Tôn Thất Thông
Giới thiệu: Không có một thời đại nào trong lịch sử tư tưởng loài người cho đến hôm nay lại mang tính thời sự, đồng thời gây ra nhiều giải thích khác nhau thậm chí mâu thuẩn nhau như thời đại khai sáng. Nhưng dù với xu hướng nào, cũng không ai nghi ngờ rằng, thế giới hiện đại như chúng ta thấy hôm nay được bắt đầu bằng những thành quả của thời đại khai sáng. Đối với người Việt Nam, trong bối cảnh văn hóa và tư tưởng còn thuộc độc quyền nhà nước và nguồn tin tức về lịch sử văn minh phương Tây còn hạn chế, việc tìm hiểu thời đại khai sáng lại càng thú vị hơn. Cho đến cuối năm 2019, chúng tôi sẽ phổ biến chừng 10 bài về đề tài này. Xin giới thiệu với độc giả bài đầu tiên và mong được đón nhận nhiều góp ý, phê bình của độc giả.
I. Trào lưu khai sáng xuất phát từ đâu?
Rồi sẽ đến một lúc, ánh mặt trời trên quả đất chỉ tỏa sáng cho những con người tự do, những người không thừa nhận bất cứ ai là chủ nhân, ngoại trừ lý tính của chính mình. Kẻ độc tài và người nô lệ, giáo sĩ và các công cụ của họ chỉ còn hiện hữu trong sử sách và trên sân khấu kịch nghệ [1]…
Marquis de Condorcet (1743-1794)
Không có một thời đại nào trong lịch sử tư tưởng loài người cho đến hôm nay lại mang tính thời sự, đồng thời gây ra nhiều giải thích khác nhau như thời đại khai sáng. Nhiều người nhìn các tư tưởng mới lạ trong thời đại khai sáng như là phương thuốc thần diệu để giải quyết các vấn nạn của thời đại đó và định hướng cho cả xã hội tương lai sau này. Người khác thì cho rằng các sáng kiến trong thời đại đó, kể cả sáng kiến của các nhân vật hàng đầu, là ảo tưởng. Một số người khác trong hai thế kỷ tiếp theo, thế kỷ 19 và 20, thì phê phán rằng, các tính chất gọi là tiến bộ của thời đại khai sáng chính là mầm mống của các vấn nạn xã hội chưa tìm được lời giải.
Nhưng dù theo xu hướng nào, cũng không ai nghi ngờ rằng, thế giới hiện đại như chúng ta thấy hôm nay được bắt đầu bằng những thành quả của thời đại khai sáng. Diện mạo của châu Âu và cả thế giới phương Tây cũng bắt đầu định hình nhờ những sáng kiến của thế kỷ đó. Nền triết học và tư tưởng tự do được nẩy mầm trong thời đại này là cội nguồn tinh thần của sáng kiến, thử nghiệm, phát minh trong mọi lĩnh vực từ khoa học, kỹ thuật tới kinh tế, thương mại, và nhất là, các định chế chính trị hiện đại hôm nay đều là sản phẩm có xuất xứ từ thời đại khai sáng. Mặt khác, đi kèm với sự phát triển vũ bão trong công nghiệp là nhu cầu cấp thiết về nguồn cung ứng nguyên liệu để phục vụ việc sản xuất. Vào lúc đó, dường như lòng tham của người châu Âu chưa lùi bước trước lẽ phải và đạo đức, cho nên, thời đại khai sáng cũng đánh dấu điểm khởi đầu của chính sách bành trướng thuộc địa trên ba lục địa còn lại là châu Á, Phi và Úc, một chính sách kéo dài hơn một thế kỷ với bạo lực, đàn áp và bóc lột. Nó để lại hậu quả vô cùng đậm nét cho đến ngày hôm nay.
Tuy nhiên, không vì những phản đề với nhiều hệ lụy sâu sắc ảnh hưởng lên các nước thuộc địa, mà chúng ta phủ nhận thành tựu to lớn của thế kỷ khai sáng và vai trò quyết định của nó trong tiến trình lịch sử nhân loại nói chung. Trào lưu tư tưởng chủ đạo của thời đại đó, dù chưa hoàn chỉnh, thậm chí thiếu sót trong mối tương quan với các đòi hỏi đa diện trong thời đại chúng ta, vẫn là xung lực mở đầu cho những phát minh vĩ đại đã thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển hôm nay trong mọi lĩnh vực từ văn hóa, khoa học, kỹ thuật đến kinh tế và chính trị, đồng thời mở đường cho những ngành khoa học mới mẻ chưa từng có trước đó có cơ hội phát triển. Tâm lý học, xã hội học, kinh tế chính trị học chỉ là vài thí dụ điển hình.
Khai sáng – hay được gọi trong các ngoại ngữ quen thuộc như Siècle des Lumière (Pháp), Enlightenment (Anh), Illuminismo (Ý) – đều có một tính chất giống nhau, ấy là ánh sáng. Như ánh mặt trời buổi rạng đông đẩy lùi bóng tối đêm trước, thì ánh sáng của lý tính trong thời đại khai sáng cũng đẩy lùi mê tín, ngu muội, sự thuần phục cường quyền để dọn đường cho tiến bộ mới, hệ tư tưởng mới, tạo nên những con người mới, các định chế mới.
Trong tiếng Đức, thuật ngữ khai sáng (Aufklärung) có ý nghĩa rộng hơn, được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực, nhưng đều có ý nghĩa giống nhau, là làm cho mọi chuyện trở nên sáng sủa rõ ràng, từ đó chân lý tất nhiên được hiển lộ. Thuật ngữ này có liên hệ ít nhiều đến tác phẩm nghệ thuật Aufklärung của Daniel Chodowiecki, một nghệ sĩ nổi danh của Phổ đã sáng tác nhiều tác phẩm liên quan đến thời đại khai sáng[2]. Bức tranh của ông dưới đây diễn tả một kỵ sĩ dẫn đầu cỗ xe ngựa đơn độc đi trên con đường mòn tiến về khu dân cư với biểu tượng quen thuộc là tháp chuông nhà thờ. Ở mặt tiền bức tranh là những bóng cây tối tăm tượng trưng cho ngu muội u ám, nhưng sắc màu nổi bật trong toàn cảnh là ánh bình minh tỏa ra rực rỡ sau rặng núi xa xa, phủ sáng khu dân cư và đánh tan màn sương mờ buổi sáng.
Tác giả Chodowiecki diễn giải nội dung bức tranh như sau: „Ý nghĩa cao nhất về lý tính ẩn chứa trong tác phẩm này, cho đến nay vẫn chưa làm cho mọi người hiểu được tính biểu tượng mang ý nghĩa trong sáng phổ quát ngoài vầng thái dương đang vươn dậy (có lẽ vì bản thân vấn đề vẫn còn quá mới mẻ). Chắc hẳn nó sẽ còn tồn tại lâu dài với dáng vẻ đoan trang nhất, tương phản với lớp sương mù che khuất vạn vật […]. Khi ánh mặt trời đã tỏa sáng, sương mù dày đặc cũng không còn làm gì tai hại được nữa[3]“.
Để đi tìm nguồn gốc phát sinh trào lưu khai sáng, chúng ta cần xem xét bối cảnh lịch sử và đặc tính xã hội của các vùng văn hóa khác nhau, đặc biệt ở ba nước Anh, Pháp và Đức, nơi trào lưu khai sáng xảy ra rất nhộn nhịp, phong phú và mức độ xung đột cũng rất gay gắt. Ngay từ trước, xã hội châu Âu phản ứng với các trào lưu mới bằng những tốc độ khác nhau, tùy thuộc vào truyền thống văn hóa tại mỗi nước kết hợp với ảnh hưởng của các xứ láng giềng. Bước vào thời hiện đại, tại mỗi nước, giới học giả tiên phong tự nhận thức được hoàn cảnh riêng của mình và của người khác trong xã hội, từ đó họ tìm phản ứng cho những biến cố thực tế để hoàn thành nhiệm vụ do chính mình đặt ra trong ý thức cải tạo xã hội. Vì thế, nguyên nhân đưa đến trào lưu khai sáng ở mỗi vùng tất yếu mỗi khác. Tuy nhiên, trên bình diện rộng ở lục địa châu Âu, trào lưu khai sáng ở các vùng đều có chung một xuất phát điểm giống nhau, ấy là phản ứng tâm lý của sự khủng hoảng về ba niềm tin: đối với chính trị, tôn giáo và đối với chính bản thân mình[4].
Thứ nhất, về mặt chính trị, châu Âu từ thế kỷ 17 chứng kiến sự chuyển hóa sâu sắc về quan hệ con người trong xã hội. Các cuộc chiến tranh tôn giáo và nội chiến đã tàn phá sâu sắc cấu trúc xã hội. Dù mỗi nước có những định chế chính trị khác nhau, nhưng trật tự xã hội phong kiến khắp nơi đều đang trên bước đường lung lay sụp đổ, đồng thời tầng lớp trung lưu tư sản ngày càng đông, chi phối đời sống kinh tế trong xã hội và chừng mực nào cũng làm phân hóa tầng lớp quí tộc và hàng giáo sĩ vốn dĩ trước đây hưởng nhiều đặc quyền trong chế độ phong kiến.
Sự phát triển của giới trung lưu tư sản khởi đầu từ tình hình kinh tế và thương mại phát triển suốt gần hai thế kỷ, làm cho đời sống sung túc hơn, nhu cầu nâng cao kiến thức nhiều hơn, khả năng tiếp cận giáo dục đại học cũng cao hơn. Nhờ thế, với tri thức thu lượm được, họ dần dần nhận thấy sự bất lực và phi lý của các định chế chính trị có sẵn. Từ đó, ước muốn thay đổi chế độ phong kiến là một yêu cầu cấp thiết không tránh được, mặc dù đa số các học giả đều xuất thân từ giới quí tộc giàu sang và có quyền lợi gắn bó với chế độ phong kiến đương thời. Có thể nói, thế kỷ 17 và 18 chứng kiến sự vươn dậy của ý thức hệ tư sản châu Âu, và gắn liền với nó là sự thành hình những chế độ chính trị hiện đại hơn.
Thứ hai, về mặt tôn giáo, người châu Âu ở ngưỡng cửa 1500 bắt đầu đặt lại nhiều vấn đề về tôn giáo. Họ vẫn tin vào Thượng đế toàn năng toàn trí, nhưng nghi ngờ những lý giải huyễn hoặc của hàng giáo sĩ, nghi ngờ cả tri thức và tính chính danh của Giáo Hoàng. Những phát hiện mới trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, đặc biệt là tư tưởng cách mạng của Nicolaus Copernicus về vũ trụ, đã làm cho người đương thời nghi ngờ thế giới quan và vũ trụ quan của hàng giáo phẩm, vốn dĩ là hệ tư tưởng cứng nhắc, bất di dịch của triết lý thần học được quảng bá suốt cả hơn một ngàn năm trước.
Lòng tin vào tôn giáo càng bị lung lay hơn sau khi Kitô giáo bị phân liệt vào thế kỷ 16 và gắn liền với nó là làn sóng đàn áp, sát hại các tông đồ thuộc giáo phái khác, đi kèm với nhiều cuộc chiến tranh vô nghĩa mà cao điểm là cuộc chiến-tranh-30-năm[5] khốc liệt ở tiền bán thế kỷ 17. Nhưng điều làm cho lòng tin giảm sút nặng nề hơn là thái độ của giáo hội về những phát hiện mới trong khoa học tự nhiên. Dường như sức ỳ của ý thức hệ đã làm cho tư tưởng của họ trở nên chật hẹp, trí tuệ trở thành thui chột và họ mất khả năng tiếp thu những điều mới mẻ. Khi những phát hiện của khoa học gia tiến bộ đi ngược lại nền tảng lý luận của giáo hội thì các tác phẩm liên quan bị cấm phổ biến và tác giả bị trù dập. Sự việc tác phẩm “Về chuyển động vòng của các hành tinh” của Nicolaus Copernicus bị cấm năm 1622 và phiên tòa xử Galileo Galilei năm 1633 là những giọt nước tràn ly làm cho niềm tin của khoa học gia vào giáo hội và Giáo Hoàng sụp đổ. Khi quan sát thế kỷ 18, chúng ta thấy rằng, khoa học tự nhiên càng phát triển thì niềm tin của con người vào giáo lý Kitô càng giảm sút. Và đó cũng là nguyên do làm cho tư tưởng của nhiều học giả thay đổi để tự phát triển tinh thần độc lập, duy lý, duy nghiệm, thay vì định hướng niềm tin vào thần học.
Thứ ba, về sự bất lực của con người trước những vấn nạn xã hội trong quá trình suy đồi của chính trị và tôn giáo: Uy tín của vương triều và giáo hội càng suy giảm thì họ càng sử dụng nhiều phương tiện bạo lực hòng duy trì quyền lực. Nhưng con người vẫn bó tay thuần phục. Nhiều học giả hàng đầu phải bỏ xứ ra đi, trốn chạy đến các nước có chế độ khoan dung hơn, như Pierre Bayle, Voltaire chẳng hạn. Các triết gia vẫn bế tắc trên con đường tìm kiếm một lời giải. Giáo sư Paul Hazard đã dùng nguyên một cuốn sách[6] để phân tích sự khủng hoảng về lòng tự tin của con người, và cũng là khủng hoảng về lương tâm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa hai thế kỷ.
Từ sự khủng hoảng niềm tin với chính mình, các triết gia đương thời tự đặt ra nhiệm vụ thiết thân là, phải tìm đường để cải thiện thế giới. Họ không tìm lời giải bằng cách phục hồi lại một quá khứ đầy lý tưởng, mà bằng sự tự tin vào chính sức mạnh của mình, sức mạnh của lý tính và sức mạnh của lương tâm trong ý thức cải tạo xã hội. Kể từ thời đại này, viễn kiến của con người không còn là sự hoài niệm về một cuộc đời đáng mơ ước trong thế giới thần thánh, mà là hướng nhìn về một tương lai tươi đẹp trên trần thế[7]. Hơn nữa, họ cũng có ham muốn hành động để biến ước mơ đó thành sự thật. Sự chuyển biến này về tư tưởng, đi kèm với kỹ thuật in ấn phát triển và hàng loạt tạp chí định kỳ bằng tiếng địa phương ra đời, đã gây được ảnh hưởng lên nhiều tầng lớp trong xã hội, thay đổi phong cách sống và suy nghĩ của thanh niên, sinh viên và tạo nên một ý thức chính trị sống động trong công chúng. Đó chính là gốc rễ sâu xa của cuộc vận động khai sáng với kết quả là hai cuộc cách mạng vĩ đại làm rung chuyển thế giới vào cuối thế kỷ, trước hết ở Mỹ năm 1776 và tiếp đó tại Pháp năm 1789.
Hai cuộc cách mạng nói trên là hai trong những thành quả lớn lao nhất của thời đại khai sáng. Nó làm sáng tỏ một quan điểm chính trị mới mẻ và đáng kinh ngạc, mà con người chưa từng trải nghiệm trước đó. Quan điểm đó được John Locke (1632-1704) tóm tắt rằng, mọi người sinh ra đều có quyền sống, hưởng tự do và sở hữu tài sản. Chính phủ chỉ được xem là hợp pháp, khi nó thừa nhận và bảo vệ các quyền tự nhiên đó. Chính phủ nào không làm được việc đó, thì mọi người có quyền chống lại. Mặc dù quan điểm này đã được phát triển, thảo luận trong giới học thuật trước đó cả thế kỷ, nhưng khi nó trở thành hiện thực, thì cơn địa chấn vẫn bùng ra, kéo dài và lan rộng đến mọi nước trên lục địa. Quan điểm chính trị nói trên đã được hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp thực hiện trọn vẹn; không những người dân có khả năng chống lại chính phủ chuyên chế đương thời, mà còn hạ bệ chúng để xây dựng thể chế chính trị mới với hiến pháp mới có đầy đủ những qui định bảo vệ quyền tự do tự nhiên của con người.
Nói tóm lại, trào lưu khai sáng có nguồn gốc từ sự dằn vặt nội tâm của con người trong thời đại đó, khi một mặt, tư tưởng và niềm tin đã thay đổi sâu sắc, nhưng mặt khác, họ không tìm thấy trong các định chế thần quyền cũng như thế quyền một hứa hẹn cụ thể cho tương lai phù hợp với thế giới quan của họ, vốn dĩ đã thay đổi khi châu Âu bước vào thời kỳ hiện đại. Con đường họ đi cũng không còn mang tính chất thụ động và thuần túy học thuật của trào lưu nhân bản chủ nghĩa trong thời đại phục hưng, mà đã mang ý nghĩa cải cách xã hội một cách tích cực, bắt đầu bằng sự rèn luyện nhân cách và lý tính cho bản thân, sau đó quảng bá ra đại chúng, chuẩn bị tinh thần và xây dựng lực lượng để dần dần biến những xung khắc về tư tưởng thành các hoạt động thực tiễn có chủ đích.
Thế kỷ 18 là một thế kỷ đầy rẫy phản kháng dưới nhiều hình thức. Những con người khai sáng không muốn thuần phục trật tự có sẵn. Họ không muốn lặp lại những giáo huấn đã được truyền bá trước đây. Từng cá nhân sẵn sàng ném mình vào các cuộc đấu tranh cho công lý, cho thành đạt cá nhân, cho danh dự, cho sự thật được kiểm chứng bằng khoa học, cho hạnh phúc của công chúng mà họ là thành viên. Trong lịch sử của văn hóa phương Tây, thế kỷ 18 nổi lên như một ốc đảo đầy nước ngọt và cây xanh trong bãi sa mạc hoang vu khô cằn [8].
Ý tưởng về tinh thần khai sáng hội tụ với nhau trong thế kỷ 17 để phát triển rực rỡ trong thế kỷ 18, nhưng trong sự xuất hiện và chuyển hóa của từng giai đoạn, chúng ta có thể thấy dáng dấp tương đồng với thời đại phục hưng trong thế kỷ 15/16. Con người khai sáng, con người phục hưng và các nhà nhân bản giống nhau ở cảm giác an toàn do chính họ tạo ra, khi họ không còn nhu cầu phải nương tựa vào bất kỳ một sức mạnh nào ở bên ngoài[9]. Đối với họ, “tri thức là sức mạnh!” như khẩu hiệu đanh thép của Francis Bacon vào đầu thế kỷ 17.
Nếu thời đại phục hưng được định hình bởi phần đông là văn thi sĩ, nghệ sĩ, nhà sử học, nhà giáo thì trong thời đại khai sáng, bên cạnh lớp người quen thuộc đó còn nổi bật lên nhiều triết gia, nhà tư tưởng, nhà toán học và nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên. Cũng chính vì thế, so với thời kỳ phục hưng, ý thức độc lập của họ đối với tôn giáo và các định chế thần quyền được nâng lên một tầm cao hơn, với nhiều phát hiện phong phú trong khoa học làm họ vững tin hơn trong cuộc hành trình mới. Nhất là, những phát hiện mới mẻ của họ không chỉ dưa trên tư duy lý luận như trong quá khứ, mà nhiều lập luận của họ đã được kiểm nghiệm bằng những quan sát và phân tích các hiện tượng trong tự nhiên. Đấy là một đặc trưng của nền văn minh hiện đại, một bước chân bảy dặm so với tiến trình phát triển lịch sử suốt hơn hai ngàn năm trước, kể từ thời Hy Lạp cổ đại.
Con người của thời đại khai sáng vẫn là những người ngoan đạo, tin vào Thương Đế, nhưng không phải là Thượng Đế trong thần học giáo điều với những phán quyết thần thánh, mà là Thượng đế có lẽ phải đứng trên vạn vật. Giờ đây, các yếu tố chi phối mạnh mẽ lên đời sống con người và tiến trình phát triển của xã hội không còn là mặc khải thần thánh, mà là các khái niệm của “chuyên gia” thuộc mọi ngành, từ triết học đến khoa học và kỹ thuật.
Điều khác nhau đặc biệt sau chưa đầy hai thế kỷ là, trong lúc phong trào phục hưng xuất phát từ Ý và chính các nhà nhân bản Ý vạch hướng đi cho các nước châu Âu còn lại, thì ngược lại, trào lưu khai sáng bắt đầu từ nước Anh, nó thăng hoa ở Pháp, tiếp tục phát triển ở Đức và sau đó mới lan tỏa ra các vùng khác trên lục địa. Nước Ý thì mới dè dặt bắt đầu khi trào lưu này đã lên đến đỉnh cao ở các nước đi tiên phong, mặc dù như chúng ta biết, Galileo Galilei người Ý là một học giả nổi danh trong buổi bình minh của thời đại khai sáng. Tại sao có nghịch lý này? Điều đó có liên quan gì đến sự việc Giáo Hoàng và Giáo hội Thiên chúa vẫn ngự trị ở Rome? Nó có liên quan gì đến phiên tòa xử Galilei năm 1633? Trong chương Khai sáng và tôn giáo chúng ta sẽ trở lại đề tài này.
Nhưng dù sao, khi so sánh hai thời đại phục hưng và khai sáng, chúng ta cũng không thể quên một công trình vĩ đại mà các nhà nhân bản Ý trong thời đại phục hưng để lại cho các nhà khai sáng sau này thừa hưởng, đấy là ý thức sử dụng tiếng mẹ đẻ trong các tác phẩm văn hóa cũng như trong một số ít giáo trình đại học. Sự kiện đó đã phá vỡ các rào cản còn lại để con người bình thường cũng có thể tiếp cận với tri thức. Nếu trước đây, tiếng La-tinh là ngôn ngữ học thuật của giới học giả, tu viện và đại học, thì kể từ thế kỷ khai sáng, tiếng La-tinh dần dần trở thành một ngôn ngữ chết, phức tạp và phiền toái so với ngôn ngữ địa phương, vốn dĩ đã trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng mà người bình thường cũng có thể dùng để tiếp cận với những tác phẩm nổi danh nhất.
Với ngôn ngữ địa phương trong văn học, sự tiệm cận giữa giới học giả và người bình thường với nhau xảy ra khắp nơi, và đó là điều kiện tiên quyết để văn học phát huy tác dụng trong thời đại khai sáng: Lĩnh vực khoa học được nâng lên tầm cao của văn học để mọi người bình thường có thể tiếp cận được[10]. Những quan tâm thường nhật trong xã hội được phản ánh phong phú trong nhạc, kịch, văn thơ, nghệ thuật trào phúng, tất nhiên là bằng tiếng địa phương. Thi bá người Ý, Dante Alighieri vào đầu thế kỷ 14 có một sáng kiến vĩ đại là dùng tiếng mẹ đẻ trong thơ phú khi sáng tác tuyệt phẩm Thần Khúc[11]. Sau đó, sáng kiến mới lạ này dần dần được các nước khác đón nhận nồng nhiệt và đã trở thành hình thái văn học đại chúng trong thời đại khai sáng ở châu Âu.
Tuy có một số điểm tương đồng, nhưng sự khác nhau căn bản giữa trào lưu khai sáng thế kỷ 18 và phong trào phục hưng cũng như các trào lưu khác trong lịch sử trước đó là sự xuất hiện rất sâu rộng của những nỗ lực đòi hỏi cải cách, hay nói cách khác là sự tham gia của đông đảo nhiều người, một mặt tự nhận mình là người cải cách, vì họ có quyết tâm thúc đẩy sự cải thiện và đổi mới xã hội, mặt khác họ tự nhận mình là những người khai sáng trong tinh thần là, đổi mới xã hội xuất phát trước hết từ sự chuyển hóa tư tưởng của chính bản thân con người[12]. Các học giả không chỉ dừng lại ở những tư tưởng mang tính chất lý thuyết, mà họ còn có nhiều nỗ lực biến lý thuyết thành những hành động thực tiễn có khả năng thu hút sự tham gia của công chúng. Họ cũng không dừng lại ở sự phê phán và trao đổi lẫn nhau giữa các học giả, mà còn đào luyện năng lực để có thể đưa ra những giải pháp cải cách xã hội. Thành quả to lớn của họ là đã truyền được cảm hứng đến đại chúng, hướng tầm nhìn và ước vọng của công chúng đến những hình thái xã hội mới mẻ và các định chế chính trị hiện đại vốn chưa hề tồn tại trước đó.
Nói cách khác, trào lưu khai sáng không phải là cuộc vận động chỉ giới hạn trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng, và cũng không chỉ giới hạn trong tầng lớp học giả có điều kiện vật chất và tinh thần, mà đó là một phong trào rộng lớn có khả năng tạo nên sự chuyển hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau, được lan tỏa ra nhiều tầng lớp khác nhau. Xung lực ban đầu của trào lưu là sự dằn vặt nội tâm của giới học giả về sự bất lực của chính mình trước sự suy đồi của xã hội. Xung lực đó đã tạo nên những luồng tư tưởng mới, công trình nghiên cứu mới, sáng kiến mới của giới học giả đương thời, lớp người mà chúng ta gọi là giới trí thức theo ngôn ngữ hiện đại ngày nay. Nhưng khác hẳn với các trào lưu trong quá khứ, đòi hỏi về tinh thần của học giả thời đại khai sáng đã thâm nhập được vào nhiều lớp người trong xã hội và tạo nên ý thức chính trị sống động để biến thành trào lưu cách mạng khi hoàn cảnh xã hội đã chín mùi. ./.
Nghiên Cứu Lịch Sử
Xem bài tiếp theo:
Thời đại khai sáng ở châu Âu (2): Phương châm của khai sáng
- Brinton, Crane & Christopher, John B. & Wolff, Robert Lee: A history of civilization – 1715 to the present (Lịch sử văn minh – 1715 đến hôm nay). ISBN 0-13-389593-9.
- Bùi Văn Nam Sơn: Chat với John Locke. Nhà xuất bản Trẻ. ISBN 978-604-1-08626-5.
- Châtelet, François chủ biên: Geschichte der Philosophie Band IV – Die Aufklärung (Lịch sử triết học tập IV – Khai sáng). ISBN 3-548-03063-7. (Eva Brückner-Pfaffenberger và Donald Watts Tuckwiller dịch từ gốc tiếng Pháp: Les Lumières).
- Gay, Peter: The enlightenment: An Interpretation. The science of freedom (Dẫn luận về khai sáng – Khoa học của tự do). ISBN 0-393-00875-4.
- Hampson, Norman: The Enlightenment – An evaluation of its assumptions, attitudes and values (Khai sáng – Đánh giá những giả thuyết, quan điểm và giá trị). ISBN 0-14-013745-9.
- Im Hof, Ulrich: Das Europa der Aufklärung (Châu Âu trong thời đại khai sáng). ISBN 3-406-37091-8.
- Mann, Golo & Nitschke, August: Weltgeschichte Band VII – Von der Reformation zur Revolution (Lịch sử thế giới bộ VII – Từ cải cách tôn giáo tới cách mạng). ISBN 3-549-05017-8.
- Pleticha, Heinrich chủ biên: Aufklärung und Revolution – Europa in 17. und 18. Jahrhundert (Khai sáng và Cách mạng – Châu Âu trong thế kỷ 17 và 18). Bertelsmanns Weltgeschicht – Band 8. ISBN 3-577-15008-4.
- Porter, Roy: Kleine Geschichte der Aufklärung (Lịch sử ngắn về Khai sáng – Ebba D. Drolshagen dịch từ tiếng Anh: The Enleghtenment). ISBN 3-8031-2192-2.
- Schneiders, Werner chủ biên: Lexikon der Aufklärung (Từ điển tường giải về khai sáng). ISBN 3-406-39920-7.
- Ziegler, Walther: Smith in 60 Minuten (Smith trong vòng 60 phút). ISBN 978-3-7347-8157-5.
Ghi chú
[1] H. Pleticha & Alexander Dreichsel, trang 93
[2] Xem thêm Klaus Rothe, „Chodowiecki und die Kunst der Aufklärung in Polen und Preussen“ (Chodowiecki và nghệ thuật thời khai sáng ở Ba Lan và Phổ). ISBN 3-412-03186-0.
[3] U. Im Hof, trang 11.
[4] W. Schneiders, trang 12-15
[5] Cuộc chiến-tranh-30-năm kéo dài từ 1618-1648, lúc khởi đầu là cuộc chiến tranh tôn giáo giữa các lãnh chúa và vương triều ủng hộ các giáo phái khác nhau, chủ yếu là Thiên Chúa và Tin Lành. Dù không có thống kê, nhưng nhiều sử gia cho rằng, thiệt hại nhân mạng trên vùng đất Đế chế La mã Thần thánh Đức khoảng 30-45% dân số (ở đó có 16 triệu dân trước chiến tranh).
[6] Crise de la conscience européenne (Khủng hoảng lương tâm ở châu Âu) đã trở thành sách kinh điển về cuộc khủng hoảng tư tưởng tại châu Âu trong giai đoạn 1680 đến 1715. Sử gia Paul Hazard (1878-1944) là giáo sư đại học Sorbonne.
[7] U. Im Hof, trang 141.
[8] F. Châtelet, trang 209.
[9] G. Mann & Fritz Schalk, trang 469
[10] G. Mann & Fritz Schalke, trang 471.
[11] Commedia (sau này Giovanni Boccaccio thần thánh hóa với tựa đề Divina Commedia) viết bằng tiếng Ý là tác phẩm vĩ đại của văn học thế giới và còn được tiếp tục bình phẩm cho đến ngày nay. Tác phẩm này đánh dấu bước ngoặc trong phong cách sáng tác mới và trong việc sử dụng ngôn ngữ địa phương trong văn học châu Âu.
[12] W. Schneiders, trang 9-10