháp lý quan trọng vốn là nền tảng của trật tự hàng hải toàn cầu, ngăn chặn, không cho các đối tác ở Đông Nam Á tiếp cận các quyền và nguồn tài nguyên của họ, và cuối cùng, gây ra bất ổn định và gây xung đột tiềm tàng trong khu vực. Chính điều này đã làm cho các quốc gia khác khẳng định quyền của mình và đưa ra thông điệp rằng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất quan tâm đến việc duy trì tự do hàng hải.

Năm 2018, Úc đã gia tăng tần suất các cuộc tuần tra dài ngày ở Biển Đông. Ngày 28/11, Phó đô đốc Michael Noonan, đứng đầu Hải quân Hoàng gia Úc, nói với cử tọa ở Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (International Institute for Strategic Studies) rằng hải quân nước ông “thường xuyên đi qua Trường Sa và eo biển Đài Loan”. Ông còn nói rằng chính sách của Úc không phải là đi qua khu vực trong vùng 12 hải lý xung quanh những hòn đảo đang tranh chấp, như Mỹ vẫn thường xuyên làm vì tự do hoạt động hàng hải, nhưng nước này ủng hộ quyền làm như thế của các nước khác.

Mỹ thực hiện quyền tự do hoạt động hàng hải trên toàn thế giới nhằm thách thức các yêu sách hàng hải quá đáng hoặc khẳng định rằng mình không tuân thủ những hạn chế mà các quốc gia khác áp đặt lên các quyền tự do đi lại trên biển đã được bảo hộ trên bình diện quốc tế. Tàu chiến của Mỹ thực hiện một loạt hoạt động như thế ở Biển Đông, trong đó có những chuyến đi vào vùng biển nằm trong phạm vi 12 hải lý của những hòn đảo do Trung cộng chiếm giữ.

Trong một số trường hợp, các hoạt động này là nhằm khẳng định rằng Mỹ không công nhận lãnh hải 12 hải lý quanh những hòn đảo nhân tạo vốn vẫn chìm xuống dưới mặt nước mỗi khi thủy triều lên; ở những nơi khác, Mỹ thách thức đòi hỏi phải thông báo trước cho Bắc Kinh thì tàu chiến nước ngoài mới có thể đi qua vùng lãnh hải này.

Tháng 6, một nhóm đặc nhiệm hải quân Pháp đã cùng với máy bay trực thăng và tàu của Anh đi qua Biển Đông. Họ không đi vào vùng lãnh hải 12 hải lý xung quanh các đảo đang tranh chấp hoặc nhắm vào bất kỳ yêu sách cụ thể nào của Trung cộng, nhưng, cũng tương tự như các cuộc tuần tra của Úc, sự hiện diện của họ là một thông điệp.

Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, Florence Parly, nói tại Đối thoại Shangri-La (Shangri-La Dialogue) trong năm nay [2018] rằng các nhà quan sát Đức cũng có mặt trên một trong những con tàu này.

Hai tháng sau, Vương quốc Anh đã tiến thêm một bước khi con tàu HMS Albion đi ngang qua quần đảo Hoàng Sa nhằm thách thức yêu sách bất hợp pháp của Trung cộng đối với các đường cơ sở xung quanh những hòn đảo này. Bằng cách vẽ các đường cơ sở bất chấp các nguyên tắc pháp lý quốc tế, Bắc Kinh đã tuyên bố rằng vùng biển nằm trong các đường cơ sở đó là vùng nội thủy và tàu nước ngoài không được đi vào. Chuyến đi của Albion là thách thức đòi hỏi đó và là lần đầu tiên hải quân nước khác chứ không phải Mỹ đã công khai tham gia vào hoạt động bảo vệ tự do hàng hải.

Ngày 31/8, khi Albion đi qua khu vực này cũng là lúc hải quân Mỹ và lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản tham gia cuộc tập trận song phương ở Biển Đông. Sau đó, tháng 9, Nhật đã đưa một tàu ngầm cùng với ba tàu khu trục của mình tham gia cuộc tập trận chống tàu ngầm ở Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Nhật Bản công khai thừa nhận tiến hành tập trận tàu ngầm ở vùng biển này.

Hoạt động hải quân gia tăng thể hiện mối lo ngại đang lan rộng trước những nỗ lực của Trung cộng nhằm viết lại các quy tắc của luật tập quán quốc tế ở Biển Đông. Không có quốc gia nào có chương trình tương đương với Chương trình Tự do Hàng hải của Mỹ, nhưng, thông qua các cuộc tập trận này, tất cả hải quân nước ngoài hoạt động ở Biển Đông đều khẳng định quyền tự do hàng hải, ngay cả khi đó không phải là mục đích duy nhất của họ.

Rốt cuộc, Trung cộng phản đối bất kỳ hoạt động quân sự nước ngoài nào trong vùng biển mà họ đòi chủ quyền mà không thông báo trước, và các lực lượng của Trung cộng thường cảnh báo các tàu và máy bay quân sự nước ngoài rằng phải ra khỏi “những khu vực cảnh báo về quân sự” được định nghĩa một cách tùy tiện hoặc chấm dứt “đe dọa an ninh” các cơ sở của Trung cộng khi họ đi qua không phận quốc tế và vùng biển lân cận.

Bây giờ là lúc nắm quyền lãnh đạo

Việc nhiều nước sẵn sàng khẳng định các quyền ở Biển Đông là cơ hội nắm quyền lãnh đạo, nhưng nước Mỹ chưa làm.

Đòi hỏi của Bắc Kinh đe dọa một loạt các quyền tự do trên biển, chứ không chỉ đe dọa quyền tự do đi lại của tàu chiến nước ngoài. Những đòi hỏi này bao gồm độc quyền của các quốc gia ven biển Đông Nam Á trong việc đánh bắt cá, khai thác tài nguyên dưới đáy biển, thực thi luật pháp và các quyền tài phán khác trong vùng biển của mình. Tự do hoạt động hàng hải, ngay cả khi được thực hiện bởi một liên minh các quốc gia khác nhau, là không đủ để bảo vệ luật pháp quốc tế và đẩy lùi quan điểm xét lại của Trung cộng.

Để bắt đầu làm việc này, Mỹ phải nắm vai trò lãnh đạo đa phương tương tự như họ đã làm ở biển Hoa Đông và đưa các nước cùng chí hướng như Úc, Pháp, Nhật và Vương quốc Anh tham gia các cuộc tập trận chung và các hoạt động xây dựng liên minh khác cùng với các đối tác ở Đông Nam Á, đặc biệt là Phi Luật Tân và Việt Nam.

Làm như thế là tín hiệu rõ ràng rằng các nước này, tương tự như Mỹ, quan tâm đến việc bảo vệ không chỉ tự do hàng hải của riêng mình mà còn quan tâm tới quyền của các nước cũng có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông. Công cuộc hợp tác như thế có thể dẫn đến việc thành lập một lực lượng đặc nhiệm chung, đặt trụ sở tại một trong các quốc gia Đông Nam Á nhằm ngăn chặn thái độ hung hăng của Trung cộng hoặc ngăn chặn những yêu sách mới ở Biển Đông.

Về mặt ngoại giao, Mỹ nên lôi kéo những nước này và những nước khác như Canada và các đối tác châu Âu để đưa Biển Đông trở lại vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự quốc tế. Tốt nhất là bắt đầu bằng ngôn từ mạnh mẽ về Biển Đông trong tuyên bố hàng năm của các nhà lãnh đạo G-7, mạnh mẽ hơn hẳn, chứ không chỉ đơn thuần là lo lắng về tự do hàng hải và ủng hộ các tiến trình ngoại giao được nêu trong Thông cáo của các Bộ trưởng Ngoại giao G-7 hồi tháng 04/2018. Ngôn từ cần thể hiện rõ rằng các nước G-7 cam kết duy trì mọi hoạt động hợp pháp trên biển, trong đó có việc các quốc gia Đông Nam Á thực hiện quyền của họ đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước mình.

Nỗ lực ngoại giao quốc tế có phối hợp sẽ gia tăng nhận thức về những hành động ăn hiếp của Trung cộng ở Biển Đông và làm suy yếu hình ảnh Bắc Kinh, cho thấy Bắc Kinh không phải là nhà lãnh đạo toàn cầu có trách nhiệm và đối tác hấp dẫn đối với các nước khác; tức là làm cho việc vi phạm thường xuyên các luật lệ phải trả giá đắt hơn.

Một liên minh hiệu quả về Biển Đông sẽ là liên minh giúp bảo vệ các quyền mà các quốc gia Đông Nam Á phải được hưởng trong vùng biển của mình, đồng thời làm cho Bắc Kinh phải có những thỏa hiệp lâu dài với các lân bang hoặc trả giá đắt về ngoại giao và kinh tế. Nhưng để liên minh đó hoạt động hiệu quả thì Washington phải có những hoạt động sáng tạo và tham vọng ở Biển Đông như họ đang làm ở Biển Hoa Đông.

Gregory Poling và Bonnie S. Glaser
Phạm Nguyên Trường dịch

Nguyên bản Anh ngữ: How the U.S. Can Step Up in the South China Sea, đăng trên tạp chí Foreign Affairs, 16/1/2019

Nguồn: Blog Phạm Nguyên Trường