Đăng Phạm / ncls group
*Vấn đề phân chia giai đoạn các quá trình phi thực dân hóa.
Sau chiến tranh Thế giới thứ 2, để chỉ quá trình các nước thuộc địa trên khắp thế giới giành độc lập, người ta dùng thuật ngữ: Phi thực dân hóa. Về việc này, cụm từ ”phi thực dân hóa” còn có ý nghĩa rộng hơn, không chỉ là việc giành được độc lập cho một quốc gia, mà còn bao gồm cả việc giải phóng các vấn đề kinh tế, văn hóa, tư tưởng,…của các nước thuộc địa khỏi nước cai trị.
Có nhiều cách phân chia các giai đoạn Phi thực dân hóa sau Thế chiến 2, tùy theo cách nhận định. Ở đây, xin chọn cách phân chia mà cũng được sử dụng trong sách giáo khoa lịch sử, Theo đó, quá trình phi thực dân hóa chia làm 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: tạm gọi là quá trình ”độc lập hàng loạt”, kéo dài từ sau thế chiến 2 đến năm 1964. Trong đó đỉnh cao là năm 1960, được gọi là ”Năm châu Phi” với việc 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập. Các nước châu Phi giành độc lập trong thời gian này phần lớn qua con đường hòa bình (được trao trả độc lập), hoặc có thể qua chiến tranh (như chiến tranh Pháp-Algeria). Quá trình thứ nhất này đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của các đế quốc gồm Anh, Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha ở Bắc và Trung Phi, đem lại độc lập cho đại đa số quốc gia châu lục này. Nhưng đáng chú ý nhất, khu vực Nam Phi nằm ngoài quá trình này. Loạt bài này không nói về giai đoạn 1.
– Giai đoạn 2: tên gọi chính xác là ”Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha”, chỉ việc 3 nước thuộc địa của Bồ Đào Nha là Angola, Mozambique và Guinea Bissau nổi dậy giành độc lập. Giai đoạn này được tính là từ năm 1964 đến năm 1975. Tuy nhiên, cách chia này có bị coi là chưa chính xác hoàn toàn, vì trong thời gian này có những nước khác không phải thuộc địa của Bồ Đào Nha cũng giành được độc lập, đó là nước Botswana. Nhưng về cơ bản cách chia này vẫn được chấp nhận. Bài viết này về chiến tranh Mozambique, thuộc giai đoạn 2. Còn một bài viết nữa cũng thuộc giai đoạn 2, là về Angola.
– Giai đoạn 3: là giai đoạn ”xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc”, diễn ra ở 3 nước Rhodesia (Simbawe), Tây Nam Phi và Cộng hòa Nam Phi. Giai đoạn này đánh dấu bằng 3 sự kiện: nội chiến Rhodesia, chiến tranh Biên giới Tây Nam Phi và sự sụp đổ của chính quyền Apartheid (đọc là A-pác-thai) ở Cộng hòa Nam Phi. Phần 1 của loạt bài này đã nói về nội chiến Rhodesia, các bạn có thể tìm đọc lại.
I/ Sơ lược lịch sử tiền độc lập Mozambique
Lịch sử đất nước Mozambique bắt đầu từ thế kỷ 1, với sự di cư của người Bantu từ Trung Phi xuống. Nhưng từ thế kỷ thứ 10, Mozambique dần rơi vào ảnh hưởng của người Arab Hồi Giáo. Các thương nhân Arab đã đến bờ biển Mozambique buôn bán, cướp bóc sản vật, châu báu và bắt nô lệ da đen. Các bức vẽ cổ cho thấy người Arab đã tiến hành bắt bớ nô lệ tận miền Trung Mozambique, xa hơn nhiều những gì người ta nghĩ. Người Arab giai đoạn này thường liệt đất nước Mozambique vào danh sách gọi là ”Bờ biển Swahili” nổi tiếng lịch sử, nghĩa là dải bờ biển dọc Đông Phi nơi diễn ra các hoạt động thương mại sầm uất, với các thương cảng lớn đã mang lại sự giàu có cho xứ Arab suốt nhiều thế kỷ.
Từ thế kỷ 15, sau cuộc thám hiểm lịch sử của Vasco de Gama, người Bồ Đào Nha đã thiết lập ảnh hưởng mới của người châu Âu lên Mozambique. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, người Bồ Đào Nha đã di cư đến, đưa theo nhiều người gốc Ấn để thiết lập nhiều lãnh thổ trên đất Mozambique, tạo nền tảng cho việc thiết lập thuộc địa. Tuy nhiên quá trình này gián đoạn vào thế kỷ 17, khi Đế quốc Oman từ bán đảo Arab trở nên hùng mạnh và tiến hành chinh phục bờ biển châu Phi. Người Oman đã đánh bại người Bồ Đào Nha, phá hủy các pháo đài, cảng biển do người châu Âu thiết lập đến tận miền Bắc Mozambique. Người Bồ Đào Nha phải lui về giữ miền trung Mozambique. Trong quá trình chinh phục này, người Oman đã tiến hành Hồi giáo hóa mạnh mẽ các khu vực, mà kết quả là tạo nên cộng đồng Hồi giáo ở miền Bắc Mozambique. Cộng đồng Hồi giáo ở Bắc Mozambique này được coi là vùng xa nhất mà Thế giới Hồi giáo vươn tới về phía Nam, cũng là cộng đồng duy nhất ở miền Nam châu Phi theo Hồi giáo.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 19, đế quốc Oman đã suy yếu do sự chèn ép của các đế quốc thực dân phương Tây đang mạnh lên. Kết quả là người Bồ Đào Nha đã thu hồi lại các vùng đất bị mất. Đến khi các cường quốc hoàn thành chia sẻ châu Phi, người Bồ Đào Nha đã thiết lập cho mình các thuộc địa châu Phi gồm Mozambique, Angola, Guinea Bissau và một số đảo. Trong số này, Mozambique là thuộc địa lớn thứ 2, hơn 800.000 cây số vuông. Cả diện tích, dân số và giàu có đều thua thuộc địa lớn nhất là Angola.
Dưới thời thuộc địa, Mozambique cũng như các nước khác, mang quy chế là tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha thay vì thuộc địa. Điều này mang lại sự tự do và công bằng có phần lớn hơn cho người dân Mozambique. Mozambique có đại diện gốc Phi, được tham gia vào quốc hội Bồ Đào Nha tại Lisbon.
Tuy nhiên, sự bóc lột và phân biệt đối xử với người da đen vẫn tồn tại. Mặc khác, nền kinh tế Mozambique do nhiều lý do vẫn kém phát triển hơn nhiều so với thuộc địa Angola bất chấp nỗ lực đầu tư của Bồ Đào Nha. Sản xuất chính của Mozambique là nông nghiệp với gạo, dừa, trà, bông,…sử dụng các đồn điền với lao động da đen rẻ mạt. Các ngành công nghiệp tương đối kém phát triển. Mãi đến tận những năm 1970s, người Bồ Đào Nha mới xây con đập lớn đầu tiên ở Mozambique.
Do giáo dục không được quan tâm, đại đa số dân cư bản địa Mozambique mù chữ. Đến năm 1960 mới có trường đại học đầu tiên của Mozambique được xây.
Tổng kết lại, đến những năm 70s, Mozambique vẫn là một quốc gia thuộc địa tương đối nghèo và lạc hậu. Các yếu tố kinh tế, chính trị này dẫn đến sự xung đột ngày càng tăng với chính quyền cai trị Bồ Đào Nha. Với sự ảnh hưởng của làn sóng độc lập ở các quốc gia xung quanh, chiến tranh giành độc lập của Mozambique đã bùng nổ.
II/ Chiến tranh độc lập Mozambique (1964-1975)
1/ Tình hình thuộc địa Mozambique và các nước xung quanh năm 1964 – Sự nổi lên của FRELIMO
Vào những năm 1960s, Mozambique cơ bản vẫn là một thuộc địa nghèo, lạc hậu trong đế quốc Bồ Đào Nha. Tài sản tập trung vào tay dân số da trắng khoảng 250.000 người, chiếm 3% dân số. Các thành phố thường không có chỗ cho người da đen. Phần lớn 5 triệu dân số da đen bản địa sống ở nông thôn, nơi cuộc sống nghèo khó và đại đa số mù chữ. Dù dân số 5 triệu người, chưa tới 7.000 người da đen có quyền bầu cử.
Dù danh nghĩa là tỉnh tự trị, có nhiều tự do hơn so với quy chế thuộc địa, nhưng trên thực tế dưới chế độ độc tài thân phát xít ”Estado Novo” (đệ nhị Cộng hòa) ở Bồ Đào Nha, người dân bản xứ cũng không quá tự do, khi mà chính người dân Bồ Đào Nha trong nước cũng đang sống dưới chế độ hà khắc.
Còn về chính trị, những năm 60s làn sóng giành độc lập đã quét qua châu Phi. Phần lớn các nước Bắc và Trung Phi đã độc lập, và đã ngả theo các phe khác nhau trong chiến tranh Lạnh. Đối với Mozambique, các nước xung quanh chuyển biến theo các hướng:
-Tanganyika (Tansania ) độc lập năm 1961, trở thành nước Xã hội chủ nghĩa.
-Zanzibar độc lập năm 1963, trở thành nước Xã hội chủ nghĩa, sau đó sáp nhập với Tanganyika thành Tanzania ngày nay.
-Malawi độc lập năm 1964, thân phương Tây.
-Bắc Rhodesia độc lập năm 1964, thân Liên Xô.
-Nam Rhodesia độc lập năm 1964, thân phương Tây.
-Cộng hòa Nam Phi: vốn đã độc lập từ 1931, thân phương Tây.
Dù ngả theo phe nào, thì rõ ràng sự độc lập của các nước láng giềng cũng đã thôi thúc một ý nghĩ nổi dậy giành độc lập của người dân Mozambique, chưa quan trọng theo hướng nào. Từ những năm 60s, nhiều tổ chức chính trị độc lập của người Mozambique đã ra đời. Nổi lên đầu tiên trong số này là tổ chức ”Mặt trận giải phóng Mozambique” viết tắt là FRELIMO.
Trước đó rất lâu, từ những năm 1920s. nhiều nhà trí thức, bác học gốc Phi của Mozambique đã bị trục xuất ra nước ngoài, do bị coi là mối đe dọa với chính quyền Bồ Đào Nha. Giới tinh hoa gốc Phi của Mozambique phải lưu vong sang nước ngoài. Sự chảy máu chất xám này là một trong những nguyên nhân khiến Mozambique nghèo đói.
Nhiều người trong số trí thức này chọn đến láng giềng Tanzania ở phía Bắc. Không ít trong số họ chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Marx, tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Liên Xô cũng như của tổng thống Nyerere của Tanzania. Vào năm 1962, tại thành phố Dar es Salaam của Tanzania, một nhóm trí thức Xã hội chủ nghĩa do nhà giáo nhân chủng học Eduardo Mondlane tập hợp đã thành lập nên tổ chức ”Mặt trận giải phóng Mozambique”, gọi tắt là FRELIMO. Lưu ý: thành phố Dar es Salaam là thành phố lớn nhất, nổi tiếng nhất của Tanzania và thường bị nhầm là thủ đô. Nhưng thực tế không phải, Tanzania đã dời thủ đô về Dodoma, do Dar es Salaam ”mang yếu tố Arab ngoại lai”. Tuy vậy, Dar es Salaam có vẻ như vẫn là trung tâm của đất nước.
Năm 1969, chủ tịch Eduardo Mondlane bị ám sát. Người thay ông là Samora Machel, người đã liên hệ sâu rộng với Liên Xô và khối XHCN. Dưới nỗ lực của Samora Machel, Liên Xô đã quyết định hỗ trợ cho FRELIMO đấu tranh chống Bồ Đào Nha. Các hỗ trợ cho FRELIMO bao gồm vũ khí và cố vấn. Đến năm 1972, Liên Xô đã viện trợ cả pháo 122mm cho FRELIMO. Bên cạnh đó là sự có mặt của 1600 cố vấn Liên Xô, Cuba, Đông Đức ở Tanzania, cố vấn và huấn luyện cho du kích FRELIMO. Tuy vậy, nếu nhìn sang Angola, nơi quân Liên Xô và Cuba trực tiếp tham chiến, có thể thấy FRELIMO đã giới hạn sự giúp đỡ của quân Liên Xô, không cho quân nước ngoài vào lãnh thổ của mình.
Về sau, có một nhóm nhỏ 230 người Cuba đã sang Mozambique chiến đấu. Nhóm người này là tàn quân đã chiến đấu ở Congo cùng Che Guevara năm 1965. Cùng với đó, nhiều nước cánh tả châu Phi như Somali, Libya, Congo (ở đây là CH Congo, không phải CHDC Congo- Zaire), Guinea, Algeria, Ai Cập,..cũng ủng hộ FRELIMO.
2/ Diễn biến Chiến tranh độc lập Mozambique (1964-1975)
Cuộc đấu tranh chính nghĩa của FRELIMO được nhiều nước, kể cả LHQ ủng hộ. Nhưng lực lượng của họ vẫn khá yếu so với Bồ Đào Nha. Năm 1964, có 7.000 du kích FRELIMO. Trong khi đó, quân Bồ Đào Nha đã tăng đồn trú lên 24.000 quân. Từ năm 1964, một số cuộc nổi dậy nhỏ đã được thực hiện nhưng không thu lại kết quả gì. Bồ Đào Nha đàn áp và tăng cường kiểm soát vùng nông thôn. Du kích FRELIMO phải lùi sâu sang đất Tanzania.
Nhưng từ năm 1965, FRELIMO đã áp dụng chiến thuật du kích ngày càng hiệu quả. Các thắng lợi tuy nhỏ của họ xuất hiện nhiều hơn, Họ chiếm được 20% lãnh thổ và 1/7 dân số. Trong khi đó, dù tăng cường kiểm soát dân cư nhưng những người lính Bồ Đào Nha rõ ràng không được ủng hộ. Các chiến dịch truy quét của quân Bồ Đào Nha thường tốn kém và không thu được kết quả do du kích được dân chúng che chở và có thể dễ dàng chạy qua biên giới Tanzania.
Đến lúc này, FRELIMO còn thu được một thắng lợi chính trị rất lớn, khi họ được Liên Hợp Quốc công nhận và ủng hộ.
Cho đến lúc đó, người Bồ Đào Nha mới nhận thấy hậu quả của hàng trăm năm bóc lột và sự đầu tư thiếu hiệu quả, cũng như sự phân biệt đối xử với người bản xứ. Họ biết rằng việc không đầu tư đúng mức cho đời sống của dân bản xứ đã khiến họ chống lại Bồ Đào Nha. Để sửa chữa sai lầm này, từ cuối những năm 60s, Bồ Đào Nha đề ra ”Chương trình phát triển”, tập trung vào việc xây dựng các công trình lớn phục vụ cuộc sống người dân, nhằm thu được sự ủng hộ của dân bản xứ.
Thực hiện chương trình, chính quyền Bồ Đào Nha đã đẩy mạnh mở rộng và nâng cấp cơ sở hạ tầng của Mozambique, bao gồm hệ thống trường học, bệnh viện, điện, đường sắt, cầu, đập,…Tiêu biểu cho các công trình này là việc xây dựng Đập Cahora Bassa lớn bậc nhất châu Phi thời điểm đó, ngốn một ngân sách khổng lồ nhưng ”đáng giá cho sự ủng hộ” của chính quyền Bồ Đào Nha. Do lo ngại quân du kích phá hoại, quân Bồ Đào Nha gửi 3.000 lính và 1 triệu quả mìn bảo vệ đập. Và kết quả trớ trêu, toàn bộ công sức này sau đó đã rơi vào tay quân FRELIMO.
Trong thời gian từ năm 1969 trở đi, chiến tranh của FRELIMO chủ yếu tập trung đánh phá các công trình của Bồ Đào Nha phục vụ Chương trình phát triển. Họ 7 lần tấn công đập Cahora Bassa nhưng đều thất bại. Quân du kích cũng thường xuyên đặt mìn, phá hủy các đoàn xe, cầu đường,…Trong khi đó, năm 1970 quân Bồ Đào Nha có tướng chỉ huy mới, tướng Kaúlza de Arriaga, một người cứng rắn hơn và chịu ảnh hưởng từ Hoa Kỳ. Tướng Kaúlza de Arriaga đã tăng cường lực lượng cho quân đồn trú Bồ Đào Nha lên đến con số 50.000 người. Ông cũng lần đầu cho phép thành lập một số đơn vị bản địa nhằm chống du kích. Ông cũng cho tăng số lượng xe tăng, máy bay của Bồ Đào Nha ở Mozambique. Với những nỗ lực đó, tướng Kaúlza de Arriaga hy vọng tiêu diệt hoàn toàn quân du kích trong 3 năm.
Để hiện thực hóa kế hoạch, năm 1970 quân Bồ Đào Nha tiến hành chiến dịch phản công lớn tên Gordian Knot. 35.000 quân Bồ Đào Nha với các đơn vị tinh nhuệ nhất của nhảy dù, biệt kích, thủy quân lục chiến. Để diệt tận gốc du kích, quân Bồ Đào Nha tấn công qua cả đất Tanzania. Chiến dịch Gordian Knot là nỗ lực quân sự cao nhất của Bồ Đào Nha trong cuộc chiến. Kết thúc chiến dịch, quân Bồ Đào Nha tiêu diệt và bắt sống hơn 2.500 du kích, một con số quá lớn với lực lượng chỉ hơn 8.000 quân của FRELIMO. Họ phá hủy 61 căn cứ và 150 trại du kích, gồm cả trong đất Tanzania, thu hàng trăm tấn đạn dược. Những thiệt hại này đã làm gần như cạn nguồn lực chiến tranh của quân du kích FRELIMO, đảm bảo cho ho ít nhất không thể giành một chiến thắng quân sự trước Bồ Đào Nha.
Dù rầm rộ tuyên truyền về chiến thắng quân sự to lớn của chiến dịch Gordian Knot, Bồ Đào Nha cũng nhận thức rằng họ đã thất bại về chính trị. Trong chiến dịch, quân Bồ Đào Nha đã thảm sát hàng trăm dân thường. Quá trình tấn công qua đất Tanzania, giết chết dân thường Tanzania của Bồ Đào Nha đã thu hút sự chú ý của quốc tế. Các nước đa phần phản đối Bồ Đào Nha, ủng hộ quân du kích. Trong khi chiến thắng quân sự quyết định chưa đạt được, thất bại chiến lược và ngoại giao rõ ràng đang đến với Bồ Đào Nha.
Trong hàng ngũ quân đội Bồ Đào Nha bắt đầu rệu rã. Nguy hiểm ở chỗ, sự rệu rã này lan đến cả trong nước Bồ Đào Nha, nơi quân đội và người dân bắt đầu chán ngán cuộc chiến vô nghĩa. Chính phủ Bồ Đào Nha bắt đầu lo sợ quân đội, cho cảnh sát mật đàn áp các nhân vật bất đồng trong quân đội. Sự đối đầu với cảnh sát mật khiến quân Bồ Đào Nha bỏ bê chiến dịch chống du kích.
Một lính Bồ Đào Nha ở phát biểu: ”Ở Mozambique chúng tôi nói có ba cuộc chiến: cuộc chiến chống FRELIMO, cuộc chiến giữa quân đội và cảnh sát mật, và cuộc chiến giữa quân đội với chính quyền trung ương”.
Cuối cùng, sự bất tuân trong quân đội bùng nổ, trở thành Cách mạng Hoa Cẩm chướng ở Bồ Đào Nha năm 1974. Về cuộc cách mạng này, có một bài viết riêng nói về nó, cũng có thể tìm đọc.
Chính quyền cánh tả nắm quyền ỏ Lisbon không mất chút thời gian nào để chấm dứt chiến tranh và trao trả độc lập lập tức cho các thuộc địa. Cuộc chiến ở Mozambique nghiễm nhiên kết thúc. Mozambique tuyên bố độc lập ngày 25 tháng 6 năm 1975, kỷ niệm 13 năm thành lập FRELIMO.
Chiến tranh độc lập Mozambique kết thúc không có chiến thắng quân sự, nhưng chiến thắng chiến lược và ngoại giao thuộc về quân du kích FRELIMO. Mozambique trở thành quốc gia độc lập, nhưng mâu thuẫn giữa những người Cộng sản và chống Cộng sau độc lập đã dẫn đến cuộc nội chiến tiếp theo.
III/ Nội chiến Mozambique (sau 1975)
1/ Sự thành lập nhà nước Cộng sản và hình thành RENAMO
Chiến thắng của chiến tranh độc lập Mozambique năm 1975, cùng lúc với chiến thắng ở Angola và Việt Nam, được xem là chiến thắng lớn nhất của phe Xã hội chủ nghĩa trong Chiến tranh Lạnh, khi chiến thắng cùng lúc ở 3 quốc gia, 2 châu lục. Chiến thắng này cũng đưa phe XHCN lên đến đỉnh cao trước khi bước vào thoái trào.
Lẽ dĩ nhiên, vào đỉnh cao của phe XHCN, không mất nhiều thời gian để Liên Xô hỗ trợ Mozambique xây dựng một nhà nước Cộng sản ở miền Nam châu Phi.
Nước Cộng hòa Nhân dân Mozambique được thành lập, do Samora Machel làm tổng thống. Các chính sách quốc hữu hóa nhanh chóng được thực hiện, bao gồm cả các công trình được Bồ Đào Nha xây dựng trong Chương trình Phát triển. Cải cách ruộng đất được tiến hành. Chính phủ nỗ lực xóa khoảng cách phát triển và nạn mù chữ.
Tuy nhiên, chương trình cải cách tham vọng nhanh chóng bị cản trở bởi tình hình chính trị bất ổn, một phần xuất phát từ chính những người lãnh đạo Mozambique.
Cuộc cách mạng thành công bước đầu ở Mozambique đe dọa trực tiếp tới các chính phủ da trắng cầm quyền ở Nam Phi và Rhodesia. Trong khi mối lo sợ này chưa rõ ràng, tổng thống Samora Machel lại làm nó bùng lên khi tuyên bố ủng hộ cuộc chiến của du kích da đen do Mugabe đứng đầu ở Rhodesia. Samora Machel tuyên bố: ”Cuộc chiến của Rhodesia cũng là cuộc chiến của tôi”. Mozambique vì thế đã hỗ trợ quân du kích ZANU của Mugabe ở Rhodesia. Vì điều này, quân đội Rhodesia đã buộc phải tấn công chống lại Mozambique. Trong các chiến dịch chống du kích ZANU, quân đội Rhodesia đã tấn công qua lãnh thổ Mozambique. Samora Machel đã chuốc cho mình kẻ thù không đáng có.
Không chỉ với nước ngoài, trong nước Mozambique cũng xuất hiện sự chống đối FRELIMO. Cần biết rằng, bên cạnh những người Cộng sản FRELIMO, cũng có nhiều người khác đấu tranh chống Bồ Đào Nha. Những người này sau khi độc lập đã thành lập các đảng phái nhỏ khác với FRELIMO. Khi các cải cách của FRELIMO được thực hiện, nhiều nhà tư bản, chủ đất, trí thức, có cả nông dân,…bị mất quyền lợi đã đứng lên chống lại FRELIMO. Để thống nhất các tổ chức, họ thành lập một đảng Kháng chiến Quốc gia Mozambique, gọi tắt là RENAMO. Đây sẽ là lực lượng chính chiến đấu với FRELIMO sau này.
Ngay khi thành lập, RENAMO tiến hành một cuộc nổi dậy chống FRELIMO, Nhưng cuộc nổi dậy bị nghiền nát, bởi không chỉ FRELIMO mà còn bởi lực lượng quân đội cánh tả Bồ Đào Nha còn ở lại Mozambique. RENAMO sau đó phải rút lui sang đất Nam Phi nhờ hỗ trợ.
Nhưng kể cả khi không có RENAMO, các cải cách của FRELIMO cũng tỏ ra không hiệu quả. Việc quốc hữu hóa đẩy 370.000 người da trắng khỏi đất nước, khiến tài sản quốc gia không được quản lý hiệu quả. Các cải cách xã hội theo hướng XHCN của chính quyền FRELIMO phá vỡ các cấu trúc bộ lạc truyền thống, đảo lộn nhiều giá trị xã hội. Có thể nói, các cải cách thất bại của FRELIMO đã làm xói mòn thành quả cách mạng, và khiến nhiều người dân bất mãn. Điều này làm bùng nổ cuộc nội chiến đẫm máu sau đó giữa FRELIMO và RENAMO.
2/ Nội chiến Mozambique.
Từ năm 1975 đến 1979, cuộc nội chiến ở nước láng giềng Rhodesia lên đến giai đoạn ác liệt nhất. Trong các hoạt động chống du kích Rhodesia của Mugabe, quân đội Rhodesia đã đánh qua đất Mozambique. Trong các cuộc tấn công đó, quân Rhodesia đã giải cứu nhiều lính RENAMO bị cầm tù, đưa về Rhodesia huấn luyện. Những lính RENAMO này đã chiến đấu bên cạnh chính phủ Rhodesia chống du kích da đen. Nhưng đến năm 1979, cuộc chiến của họ thất bại. Rhodesia rơi vào tay chính quyền da đen của Mugabe, đổi tên thành Zimbabwe như ngày nay.
Số phận của RENAMO lúc này khá mong manh. May mắn cho họ, là chính quyền da trắng A-pác-thai ở CH Nam Phi đã cho RENAMO vào lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, CH Nam Phi cũng chính là đồng minh duy nhất và cuối cùng của RENAMO. Lúc này chính Nam Phi cũng đang bị quốc tế bao vây cấm vận vì chính sách phân biệt chủng tộc của mình. Các nước phương Tây dù chống Cộng cũng không chấp nhận viện trợ cho Nam Phi cũng như RENAMO. Ngược lại, phía bên kia, FRELIMO được khối XHCN của Liên Xô hỗ trợ nhiệt tình, dù cũng đã bước vào giai đoạn khó khăn.
Suốt từ năm 1980 đến năm 1986, RENAMO không có được thắng lợi lớn nào. Các cuộc tấn công lẻ tẻ của họ qua đất Mozambique thường thất bại. Trong 6 năm hai phe đánh qua lại biên giới không có trận đánh lớn, thương vong của quân đội hai bên khá ít.
NHƯNG, những hành động nhằm vào dân thường ở miền Nam Mozambique thì không nhẹ nhàng chút nào. Cả 2 phe khi đánh qua lại nhau đều nhằm vào dân thường, nhằm cướp bóc cũng như khủng bố tinh thần. Cả 2 phe đều lo ngại dân thường hợp tác với bên kia, nên đều tiến hành khủng bố đe dọa người dân. Phe FRELIMO còn tiến hành trưng thu lương thực của người dân miền Nam do sợ rơi vào tay quân RENAMO, gây nên nạn đói dai dẳng. Cuối cùng, hai bên đều sử dụng mìn đất với số lượng lớn. Đây chính là nguyền nhân lớn nhất, gây đến 70% thương vong trong suốt cuộc chiến. Cuộc chiến tranh vì vậy mà có đến 1 triệu người chết dù không có quá nhiều trận đánh lớn. Mozambique đến ngày nay vẫn là một trong những nước có số lượng mìn sót lại lớn nhất thế giới.
Vào ngày 19 tháng 10 năm 1986, bước ngoặt lớn xảy ra khi máy bay chở Tổng thống Machel bị rơi gần biên giới Nam Phi. Vụ tai nạn mãi mãi là một bí ẩn. Rất nhiều người đổ lỗi cho Nam Phi, nhưng những đồng chí thân cận của Tổng thống Samora Machel nghi ngờ Liên Xô ám sát ông.
Dù sao, cái chết của vị Tổng thống anh hùng làm FRELIMO chịu một đòn choáng váng. Cùng với đó, từ năm 1986 cuộc khủng hoảng trong phe XHCN đã trầm trọng. Với việc Liên Xô ngừng viện trợ năm 1987, chính quyền Cộng sản FRELIMO ở Mozambique đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Lợi dụng điều này, từ năm 1986 RENAMO đẩy mạnh nhất có thể các cuộc tấn công vào FRELIMO. Các cuộc tấn công làm trầm trọng thêm nạn đói ở miền Nam Mozambique. Cộng với thiên tai như bão lớn, trong những năm 1984-1987, số người chết đói ở Mozambique tăng theo cấp số nhân, khiến LHQ phải tuyên bố ”thảm họa nhân đạo”.
Chiến tranh lan rộng kèm theo tội ác chiến tranh. Cả 2 phe, FRELIMO và RENAMO đều phạm tội ác chiến tranh nghiêm trọng, bao gồm thảm sát, cưỡng hiếp, tra tấn, sử dụng lính trẻ em,…Dù vậy, bất chấp việc FRELIMO suy yếu, RENAMO cũng không thể giành một chiến thắng quân sự quyết định. Nó đẩy cuộc chiến tranh vào bế tắc.
Từ những năm 90, Liên Xô và phe XHCN Đông Âu coi như đã sụp đổ. Nhưng bù lại, chế độ A-pác-thai ở CH Nam Phi cũng không còn đứng vững. Cả 2 phe ở Mozambique đều mất viện trợ. Nhận thức được không thể kéo dài chiến tranh vô ích, cả 2 phe đã đồng ý đàm phán nhờ sự trung gian của LHQ.
Tháng 11/1990, trong một động thái tích cực, FRELIMO thông qua hiến pháp mới, trong đó quan trọng nhất là thừa nhận đa đảng và bầu cử tự do. Sự kiện này mở cánh của hòa bình cho Mozambique.
Đến ngày 4/10/1992, hai phe đã ký Thỏa thuận Hòa bình Rome, đặt dấu chấm hết cơ bản cho Nội chiến Mozambique!
3/Hậu chiến và tái chiến
*Hậu quả và giải quyết
Cuộc nội chiến từ 1975 đến 1992 ở Mozambique làm 1 triệu người chết, 5,7 triệu người di cư trong nội bộ và dẫn đến 1,7 triệu người tị nạn nước ngoài. Đất nước bị nạn đói tàn phá, trở thành một trong những nước nghèo đói nhất thế giới.
Gần 1 triệu quả mìn sót lại. Một tổ chức do Anh và Mỹ đứng đầu chịu trách nhiệm phá mìn cho Mozambique. Đến năm 2015, người ta tuyên bố Mozambique cơ bản đã hết mìn.
Lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ được triển khai ở Mozambique. Năm 1994, nước này tiến hành bầu cử đa đảng tự do, Kết quả là đảng FRELIMO vẫn giành chiến thắng, nắm đa số ghế Nghị viện và Joaquim Chissano làm tổng thống. Tuy nhiên, đảng RENAMO cũng giành kết quả đáng khích lệ.
Cả 2 phe đều có tội ác cần phải xét xử. Nhưng thay vì xét xử, người ta chọn cách ”ân xá chung”. Các tội ác thay vì được xét xử thường được khuyến khích là ”nên quên đi”.
1,7 triệu người tị nạn Mozambique trở về quê hương, là cuộc hồi hương lớn nhất lịch sử.
Sau nhiều năm, Mozambique vẫn là một trong những nước nghèo nàn nhất thế giới, một phần do hậu quả to lớn của chiến tranh và thiên tai thường xuyên xảy ra.
Về chính trị, kể từ sau khi dân chủ hóa, đảng FRELIMO vẫn giành chiến thắng hầu hết các cuộc bầu cử. Điều này duy trì đường lối của Mozambique vẫn đi theo hướng Xã hội chủ nghĩa hiện đại.
*Tái nổi dậy và hòa bình năm 2019.
Từ năm 2013, sau các kết quả bầu cử bị cho là gian lận, nhiều nhân vật cũ của RENAMO đã đe dọa quay lại chiến tranh chống FRELIMO. Và thực sự một số cựu binh RENAMO đã nổi dậy trở lại, lần này ở miền Bắc và miền Trung. Cuộc nổi dậy lẻ tẻ khiến vài trăm người chết, 15.000 người phải rời bỏ nhà cửa. Tuy nhiên, các nỗ lực hòa bình không ngừng nghỉ đã giúp cuộc nổi dậy chấm dứt.
Ngày 1/8/2019, trước sự chứng kiến của đại diện ngoại giao nhiều nước (trong đó có Việt Nam), 2 phe FRELIMO và RENAMO đã ký thỏa thuận hòa bình lịch sử, chấm dứt nội chiến từ năm 2013. Thỏa thuận này được kỳ vọng sẽ mang lại hòa bình lâu dài cho đất nước và người dân Mozambique.
Thế nhưng, xung đột với RENAMO không phải là mối nguy duy nhất Mozambique phải đối mặt.
*Nổi dậy Hồi Giáo ở Mozambique.
Nếu đọc lại đầu bài một chút, sẽ nhận ngày ra vấn đề: Ở miền Bắc Mozambique có một cộng đồng Hồi giáo. Cộng đồng Hồi giáo này là duy nhất ở Miền Nam châu Phi, và do cuộc chinh phục của người Oman với Mozambique, nên họ có một sự tự hào nhất định.
Vào những năm 2015, do sự nổi lên của nhóm Nhà nước Hồi giáo (IS), nhất là lời kêu gọi thánh chiến thành lâp nhà nước Hồi giáo thống nhất, nhiều kẻ cực đoan ở miền Bắc Mozambique đã nổi dậy tấn công cảnh sát Mozambique.
Theo IS, khu vực có người Hồi giáo sinh sống ở CHDC Congo và Mozambique gọi là ”Tỉnh Trung Phi” (Islamic State’s Central Africa Province). Ở Mozambique, các phiến quân chủ yếu nổi dậy ở tỉnh Cabo Delgado, có nhiều người Hồi giáo. Chúng thành lập tổ chức gọi là Ansar al-Sunna.
Đến nay cuộc nổi dậy ở Cabo Delgado đã giết hơn 200 người. Quân đội Mozambique đã phải nhờ đến lính đánh thuê Nga. Nhưng cả những người lính Nga cũng không tránh khỏi bị tấn công. Tháng 11/2019, 5 lính tư nhân Nga đã bị sát hại ở Mozambique.
Rõ ràng con đường đến với hòa bình của Mozambique vẫn còn lắm chông gai.
Tham khảo:
Samora Machel, an African revolutionary (Barry. Munslow.)