Seite auswählen

LTS. Diễn Đàn Thế Kỷ rất hân hạnh nhận được bài Tội Phạm Học Luận Chứng do tác giả, Giáo sư Lê Hữu Khóa gửi đến. Đây là một bài nghiên cứu quy mô về vấn đề tội phạm, nhằm giúp mọi người nhìn ra tính chất tội phạm của đảng cộng sản trên đất nước Việt Nam suốt bảy thập kỷ qua. Vì bài khá dài, chúng tôi sẽ đăng liên tục trong nhiều kỳ.

DURKHEIM :
Khi ta nghiên cứu có những cá nhân mang đặc tính giống nhau 
là gây tội ác bằng tội phạm của mình mà ta gọi là tội nhân, 
thì ta nên có một khoa học chuyên môn để gọi tên khoa học cho nó: tội phạm học.

Khoa học luận dùng khám phá khoa học để phê bình và xem xét lại các định đề cố hữu của khoa học, như vậy khoa học luận dụng diễn luận khoa học để giải luận khoa học, dùng lý luận khoa học mới để khám nghiệm lại các lập luận cũ. Nên, định hướng khoa học luận phải dựa trên phương trình luận (lý luận, lập luận, diễn luận, giải luận) để lập nên các chỉ báo, từ đó nghiên cứu, điều tra, khảo sát, điền dã về sự thật để nhận ra chân lý. Chính sự thật và chân lý sẻ mở ra một chân trời cho tội phạm học có đầy đủ nhận thức về lẽ phải:
  • Cái ác được nhận ra bằng quá trình của ý thức, vì ý thức trước đó biết là có cái tốt hoàn toàn ngược lại với cái ác, và cái tốt có mặt trong cuộc sống để bảo vệ cuộc sống.
  • Cái độc là nền của động cơ hành động cho ra cái ác, chính sự hiện diện của lý trí báo thức cho ý thức biết là cái lành có trong cái nhân, để duy trì cuộc sống trong xây dựng, chống lại sự tàn phá của cái độc.
  • Cái thâm là con tính của cái độc, để biến cái ác thành cái thực trong cuộc sống. Nhưng chính tại đây, ý thức hợp lực với lý trí để chế tác ra niềm tin bảo vệ cho bằng được cuộc sống bằng cái hay mang tầm vóc của cái tốt, mang bản lĩnh của cái lành để tiếp tục bảo hành cuộc sống.
  • Cái hiểm, là thủ đoạn của cái thâm, là gốc rễ của cái độc, là cội nguồn của thâm. Nó luồn lách qua tà quyền, nó chui rúc để bám bạo quyền, nó thích bóng tối hơn ánh sáng, vì nó sợ sự thật, nó sợ bị lột mặt nạ, nên bóng tối là nơi ẩn nấp của cái hiểm để nó thực hiện tội ác của nó.
  • Tội ác, không những mượn bóng tối để ẩn nấp, mà còn để che giấu tội trạng, để khỏa lấp tội phạm, giấu diếm tội nhân, mà còn để lẩn trốn ánh sáng của sự thật, chính sự thật sẽ đưa tội phạm ra trước ánh sáng: công lý!
  • Tội trạng, sẽ được xử bằng công lý, có cái lý của công bằng, có cái luận của công luật, cái cái quyết của công pháp, nơi đây pháp luật thực thi cái luật trên nền của công tâm.
  • Tội phạm, khi bị lên cán cân, một bên là đạo lý (hay, đẹp, tốt, lành) và một bên là luật pháp (công bằng, công lý, công pháp, công tâm), thì nguyên nhân, động cơ, hành động, hậu quả của tội ác, tội trạng, tội phạm sẽ vạch mặt, chỉ tên tội nhân.
  • Tội nhân, bị vạch trần lý lịch qua bằng chứng của tội ác, qua tang chứng của tội trạng, qua minh chứng của tội phạm, nên luật pháp có đầy đủ luận chứng để luận tội  kết tội thủ phạm của tội ác; dù đó là một đảng, một chính quyền, một chính phủ, một bọn tham quan, một tập đoàn tội phạm, một nhóm sát nhân… dù chúng có sự hỗ trợ của một cường đảng như Tàu tặc, Tàu phỉ hiện nay.

Định vị phương pháp luận của tội phạm học

Phương pháp luận dụng phương pháp để bổ xung phương pháp, dùng phương pháp để củng cố phương pháp, sử dụng phương pháp để kết nối nghiên cứu với điều tra, khai thác phương pháp để kết hợp khảo sát với điền dã, lý luận trên phương pháp để lập luận cùng phân tích, diễn luận qua phương pháp để giải luận song hành cùng giải thích. Định vị phương pháp luận của tội phạm học dựa vào nội lực đã có trong các chuyên nghành khoa học xã hội và nhân văn, nhưng tội phạm học mang tính đặc thù nghiên cứu về sự thật luôn bị giấu diếm, mang tính đặc điểm điều tra về chân lý luôn bị phủ lập, mang đặc tính khảo sát về lẽ phải luôn bị ám sát cùng nạn nhân ngay trong tội ác. Nên phương pháp luận của tội phạm học phải có các định vị đặc sắc sau:
  • Khoa học nhân văn, từ văn học tới triết học, cho tới ngôn ngữ học có cơ sở là văn bản từ dữ kiện tới chứng từ, từ phân tích tới giải thích, văn bản làm nền cho diễn luận và giải luận. Nhưng tội phạm học phải đi xa hơn nữa trong cách thuyết phục dữ kiện để tạo tiền đề cho tang chứng, chứng từ là thượng nguồn để nhận ra tang vật, từ đó thấy rõ tội ác để nhận diện tội nhân.
  •  Khoa học xã hội, từ xã hội học tới dân tộc học mà tên gọi mới là nhân học cho tới sử học, có nền cũng là văn bản, nhưng định vị qua điều tra thực địa, qua nghiên cứu thực tiễn, qua điền dã thực nghiệm tại chỗ, nơi mà “mắt thấy tai nghe” ngay “tại chỗ, tại nơi”, “bây giờ và ở đây” làm rễ cho thực tế, làm gốc cho sự thực. Nhưng tội phạm học phải đi sâu hơn nữa trong cách diễn đạt các tội ác không nằm trên mặt nổi của xã hội, mà trong các mạch ngầm, bóng khuất, xó gian, luồn bẩn…luôn được giấu kín và được bảo kê bởi tà quyền.
  • Sử học, ghi nhận sự kiện, mô tả dữ kiện, giãi bày sự cố, rồi xếp vào một trật tự của không gian, một thứ tự của thời gian, trong đó các diễn biến được phân tích và giải thích bằng chứng từ, làm nên luận cứ cho sử học. Nhưng tội phạm học phải đi rộng hơn nữa trong cách phân giải các sử kiện có liên quan tới quá trình thâm, độc, ác, hiểm của tội nhân luôn ép nghẹn, các tội trạng luôn phủ lấp cho tội phạm để thủ tiêu các tội ác của nó.
  • Văn học, biết ghi nhận sự kiện để sáng tác ra hành động của các nhân vật trong tiểu thuyết, biết mô tả dữ kiện để sáng tạo ra các cá thể với hành vi đặc thù để phong phú hóa các diễn biến. Đồng thời, biết giãi bày sự cố qua không gian và thời gian được tổ chức vừa theo thực trạng, vừa theo sức tưởng tượng của tác giả, qua văn xuôi hoặc qua thi ca. Nhưng tội phạm học phải khách quan bằng sự chính xác của tang chứng, qua minh chứng của tang vật. Tại đây tội ác gây ra có tác động dây chuyền không những trên nạn nhân của nó, mà còn lan tỏa ra xã hội, thấm nhập vào giáo dục, làm hư úng đạo lý cộng đồng, luân lý tập thể, đạo đức tổ tiên.
  • Triết học, dựng tư tưởng để lý luận trên các khái niệm, xây dựng ra kiến thức lý thuyết để lập luận các vấn đề của nhân sinh bằng diễn luận các quá trình tri thức của nhân trí để tìm tới sự thật. Nhưng tội phạm học phải tỉnh táo để cặn kẽ, tự đó tập hợp đầy đủ tang chứng, tang vật, qua biến cố mà hậu quả được thấy-biết-hiểu không những trong môi trường của nạn nhân qua hành động của tội nhân, mà ngay trên môi sinh của một dân tộc, của một quốc gia, từ đó xét nghiệm các hậu quả này trên toàn nhân loại.
  • Xã hội học, nghiên cứu về đời sống xã hội, điều tra về sinh hoạt xã hội, xét nghiệm các quan hệ xã hội, để tìm hiểu các mâu thuẫn, các xung đột, qua phân loại và phân tầng trong xã hội. Xã hội học cùng lúc thấu hiểu hợp tác giữa các cộng đồng qua tính đoàn kết hay qua quá trình bị tha hóa; các sáng kiến của tập thể tự đòi hỏi tới đấu tranh; các sáng tạo của cá nhân luôn củng cố quyền lợi xã hội của mình qua các công trình có lợi ích an sinh xã hội. Nhưng tội phạm học phải đào sâu hơn nữa quá trình liên đới giữa quyền lực -quyền lợi- tư lợi để nhận diện được cái ác có mặt không những qua quá trình bóc lột đồng loại để trục lợi, mà nó còn dựa dẫm lên bạo quyền để trộm, cắp, cướp, giật; Nó còn biết đeo bám vào tà quyền để giết, loại, hủy, bỏ các cái hay, đẹp, tốt, lành của đạo đức xã hội, bằng tội ác để vơ vét, để đục khoét, để bỏ đầy túi tham tư lợi của nó.
  • Nhân học, nghiên cứu toàn bộ nhân sinh, khảo sát toàn diện nhân tình, điều tra toàn cõi nhân thế, nhận diện nhân loại bằng chiều sâu để hiểu chiều cao, thấu đáo chiều rộng để biết chiều dài của nhân vị. Nhưng tội phạm học phải mang tính chính xác của phương pháp để có tính chuẩn xác trong phân tích và giải thích các bóng tối của nhân sinh nơi mà tội ác đang ẩn náu; Các góc khuất của nhân thế nơi mà tội phạm đang luồn lách, các mạch ngầm của nhân tình nơi mà tội trạng không được phơi bày, nơi có các luồng vừa bẩn, vừa độc của tà quyền đang bao che cho tội nhân. Chúng đang giết, loại, thiêu, hủy đồng loại, đang bất chấp nhân tính được định vị qua không những qua nhân bản và nhân văn, mà còn qua nhân nghĩa và nhân từ.
  • Luật học, lấy công bằng để bảo vệ nhân sinh, dùng công luật để duy trì nhân thế, dụng công pháp để bảo trì nhân tính, đại diện cho công tâm để xử lý các vấn đề của nhân tình, phán quyết bằng hệ công (công bằng, công luật, công pháp, công tâm để lập nên công pháp) làm nên công luận để tuyên án tội phạm. Nhưng tội phạm học phải chuẩn bị sắc sảo nhất ngay trên thượng nguồn để giúp luật học, luật pháp tra, quyết, xét, xử tội ác với sự tỉnh táo của khách quan, với sự sáng suốt của liêm minh, nơi mà sự liêm chính của chứng từ được vạch ra bởi sự liêm khiết của mọi công dân trong một dân tộc có văn hiến, trong một quốc gia có văn minh đang là nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của tội ác, mà luật phải luận tội tới nơi, tới chốn, một cách nghiêm minh nhất.

Định chất lý thuyết luận của tội phạm học

Nội chất của lý thuyết là biến đúc kết kiến thức thành mô hình qua công thức, khi kiến thức trở thành mô thức thì tri thức thành hình qua lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận của lý thuyết. Lý thuyết luận dụng lý thuyết mới để xét nghiệm lại lý thuyết cũ, tập hợp lý thuyết cũ và mới để lý thuyết luận có thể sử dụng lý thuyết để củng cố lý thuyết; từ đó lý thuyết luận tận dụng lý thuyết để bổ sung cho lý thuyết. Tại đây, định chất lý thuyết luận của tội phạm học mang nội hàm của các thành quả đã đạt được trong tất cả các nghành khoa học xã hội nhân văn, và từ các thành quả này tội phạm học phải đủ lực, đủ tầm, đủ vóc, đủ dạng để có các sung lực cần thiết của mình qua các quá trình xây dựng lý thuyết, vừa có cơ sở, vừa có tiềm năng:
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái thiện, vì nó diệt không những nhân phẩm có trong nhân tính, nhân bản có trong nhân tri, nhân nghĩa, nhân từ có trong nhân văn  nhân vị; mà nó còn giết, diệt, hủy, thiêu các điều kiện làm người bình thường nhất đã có trong nhân loại, nhân tình, nhân thế, nhân sinh.
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái lành, vì chính cái lành làm nền cho hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), có trong quan hệ giữa người, tạo nên sự sống chung trong đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan hệ xã hội. Chính từ cái lành này, mọi người có cùng một quá trình tư duy tự làm người biết sống chung qua sự tôn trọng lẫn nhau để tiến tới chuyện làm người biết làm việc chung, biết chia sẻ với nhau trong điều kiện làm người  cái lành.
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái tốt, vì chính cái tốt chế tác ra hệ công (công ích, công lợi, công pháp, công luật để bảo vệ công bằng), trực diện để đối kháng lại với cái ác. Và, chính cái tốt nói rõ bổn phận với cộng động, trách nhiệm với tập thể của mỗi công dân, từ đó biến đoàn kết thành tương thân, tương trợ làm nền cho bản chất của cái tốt: bác ái! Từ định chất này, cái tốt làm được bác ái, vì nó mang nội hàm của vị tha, khoan dung, rộng lượng để tới thẳng từ bi, mà nhân từ là kết quả tích cực của cái tốt biết làm nên nhân phẩm.
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái hay, không hề là chuyện của bẩm sinh, mà là chuyện của giáo dục. Nó không trên trời rơi xuống mà là chuyện rèn luyện qua phẩm chất của giáo khoa, làm nên giá trị nhân tính qua giáo trình, chế tác ra chất lượng của nhân bản qua giáo án. Vì cái hay mang cái thiện, cái lành, cái tốt vào cuộc sống xã hội, qua đường đi nẻo về của nhân sinh quan hay của mỗi cá nhân, qua thế giới quan hay của một dân tộc, qua vũ trụ quan hay của một chính quyền. Và, nếu chính quyền này chỉ là bạo quyền, hoặc tà quyền thì không thể cấy, cày, tới, tẩm được cái hay để chống lại cái ác.
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái đẹp, tới từ ý muốn của nhân phẩm, ý định của nhân ái, ý lực của nhân lý. Nơi mà con người biết đứng dậy và đi tới để đi xa hơn trách nhiệm cá nhân và bổn phận công dân, để tới phương án mà cũng là phương trình của cái đẹp: tự do luôn song hành cùng nhân phẩm, cả hai không để cái ác lộng hành, rồi biến tự do lẫn nhân phẩm là nạn nhân của nó. Đứng dậy, đi tới để lấy, cầm, giữ, nắm hệ tự (tự do, tự chủ, tự quyết, tự trọng), để bảo vệ tự do lẫn nhân phẩm, phải được xem như ngang hàng, lắm lúc còn cao hơn cả hạnh phúc của một cá thể, cao hơn cả sự bình yên của một tập thể. Cái đẹp vì nó đẹp ở trên cao (cao hơn cả trời), ngay trong tư duy của con người tự do biết yêu người, của con người tự trọng biết yêu cuộc sống.
  • Cái ác gây ra tội ác, luôn tìm mọi cách để tiêu diệt chủ thể, chính là cá thể có cá tính luôn biết đòi hỏi công bằng qua công lý, luôn thấu hiểu tự do để có tự chủ. Chủ thể tôn trọng bổn phận và trách nhiệm, nhưng chủ thể muốn làm công dân trong ý nghĩa toàn vẹn nhất, với giá trị phổ quát nhất: chủ thể của tự do hành động vì công lý. Cá tính của chủ thể trong sáng tạo biết song hành, biết chung lưng đấu cật với cái lành, cái tốt, cái hay, cái đẹp để sáng tạo của chủ thể phải là tác phẩm của cái thiện, hoàn toàn mâu thuẩn với cái ác.
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái nhân, vì trong cái nhân có sự thương yêu biết hiến dâng lòng bác ái, có thiện chí biết hiến tặng thiện tâm; trong khi đó cái ác không những gây nên nổi khổ, niềm đau cho nạn nhân của nó, mà còn truy, hủy, giết, diệt nhân phẩm của nạn nhân này. Cái ác không phải chỉ là lỗi, mà chính là tội: tội ác đã giết thân xác, diệt cuộc sống, hủy nhân cách của nạn nhân, bằng bạo lực của bạo quyền, bằng bạo hành của tà quyền, nó mang bản chất của bạo động, hoàn toàn ngược lại với phẩm chất bất bạo động của hệ nhân (nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn).
  • Cái ác gây ra tội ác, ngược lại với cái sinh, chính là sự sống đang bị cái ác gây thương tích, tạo thương tật, gây ra thương xót trong xã hội, quần chúng. Chính cái ác báo hiệu cái chết đang tới, nó báo động cái sinh trong sự sống đang bị đe dọa bởi bạo lực, được bảo kê bởi bạo quyền, được hà hơi tiếp sức bởi tà quyền, bất chấp công tâm và công lý. Muốn chống lại cái ác, thì sự hiểu biết về công bằng và công lý không đủ, sự thấu đáo về tự do, tự chủ không đủ, mà phải vận động tư duy qua hệ luận (lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận) trên hệ nhân (nhân phẩm, nhân từ, nhân nghĩa, nhân bản, nhân văn). Cả hai hệ (luận  nhân) này, phải đủ hùng lực để chế tác ra hệ sáng (sáng kiến, sáng chế, sáng tạo) biết bảo vệ cái sinh trong nhân thế, bảo hành sự sống cho nhân sinh.

TỘI PHẠM HỌC BẠO QUYỀN (Tội ác quyền lực)

Tội phạm học tổng quan đã kết luận được: các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác nhiều hơn các chế độ dân chủ; các chế độ độc đảng-toàn trị giết người nhiều hơn các chế độ tôn trọng nhân quyền; các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác qua nhiều thế hệ đậm hơn, sâu hơn, rộng hơn các chế độ dân chủ, biết tôn trọng nhân quyền.

Cải cách ruộng đất 1956-1958 : tội phạm cầm dân, tội ác cầm cân

Tội phạm học khi tìm hiểu nguyên nhân của tội ác được thể hiện qua hành động của tội phạm trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại trên nạn nhân từ tính mạng cá nhân tới thân thế của gia đình, thân tộc, họ hàng, đồng nghiệp, các thế hệ sau của nạn nhân, thì tội ác gây ra trong giai đoạn của Cải cách ruộng đất 1956-1958 đã có nhiều chứng từ nhưng vẫn còn nhiều ẩn số. Chính các ẩn số này giúp nghiên cứu, điều tra, khảo sát của các nghành KHXHNV không chỉ ngừng ở giai đoạn thảm sát các nạn nhân bị quy chụp là địa chủ mà thống kê chỉ phỏng đoán hằng trăm ngàn nạn nhân bị hành quyết. Tại đây, tội phạm học phân tích và giải thích phải đi xa, đi sâu vào các hậu nạn về:
  • Tội ác chống đạo lý, chính Cải cách ruộng đất đã gây ra sự rạn nứt trầm trọng trên các tổ chức truyền thống của nông thôn, từ giáo dục tới văn hóa, từ đạo lý tới truyền thống…Diệt tình nghĩa làng xóm để thế vào đó là sự tố cáo lẫn nhau, tạo ra quan hệ từ ngờ vực tới thù hằn, mà nhiều thế hệ mai sau còn phải nhận hậu quả của sự xung đột giữa hai chiến tuyến: một bên là nạn nhân, một bên là tòng phạm với tội ác.
  • Tội ác chống luân lý, qua tổ chức các tòa án nhân dân, trong đó nhân dân chỉ là con cờ bị thao túng rồi giật dây, bị đưa đẩy trong nhào nặn để tham dự vào một tội ác mà họ là nạn nhân-đồng loã. Từ đây, họ biến thành tác nhân-đồng phạm để ý đồ của ĐCSVN được thực hiện trước thành thiên bạch nhật.
  • Tội ác liên thế hệ,  Cải cách ruộng đất tạo dựng nên trong một thời gian dài trên một không gian rộng của miền Bắc, đó là tội ác thuộc hành chính và cơ chế. Từ đây tạo phân biệt đối xử để truy đuổi các thế hệ sau của các nạn nhân đã bị giết: con cái, cháu chắt vẫn bị loại bỏ khỏi trong nhiều sinh hoạt xã hội, bị trừ khử trong nhiều nghành nghề, bị tiếp tục truy lùng qua các lần thi cử, tuyển sinh.
Tội ác luôn bồi đắp cho tội ác để khỏa lấp cái ác của tội ác, qua các chiêu trò bày biện giả tạo của phê bình và tự phê bình của các đảng cộng sản, từ khi chủ nghĩa cộng sản biến thành phong trào cộng sản để cướp chính quyền một cách sắt máu nhất trên nhiều quốc gia trong thế kỷ XX. Trong trường hợp của Việt Nam, thì các chuyện như: Hồ Chí Minh “giả dạng” đứng khóc trước quần chúng để xin lỗi các sai lầm trong Cải cách ruộng đất; Trường Chinh “bị cắt chức” tổng bí thư… như để xác nhận các sai lầm trong Cải cách ruộng đất. Thực chất chỉ là những màn kịch thô thiển để che lấp một tội ác mà Việt tộc cần đòi hỏi công pháp phải bảo vệ công lý cho tới nơi tới chốn, vì công chứng hóa tội ác này vẫn chưa hề trễ, nếu một chính quyền liêm chính mới ra đời thì có thể thực hiện các quy trình nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dã của tội phạm học:
  • Định lượng hóa qua thống kê, từ cấp làng lên cấp huyện, tự cấp vùng lên cấp tỉnh, rồi cấp quốc gia về con số chính xác các nạn nhận trong tội ác này
  • Hồi ký hóa qua nghiên cứu vừa định chất, vừa định lượng các con cháu của các nạn nhân đang còn sống mà không quên nhật ký, chứng từ, dữ kiện do các nạn nhân đã thuật lại, đã được ghi nhận bằng hình ảnh.
  • Phỏng vấn xã hội học phối hợp, theo ba định hướng mà xã hội học đã ứng dụng và đề nghị cho tất cả các nghành KHXHNV khi đi vào điều tra thực địa: phỏng vấn có chủ đề (chủ đề về tội ác trong Cải cách ruộng đất); phỏng vấn không định hướng (không chỉ có định hướng chính mà có luôn cả bối cảnh gia đình, văn hóa, chính trị, xã hội của giai đoạn sau 1954); phỏng vấn phối hợp vừa có chủ đề, vừa không có định hướng (để thấu hiểu thực cảnh lịch sử, thực trạng ý thức hệ, thực tế xã hội của giai đoạn Cải cách ruộng đất.
  • Bản câu hỏi có chủ đề về Cải cách ruộng đất, phối hợp thuần thục câu hỏi đóng với các hậu quả trực tiếp, câu hỏi mở giúp các nạn nhân, các tác nhân có tự do vừa trả lời, vừa có các lý lẽ cùng chứng từ về hành vi, hành động của họ trong gia đoạn này. Không quên các câu hỏi vừa đóng vừa mở để khung lại các chủ đề chính còn tồn tại trong tư duy, trong lý lẽ, trong cảm nhận, trong quyết đoán của các nạn nhân, cũng như của các tác nhân trong giai đoạn này.
  • Bàn tròn sự thật địa phương về Cải cách ruộng đất ngay trong địa phương: xóm, xã, làng, huyện, tỉnh, vùng… của các nạn nhân, cũng như của các tác nhân trong gia đoạn này. Từ đó kiểm tra các sự kiện như các sự cố mà khi đã được các nhân chứng xác minh thì sự kiện sẽ thành chứng từ để công lý chống tội ác xác chứng như một dữ kiện khách quan không chối cãi được.
  • Hội luận liên vùng về Cải cách ruộng đất để đưa vào phân tích chiều rộng bằng phương pháp so sánh tác hại và hậu nạn giữa các vùng với nhau. Từ đó nhận diện ra chiều sâu của tội ác, và chiều cao của tội nhân chính là các lãnh đạo chính trị độc đảng, nơi mà không phải chỉ một cá nhân lãnh đạo chịu trách nhiệm mà phân tích tội ác tới từ các quyết sách đã thành chính sách trong xã hội, mà tất cả tới từ Bộ chính trị của ĐCSVN.
  • Hội thảo quốc gia về Cải cách ruộng đất, với các thước đo định lượng cũng như định chất của tất cả các ngành KHXHNV với dữ kiện khách quan từ chứng từ tới chứng nhân để tới được một hệ thống giải thích tổng quan. Có tầm vóc của tổng luận bằng lý luận, lập luận, giải luận, diễn luận, đủ nội công và nội lực để làm nên sung lực cho công lý, hùng lực cho công pháp, cùng lúc đóng góp cho nhân loại một kinh nghiệm vô cùng thảm khốc chống nhân tính, vùi dập nhân phẩm, vì nó bóp ngộp nhân vị ngay trong nhân sinh.
  • Hội nghị quốc tế về các tội ác chống nhân loại (crime contre l’humanité) cần kinh nghiệm của Việt Nam trong giai đoạn sắt máu này để các thế hệ sau, không rơi vào loại thảm sát. Nơi mà tội ác được tổ chức có hệ thống để truy diệt một số lượng lớn nạn nhân vô tội, với ý đồ dùng ý thức hệ độc tài-toàn trị để truy diệt nhân phẩm lẫn nhân tri.
Tội phạm học đóng góp tích cực vào quá trình này từ nghiên cứu tới khảo sát, từ điều tra tới điền dã, từ phân tích tới giải thích, từ giải luận tới diễn luận, đóng góp của tội phạm học có mặt trong:
  • Tìm hiểu sự thật, cùng lúc thấu hiểu cường độ của tội ác.
  • Tìm hiểu chân lý, cùng lúc thấu hiểu mật độ hành sát của tội phạm.
Từ đây, tội phạm học làm sáng lên liên minh của sự thật và chân lý để làm rõ lẽ phải là:
  • Các chế độ của hệ độc (độc đảng, độc tài, độc quyền, độc trị, độc tôn) mang bản chất toàn trị từ hành vi tới hành động, có phản xạ gây tội ác để thuần hóa dân chúng.
  • Các chế độ độc đảng-toàn trị mang phản ứng dễ dàng gây tội ác vì không có công lý nghiêm minh của tam quyền phân lập như các chế độ dân chủ.
  • Các chế độ độc đảng – toàn trị không có tam quyền phân lập, không có dân chủ, nên có phản xạ và phản ứng truy hiếp nhân dân, vì không có lý trí, không có trí tuệ, không có tuệ giác về nhân quyền.
Tội phạm học tổng quan sẽ kết luận được là:
  • Các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội ác nhiều hơn các chế độ dân chủ.
  • Các chế độ độc đảng-toàn trị giết người nhiều hơn các chế độ tôn trọng nhân quyền.
  • Các chế độ độc đảng-toàn trị gây tội phạm qua nhiều thế hệ đậm hơn, sâu hơn, rộng hơn các chế độ dân chủ, biết tôn trọng nhân quyền.

Nhân Văn giai phẩm: Tội phạm diệt nhân tri, tội ác hủy nhân tính

Bằng quan điểm của tội phạm học, khi nghiên cứu về Nhân Văn Giai Phẩm với các hậu quả cùng hậu nạn mà các văn nghệ sĩ, các trí thức chính là nạn nhân. Sau Cải Cách Ruộng Đất, các hậu họa kéo dài cả nửa cuối thế kỷ XX, qua luôn cả đầu thế kỷ XXI. Tại đây, tội phạm học phải phân tích không những các bạo thuật để buộc tội, các tà thuật để đàn áp, các ma thuật để bôi nhọ các nạn nhân của nó, mà tội phạm học phải nhận ra các thủ đoạn thâm, độc, ác, hiểm của đám lãnh đạo ĐCSVN từ 1954 tới 2000. Đây là một đoạn đường dài của đời người, một giai đoạn dài trong lịch sử tội phạm của các lãnh đạo ĐCSVN. Khi cái ác cầm quyền để cái độc bỏ tù dai dẳng các nạn nhân của nó, để truy cùng diệt tận từ nghề nghiệp tới sáng tạo, từ cá nhân tới gia đình, từ lý lịch cá nhân tới quan hệ xã hội, sinh hoạt xã hội, đời sống xã hội, một loại tội ác vừa thường trực trong cuộc sống hằng ngày, vừa thâm sâu ngay trong tư tưởng qua khủng bố với cường độ cao của bộ máy công an trị.
Những khủng bố thường xuyên sau vòng lao lý với các tên gọi khác nhau là trại học tập, trại cải tạo… là một giai đoạn dài của một thủ đoạn bạo quyền qua cơ chế song hành cùng tà quyền qua hành chính để vô hiệu hóa sáng tác giới văn nghệ, cô lập hóa cá nhân, lũng đoạn hóa đời sống gia đình, thân quyến của văn nghệ sĩ. Mỗi trí thức trong nhóm Nhân Văn: Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đều chịu chung một số phận là không được sống với học thuật, cụ thể là không được tiếp tục nghiên cứu trong chính chuyên ngành của mình. Khủng khiếp hơn nữa là sự khủng bố trên các văn nghệ sĩ: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, kể cả Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Bính… là thường xuyên và lâu dài, áp chế tâm thần các nạn nhân theo chiều hướng tiêu cực nhất, mà hậu quả là nỗi lo sợ bị khủng bố, bắt bớ, tra tấn bất cứ lúc nào, ảm ảnh cả đời người. Thí dụ rõ nhất là trường hợp của Trần Dần, đặt sẵn các hành lý cá nhân, chuẩn bị là bị bắt bất cứ lúc nào.
Tội ác của các lãnh đạo ĐCSVN trong cuộc đàn áp, khủng bố, tiêu diệt nhóm Nhân Văn, trong đó vai trò tội phạm của Tố Hữu là tích cực, trực tiếp, như kẻ đại diện vừa cho tuyên giáo, vừa cho Bộ chính trị để dựng lên những chiến dịch kiểm thảo qua các chiêu trò chỉnh huấn. Nghiên cứu tội phạm học phải dừng lại thật lâu để nghiên cứu thật kỹ sự ra đời của loại văn nô, bút nô, ký nô của ĐCSVN như một mạng nhện vây bủa các nạn nhân của nó bằng các chiêu bài phê bình và tự phê bình. Nơi mà các văn nghệ sĩ khác không thoát được vai trò thành “loa buộc tội” cho ĐCSVN, trong đó Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… đã đứng về phía tội phạm để buộc tội các đồng nghiệp chân chính của mình.

Nhóm xét lại : diệt đối trọng để hủy đối luận

Trước hai tội ác là Cải cách ruộng đất  Nhân văn giai phẩm, thì tội ác thứ ba xảy ra trong giai đoạn nội chiến Bắc-Nam (1954-1975), với sự hiện diện của quân đội Mỹ, chiến dịch “chống xét lại” ra đời để truy diệt những nhân tố muốn thay đổi đường lối sắt máu của ĐCSVN, bị quy chụp là nhóm xét lại. Vụ án này, khác với hai thảm họa trước là một cuộc thanh trừng ngay trong nội bộ của những người cộng sản, mà chuyên chính vô sản kiểu ĐCSVN đã để lộ nguyên hình tính chất thanh trừng như truy sát, không thương tiếc các đồng chí, từ đó biến phản xạ thanh trừng truyền thống nội bộ của ĐCSVN.
Đối với đảng cộng sản Liên Xô, thì thủ phạm là lãnh đạo số một: Staline, đối với đảng cộng sản Trung Quốc, thì thủ phạm là lãnh đạo số một: Mao; còn đối với tình hình Việt Nam trong thời điểm này là cặp bài trùng Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, cả hai đều chủ mưu để độc quyền hóa độc tài-toàn trị, với tên đồ tể là: Lê Đức Thọ, một nhân vật thao túng từ Trung ương đảng tới Bộ chính trị, vây xiết chính phủ để tóm gọn chính quyền. Qua quyền lực của Ban bí thư trung ương và Ban tổ chức trung ương được cá nhân hóa trong tay tên đồ tể này, với độc quyền sử dụng công an và tình báo trong quá trình quy chụp các nạn nhân rồi hãm hại họ, trong đó có ám sát, có thủ tiêu, với các thủ đoạn phổ biến thường được dùng trong các đảng cộng sản khi họ thanh trừng và thanh toán các đồng chí của họ. Các nạn nhân của nhóm xét lại bị tù đày vô hạn định, không được xét xử, không có tòa án, với sự vắng mặt tuyệt đối của tư pháp, của tòa án, và nhất là sự im hơi lắng tiếng trong toàn bộ của các đảng viên của ĐCSVN. Khi tội phạm học đi sâu vào quan hệ quyền lực giữa các lãnh đạo cấp trung ương, các kết quả điều tra về sử tính của ĐCSVN cho xuất hiện các hằng số sau đây:
  • Cái ác xuất hiện tức khắc trong đấu tranh nội bộ vì quyền lực, mà bạo động của tội ác thanh trừng nhau giữa các đồng chí là phản xạ thay cho đối thoại. Một loại tội ác mà công chúng và xã hội không được thông tin và tuyệt đối cấm có ý kiến, mọi đối thoại để đối luận bị bóp chết ngay trong trứng nước.
  • Cái ác hành xử với mật độ trừng phạt và hãm hại khốc liệt cả một kiếp người, nạn nhân tiêu biểu được nhắc tới như: Hoàng Minh Chính. Tại đây, tội phạm gây ra tội ác không cần chứng từ, chứng nhân để buộc tội nạn nhân, mà hoàn toàn có tự do sinh sát trên mạng sống và cuộc đời của nạn nhân.
  • Cái ác trấn áp tràn lan, một cách vô tội vạ, bất chấp công lý, bất cần xã hội, bất tuân công pháp, nó hoành hành ngay cả trên hàng trăm nạn nhân vô tội bị vu oan, vu khống, vu cáo, như trường hợp của Vũ Thư Hiên.

Vài nét về tác giả Lê Hữu Khóa : Giáo sư Đại họcLille *Giám đốc Anthropol-Asie *Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á *Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO–Liên Hiệp Quốc *Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á*Hội viên danh dự ban Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. 
Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của giáo sư Lê Hữu Khóa, bạn đọc có thể đọc và tải qua Facebook VÙNG KHẢ LUẬN – trang thầy Khóa.

Xem tiếp: Tội Phạm Học Luận Chứng (phần 2)