Đại dịch cúm Tây Ban Nha, giết chết hàng chục triệu người, một trong những thảm họa lớn nhất với nhân loại trong thế kỉ XX, được nhắc đến nhiều trong những ngày dịch bệnh Covid-19 từ Trung Quốc lan rộng ra thế giới, tháng 2/2020 này. Một số chuyên gia dịch tễ học ước tính, nếu không có biện pháp phù hợp, khoảng một nửa dân số thế giới sẽ mắc Covid-19. Nhân loại hiện nay có thể rút được những bài học gì đại dịch cúm Tây Ban Nha năm xưa?
Khác với dịch bệnh Covid-19 (do virus SARS-2-CoV-2) gây ra, bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, đại dịch mang tên ”cúm Tây Ban Nha” hoàn toàn không chỉ xuất phát từ Tây Ban Nha. Mùa xuân năm 1918, báo chí Pháp đồng loạt đưa tin vua Tây Ban Nha liệt giường, có thể là nạn nhân của trận dịch cúm đang hoành hành tại Tây Ban Nha. Báo Le Matin, ngày 30/05/1918, đưa ra con số 120 nghìn người bệnh, riêng chỉ tại Madrid. Báo Gaulois, cùng thời điểm này, cho biết truyền thông Madrid đã mô tả chi tiết về trận dịch ”đang phát triển với tốc độ kinh hoàng”. Chính trong bối cảnh này mà dịch cúm xuất hiện đầu năm 1918 được mọi người nói đến một cách tự nhiên là cúm Tây Ban Nha.
Cũng vào khoảng giai đoạn này, dịch bệnh bắt đầu hoành hành tại Pháp. Đã có những ca bệnh đầu tiên được phát hiện vào tháng 4/1918, đặc biệt trong quân đội, thế nhưng báo chí đã không được phép nói bất cứ điều gì. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài France 24, nhân dịp 100 năm đại dịch cúm Tây Ban Nha, nhà sử học Anne Rasmussen, giáo sư Đại học Strasbourg, giải thích: ”Vào thời điểm đó, nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh. Thông tin bị kiểm duyệt tại tất cả các quốc gia tham chiến”. Tây Ban Nha là quốc gia trung lập, vì vậy truyền thông không bị kiểm duyệt. Nhà sử học nhấn mạnh là, trong bối cảnh này, ”thoạt tiên người ta tin rằng dịch cúm chỉ có tại Tây Ban Nha, chứ không phải ở những nơi khác”.
Virus đột biến
Về chủ đề này, nhà sử học, kinh tế gia Pierre-Cyrille Hautcoeur, giám đốc nghiên cứu tại EHESS (Trường cao học về các khoa học xã hội), Paris, có bài viết đáng chú ý trên Le Monde, ngày 04/03/2020, mang tựa đề ”Dịch cúm Tây Ban Nha, một bí mật được che giấu quá kỹ”. Trước hết, theo nhà sử học, việc dựng lại chính xác cội nguồn của dịch là một điều không dễ dàng, bởi vì nếu như gần đây, các nhà khoa học đã tìm thấy virus–thủ phạm trong một số thi thể nạn nhân, được bảo tồn dưới tầng băng giá ở vùng cực Bắc, thì việc chỉ ra ”thời điểm chính xác virus đột biến”, để trở thành tác nhân gây dịch, vẫn còn là vấn đề đề ngỏ.
Tuy nhiên, có một điểm rõ ràng, mà các nhà nghiên cứu đạt được đồng thuận, đó là quy mô bệnh dịch kinh hoàng này đã bị che giấu trong những tháng cuối cùng của cuộc Đại chiến Thế giới thứ nhất. Sau này, chúng ta biết, số lượng người chết do virus lên đến khoảng 50 triệu (một số người đưa ra con số 100 triệu) trong thời gian 1918-1919 (tức tương đương từ 2,5 đến 5% dân số thế giới vào thời điểm đó).
Những nghiên cứu để phục dựng lại những biến chuyển của virus cúm ”Tây Ban Nha” mới chỉ được giới chuyên môn đầu tư nhiều từ khoảng vài chục năm trở lại đây. Các nhà khoa học ghi nhận virus gây cúm Tây Ban Nha – vốn phố biến ở nhiều vùng trên thế giới – đã có một đột biến quan trọng, được ghi nhận tại Hoa Kỳ, vào khoảng tháng 4/1918, và trở nên nguy hiểm hơn gấp bội (theo cuốn ”Cúm Tây Ban Nha : Giải thích về một đại dịch” của Eric Leroy, viện sĩ Viện Hàn Lâm Y Học Pháp). Xuất phát từ Boston vào khoảng tháng 9/1918, tràn ra thế giới, theo chân nhiều đơn vị quân đội Mỹ.
Gần một nửa thủy quân lục chiến Mỹ mắc cúm
Theo các nhà khoa học, dịch bắt đầu bùng lên từ một căn cứ quân sự Mỹ của lực lượng viễn chinh. Những trường hợp mắc cúm lạ, lần đầu tiên được ghi nhận là vào tháng 3/1918. Nhưng đợt thứ hai nguy hiểm, lan rộng và gây chết người nhiều hơn là vào tháng 8/1918. Vào thời điểm đó, mọi nỗ lực giành để cho chiến tranh. Bất chấp các dấu hiệu của dịch bệnh lớn, tại Mỹ, người ta vẫn tổ chức nhiều hoạt động thu hút đông đảo người tham gia, để quyên góp tiền cho cuộc chiến bảo vệ các đồng minh châu Âu, và hoàn toàn sao lãng các đòi hỏi an toàn vệ sinh dịch tễ. Khoảng 40% lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đã bị mắc ”cúm Tây Ban Nha”, khoảng 4000 quân nhân thiệt mạng do cúm trên đường vượt Đại Tây Dương, theo sử gia Alfred Crosby (America’s Forgotten Pandemic : The Influenza of 1918, Nxb Cambridge, 2003, dẫn theo bài “La grippe espagnole : le tueur invisible de 1918“, của Marine Dumeurger, trên Geo.fr). Điều kiện khắc nghiệt tại chiến trường cũng khiến dịch bệnh dễ dàng cướp đi nhiều mạng sống.
Dịch bệnh diễn ra theo hai đợt : đợt thứ nhất kéo dài đến hết năm 1918, và đợt thứ hai ngắn hơn, diễn ra vào mùa hè năm 1919. Tỉ lệ tỉ vong rất cao, thường vượt quá 20% dân số của các cộng đồng bị dịch, thậm chí lên đến 80%. Dịch bệnh cũng đặc biệt không tha lứa tuổi 25 – 35, vốn được coi là có sức đề kháng cao hơn. Theo nhà sử học Pierre-Cyrille Hautcoeur, nếu như thông tin về tỉ lệ chết cao khác thường này được công chúng rộng rãi biết đến, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến các chiến dịch quân cuối cùng trong thời gian Đại chiến. Nhà sử học nêu ra con số, chỉ trong hai tháng cuối của cuộc chiến, đã có khoảng 400 000 thường dân Pháp và 100 000 binh sĩ quân đội phe Đồng Minh thiệt mạng do dịch.
Từ châu Âu bệnh tràn ra thế giới
Việc che giấu thông tin cũng được coi là nguồn gốc khiến dịch bệnh lan từ châu Âu ra những nơi khác trên thế giới. Tại Ấn Độ và Trung Quốc, người ta ước tính có khoảng 6 triệu người chết, và không có con số thống kê về các nạn nhân tại châu Phi, mà ta biết rằng, tỉ lệ tử vong sẽ càng cao ở các cộng đồng dân cư nghèo khó (nhà sử học Alfred Crosby đưa ra con số 18,5 triệu người chết riêng tại Ấn Độ).
Việc không có thông tin về dịch bệnh cũng cản trở việc phổ biến những hiểu biết quan trọng, như các kinh nghiệm trị liệu. Phải cho đến những năm 1930, giới khoa học mới phân lập được virus. Vào thời điểm này, nhiều người cho dịch là do một vi trùng, được nhà bác học Đức Pfeiffer tìm ra vào năm 1892. Không có hiểu biết rõ ràng về nguồn gốc bệnh, vào thời điểm đó, các bác sĩ đã phải sử dụng đủ mọi biện pháp mà họ có trong tầm tay.
Từ ”tắm lạnh” (để tiêu viêm), dùng thuốc nhuận tràng, cho đến sử dụng các dược phẩm như aspirine, ký ninh, iodine…, hay dùng các loại vắc xin hiệu quả trong các bệnh dịch khác. Đối với các biện pháp y tế công, để chống lại kẻ thù vô hình này, người ta cũng sử dụng đủ loại biện pháp : Từ hun khói, tẩy trùng, đóng cửa các địa điểm công cộng, phát xà phòng, thu dọn rác thải… Tất cả các biện pháp được huy động vốn cũng là những biện pháp đã được dùng để phòng chống đa số các bệnh dịch khác. Quân đội, vốn thường tự hào đã chế ngự được đủ loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, như thương hàn, kiết lỵ, sốt phát ban…, hy vọng với các biện pháp truyền thống, cộng với nước sạch, thực phẩm sạch, chăn màn sạch, là có thể ngăn chặn được dịch bệnh. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy tổn thất do dịch bệnh gây ra là rất lớn, chưa kể, do thông tin không được minh bạch, mà bệnh dịch lan rộng ra những nơi khác của thế giới.
Sửa sai đầu tiên: Lập Cơ Quan Y Tế Hội Quốc Liên
Sau chiến tranh, giới chính trị quốc tế – nhìn chung hiểu được rằng thảm họa đã xảy ra, nhưng không công khai nói đến quy mô của thảm họa – đã tìm cách lập ra Cơ Quan Y Tế của Hội Quốc Liên, tiền thân của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) (lập ra năm 1921), với chức năng chính là kiểm soát dịch bệnh, thông tin về dịch bệnh, điều phối sự hợp tác quốc tế, là điều hoàn toàn thiếu vắng trước đó.
Về mặt các điều kiện xã hội, trình độ phát triển kinh tế, về hệ thống y tế, giữa đại dịch cúm Tây Ban Nha đầu thế kỷ XX và dịch Covid-19 hiện nay rõ ràng có rất nhiều điểm khác xa nhau, thậm chí khác nhau một trời một vực. Các xã hội đương đại, đặc biệt là các quốc gia phát triển, có nhiều tiềm năng để đối phó hơn hẳn. Tuy nhiên, bài học căn bản mà đại dịch cúm Tây Ban Nha để lại, đó là việc theo dõi sát dịch bệnh, minh bạch thông tin, phối hợp tổ chức các biện pháp can thiệp là các điều thiết yếu, để ngăn chặn ngay từ đầu, hoặc hạn chế tác hại của dịch bệnh. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với những cộng đồng người nghèo, là nạn nhân đầu tiên của các dịch bệnh.
Mục lục
Đại dịch ‘Cúm Tây Ban Nha’ vào năm 1918 đã biến đổi thế giới thế nào?
Bức tranh mà chúng ta có được về đại dịch cúm năm 1918 giờ đây chi tiết hơn nhiều so với 20 năm trước đây, và càng rõ hơn nữa nếu đem so với 50 hay 100 năm trước.
Nhưng nhiêu đó cũng chưa hề là đủ.
Nhà bệnh học Jeffery Taubenberger tại Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ – người mà hồi năm 2005 đã cùng với đồng nghiệp là Ann Reid công bố chuỗi di truyền của virus gây ra dịch cúm này – phát biểu tại một hội thảo mới đây rằng vẫn còn có nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời.
Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đang làm việc vất vả để tìm kiếm câu trả lời. Tuy nhiên những gì mà họ đã phát hiện được có thể làm cho bạn kinh ngạc.
Người khỏe nhất lại dễ bị bệnh nhất
Nghệ sỹ Áo Egon Schiele tử vong vì bệnh cúm vào tháng 10/1918, chỉ vài ngày sau vợ ông, bà Edith, người đang mang thai đứa con đầu lòng của họ.
Trong khoảng thời gian sau khi vợ qua đời, mặc dù bệnh trầm kha và đang đau buồn, người họa sỹ này vẫn vẽ một bức họa mô tả một gia đình – gia đình của ông – vốn không bao giờ tồn tại.
Schiele mới chỉ 28 tuổi, hoàn toàn nằm trong độ tuổi đã chứng minh là hết sức dễ bị tổn thương trước dịch cúm 1918. Đó là một lý do mà bức tranh còn dang dở của ông, ‘Gia đình’, thường được mô tả là bằng chứng đau lòng về sự tàn khốc của trận dịch.
Do gây tử vong cao như thế đối với những người trong độ tuổi 20 đến 40, trận dịch đã cướp đi trụ cột của các gia đình và các cộng đồng, để lại đa phần là người già và trẻ mồ côi không nơi nương tựa.
Nhìn chung, đàn ông có nguy cơ tử vong cao hơn phụ nữ, trừ những phụ nữ có thai – khi đó họ sẽ tử vong hoặc sẩy thai ồ ạt.
Các nhà khoa học không biết chính xác tại sao những người đang độ tuổi sung mãn trong cuộc đời lại dễ bị tổn thương như vậy, nhưng một manh mối khả dĩ là việc những người lớn tuổi, vốn luôn có nguy cơ cao bị mắc cúm – thật ra lại ít có khả năng tử vong trong trận dịch cúm hồi năm 1918 hơn là trong những mùa cúm khác trong suốt thập niên trước.
Một giả thiết có thể giải thích cả hai hiện tượng trên đây là ‘tội kháng nguyên nguyên thủy’ – tức là hệ miễn dịch của con người phản ứng hiệu quả nhất trước dòng cúm đầu tiên nó đối mặt.
Virus cúm là virus rất dễ biến đổi – có nghĩa là nó thay đổi cấu trúc liên tục – trong đó có hai kháng nguyên chính trên bề mặt của nó, được gọi tắt là H và N vốn tấn công vào hệ miễn dịch vật chủ.
Có một số bằng chứng cho thấy dòng cúm đầu tiên những người trẻ tuổi hồi năm 1918 mắc phải là dòng H3N8 – có nghĩa là họ phải chống chọi trước hết với một dòng virus rất khác với dòng đã gây ra trận dịch năm 1918 vốn thuộc về chi H1N1.
Cũng theo cách lập luận đó, người lớn tuổi có thể đã được bảo vệ một cách tương đối hồi năm 1918 do họ lâu nay vẫn chống chọi với kháng nguyên H1 hay N1 vốn đang lan truyền trong cộng đồng dân cư vào khoảng năm 1830.
Tỷ lệ tử vong có sự khác biệt lớn trên toàn cầu
Đôi khi bệnh cúm còn được gọi là bệnh dân chủ, tức là nguy cơ mắc bệnh chia đều cho mọi người. Nhưng trận dịch năm 1918 thì hoàn toàn không phải như vậy.
Chẳng hạn, những người sống ở châu Á có khả năng tử vong cao hơn 30 lần so với những người sống ở một số nơi ở châu Âu.
Nhìn chung, châu Á và châu Phi có tỷ lệ tử vong cao nhất trong khi châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc số tử vong là thấp nhất, nhưng trên từng châu lục lại có sự khác biệt lớn.
Đan Mạch mất khoảng 0,4% dân số trong khi con số tử vong ở Hungary gấp ba lần con số đó.
Các thành thị thường bị ảnh hưởng nặng nề hơn khu vực nông thôn. Nhưng phạm vi thành phố cũng có khác biệt lớn.
Vào lúc đó, mọi người biết rất mơ hồ về sự mất cân bằng này, nhưng phải mất hàng thập kỷ các nhà thống kê mới đưa ra được các con số.
Một khi họ đã có được các con số, họ nhận ra rằng lời giải thích nhất định nằm ở sự khác biệt giữa các cộng đồng dân cư mà đáng chú ý là khác biệt về kinh tế xã hội.
Chẳng hạn như ở tiểu bang Connecticut của Mỹ – nhóm di dân trẻ nhất – người gốc Ý – bị mất mát nhiều nhất, trong khi ở Rio de Janeiro, lúc đó là thủ đô của Brazil, chính những người dân sống ở các khu ổ chuột trải rộng ở rìa thành phố mới bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Paris là một câu đố khó – tỷ lệ tử vong cao nhất được ghi nhận ở những khu vực giàu có nhất – cho đến khi các nhà thống kê nhận ra những ai không qua khỏi ở đó.
Những người tử vong không phải chủ nhân của những tòa căn hộ tráng lệ mà là những người giúp việc làm việc quần quật và ngủ trong những căn phòng chambres de bonne lạnh lẽo nằm tít ở bên dưới mái hiên.
Trên khắp thế giới, người nghèo, di dân và các sắc dân thiểu số dễ bị tổn thương hơn – không phải vì họ có địa vị thấp kém hơn trước Hiến pháp mà bởi vì nhiều khả năng họ sẽ ăn uống tệ, sống chật chội chen chúc, bị mắc những chứng bệnh khác do cúm gây ra và không có điều kiện tiếp cận hệ thống y tế.
Mọi thứ đã không thay đổi nhiều lắm. Một nghiên cứu về dịch cúm ở Anh hồi năm 2009 cho thấy tỷ lệ tử vong trong số những người nghèo nhất cao gấp ba ở những người giàu nhất.
Không chỉ là chứng bệnh hô hấp
Đại đa số những người ngã bệnh đã hồi phục, nhưng trong số thiểu số kém may mắn không qua khỏi, căn bệnh đã có diễn biến ghê sợ và những người kém may mắn này đông hơn ít nhất là 25 lần so với những người mắc bệnh trong những trận cúm khác.
Họ bắt đầu bị khó thở và mặt chuyển sang màu gỗ gụ. Màu này đậm dần thành màu xanh và cho đến khi họ chết toàn cơ thể họ là màu đen.
Nguyên nhân gây tử vong trong gần như hầu hết các trường hợp không phải là bản thân bệnh cúm mà là các vi khuẩn cơ hội vốn xâm nhập vào những vết thương trên phổi do virus tạo ra, gây ra những triệu chứng của bệnh sưng phổi.
Điều đó được biết đến tương đối rõ.
Điều ít được biết đến hơn là bệnh cúm này ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Tóc và răng rụng đi. Bệnh nhân cho biết họ bị chóng mặt, mất ngủ, mất thính giác và vị giác và chỉ nhìn thấy mọi thứ lờ mờ.
Còn có dư chấn tâm lý, nhất là tình trạng sầu cảm hay điều mà giờ đây chúng ta gọi là trầm cảm hậu virus.
Điều tiếp tục đúng là ngay sau làn sóng tử vong do cả các đại dịch cúm và mùa cúm hàng năm là đến làn sóng tử vong do các nguyên nhân khác, mà đáng kể nhất là do đau tim và đột quỵ – những hậu quả gián tiếp của phản ứng viêm tấy trước bệnh cúm.
Hồi năm 1918 cũng như bây giờ, bệnh cúm không chỉ đơn thuần là bệnh đường hô hấp.
Dịch cúm làm thay đổi hệ thống y tế…
Thuyết ưu sinh được dùng để giải thích những gì xảy ra cho cả trước và sau đại dịch cúm 1918, nhưng thuyết này đã bị trận dịch làm cho lung lay trong ít nhất là một lĩnh vực: các bệnh truyền nhiễm.
Trước đó, những người theo học thuyết Darwin về sự chọn lọc tự nhiên trong xã hội – vốn sai lầm – nhìn nhận một số “chủng tộc” người hay đẳng cấp trong xã hội cao hơn các chủng tộc, đẳng cấp khác; và cách nhìn này dần được pha trộn với khám phá của Louis Pasteur và các nhà khoa học khác, theo đó cho rằng các bệnh truyền nhiễm là thứ có thể ngăn chặn được. Họ đã đưa ra một ý tưởng hỗn hợp tai hại rằng những ai mắc bệnh truyền nhiễm chỉ nên tự trách mình mà thôi.
Trận đại dịch đã cho thấy một sự thật: tuy người nghèo và dân ngụ cư tử vong với số lượng lớn hơn, nhưng không có chủng tộc hay đẳng cấp nào miễn nhiễm với bệnh cả.
Một khi đã là bệnh truyền nhiễm thì việc tránh xa một số người và rao giảng cho họ về trách nhiệm cá nhân không còn có ý nghĩa gì hết. Bệnh truyền nhiễm là một vấn đề cần phải được đối phó ở cấp độ toàn xã hội.
Bắt đầu từ những năm 1920, sự thay đổi nhận thức bắt đầu được thể hiện trong những thay đổi về chiến lược y tế cộng đồng.
Nhiều quốc gia đã thành lập hoặc tái cơ cấu bộ y tế, lập nên những hệ thống giám sát bệnh tật tốt hơn và chấp nhận khái niệm y tế cộng đồng – chăm sóc sức khỏe cho tất cả mọi người.
Trước đó đã từng có những bước đi theo hướng này – ta không thể nghĩ rồi làm ngay một hệ thống y tế phổ quát – nhưng dịch cúm này dường như đã huy động các chính phủ vào cuộc.
Ở nước Anh, những nỗ lực này đã có kết quả vào năm 1948 với sự ra đời của hệ thống Dịch vụ Y tế Quốc gia, nhưng tính đến 1920 thì nước Nga đã có hệ thống y tế công cộng đầy đủ và tập trung hóa. Lúc khởi đầu, chỉ dân thành thị được hưởng lợi (và về sau, đến 1969 nó mở rộng cho dân nông thôn), nhưng nó vẫn là một thành tựu lớn và động lực thúc đẩy đằng sau chính là Vladimir Lenin.
…và biến đổi xã hội theo những cách khác nữa
Cách nói ‘thế hệ bị mất’ được áp dụng đối với những nhóm người khác nhau vẫn còn sống vào đầu thế kỷ thứ 20, trong đó có những nghệ sỹ Mỹ tài năng vốn trưởng thành trong Đệ nhất Thế chiến, và những sỹ quan quân đội Anh mà mạng sống của họ đã bị cuộc chiến đó rút ngắn.
Tuy nhiên, có thể lập luận một cách hợp lý rằng danh xưng này có thể được dành cho hàng triệu người đang trong độ tuổi sung mãn vốn bỏ mạng trong dịch cúm năm 1918, hay dành cho những đứa trẻ bị biến thành trẻ mồ côi, hoặc cho những đứa bé vẫn chưa ra đời mà đã chịu sự hành hạ của căn bệnh trong bụng mẹ.
Bản chất của trận dịch năm 1918 và kiến thức khoa học vào lúc đó khiến chúng ta không hề biết chính xác trong ba nhóm đó có bao nhiêu người, nhưng chúng ta có thể biết chắc rằng mỗi nhóm đều có nhiều người hơn cả các nghệ sỹ trong Kỷ nguyên nhạc Jazz và trên 35.000 binh sỹ Anh chết trong chiến trận (chỉ riêng Nam Phi đã có khoảng 500.000 trẻ mồ côi vì cúm).
Những người sống sót trong bụng mẹ để chào đời thì sống cùng với những vết sẹo cho đến khi lìa đời.
Nghiên cứu cho thấy họ ít có khả năng tốt nghiệp đại học hay có thu nhập đàng hoàng, và nhiều khả năng ngồi tù hơn là những người cùng thời không bị ảnh hưởng bởi dịch cúm.
Thậm chí còn có bằng chứng cho thấy dịch cúm năm 1918 đã góp phần dẫn đến sự bùng nổ dân số vào những năm 1920 do số sống sót còn lại chỉ ít ỏi nhưng khỏe mạnh vốn có khả năng sinh sản với tỷ lệ cao.
Không còn nghi ngờ gì, dịch cúm năm 1918 đã phủ bóng lâu dài lên thế kỷ 20.
Chúng ta cần ghi nhớ điều này để chuẩn bị cho trận dịch cúm kế tiếp.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.