Seite auswählen

Giây phút Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (ở giữa) được trả tự do vào năm 1998 cùng với các thầy Thích Phước An, Thích Phước Viên. Ảnh: Blog Tuan Khanh.

Vào buổi trưa ngày 28/5/1994, Đại đức Thích Huệ Thâu, 43 tuổi, đi từng bước chậm rãi ra đằng sau tịnh xá của mình tại một miền quê thuộc xã Ba Càng, tỉnh Vĩnh Long. Ra đến bờ sông, ông ngồi xuống, gập chân lại trong tư thế thiền của đạo Phật rồi châm lửa tự thiêu.

Sở dĩ Đại đức Huệ Thâu phải chọn cách tự sát đau đớn như vậy là vì ông đã cùng đường, anh trai của Đại đức Huệ Thâu kể với nhà báo Cameron W. Barr của tờ The Christian Science Monitor.

Vào những năm 1990, đạo Phật miền Nam đã ráng hết sức để sống sót dưới bàn tay toàn trị của chính quyền.

Để yên thân, không ít các nhà sư đã chọn tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam do nhà nước thành lập. Nhưng ở các nơi khác, thành thị cũng như nông thôn, những nhà sư độc lập đã có một số phận rất đau thương.

Trước đó, chính quyền đã cấm Đại đức Huệ Thâu hành đạo trong các ngôi chùa ở Vĩnh Long, nơi mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã kiểm soát hầu hết các ngôi chùa ở đây.

Nhưng điều đó không khuất phục được ông tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một tổ chức cho chính quyền thành lập để kiểm soát Phật giáo. Ông và những người khác vẫn một mực trung thành với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, anh trai ông nói với nhà báo Cameron.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập vào năm 1964 sau cuộc tranh đấu khiến chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ. Vì có kỹ năng tổ chức và tài huy động dân chúng nên sau năm 1975 chính quyền đã tìm mọi cách vô hiệu hoá giáo hội này, và thay thế bằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Theo AP, ba ngày trước khi ông tự thiêu, ông đã dẫn khoảng 47 tăng, ni, phật tử đến trụ sở của Hội đồng Nhân dân tỉnh để yêu cầu chính quyền ngừng đàn áp tôn giáo.

Một ngày sau, ngôi tịnh xá bé nhỏ nơi duy nhất mà Đại đức Huệ Thâu có thể tu hành bị chính quyền ra lệnh đóng cửa với lý do chùa ông tuyên truyền mê tín dị đoan.

Trong chế độ mới, kỹ năng tranh đấu bất bạo động của Đại đức Huệ Thâu cũng như các nhà sư thuộc GHPGVNTN đã hoàn toàn vô dụng.

Huế 1993

Ngày nay, khi bạn tham quan chùa Thiên Mụ ở Huế, các hướng dẫn viên chắc chắn sẽ giới thiệu về “chiếc xe hơi của lòng yêu nước”, chiếc xe đã chở Hòa thượng Thích Quảng Đức đi tự thiêu ở Sài Gòn vào một buổi sáng năm 1963. Nhưng chắc chắn các hướng dẫn viên sẽ không kể cho bạn nghe về một cuộc nổi dậy ở Huế bắt đầu từ một vụ tự thiêu ở chùa Thiên Mụ.

Khoảng 9 giờ sáng ngày 21/5/1993, du khách đang tham quan chùa Thiên Mụ thì thấy một người đàn ông khoảng 50 tuổi bước đến trước bảo tháp chứa hài cốt của Hòa thượng Thích Đôn Hậu. Người đàn ông này đã châm lửa thiêu mình ngay tại đó. Công an đã tịch thu thi thể và số giấy tờ của người đàn ông này, được cho là có cả thư tuyệt mệnh.

Các thầy ở chùa Thiên Mụ biết người đàn ông này, đó là phật tử Nguyễn Ngọc Dũng, người Huế. Khi các thầy dựng một bàn vong nhỏ ngay tại chỗ phật tử Dũng tự thiêu, ghi rõ rằng “Nơi đây, vào lúc […] một phật tử đã phát đại nguyện tự thiêu để ….” thì bị công an đến phá.

 

Một bàn vong nhỏ được các thầy chùa Thiên Mụ đặt ở nơi phật tử Nguyễn Ngọc Dũng tự thiêu. Ảnh: Phim tài liệu về vụ việc.

Tối hôm đó, Đài phát thanh Huế phát trên loa: “Một người nghiện ngập ma túy, mắc bệnh SIDA, vừa tự sát do xăng!”. Chính quyền nói rằng người bị bệnh SIDA đó tên là Đào Quang Hộ, cư trú ở tỉnh An Giang, vì cãi nhau với vợ nên đã đến chùa Thiên Mụ để tự thiêu.

Tuy nhiên, chính quyền không giải thích được vì sao người đàn ông này lại đi một quãng đường dài đằng đẵng từ An Giang đến Huế chỉ để tự thiêu. Cũng không hiểu vì sao người đàn ông này lại tự thiêu vào đúng vào giỗ đầu của Hòa thượng Đôn Hậu.

Theo Phòng thông tin Phật giáo Quốc tế của GHPGVNTN, ngày 22/5/1993, trụ trì chùa Thiên Mụ là Đại đức Thích Trí Tựu làm đơn xin nhận xác người đàn ông này về an táng thì hai hôm sau ông được mời lên Ủy ban Nhân dân tỉnh để làm việc.

Khi Đại đức Trí Tựu lên làm việc thì cán bộ muốn ông ký xác nhận là có một người thanh niên nghiện ngập bị SIDA đã đến chùa ông để tự thiêu nhưng ông không ký. Đại đức Trí Tựu bèn ra phía trước cơ quan ngồi xuống tuyệt thực thì bị công an lôi vào trụ sở.

Tin tức Đại đức Trí Tựu bị cưỡng bức lan ra nhanh chóng, các thầy chùa Thiên Mụ đã quá sợ hãi những vụ công an làm chết người như cái chết của Hòa thượng Thích Thiện Minh, nên họ kéo nhau đi đòi người.

Đông đảo các nhà sư đã kéo đến trụ sở Uỷ ban Nhân dân để tìm Đại đức Trí Tựu, hàng chục nghìn Phật tử đổ ra đường đứng ngập tràn trên các con phố. Hai bên giằng co nhau rất căng thẳng. Các thầy không chịu giải tán nếu không có người, chính quyền cũng không chịu thả người nếu các thầy không giải tán.

Khi thấy một chiếc xe hơi chạy ra từ trụ sở uỷ ban, nghi ngờ chiếc xe chở theo Đại đức Trí Tựu, đông đảo phật tử và các thầy đã bao vây chiếc xe này thì thấy Đại đức Trí Tựu đang ngồi bên trong. Bằng mọi giá họ phải đưa được thầy của mình ra ngoài. Một phật tử mở được cửa xe, các thầy liền đưa Đại đức Trí Tựu ra ngoài rồi tức tốc leo lên một chiếc xe xích lô chạy thật nhanh về chùa Thiên Mụ. Chiếc xe hơi nằm ở lại, đầu xe hướng về một hướng khác hướng đi chùa Thiên Mụ, dân chúng xúm lại lộn ngược chiếc xe này, sau đó chiếc xe bốc cháy.

Năm tiếng đồng hồ náo loạn ngày hôm đó đều được quay lại bằng tám máy quay chuyên dụng của chính quyền. Chính quyền đã dùng  băng ghi hình để cáo buộc các nhà sư đã gây rối ở Huế.

 

Những hình ảnh về cuộc biểu tình đòi người ở Huế của các nhà sư vào năm 1993 do máy quay của chính quyền quay lại. Ảnh: Phim tài liệu về vụ việc.

Liên tục trong năm tháng sau đó, khắp các mặt báo trong nước đồng loạt bôi nhọ các nhà sư ở Huế đã làm loạn thành phố.

Ngày 15/11/1993, các đại đức Thích Trí Tựu, Thích Hải Tạng, Thích Hải Chánh và Thích Hải Thịnh bị kết án ba đến bốn năm tù vì tội gây rối trật tự công cộng. Năm phật tử khác cũng bị kết án từ sáu tháng đến bốn năm tù giam.

Nhà sư bị bắt cầm súng

Vào cuối những năm 1970, chính quyền đã làm một chuyện chưa từng có tiền lệ ở miền Nam là gọi các nhà sư trẻ nhập cũ. Họ bị đưa sang Campuchia để đánh Pol Pot hay ra biên giới Tây Bắc để chống Trung Quốc.

Sư Thích Nhân Tân, trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Denis D. Gray vào năm 1981, cho biết rằng anh đã bị chính quyền Việt Nam bắt đi đánh Pol Pot nhưng từ Campuchia anh đã trốn sang Thái Lan để tị nạn.

Một nhà sư khác của khối Ấn Quang cũng xác nhận là có việc nhà nước bắt các nhà sư trẻ đi lính.

Chính quyền Việt Nam không cho phép sư Thích Nhân Tân cũng như các sư khác mặc áo tràng khi ra ngoài chùa. Chính quyền còn cố tình sắp các cuộc họp công dân vào những giờ mà bà con đi lễ nhà thờ hay lễ chùa.

Tháng 11/1981, trong một cuộc phỏng vấn do hãng tin United International Press thực hiện ở thành phố Hồ Chí Minh, một hòa thượng quen thuộc của giới sinh viên Phật tử Sài Gòn xin giấu tên nói rằng các thanh niên muốn qua đêm ở chùa thì phải có giấy phép của chính quyền.

“Không có nhà sư mới nào sau năm 1975”, vị hòa thượng nói. “Chính quyền sẽ không cho họ ở lại chùa đâu”. Nếu chính quyền biết được người nào mới xuất gia thì sẽ buộc họ hoàn tục và trả về cho gia đình, ông cho biết.

Đến việc các nhà sư gặp mặt nhau cũng đầy khó khăn. Chính quyền luôn luôn theo dõi để cản trở các thầy họp mặt cũng như đến các ngôi chùa khác.

Ở thành phố thì người dân vẫn được phép đi chùa, cúng dường, chỉ có điều là các thầy không được thuyết pháp, nhưng tình hình ở nông thôn thì tệ hơn nhiều, ông cho biết. Ở một số khu vực nông thôn, chính quyền địa phương chẳng những tịch thu đất ruộng của các chùa mà còn cấm người dân cúng dường các thầy.

“Các thầy phải thôi tu hoặc chết đói”, ông nói.

Một nhà sư khác trong cuộc phỏng vấn nói: “Ở Hà Nội, thanh niên không biết Phật giáo là gì cả. Chỉ còn có vài giảng sư già cỗi thôi. Nhưng chính phủ sẽ không để các thầy dạy những đứa trẻ”.

Khi chính quyền đi thống nhất Phật giáo

Khoảng bốn tháng sau ngày 30/4/1975, chính quyền đã tìm cách kiểm soát Phật giáo miền Nam bằng cách thành lập Ban liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhưng nhiều nhà sư đã kiên quyết không tham gia tổ chức này vì họ đã là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN).

“Từ đó, cộng sản dùng các vị tăng ‘yêu nước’, ‘yêu chủ nghĩa xã hội’ đi hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập ban Liên lạc Phật giáo yêu nước. […]. Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố, nhưng chỉ có một số rất ít tăng ni nằm vùng hoặc vì quá sợ hãi mà phải tham gia cho yên thân, còn tuyệt đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, vẫn một lòng trung thành với Giáo hội và kiên trì chịu đựng”, trích đoạn viết về thời kỳ Phật giáo miền Nam sau năm 1975 của Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Một số hòa thượng khác nếu không chịu đựng được thì họ sẽ tìm cách vượt biên.

Thầy Thích Trí Hòa hay Thích Trí Hoa đã vượt biên từ một bãi biển ở Vũng Tàu vào ngày 10/10/1980 và được một tàu Đức cứu vớt sau 25 tiếng trôi dạt trên biển.

Ông nói mình nhận ra rằng nếu ở lại miền Nam thì không thể tu được vì bị chính quyền cộng sản kiểm soát, tất cả các hoạt động đều phải nhất nhất theo ý của chính quyền.

 

Một bức ảnh chụp thuyền nhân Việt Nam cập bến ở Hồng Kông năm 1981. Như những người dân bình thường, không ít các nhà sư miền Nam chọn cách vượt biên như thế này đã thoát khỏi chế độ đàn áp tôn giáo sau năm 1975. Ảnh: UNHCR.

Năm 1977, chính phủ ra Nghị quyết 297-CP kiểm soát hoạt động tôn giáo và được duy trì cho đến năm 1999. Trong nghị quyết này, việc mở các lớp giáo lý, các cuộc họp nội bộ trong các tôn giáo, phong chức hay thuyên chuyển các chức sắc và kể cả tuyển dụng những tín đồ giúp việc đều phải được chính quyền cho phép.

Vào đầu năm 1980, chính quyền bắt đầu thực hiện kế hoạch thống nhất Phật giáo.

Vào lúc này, Phật giáo miền Nam chỉ còn lại Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất của khối Ấn Quang, bao gồm đông đảo các nhà sư ở miền Nam và miền Trung.

Trước kia, Phật giáo Việt Nam đã thống nhất khi thành lập Tổng hội Phật giáo tại Huế vào năm 1951. Đến năm 1964, các nhà sư tự thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để đoàn kết các giáo phái, hội đoàn sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ.

Các hòa thượng như Thích Huyền Quang, Phó viện trưởng, Thích Quảng Độ, Tổng thư ký của Viện Hóa Đạo thuộc GHPGVNTN là những người phản đối việc gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN). Tuy nhiên, một số lãnh đạo khác đã đồng ý tham gia.

Vào cuối năm 1981, GHPGVN được thành lập là một tiền lệ chưa từng có khi một giáo hội Phật giáo chấp nhận làm thành viên của một tổ chức chính trị là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Vì sao là một tiền lệ chưa từng có?

Vì cả hai lần thống nhất trước đó đều do các nhà sư tự sắp xếp, tự thỏa thuận, tự thiết kế giáo hội, chính quyền hoàn toàn không tham dự.

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ sau này đã giải thích rõ hơn: “Vấn đề Giáo hội nằm trong Mặt trận, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội. Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. GHPGVN là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào”.

Năm 1982, hai hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị đưa đi lưu đày mỗi người một nơi tại hai tỉnh Quảng Ngãi và Thái Bình.

 

Hai hòa thượng Thích Quảng Độ (trái) và Thích Huyền Quang trong một tấm ảnh chưa rõ năm chụp, có thể vào những năm 2000 trong thời gian Thích Huyền Quang bị lưu đày ở Bình Định. Hòa thượng Thích Huyền Quang sinh năm 1919, xuất gia ở Bình Định từ năm 13 tuổi. Theo GHPGVNTN, ông bị giam giữ tại các chùa cho đến khi viên tịch. Ảnh: chưa rõ nguồn.

Bắt giữ đồng loạt các nhà sư

Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời cũng là lúc các nhà sư bị phân biệt thành hai nhóm: sư hợp pháp và sư bất hợp pháp.

Những nhà sư bất hợp pháp là những người không tham gia Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Các nhà sư bất hợp pháp này hoặc lâm vào cảnh khốn khó như Đại đức Thích Huệ Thâu hoặc góp mặt trong ít nhất 7.000 người trong các trại cải tạo vào năm 1985.

Chính quyền đã tổ chức một cuộc vây bắt đồng loạt các nhà sư không cùng quan điểm với chính quyền và GHPGVN.

Vào tháng 4/1984, chính quyền Việt Nam đã đồng loạt bắt khoảng 12 tăng, ni ở nhiều ngôi chùa khác nhau, trong đó có những người là học giả uyên bác của Phật giáo miền Nam như Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hay Hòa thượng Thích Trí Siêu.

Theo sau vụ bắt giữ đồng loạt này, tháng 8/1984, chính quyền tiếp tục bắt giữ Hòa thượng Thích Đức Nhuận, giáo sư của Viện Đại học Vạn Hạnh, biên tập viên của Tạp chí Vạn Hạnh. Cùng vụ bắt Hòa thượng Đức Nhuận, Hòa thượng Thích Tâm Quang và chú tiểu “Vinh Hien” cũng bị bắt giữ vì không tham gia GHPGVN.

Vào tháng 10/1984, chính quyền bắt giữ hai trụ trì của chùa Quang Âm và chùa Đại giác ở thành phố Hồ Chí Minh là Hòa thượng Thích Thông Bửu và Thích Thiệu Huệ.

Đến năm 1986, chính quyền vẫn tiếp tục giam giữ mà không đưa ra xét xử các hòa thượng Nguyên Giác, Như Minh, Đức Nhuận, Trí Siêu tại trại giam Chí Hòa.

Mãi cho đến năm tháng 9/1988, chính quyền mới xét xử các hòa thượng Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu cùng 19 tăng ni, phật tử khác. Tất cả đều bị cáo buộc tham gia hoạt động lật đổ nhà nước và thành lập một tổ chức cách mạng. Hai hòa thượng Tuệ Sỹ và Trí Siêu bị tuyên án tử hình nhưng sau đó được giảm án, những người khác bị tuyên án từ bốn năm tù giam đến chung thân.

 

Giây phút Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ (ở giữa) được trả tự do vào năm 1998 cùng với các thầy Thích Phước An, Thích Phước Viên. Ảnh: Blog Tuan Khanh.

Sau cuộc nổi dậy ở Huế vào năm 1993, nhiều cuộc phản kháng khác vẫn tiếp tục bùng nổ. Cùng năm 1994, 11 nhà sư ở Huế và Vũng Tàu bị tuyên án vì chống chính quyền, công an bắt 100 nhà sư ở thành phố Hồ Chí Minh bốn ngày sau khi họ biểu tình ở trung tâm thành phố. Giữa năm 1994, 49 nhà sư đã tuyên bố sẽ tự thiêu nếu chính quyền không cho họ tái lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Ở một đất nước toàn trị, nơi tư pháp bị thôn tính, truyền thông độc lập bị xóa sổ, tự do hiệp hội bị loại bỏ, dù kỹ năng tranh đấu bất bạo động của các nhà sư có tài giỏi đến mấy thì cũng như châu chấu đá xe, họ bao giờ định đoạt được tương lai của mình.

Năm 1963, pháp nạn của Phật giáo Việt Nam chỉ kéo dài trong khoảng sáu tháng để chống chế độ Ngô Đình Diệm. Nhưng sau năm 1975, Phật giáo Việt Nam đã bước vào một cuộc đại nạn vẫn còn kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Luật Khoa