Seite auswählen

Kỳ 1: Nhân viên Viettel và tội danh buôn lậu thiết bị quân sự

 Kiến An

Logo của Viettel đang được lắp đặt tại một trụ sở nước ngoài. Ảnh: Viettel.

“…Tôi có thể chịu phiền hà, và anh cũng vậy. Thực tế là cả hai chúng ta đều có thể đi tù…”

Nhìn dòng email từ vị đối tác làm ăn người nước ngoài hiện lên trên màn hình, người đàn ông lặng nghĩ. Anh ta có hai lựa chọn: tiếp tục thúc đẩy hoàn tất phi vụ này, hoặc không.

Người đàn ông đó là một nhân vật có thật. Câu chuyện của anh ta diễn ra ở Mỹ từ năm 2013 đến năm 2017.

Khi thử đặt mình vào lịch sử cá nhân của người đàn ông đó, bạn sẽ hiểu rằng sự lựa chọn của anh ta đã không hề dễ dàng. 

***

Làm việc cho tập đoàn nhà nước hùng mạnh

Tưởng tượng: bạn là một 8x đời đầu, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo khó ở Nam Định. 

Bố bạn là một ông từ giữ đền. Mẹ bạn làm việc trong một xưởng may mặc, nhưng đồng lương không đủ nuôi gia đình. Để có đủ tiền chăm nuôi gia đình và lo cho bạn học đại học, mẹ bạn phải xuất khẩu lao động sang Nga và chịu đựng gian khổ suốt 10 năm trời xa gia đình, người thân. 

Tốt nghiệp đại học với hai tấm bằng Kinh tế (từ trường Đại học Ngoại thương Hà Nội) và Anh văn (Đại học Hà Nội), bạn quyết tâm phải đền đáp những hy sinh của người mẹ.

Những nỗ lực ban đầu của bạn có kết quả ngay: vừa ra trường bạn được nhận vào một tập đoàn nhà nước làm ăn khá nhất giữa những “quả đấm thép” bê bết khác.

Năm 2007, tập đoàn này đã đạt doanh thu 16,300 tỷ đồng (hơn 1 tỷ USD). Họ nộp ngân sách nhà nước 2,186 tỷ đồng, và góp vào ngân sách quốc phòng 94,8 tỷ đồng.

Không chỉ làm ăn khấm khá, tập đoàn quốc doanh này còn có một chỗ đứng vững chắc trong hệ thống chính trị đầy rủi ro của Việt Nam: cơ quan chủ quản của tập đoàn là Bộ Quốc phòng Việt Nam, cơ quan lãnh đạo các lực lượng quân đội cả nước, đồng thời là một trong những bộ ngành ít chịu kiểm soát nhất từ chính phủ.

Tại thời điểm đó, Bộ Quốc phòng nắm 17 ghế trên 161 ghế trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam – cơ quan thực tế nắm quyền lực cao nhất trong nước. 

Bạn tưởng như đã có “thiên thời địa lợi nhân hòa”: bạn vào làm trong một tập đoàn kinh tế hùng mạnh, vừa đúng lúc tập đoàn này đang muốn mở rộng việc kinh doanh ra nước ngoài. Vốn tiếng Anh và kiến thức kinh tế của bạn lập tức trở nên hữu dụng. 

Với chiến lược cung cấp dịch vụ viễn thông giá rẻ cho khách hàng có thu nhập thấp tại các nước đang phát triển, tập đoàn bạn cử bạn đi mở rộng kinh doanh tại cả châu Á và châu Phi. 

Công việc kinh doanh của tập đoàn bạn ngày càng lớn mạnh. Năm năm sau khi bạn vào làm, tập đoàn vươn lên vị trí dẫn đầu ngành viễn thông trong nước với doanh thu140,000 tỷ đồng cùng mức lợi nhuận cao gấp ba lần đối thủ cạnh tranh lớn nhất của họ. 

Bạn cũng hẳn đã có thành tích khá ấn tượng nên tập đoàn bạn tiếp theo cử bạn đến một trong những thị trường viễn thông sôi động nhất trên thế giới: Hoa Kỳ.

Chuyến công tác trong mơ

Năm 2012, ở tuổi 31, đã có vợ và một cậu con trai hai tuổi, bạn hồ hởi về nhà báo cho cả gia đình nhỏ của mình về một cuộc phiêu lưu mới: bạn đã được bổ nhiệm làm phó chủ tịch cho công ty chi nhánh tại Mỹ của tập đoàn vĩ đại mà bạn đã gắn bó suốt tuổi xuân của mình.

Không chỉ là người tìm kiếm cơ hội kinh doanh cho tập đoàn tại Mỹ, bạn còn được ủy nhiệm thành lập cơ sở chi nhánh của tập đoàn mình ở đó. 

Ngoài tạo điều kiện cho bạn và gia đình có cơ hội được sống ở nước ngoài, tập đoàn hùng mạnh của bạn còn cung cấp những đãi ngộ khá tốt. 

Mức lương trong chức vụ phó chủ tịch chi nhánh của bạn hẳn phải lớn hơn con số 40,144 USD/năm – vốn là mức lương cấp thấp mà cơ sở chi nhánh của bạn chịu trả cho một chuyên viên quản trị rủi ro vào năm 2015. 

Bạn được thu xếp ở nhà riêng, tuy không lớn lắm, nhưng nằm trong một khu vực sạch sẽ thoáng đãng tọa lạc ngay gần khu dân cư nhiều biệt thự tỷ phú Golden Beach. Khu này nằm trên bờ biển của thành phố du lịch nghỉ mát Miami vốn đã nhiều lần là bối cảnh cho những bộ phim Hollywood đầy sắc màu. 

Mỗi ngày, bạn có thể lái xe tầm nửa tiếng từ nhà là đến được chỗ làm, một tòa cao ốcvăn phòng nằm ngay khu trung tâm sầm uất của thành phố Miami. 

Lẽ dĩ nhiên, cái gì cũng có cái giá của nó. 

Bạn cùng gia đình đến Mỹ ở và làm việc dài hạn với thị thực do tập đoàn bạn tài trợ. Thế nên, bạn càng phải chịu phụ thuộc rất nhiều vào các suy tính của lãnh đạo tập đoàn: họ hoàn toàn dựa vào kết quả công việc để quyết định có duy trì vị trí và thị thực của bạn tại Mỹ hay không.

Người vợ của bạn từ bỏ một công việc ổn định trong một ngân hàng tại Hà Nội để theo bạn sang Mỹ. Ngày ngày, cô làm công việc nội trợ, chăm lo cho đứa con trai nhỏ. Sau nhiều bỡ ngỡ, đứa bé ngày càng hòa nhập với bạn bè tại trường học và dần quen với cuộc sống nói hai ngôn ngữ, tiếng Anh ở trường và tiếng Việt ở nhà.

Cả cuộc sống gia đình bé nhỏ yên ấm đó, trong một xã hội phát triển với bầu không khí ít ô nhiễm và một hệ thống giáo dục ít bê bối, càng khiến bạn quyết tâm làm việc hơn nữa để bảo đảm cho vợ con mình một tương lai tốt đẹp. 

Bạn chắc là đã rất cần lòng quyết tâm đó. Vì công việc của bạn tại Mỹ rõ ràng là phức tạp hơn tất cả các nhiệm vụ phát triển kinh doanh quốc tế bạn từng làm ở châu Á hay châu Phi.

Không có chỉ dẫn đào tạo cụ thể từ tập đoàn “mẹ” (một điều bạn khẳng định sau này), bạn chắc đã phải vất vả tự mày mò học cách làm ăn ở Mỹ sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật phức tạp và văn hóa tôn trọng pháp luật khắt khe của nước này.

Tuy có chức vụ cao là phó chủ tịch, thực tế bạn chính là người phải chạy đôn chạy đáo điều hành công việc hằng ngày của cơ sở chi nhánh non trẻ. Bạn có một người đồng nghiệp – cũng là người Việt , giữ chức chủ tịch công ty chi nhánh. Tuy nhiên người này không thường xuyên ở Mỹ quán xuyến công việc mà phải lo các nghiệp vụ tại nơi khác cho Viettel. 

Hành nghề “nhạy cảm”

Đầu tiên, bạn tìm đến một công ty môi giới làm hồ sơ giấy tờ đăng ký công ty để làm thủ tục thành lập công ty chi nhánh tại bang Florida. 

Bạn chọn đưa cái tên của tập đoàn hùng mạnh của mình lên đầu tên chi nhánh một cách đầy tự hào: Viettel America Corporation. Công ty Viettel Hoa Kỳ chính thức thành lập ngày 21/03/2013.  

Sau đó bạn phải làm một công tác khó nhằn khác là xin cấp giấy phép hoạt động cho công ty bạn tại Mỹ. Do mục đích kinh doanh chính thức của tập đoàn bạn là kinh doanh các dịch vụ viễn thông bao gồm mạng điện thoại di động giữa Mỹ và Việt Nam, công ty bạn phải xin giấy phép hoạt động từ Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) – cơ quan nhà nước giám sát các hoạt động viễn thông tại Mỹ.

Quy trình xin phép này rất phức tạp nên bạn phải tìm thuê một văn phòng luật Mỹ để có tư vấn trợ giúp. Cũng phải chọn rồi đổi một lần mới tìm được một công ty luật ưng ý. 

Trong công tác quản lý các doanh nghiệp nước ngoài đang kinh doanh viễn thông tại Mỹ, FCC phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hành pháp Mỹ để đảm bảo rằng không có doanh nghiệp nước ngoài nào dùng việc kinh doanh viễn thông đó để gây hại cho an ninh quốc gia.

Thực tế là từ trước khi tập đoàn bạn đến Mỹ, các cơ quan chức trách nước này đã lo ngại về rủi ro các doanh nghiệp nước ngoài có khả năng đánh cắp công nghệ hoặc có các hoạt động thao túng, làm ảnh hưởng đến hệ thống cơ sở hạ tầng viễn thông – vốn là một “xương sống” của nền kinh tế và của cả xã hội Mỹ, cũng như bất kỳ quốc gia nào khác.

Vậy nên, cơ quan Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã phối hợp cùng Bộ Tư pháp (DOJ), Bộ An ninh Nội địa (DHS), và Bộ Quốc phòng Mỹ (DOD) để thành lập một tổ công tác mang tên Tổ Viễn Thông (Team Telecom) bao gồm các đại diện, chuyên viên đến từ cả bốn cơ quan này, để tập trung đánh giá xử lý các vụ rủi ro an ninh quốc gia có yếu tố viễn thông. 

Một buổi họp của FCC. Ảnh: Inverse.

Tháng 7/2013 bạn điền và nộp mẫu đơn xin phép hoạt động cho FCC. Cơ quan này ngay lập tức tìm hiểu và ghi nhận rằng tập đoàn “mẹ” của công ty bạn là tập đoàn Viettel có 100% vốn do nhà nước Việt Nam sở hữu. FCC lập tức chuyển hồ sơ của công ty bạn sang Tổ Viễn Thông để xin ý kiến của họ. 

Tổ Viễn Thông dành tầm nửa tháng suy xét hồ sơ rồi quyết định yêu cầu FCC đưa hồ sơ công ty bạn ra khỏi quy trình xét duyệt hồ sơ thông thường, để Tổ Viễn Thông thẩm tra rủi ro an ninh quốc gia. 

Thay mặt Tổ Viễn Thông, Bộ Tư pháp Mỹ (DOJ) gửi đến cho công ty bạn một mẫu đơn hỏi đáp dài 20 trang.

Mẫu đơn hỏi đáp đó do DOJ thiết kế nhằm thu thập thêm thông tin từ phía doanh nghiệp xin phép để nhà chức trách có thể đánh giá mức độ rủi ro an ninh quốc gia một cách chi tiết hơn.

Trong mẫu đơn này có một câu hỏi: doanh nghiệp đang xin phép, hay có cá nhân nào liên quan đến doanh nghiệp đó, đã từng bị điều tra, tố cáo, bắt giữ, truy tố, hay kết án vì các hoạt động gián điệp (espionage) hay các vi phạm hình sự có liên quan đến Các quy định Thương mại quốc tế về vũ khí (ITAR) hay Các quy định quản lý xuất khẩu (EAR), hay các quy định nào khác trong luật Mỹ hay không. 

Bạn trả lời “không” cho câu hỏi này và nộp mẫu đơn trả lời lại cho FCC. 

Thực tế là trước đó trong hồ sơ xin thị thực để đến làm việc tại Mỹ, mẫu đơn xin cũng đã yêu cầu bạn đọc kỹ nội dung ITAR và EAR để trả lời câu hỏi rằng bạn có cần phải xin giấy phép để xuất khẩu hàng hóa hay kỹ thuật gì cho công ty mình hay không. Lần đó, bạn cũng trả lời “không”.

Những câu trả lời “không” này rồi sẽ ám ảnh bạn. 

Nộp mẫu trả lời cho DOJ từ tháng 8/2013, tưởng là xong, tuy nhiên từ đó công ty bạn và văn phòng luật sư đại diện không hề nhận được bất kỳ một câu trả lời chính thức nào từ FCC hay Tổ Viễn Thông về hồ sơ xin phép hoạt động của công ty bạn. 

Cuối năm 2013, vị đồng nghiệp – chủ tịch công ty chi nhánh bạn bỗng quay lại Mỹ để nộp đơn xin đổi tên công ty từ Viettel America Corporation sang VTA Telecom Corporation hay Công ty Viễn thông VTA. Thông báo đổi tên này cũng được văn phòng luật sư của công ty bạn thông báo cụ thể cho FCC. 

Tình trạng “đóng băng”, không có giấy phép nên không kinh doanh mạng điện thoại gì được này chắc đã làm cả bạn và các cấp trên ở tập đoàn “mẹ” bồn chồn lo âu.

Sang đầu năm 2014, công ty bạn phải tuyển thêm một chuyên gia về thủ tục FCC với mức lương 45,739 USD/năm. 

Tập đoàn “mẹ” thừa sức để tích cực đầu tư kinh phí hoạt động như thế cho chi nhánh bạn bất kể chi nhánh chưa làm ra đồng nào. Năm 2013, tập đoàn có lợi nhuận trước thuếđạt hơn 35,000 tỷ đồng. 

Tuy nhiên, các cấp trên của bạn không hề muốn bạn ngồi yên chờ giấy phép. Họ muốn bạn phải tìm mua cho họ một số thứ vốn không thuộc chuyên môn viễn thông của bạn.

Ở đây có một điểm mà các tài liệu công khai từ Mỹ khó lòng trả lời: Khi nhận nhiệm vụ sang Mỹ cuối năm 2012, các cấp trên tại Việt Nam có bí mật giao thêm cho bạn nhiệm vụ nào khác ngoài phát triển kinh doanh viễn thông tại Mỹ hay không?

Các nhà chức trách Mỹ tin là có, cho dù (như họ tự nhận) họ không có bằng chứng. 

Theo họ, ngay khi mới đến Mỹ năm 2013 bạn đã bắt đầu thực hiện nhiều hành vi đi ra ngoài phạm vi kinh doanh viễn thông mà cơ sở chi nhánh tại Mỹ của tập đoàn bạn xin đăng ký là phạm vi hoạt động chính thức: tìm mua các thiết bị quân sự để có thể chuyển về Việt Nam cho tập đoàn Viettel. 

(còn tiếp)

12.07.2019

Cô đơn giữa xứ Cờ Hoa

Kỳ 2: Nhân viên Viettel và tội danh buôn lậu thiết bị quân sự

 Kiến An

Tiếp tục từ bài trước, người viết mời bạn đọc tưởng tượng đặt mình vào vị trí một nhân viên tập đoàn Viettel – một nhân vật có thật trong một vụ án hình sự nổi bật diễn ra dạo năm 2016-2017 tại Hoa Kỳ. 

Người này được cử sang Mỹ năm 2013 để mở công ty chi nhánh của Viettel tại Mỹ – VTA Telecom Corporation với mục đích chính thức là phát triển mảng kinh doanh viễn thông của Viettel tại đó. 

Tuy nhiên, chi nhánh này đã gặp vướng mắc thủ tục xin giấy phép hoạt động từ Ủy ban Truyền thông Liên bang (FCC) – cơ quan nhà nước giám sát các hoạt động viễn thông tại Mỹ. 

Do có liên quan đến tập đoàn Viettel – một tập đoàn nhà nước Việt Nam do Bộ Quốc phòng quản lý – chi nhánh này cũng bị đưa vào tầm ngắm của một tổ công tác liên ngành chuyên thẩm định rủi ro an ninh quốc gia mang tên Tổ Viễn Thông (Team Telecom).

Trong lúc chờ đợi giải quyết vướng mắc thủ tục xin phép hoạt động, người nhân viên Viettel phải tiếp nhận và thực hiện một loạt các yêu cầu rắc rối từ cấp trên của mình.

Chúng ta lại cùng xỏ chân mình vào đôi giày của anh ta, một người Việt Nam sinh năm 1981 tại Nam Định. 

Những yêu cầu rắc rối từ tập đoàn “mẹ”

Các nhà chức trách Mỹ có thể không có bằng chứng cụ thể là các lãnh đạo Viettel có bí mật giao thêm cho bạn nhiệm vụ tìm mua các thiết bị quân sự của Mỹ để chuyển về cho Viettel hay không. 

Tuy nhiên, họ vẫn thu thập được các bằng chứng cho thấy bạn thực hiện nhiệm vụ này tại Mỹ, ít nhất là từ năm 2015. Sau này khi ra tòa, luật sư của bạn rồi sẽ giải thích trước tòa rằng bạn làm những việc đó hoàn toàn theo các yêu cầu từ cấp trên tại Việt Nam. 

Có các yếu tố địa chính trị nhất định để giải thích cho các yêu cầu đó từ cấp trên của bạn: Tình hình tranh chấp Biển Đông đã nóng dần lên từ các va chạm năm 2011. 

Giữa năm 2012, Trung cộng thành lập “thành phố Tam Sa” để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam và các nước khác. Giữa năm 2014, Trung cộng đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực Biển Đông.

Nhiều chuyên gia quốc tế có chung nhận định: Biển Đông là một “vạc dầu sôi” có khả năng phun trào.

Tập đoàn Viettel hùng mạnh của bạn dĩ nhiên phải góp một tay để giúp cơ quan chủ quản là Bộ Quốc phòng chuẩn bị cho một kịch bản chiến tranh trên biển với Trung cộng và các bên tranh chấp.  

Từ năm 2013 và có thể là trước đó, Viện Nghiên cứu và Phát triển Viettel đã “nhận lệnh từ Bộ Quốc Phòng” để tiến hành sản xuất các thiết bị quân sự vốn phải nhập khẩu như radar, hệ thống quản lý vùng trời và máy bay không người lái. 

Nhưng để có khí tài quân sự đủ sức phòng vệ trên biển, quân đội Việt Nam còn cần nhiều thứ khác, bao gồm tên lửa diệt hạm.  

Mẫu trưng bày của tên lửa đối hải KCT-15. Ảnh: Chưa rõ nguồn

Theo truyền thông trong nước, trong năm 2015, quân đội Việt Nam đã phát triển thành công mẫu tên lửa diệt hạm KCT-15 trên cơ sở một mẫu tên lửa diệt hạm của Nga là Zvezda Kh-35. Cùng đợt, vị lãnh đạo tập đoàn Viettel khi đó cũng “hé lộ về khả năng Tập đoàn này sẽ chế tạo tên lửa phòng không hiện đại”. 

Khi nhìn vào danh sách cụ thể các thiết bị quân sự mà nhà chức trách Mỹ sau này phát hiện là bạn đã cố gắng tìm mua cho tập đoàn mình từ khi sang Mỹ năm 2013, có thể thấy các thiết bị đó liên quan khá nhiều đến các kế hoạch phát triển vũ khí quân sự nói trên của quân đội Việt Nam:

  • Tháng 6/2015, bạn thương lượng với công ty EO Imaging để mua các thiết bị theo dõi tên lửa dùng công nghệ video (video trackers) dành cho các hệ thống phóng tên lửa. Đây là một thiết bị bắt buộc phải xin phép xuất khẩu thể theo Các quy định Thương mại quốc tế về vũ khí (ITAR) của Mỹ. EO Imaging nhiều lần khuyên bạn phải hoàn tất thủ tục xin phép xuất khẩu trước khi họ bán thiết bị cho bạn;
  • Cùng đợt năm 2015, bạn thương lượng với công ty Space Electronics để mua các thiết bị KSR-6000 có tính năng đo lường chỉ báo Trung tâm Lực hấp dẫn (center of gravity), chuyên dùng cho tên lửa, bom và thủy lôi. Ban đầu bạn bảo là mua thiết bị này để xài ở Mỹ, sau đó lại nói là mua để gửi về Việt Nam. Space Electronics bèn rút lui khỏi phi vụ;
  • Tháng 8/2015, bạn tìm cách mua một hệ thống chống rung (gimbal system) với các đặc điểm kỹ thuật dành riêng cho camera nằm trong hệ thống chỉ đạo đầu tên lửa (missile seeker head). Công ty bán cũng khuyên bạn phải tuân thủ các quy định ITAR tuy nhiên bạn bảo rằng bạn “không có thời gian đi xin giấy phép xuất khẩu”. Trong một động thái còn gây nghi ngờ hơn nữa, bạn yêu cầu công ty bán hàng kia phải xóa tên bạn và tên công ty bạn khỏi các giấy tờ trong phi vụ này.

Nghĩa là trong ba lần vào năm 2015, bạn đã tìm cách liên hệ, thương lượng với các công ty công nghệ cao của Mỹ để tìm mua các thiết bị liên quan đến việc nâng cao khả năng theo dõi, điều khiển chính xác tên lửa. 

Trong cả ba lần mối lái đó, bạn đều có những động thái dễ gây nghi ngờ, hay chí ít là làm các doanh nghiệp Mỹ phải để ý. Có khả năng là một hay nhiều hơn các công ty kể trên đã nghĩ rằng các hành vi của bạn phải được thông báo cho nhà chức trách Mỹ.

Tại sao bạn không muốn làm thủ tục xin phép xuất khẩu đàng hoàng? Có thể vì thực tế lúc đó, chính phủ Hoa Kỳ vẫn đang áp đặt một lệnh cấm mua bán vũ khí kéo dài với Việt Nam (vốn chỉ mới được nới lỏng từ năm 2014 chứ chưa được gỡ bỏ hoàn toàn). 

Bất kể là từ “chỉ điểm” hay do tự họ, các chuyên viên liên ngành của Tổ Viễn Thông đến đầu năm 2016 đã có đủ căn cớ trong tay để tiến hành một chiến dịch giăng bẫy bài bản nhằm tóm gọn bạn.

Liều lĩnh

Các tài liệu công khai từ Mỹ không cho biết rõ là các nhân viên đặc vụ bí mật (undercover agents) của Tổ Viễn Thông đã “nuôi án” và lùa bạn đến với họ như thế nào.

Tuy nhiên chắc chắn là vào ngày 10/03/2016, bạn đã chủ động liên lạc để bắt đầu thương lượng làm ăn với một công ty Mỹ có tên là Sandia Technical Supply LLC. Nhân viên công ty này chính là các đặc vụ điều tra của Tổ Viễn Thông.

Những gì mà Sandia chào bán với bạn có vẻ rất hấp dẫn: 11 bộ động cơ phản lực hiệu Teledyne J402-CA-400. Các bộ động cơ này được dùng cho các tên lửa diệt hạm AGM-84 Harpoon do hãng Teledyne phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ. 

Đã có một số phân tích chuyên gia cho thấy tên lửa diệt hạm Zvezda Kh-35 của Nga – khuôn mẫu của tên lửa diệt hạm KCT-15 do Việt Nam tự phát triển từ năm 2015 – khá giống tên lửa Harpoon của Mỹ, đến nỗi Zvezda Kh-35 bị gọi giễu là “Harpoonski”.

Tuy đã phát triển được một số thiết bị thô sơ như giá phóng và ống phóng tên lửa đối hải dành cho các tên lửa diệt hạm KCT-15 thông qua Đề tài KCT-08 của Viện tên lửa, Bộ Quốc phòng Việt Nam trong năm 2016 có vẻ vẫn có nhu cầu nhập các động cơ tên lửa phức tạp hơn để lắp vào các tên lửa KCT-15 của họ.

Một lần nữa, các “nhân viên mẫn cán” của công ty Sandia phải là những người khuyên nhủ bạn nhiều lần rằng các bộ động cơ J402 là những thiết bị quân sự phải xin phép xuất khẩu thể theo nội dung ITAR. Họ đề xuất bạn xin phép xuất khẩu đàng hoàng ngay từ những email trao đổi đầu tiên.

Ngày 22/03/2016, “đại diện” Sandia gửi email giải thích với bạn: giá bán 11 bộ động cơ J402 sẽ cao hơn bình thường vì bạn không xin giấy phép đàng hoàng cho đơn hàng đầu tiên này. 

Trong email đó, người “nhân viên” Sandia viết những dòng như lời cảnh báo khẩn khoản cuối cùng cho bạn: “…Tôi có thể chịu phiền hà, và anh cũng vậy. Thực tế là cả hai chúng ta đều có thể đi tù…”.

Bạn lựa chọn việc làm hài lòng các cấp trên ở Viettel. Nghĩ rằng mình đang vì sự nghiệp, vì vợ con, bạn phải tiếp tục thúc đẩy hoàn tất phi vụ này. 

Ngày 26/04/2016, bạn đến một cơ sở sản xuất của hãng Teledyne ở bang Ohio để gặp các “đại diện” từ Sandia nhằm kiểm tra một động cơ J402 trước khi mua. Sau hôm đó, bạn bắt đầu gửi email thương lượng giá cả với Sandia. Các “đại diện” Sandia vẫn liên tục khuyên bạn phải xin phép xuất khẩu. 

Sau này bạn cũng thú nhận rằng bạn thừa biết xuất khẩu các động cơ J402 về Việt Nam không giấy phép là trái luật Mỹ. 

Không những biết mà cố tình vi phạm luật, bạn còn có hành vi gian dối với nhà chức trách Mỹ ngay trước mắt các “nhân viên” Sandia. Trong một mẫu đơn phải điền và đưa cho phía Sandia để họ nộp cho nhà nước nhằm giải thích mục đích sử dụng các bộ động cơ được bán, bạn ghi rằng các động cơ sẽ được dùng cho các máy bay không người lái. 

Tuy nhiên, cùng lúc gửi mẫu đơn này, bạn cũng gửi email riêng cho Sandia rằng bạn cần một chuyên gia tư vấn có thể giúp lắp đặt các động cơ J402 vào các tên lửa. Bạn ghi rằng vị chuyên gia bạn cần phải có kinh nghiệm “điều chỉnh cho thích ứng động cơ đó vào một dạng tên lửa Harpoon”. 

Ngày 09/05 và 10/05/2016, bạn đóng những chiếc đinh định mệnh cuối cùng: bạn ký kết giấy tờ rồi chuyển cho Sandia một khoản tiền 20,000 USD đặt cọc cho phi vụ mua 11 bộ động cơ phản lực.

Với nhân chứng, bằng chứng đầy đủ trong tay, Tổ Viễn Thông chuyển hồ sơ vụ điều tra bạn cho một đại bồi thẩm đoàn (grand jury) – tức là một nhóm từ 16 đến 23 công dân Mỹ được tuyển chọn ngẫu nhiên để suy xét vụ việc. 

Nhóm đại bồi thẩm đoàn này không quyết định có kết tội bạn hay không, mà quyết định nội dung cáo trạng (indictment) chống lại bạn bao gồm những tội gì.

Ngày 26/10/2016, cảnh sát Mỹ bắt giữ bạn với cáo trạng nêu hai tội hình sự nghiêm trọng: Buôn lậu trái phép và Xuất khẩu trái phép khí cụ quốc phòng.

Cảnh sát tiến hành khám xét nơi ở của bạn sau đó và thu thập được các giấy tờ bằng chứng cụ thể cho thấy bạn là một nhân viên quốc phòng (national defense employee) của quân đội Việt Nam, với phạm vi nhiệm vụ thể theo một “nhiệm vụ Quân sự Quốc phòng năm 2016” và nằm trong một kế hoạch nhằm “cung cấp nhân lực cho khối kinh tế, cho công tác sản xuất và sửa chữa quốc phòng năm 2016”. 

Bạn bị bắt theo một cách rất… xui: Trước đó vào cuối tháng 5/2016 – chỉ vài tuần sau khi bạn ký kết đặt cọc đơn hàng 11 động cơ phản lực, Tổng thống Obama đã tuyên bố gỡ bỏ cấm vận mua vũ khí mà Mỹ đã áp đặt lên Việt Nam suốt 50 năm. 

Nếu phi vụ J402 được thực hiện sau tháng 5/2016 với các bước đăng ký xin giấy phép xuất khẩu đàng hoàng, có thể là bạn đã được việc mà không mắc tội hình sự.

Tàn cuộc

Việc bạn bị bắt và việc Mỹ gỡ bỏ cấm vận vũ khí cho Việt Nam cùng kéo theo một lô các diễn tiến dồn dập khác.

Ba văn phòng luật sư khác nhau, đều có tên tuổi, được thuê để đại diện cho bạn: một đại diện thường trực, một cho phiên tòa xin tại ngoại, một cho công tác bào chữa hình sự trước tòa. 

Để xin được tại ngoại chờ ngày hầu tòa, bạn phải có những người bảo lãnh (surety) và phải nộp cho tòa Mỹ cầm một khoản tiền tại ngoại 100,000 USD. 

Bạn và vợ gom hết tiền để dành chỉ được 20,000 USD. Một người bạn thân đang sống tại Mỹ của bạn tình nguyện đem nhà anh ta đi cầm để lấy 40,000 USD góp cho bạn. Một người bạn khác góp 10,000 USD. Bạn vẫn còn thiếu 30,000 USD. 

Bản tốc ký nội dung phiên tòa tại ngoại cho thấy bạn đã nhận được trợ giúp tài chính từ một lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ. Luật sư bạn giải thích với tòa rằng cơ quan này cho bạn mượn 30,000 USD với điều kiện bạn phải cầm cố căn nhà tại Việt Nam. 

Bạn được tại ngoại trong khi luật sư của bạn tiếp tục làm việc với các luật sư của bên công tố nhà nước. Khoảng sáu tháng sau, các luật sư hai bên đạt được một thỏa thuận nhận tội (plea agreement): bạn sẽ chịu nhận một tội danh (buôn lậu trái phép) để đổi lấy một án phạt tù nhẹ hơn (12 hoặc 24 tháng, thay vì mức án tối đa 20 năm tù).  Bạn cũng đồng ý với việc bị trục xuất khỏi Mỹ ngay sau khi kết thúc án tù. 

Ở chiều ngược lại, cơ quan công tố Hoa Kỳ cũng không muốn vụ việc được đưa ra tranh tụng dài dòng trước tòa. Vì như vậy chi tiết về các biện pháp điều tra và thu thập chứng cứ chống gián điệp công nghệ và tội phạm buôn lậu vũ khí của các cơ quan điều tra Mỹ có thể sẽ bị tiết lộ trong nội dung tường trình, tốc ký tại tòa (vốn thường phải được công khai cho công chúng). 

Phiên tòa chính thức tháng 9/2017 của vụ việc chủ yếu là để các luật sư hai bên tranh cãi xem án tù bạn phải chịu là 12 hay 24 tháng. Luật sư của bạn khẳng định rằng bạn chỉ nhất nhất tuân theo lệnh từ cấp trên tại Viettel, vì bạn muốn được tiếp tục làm việc tại Mỹ. 

Các trình bày của luật sư bạn, các tường trình thành khẩn đầy cảm xúc của bạn và người vợ đã thuyết phục được vị thẩm phán chấp nhận cho bạn hưởng mức án tù thấp hơn. 

Về công ty bạn tại Mỹ thì, vài tuần sau khi bạn bị bắt, người đồng nghiệp – vị chủ tịch chi nhánh hay vắng mặt của bạn phải tức tốc quay lại Mỹ để tìm đến ngay một văn phòng luật sư lớn khác, khét tiếng về khả năng vận động hành lang trong chính trường Mỹ: McDermott Will & Emery, LLP. 

Mytel, một công ty viễn thông tại Myanmar do Viettel hậu thuẫn. Với sự hiện diện rộng khắp tại nhiều quốc gia, Viettel chắc chắn làm mọi cách để mình không mang danh “ám muội” trong các thương vụ đầu tư ra nước ngoài. Ảnh: Nhân dân

Trước khi tiến hành vận động hành lang cho hoạt động mua sắm thiết bị quân sự hợp pháp của Viettel, văn phòng luật này phải can thiệp để dọn dẹp “bãi chiến trường” của bạn. 

Họ tiến hành một cuộc điều tra nội bộ tại công ty VTA Telecom Corporation. Điều tra nội bộ này kết luận rằng các hành vi buôn lậu thiết bị quân sự của bạn hoàn toàn là bạn tự ý làm chứ không phải do công ty bạn chỉ đạo. Trong lúc bạn đang căng thẳng với các công tố viên người Mỹ thì công ty bạn “thành khẩn khai báo” hết các vi phạm của bạn cho nhà chức trách Mỹ.

Một thuộc cấp của bạn bị đuổi việc. Bạn cũng bị đuổi khỏi tập đoàn Viettel chỉ vài tuần trước khi bạn quyết định chấp nhận thỏa thuận nhận tội với bên công tố.

Một văn phòng luật mới được bổ nhiệm để tiếp tục đôn đốc hồ sơ xin giấy phép hoạt động kinh doanh viễn thông từ FCC cho công ty VTA Telecom Corporation. 

Trong lá thư tường trình với FCC nhằm nối lại tiến trình xin giấy phép trong năm 2018, mọi tội lỗi liên quan đến các phi vụ buôn lậu thiết bị quân sự của bạn đều được đổ lên đầu bạn và người thuộc cấp. 

Lá thư viết rằng vào năm 2015, tập đoàn Viettel đã chỉ đạo VTA Telecom Corporation tiến hành nghiên cứu và phát triển các thiết bị viễn thông (chứ không phải thiết bị quân sự) cho họ.  

“Giấc mộng Mỹ” của bạn, sự nghiệp của bạn, cuộc sống êm đềm của gia đình bạn tại Mỹ đã chấm dứt như thế đấy.

Nhưng với tập đoàn nơi bạn đã gắn bó cả tuổi xuân, “giấc mộng Mỹ” của họ mới chỉ lại bắt đầu.

15.07.2019

Luật Khoa Tạp Chí (Luatkhoa.org)

***

Nhân vật có thật của loạt bài này có tên là Bùi Quang Huy, sinh năm 1981, nhân viên tập đoàn Viettel từ 2007 đến 2017. Vợ con anh trở về Việt Nam ngay sau phiên tòa tháng 9/2017. Anh hiện đã thụ hết án tù tại Mỹ năm 2018 và đã bị trục xuất về Việt Nam. Nếu được quay lại Mỹ, anh ta sẽ tiếp tục bị nhà chức trách Mỹ quản thúc cho đến hết năm 2021. 

Durch die weitere Nutzung der Seite stimmst du der Verwendung von Cookies zu. Weitere Informationen

Die Cookie-Einstellungen auf dieser Website sind auf "Cookies zulassen" eingestellt, um das beste Surferlebnis zu ermöglichen. Wenn du diese Website ohne Änderung der Cookie-Einstellungen verwendest oder auf "Akzeptieren" klickst, erklärst du sich damit einverstanden.

Schließen