Seite auswählen

„Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước tiên là một yếu tố nhằm chống lại các nước cộng sản trong Chiến tranh Lạnh, và sau đó là một khu vực quan trọng của thế giới bao gồm nhiều quốc gia ổn định và thịnh vượng cùng hướng về Mỹ.“

Lý Hiển Long (Foreign Affairs, 04.06.2020)

https://lh3.googleusercontent.com/Mvf8Al5OdSLkWAnvvjRsSHeX0xkMl0ugb1QANapiywg4bQLSbr8FxmVVTS36tTM

Trong những năm gần đây, người ta vẫn đang nói rằng thế kỷ tiếp theo sẽ là thế kỷ của châu Á và Thái Bình Dương, như thể đó là một khả năng chắc chắn. Tôi không đồng ý với quan điểm này”. Lãnh tụ Trung cộng Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lập luận đó với Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi vào năm 1988. Hơn 30 năm sau, lời tiên tri đó của Đặng đã được chứng minh. Sau nhiều thập kỷ thành công kinh tế phi thường, châu Á ngày nay là khu vực phát triển nhanh nhất thế giới. Trong thập kỷ này, các nền kinh tế châu Á sẽ lớn hơn toàn bộ các nền kinh tế khác cộng lại, một điều không vốn đã không còn đúng kể từ thế kỷ XIX. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, cảnh báo của Đặng vẫn còn giá trị: thế kỷ châu Á không phải là không thể tránh khỏi hay không thể tiên đoán.   

Châu Á đã phát triển thịnh vượng vì nền hòa bình lâu dài do Mỹ xác lập, được định hình từ cuối chiến tranh thế giới thứ Hai, đã tạo ra một bối cảnh chiến lược thuận lợi. Nhưng bây giờ, mối quan hệ đang gặp khó khăn giữa Mỹ và Trung cộng đang đặt ra những câu hỏi sâu sắc về tương lai của châu Á và hình dạng của trật tự quốc tế mới nổi. Các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả Singapore, đang được đặc biệt quan tâm, vì họ nằm trong giao điểm lợi ích của nhiều cường quốc khác nhau, và phải tránh bị bắt giữ hoặc bị ép buộc vào những lựa chọn bất công. 

Hiện trạng ở châu Á cần phải thay đổi. Nhưng liệu hình dạng mới sẽ cho phép thành công hơn nữa hoặc mang lại sự bất ổn đầy nguy hiểm? Điều đó phụ thuộc vào các lựa chọn mà Mỹ và Trung cộng đưa ra, cả những lựa chọn riêng biệt và lẫn các lựa chọn cùng với nhau. Hai cường quốc này phải xây dựng một hiệp ước tạm thời mà sự cạnh tranh trong một số lĩnh vực sẽ không cho phép gây tổn hại tới sự hợp tác ở các lĩnh vực khác.

Các nước châu Á coi Mỹ là một siêu cường lưu trú có lợi ích sống còn trong khu vực. Đồng thời, Trung cộng là một thực tế phải đối mặt. Các nước châu Á không muốn bị buộc phải lựa chọn một trong hai cường quốc này. Và nếu cố gắng ép buộc một lựa chọn như vậy – nếu Washington cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung cộng, hoặc Bắc Kinh tìm cách xây dựng một không gian ảnh hưởng độc quyền ở Châu Á – hai siêu cường này sẽ bắt đầu một tiến trình đối đầu kéo dài hàng thập kỷ và đưa thế kỷ châu Á vốn đã được dự báo từ lâu vào thế nguy hiểm.

HAI GIAI ĐOẠN CỦA NỀN HÒA BÌNH LÂU DÀI DO MỸ XÁC LẬP

Nền hòa bình lâu dài do Mỹ xác lập ở châu Á trong thế kỷ XX có hai giai đoạn riêng biệt. Giai đoạn đầu tiên từ năm 1945 đến những năm 1970, trong những thập niên đầu của Chiến tranh Lạnh, khi Mỹ và các đồng minh cạnh tranh với khối Xô-viết để gây ảnh hưởng. Mặc dù Trung cộng đã liên minh với Liên Xô để đối đầu với Mỹ trong các cuộc chiến tranh ở Hàn Quốc và Việt Nam, nhưng nền kinh tế của nước này vẫn chủ yếu hướng vào trong nước và mang tính cô lập, trong khi vẫn duy trì một số liên kết kinh tế với các nước châu Á khác. Trong khi đó, những nơi khác ở châu Á, các nền kinh tế thị trường tự do đang cất cánh. Nhật Bản là những quốc gia đầu tiên thực hiện được điều này, tiếp theo là các nền kinh tế công nghiệp hóa mới của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan.     

Nhân tố tạo nên  sự ổn định và thịnh vượng của châu Á là có thể là Mỹ. Mỹ đã bảo vệ một trật tự toàn cầu mở, tích hợp, dựa trên các quy tắc và cung cấp một sự đảm bảo về an ninh, theo đó các nước trong khu vực có thể hợp tác và cạnh tranh hòa bình. Các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ đã đầu tư khắp châu Á, mang theo vốn, công nghệ và ý tưởng. Khi Washington thúc đẩy thương mại tự do và mở cửa thị trường Mỹ ra thế giới, thương mại châu Á với Mỹ đã cùng phát triển.

Hai sự kiện quan trọng trong thập niên 1970 đã chuyển nền hòa bình lâu dài do Mỹ xác lập ở châu Á sang một giai đoạn mới: chuyến thăm bí mật tới Trung cộng năm 1971 của Henry Kissinger, người sau đó trở thành cố vấn an ninh quốc gia của Mỹ, đặt nền tảng cho mối quan hệ Mỹ-Trung sau nhiều thập kỷ thù địch; và sự bắt đầu chương trình “cải cách và mở cửa” của Đặng vào năm 1978, vốn sẽ cho phép nền kinh tế Trung cộng cất cánh. Đến cuối thập kỷ này, các rào cản kinh tế đã giảm xuống và thương mại quốc tế đang phát triển nhanh chóng. Sau khi chiến tranh Việt Nam và chiến tranh ở Campuchia kết thúc, Việt Nam và các nước Đông Dương khác đã có thể tập trung các nguồn năng lực và nguồn tài nguyên của mình vào phát triển kinh tế, và họ bắt đầu bắt kịp với phần còn lại của châu Á.    

Nhiều nước châu Á từ lâu đã coi Mỹ và các nước phát triển khác là đối tác kinh tế chính của họ. Nhưng giờ họ ngày càng nắm bắt những cơ hội do sự phát triển nhanh chóng của Trung cộng tạo ra. Thương mại và du lịch với Trung cộng phát triển, và các chuỗi cung ứng trở nên hợp nhất chặt chẽ. Trong một vài thập kỷ, Trung cộng đã đi từ chỗ không thuận lợi về kinh tế đối với phần còn lại của châu Á để trở thành nền kinh tế lớn nhất và là đối tác kinh tế lớn của khu vực. Ảnh hưởng của Trung cộng trong các vấn đề của khu vực cũng gia tăng tương ứng. 

Tuy nhiên, nền hòa bình lâu dài do Mỹ xác lập vẫn đang hiện diện, và những thay đổi căn bản này trong vai trò của Trung cộng đã diễn ra trong khuôn khổ đó. Trung cộng đang không ở vào vị trí để thách thức sự ưu việt của Mỹ và đã không cố gắng làm điều đó. Thật vậy, Trung cộng đã sử dụng như triết lý chỉ đạo của Đặng: “Giấu mình, chờ thời”, và ưu tiên hiện đại hóa các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và khoa học và công nghệ song song với việc củng cố sức mạnh quân sự.  

Do đó, các nước Đông Nam Á được hưởng những điều tốt nhất của cả hai quốc gia, xây dựng mối quan hệ kinh tế với Trung cộng trong khi vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Mỹ và các nước phát triển khác. Họ cũng tăng cường mối quan hệ với nhau và làm việc cùng nhau để tạo ra một kiến trúc mở cho hợp tác khu vực, bắt nguồn từ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành Hội đồng Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1989, thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN năm 1994 và triệu tập Hội nghị thượng đỉnh Đông Á hàng năm kể từ năm 2005.  

Trung cộng tham gia đầy đủ vào các quá trình này. Hàng năm, thủ tướng Trung cộng sẽ tới thăm một quốc gia thành viên ASEAN để gặp gỡ các nhà lãnh đạo của các nước ASEAN, chuẩn bị tốt để giải thích cách Trung cộng nhìn nhận về khu vực này và đưa ra các đề xuất để tăng cường hợp tác giữa Trung cộng với các nước thành viên ASEAN. Khi sự tham gia của Trung cộng trong khu vực tăng lên, họ đã đưa ra các sáng kiến của riêng mình, bao gồm Sáng kiến Vành đai và Con đường và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á. Những điều này đã giúp tăng cường sự tham gia của Trung cộng với các nước láng giềng, và tất nhiên, làm tăng ảnh hưởng của nó.   

Nhưng vì là một kiến trúc khu vực mở, nên ảnh hưởng của Trung cộng không mang tính độc quyền. Mỹ vẫn là một thành viên quan trọng, củng cố an ninh và ổn định khu vực, đồng thời tăng cường hợp tác kinh tế thông qua các sáng kiến như Đạo luật Sáng kiến Tái bảo đảm Châu Á và Đạo luật BUILD. ASEAN cũng có các cơ chế đối thoại chính thức với Liên minh châu Âu, cũng như với Ấn Độ và nhiều quốc gia khác. ASEAN tin rằng một mạng lưới kết nối như vậy tạo ra một khuôn khổ hợp tác mạnh mẽ hơn và có nhiều không gian hơn để thúc đẩy lợi ích tập thể của các thành viên trên phạm vi quốc tế. 

Cho đến nay, phương thức này đã vận hành tốt. Nhưng cơ sở chiến lược của nền hòa bình lâu dài do Mỹ xác lập đã thay đổi căn bản. Trong bốn thập kỷ kể từ khi bắt đầu cải cách và mở cửa, Trung cộng đã chuyển mình. Khi nền kinh tế, khả năng công nghệ và ảnh hưởng chính trị của nó tăng theo cấp số nhân, quan điểm của nó về thế giới cũng thay đổi. Các nhà lãnh đạo Trung cộng ngày nay không còn trích dẫn câu châm ngôn “náu mình chờ thời” của Đặng nữa. Trung cộng tự coi mình là một cường quốc lục địa và cũng khao khát trở thành một cường quốc hàng hải; đất nước này đang hiện đại hóa quân đội và hải quân của mình và nhằm mục đích biến quân đội của mình thành một lực lượng chiến đấu tầm cỡ thế giới. Khá dễ hiểu, Trung cộng ngày càng muốn bảo vệ và thúc đẩy lợi ích của mình ở nước ngoài và bảo đảm những gì mà họ coi là vị trí chính đáng của mình trong các vấn đề quốc tế. 

Đồng thời, Mỹ, vẫn là cường quốc ưu việt về nhiều mặt, đang đánh giá lại chiến lược lớn của mình. Khi tỷ lệ GDP của Mỹ trong GDP toàn cầu giảm dần, không rõ liệu đất nước này có tiếp tục gánh vác gánh nặng duy trì hòa bình và ổn định quốc tế hay không, hay liệu họ có thể theo đuổi cách tiếp cận hẹp hơn, “nước Mỹ trước tiên”, để bảo vệ lợi ích của mình. Khi Washington đặt câu hỏi cơ bản về trách nhiệm của mình trong hệ thống toàn cầu, mối quan hệ của họ với Bắc Kinh đã được xem xét kỹ lưỡng.   

NHỮNG LỰA CHỌN CƠ BẢN CỦA MỸ VÀ TRUNG CỘNG

Mỹ và Trung cộng, mỗi quốc gia phải đối mặt với những lựa chọn cơ bản. Mỹ phải quyết định xem sự trỗi dậy của Trung cộng có phải là mối đe dọa đang hiện hữu hay không để cố gắng kìm hãm Trung cộng thông qua tất cả các phương tiện có sẵn, hoặc chấp nhận Trung cộng là một cường quốc dựa trên nỗ lực của chính nó. Nếu chọn con đường thứ hai, Mỹ phải xây dựng một cách tiếp cận với Trung cộng để thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh lành mạnh bất cứ khi nào có thể và không cho phép sự cạnh tranh đầu độc toàn bộ mối quan hệ Mỹ-Trung. Lý tưởng nhất là cuộc đua này sẽ diễn ra trong khuôn khổ các quy tắc và chuẩn mực đa phương đã được thống nhất, giống như những chuẩn mực đang giúp Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hoạt động. 

Mỹ có thể thấy đây là một sự điều chỉnh đau đớn, đặc biệt là với sự đồng thuận ngày càng tăng ở Washington rằng những giao ước với Bắc Kinh đã thất bại và cần một cách tiếp cận cứng rắn hơn để bảo vệ lợi ích của Mỹ. Tuy nhiên, nhiệm vụ này dù khó khăn đến đâu đối Mỹ, nó rất đáng để Mỹ nỗ lực nghiêm túc nhằm đáp ứng các nguyện vọng của Trung cộng trong hệ thống các quy tắc và chuẩn mực quốc tế hiện nay. Hệ thống này áp đặt các trách nhiệm và những hạn chế đối với tất cả các quốc gia, củng cố niềm tin, giúp quản lý xung đột và tạo ra một môi trường an toàn và ổn định hơn cho cả hợp tác và cạnh tranh. 

Thay vào đó, nếu Mỹ chọn cách cố gắng kiềm chế sự trỗi dậy của Trung cộng, Mỹ sẽ có nguy cơ tạo ra một phản ứng mà có thể đặt hai nước trên con đường dẫn đến sự đối đầu trong nhiều thập kỷ. Mỹ không phải là một siêu cường đang suy tàn. Nó có khả năng phục hồi và đang có sức mạnh to lớn, một trong số đó là khả năng thu hút nhân tài từ khắp nơi trên thế giới; trong số chín người Trung cộng đã được trao giải thưởng Nobel về khoa học, tám người là công dân Mỹ hoặc sau đó trở thành công dân Mỹ. Mặt khác, nền kinh tế Trung cộng sở hữu sự năng động to lớn và công nghệ ngày càng tiên tiến; nó không chỉ là quốc gia chuyên bơm tiền cho các nước nghèo, hay chỉ là nền kinh tế chỉ huy toàn diện – một đặc trưng của Liên Xô trong những năm cuối cùng của siêu cường này. Bất kỳ cuộc đối đầu nào giữa hai siêu cường này khó có thể kết thúc theo kiểu Chiến tranh Lạnh, với sự sụp đổ trong hòa bình của một quốc gia.

Về phần mình, Trung cộng phải quyết định xem có nên cố gắng trở thành một cường quốc không bị cản trở hay không, chiếm ưu thế kích thước khổng lồ và sức mạnh kinh tế của nó, nhưng lại có nguy cơ bị đẩy lùi mạnh mẽ, không chỉ từ Mỹ mà từ còn các nước khác. Cách tiếp cận này có khả năng làm tăng sự căng thẳng và phẫn nộ, những điều này sẽ ảnh hưởng đến vị thế và ảnh hưởng của Trung cộng trong dài hạn. Đây là một mối nguy hiểm thực sự: một cuộc khảo sát gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy người dân ở Canada, Mỹ và các nước châu Á và Tây Âu khác có quan điểm ngày càng bất lợi cho Trung cộng. Mặc dù những nỗ lực gần đây của Trung cộng để xây dựng sức mạnh mềm ở nước ngoài, thông qua mạng lưới các Viện Khổng Tử, và thông qua các tờ báo và đài truyền hình quốc tế thuộc sở hữu của Trung cộng, xu hướng này là tiêu cực.     

Ngoài ra, Trung cộng có thể thừa nhận rằng nó không còn nghèo và yếu, và chấp nhận rằng thế giới hiện có những kỳ vọng cao hơn dành cho nó. Trung cộng không còn chính đáng về mặt chính trị để hưởng các nhượng bộ và đặc quyền mà nó giành được khi nền kinh tế của nó nhỏ hơn và kém phát triển hơn, giống như các điều khoản hào phóng dành cho nó khi gia nhập WTO năm 2001. Một Trung cộng lớn hơn và mạnh hơn không chỉ nên tôn trọng các quy tắc và chuẩn mực toàn cầu, mà còn nên chịu trách nhiệm lớn hơn trong việc duy trì và hiện đại hóa trật tự quốc tế mà nhờ vào đó nó đã phát triển rất ngoạn mục. Khi các quy tắc và chuẩn mực đang tồn tại không còn phù hợp với mục đích ban đầu, Trung cộng nên hợp tác với Mỹ và các quốc gia khác để đưa ra các thỏa thuận sửa đổi mà tất cả nước có thể cùng chung sống.

Con đường tạo ra một trật tự mới không hề đơn giản. Áp lực trong nước mạnh mẽ thúc đẩy và hạn chế các lựa chọn chính sách đối ngoại của cả hai nước. Chính sách đối ngoại ít được đề cao trong chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại của Mỹ, mà nếu có, thì trọng tâm chiếm ưu thế đã trở thành các biến thể của chủ đề “nước Mỹ trên hết”. Ở Trung cộng, ưu tiên hàng đầu của giới lãnh đạo là duy trì sự ổn định chính trị nội bộ, và, sau khi chịu đựng gần hai thế kỷ yếu đuối và nhục nhã, là để thể hiện sự tự tin của một nền văn minh cổ đại đang trỗi dậy trở lại. Vì vậy, không thể chấp nhận rằng Mỹ và Trung cộng sẽ kiểm soát các mối quan hệ song phương của chúng dựa trên các tính toán hợp lý về lợi ích quốc gia của họ, hoặc thậm chí chia sẻ mong muốn về những kết quả đôi bên cùng có lợi. Các quốc gia không nhất thiết phải theo một quá trình đối đầu, nhưng sự đối đầu là không thể loại trừ. 

ĐỘNG LỰC Ở CHÂU Á-THÁI BÌNH DƯƠNG

Những động lực này sẽ diễn ra trên toàn thế giới, nhưng một đấu trường quan trọng sẽ là châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ luôn có các lợi ích quốc gia quan trọng trong khu vực này. Nó đã dùng máu và tài sản của mình để chiến đấu trong Chiến tranh Thái Bình Dương nhằm đánh bại Nhật Bản, một cuộc chiến mà Mỹ gần như mất ba tổng thống tương lai. Nó đã chiến đấu với hai cuộc chiến tốn kém ở Triều Tiên và Việt Nam, đã dành thời gian quý báu cho các nước không cộng sản ở châu Á để củng cố xã hội và thúc đầy nền kinh tế của họ, và chiến thắng trong cuộc chiến tim óc chống lại chủ nghĩa cộng sản. 

Các chính sách cởi mở, hào phóng của Mỹ, vốn mang lại lợi ích rất lớn cho châu Á-Thái Bình Dương, đã bắt nguồn từ những lý tưởng chính trị sâu xa và hình ảnh của chính nó như một “thành phố trên ngọn đồi” và “ngọn hải đăng cho các quốc gia”, nhưng các chính sách này cũng phản ánh lợi ích ngày một rõ ràng của chính nước Mỹ. Một châu Á-Thái Bình Dương ổn định và thịnh vượng trước tiên là một yếu tố nhằm chống lại các nước cộng sản trong Chiến tranh Lạnh,sau đó là một khu vực quan trọng của thế giới bao gồm nhiều quốc gia ổn định và thịnh vượng cùng hướng về Mỹ. Đối với các doanh nghiệp Mỹ, châu Á-Thái Bình Dương là các thị trường lớn và là cơ sở sản xuất quan trọng. Không có gì đáng ngạc nhiên, một số đồng minh trung thành nhất của Mỹ là các nước châu Á, chẳng hạn như Úc, Nhật Bản và Hàn Quốc, cùng một số đối tác lâu dài của nó, chẳng hạn như Singapore. 

Trung cộng cũng có lợi ích sống còn trong khu vực này. Ở Đông Bắc Á, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên vẫn đang phủ bóng lâu dài. Ở Đông Nam Á, Trung cộng nhìn thấy một nguồn năng lượng và nguyên liệu thô, các đối tác kinh tế và các tuyến giao thông trên biển quan trọng. Nó cũng thấy các rốn dầu ở eo biển Malacca và Biển Đông phải được duy trì để bảo đảm an ninh năng lượng của Trung cộng. Nhưng một điểm khác biệt quan trọng với Mỹ là, Trung cộng coi châu Á-Thái Bình Dương, mượn cách mô tả của Nga, là “không gian bên ngoài ở ngay gần”, và do đó là nền tảng cho cho an ninh của chính nó. 

Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình đã nói rằng Thái Bình Dương đủ rộng lớn để chứa cả Mỹ và Trung cộng. Nhưng ông cũng nói rằng an ninh châu Á nên được dành cho người châu Á. Một câu hỏi tự nhiên được đặt ra: Liệu Tập có nghĩ rằng Thái Bình Dương đủ lớn để Mỹ và Trung cộng cùng tồn tại hòa bình, với những quan hệ bạn bè và đối tác chồng chéo, hay nó đủ lớn để tạo ra sự phân chia giữa hai cường quốc, và trở thành không gian cạnh tranh ảnh hưởng giữa hai đối thủ? Singapore và các nước châu Á-Thái Bình Dương khác không nghi ngờ gì về cách giải thích ưa thích của hai nước này. Mặc dù các nước này có thể không có nhiều ảnh hưởng đến việc mọi thứ sẽ diễn ra như thế nào, nhưng họ hy vọng sẽ không bị buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung cộng.  

Sự hiện diện an ninh của Mỹ vẫn quan trọng đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Không có nó, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ bị buộc phải dự tính phát triển vũ khí hạt nhân; cả hai đều là các quốc gia đang đứng trước ngưỡng của khả năng có thể sở hữu vũ khí hạt nhân, và chủ đề này đã thường xuyên xuất hiện trong diễn ngôn công khai của họ, đặc biệt là khả năng trang bị vũ khí hạt nhân ngày càng tăng của Triều Tiên. Rất may, những bước phát triển như vậy vẫn còn là giả thuyết, nhưng triển vọng của chúng không có lợi cho sự ổn định ở Đông Bắc Á cũng như các nỗ lực không phổ biến vũ khí hạt nhân trên toàn cầu.  

Ở Đông Nam Á, Hạm đội Bảy của Mỹ đã đóng góp cho an ninh khu vực kể từ Đại chiến thế giới lần thứ Hai, đảm bảo rằng các tuyến giao thông trên biển vẫn an toàn và cởi mở, điều này đã thúc đẩy thương mại phát triển và kích thích tăng trưởng kinh tế. Mặc dù có sức mạnh quân sự ngày càng tăng, Trung cộng sẽ không thể đảm nhận vai trò an ninh của Mỹ. Không giống như Mỹ, Trung cộng đã đưa ra các yêu sách về hàng hải và các tuyên bố về lãnh thổ ở Biển Đông với một số quốc gia trong khu vực, nơi sẽ luôn xem sự hiện diện của hải quân Trung cộng là một nỗ lực nhằm thúc đẩy các yêu sách đó.     

Một trở ngại khác sẽ ngăn Trung cộng đảm nhận vai trò an ninh mà Mỹ hiện đang phát sinh xuất phát từ việc nhiều nước Đông Nam Á có dân tộc thiểu số đáng kể là người Hoa, có quan hệ với đa số dân cư phi Hoa. Các quốc gia này cực kỳ nhạy cảm về bất kỳ nhận thức nào rằng Trung cộng có ảnh hưởng không nhỏ đối với Hoa kiều trong nước họ – đặc biệt là khi nhớ lại lịch sử sự hỗ trợ của Trung cộng đối với các cuộc nổi dậy của những người cộng sản ở Đông Nam Á cho đến đầu thập niên 1980. Những sự nhạy cảm đó sẽ hạn chế vai trò của Trung cộng trong các vấn đề tại Đông Nam Á trong tương lai gần.   

Singapore là quốc gia Đông Nam Á duy nhất có dân cư đa chủng tộc mà người gốc Hoa chiếm đa số. Trên thực tế, đây là quốc gia có chủ quyền duy nhất trên thế giới có cấu trúc dân cư như vậy, ngoài chính Trung cộng. Nhưng Singapore đã nỗ lực rất lớn để xây dựng một bản sắc dân tộc đa sắc tộc chứ không phải bản sắc của người Trung cộng. Và nó cũng cực kỳ cẩn thận để tránh làm bất cứ điều gì có thể bị đánh lạc hướng khi cho phép bản thân nó được sử dụng như một cánh tay nối dài của Trung cộng. Vì lý do này, Singapore đã không thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung cộng cho đến năm 1990, khiến nước này trở thành quốc gia Đông Nam Á cuối cùng, ngoại trừ Brunei, làm như vậy.   

Tất nhiên, Singapore và tất cả các nước châu Á khác muốn xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với Trung cộng. Họ hy vọng sẽ tận hưởng thiện chí và sự hỗ trợ của một cường quốc như vậy và tham gia vào sự phát triển của họ. Các chuỗi cung toàn cầu – cho dù máy bay, điện thoại di động hay khẩu trang phẫu thuật – liên kết Trung cộng và các nước châu Á khác lại với nhau. Quy mô tuyệt đối của Trung cộng đã khiến nó trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia châu Á khác, bao gồm mọi đồng minh dựa trên hiệp ước của Mỹ trong khu vực, cũng như Singapore và gần như mọi quốc gia ASEAN khác.   

Sẽ rất khó khăn, gần như là không thể, để Mỹ thay thế Trung cộng làm nhà cung cấp chính cho thế giới, giống như việc Mỹ tự làm mà không có thị trường Trung cộng, nước nhập khẩu hàng hóa Mỹ lớn thứ ba, sau Canada và Mexico. Nhưng Trung cộng cũng không thể thay thế vai trò kinh tế của Mỹ ở châu Á. Hệ thống tài chính toàn cầu phụ thuộc rất nhiều vào các tổ chức tài chính của Mỹ, và đồng nhân dân tệ sẽ không thay thế đồng đô-la Mỹ như một đồng tiền dự trữ của thế giới trong ngắn hạn. Mặc dù các nước châu Á khác xuất khẩu sang Trung cộng nhiều hơn so với xuất khẩu sang Mỹ, nhưng các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ vẫn cấu thành nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nhiều nước châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả Singapore. Các công ty lớn của Trung cộng đang bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, nhưng phải mất nhiều năm trước khi Trung cộng có các tập đoàn đa quốc gia có cùng quy mô và tinh vi như các tập đoàn đa quốc gia có trụ sở tại Mỹ, liên kết các chuỗi sản xuất toàn cầu lại với nhau, liên kết châu Á với nền kinh tế toàn cầu và tạo ra hàng triệu việc làm.     

Vì những lý do này, các nước châu Á – Thái Bình Dương không muốn bị buộc phải lựa chọn giữa Mỹ và Trung cộng. Họ muốn vun đắp mối quan hệ tốt với cả hai. Họ không thể rời xa Trung cộng, và các nước châu Á khác sẽ cố gắng hết sức để không để bất kỳ tranh chấp nào chi phối mối quan hệ chung của họ với Bắc Kinh. Đồng thời, những quốc gia châu Á đó coi Mỹ là một cường quốc thường trú với lợi ích sống còn trong khu vực. Họ đã ủng hộ một số người – công khai hơn một khu vực người khác – khi Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố rằng Mỹ có ý định tái cân bằng chính sách đối ngoại của mình đối với châu Á. Họ an ủi rằng mặc dù chính quyền Trump đã đưa ra các vấn đề về chia sẻ chi phí và gánh nặng với bạn bè và đồng minh, nhưng họ cũng đưa ra chiến lược cho khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương và tuyên bố ý định xây dựng Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của quân đội Mỹ.     

Nhưng những quốc gia châu Á này cũng nhận ra rằng Mỹ là một siêu cường toàn cầu, với những mối bận tâm sâu rộng và những ưu tiên cấp bách trên toàn thế giới. Họ đủ thực tế để nhận ra rằng nếu căng thẳng leo thang, hoặc thậm chí tệ hơn, nếu xung đột xảy ra, họ không thể tự động nhận sự hỗ trợ của Mỹ. Họ hy vọng sẽ làm phần việc của mình để bảo vệ đất nước và lợi ích của họ. Họ cũng hy vọng Mỹ hiểu rằng nếu các quốc gia châu Á khác thúc đẩy quan hệ với Trung cộng, điều đó không nhất thiết có nghĩa là họ đang làm việc chống lại Mỹ. (Và tất nhiên, các quốc gia châu Á này cũng hy vọng có được sự thấu hiểu tương tự từ Trung cộng, nếu họ củng cố mối quan hệ với Mỹ.)

MỘT CẤU TRÚC KHU VỰC MANG TÍNH BAO TRÙM

Mỹ và Trung cộng không phải là những siêu cường duy nhất có ảnh hưởng lớn trong khu vực; những siêu cường khác cũng có vai trò quan trọng. Đặc biệt là Nhật Bản, vốn đang có nhiều đóng góp cho khu vực, với quy mô và sự tinh vi của nền kinh tế. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, Nhật Bản đã đóng góp tích cực hơn trước. Chẳng hạn, sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương năm 2017, Nhật Bản đã đứng ra tiếp tục thúc đẩy. Đất nước này đã thúc đẩy 11 thành viên còn lại hoàn thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tập hợp các nước phát triển và đang phát triển ở cả hai bên Thái Bình Dương và là một bước tiến tới thương mại tự do ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.   

Ấn Độ cũng có rất nhiều ảnh hưởng tiềm năng. Dưới thời Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ đã tuyên bố thay đổi chiến lược thông qua Luật Chính sách hướng Đông, và các quốc gia khác mong muốn được nhìn thấy chính sách này thực thi. Hội nghị thượng đỉnh Đông Á bao gồm Ấn Độ với tư cách là một thành viên, vì các thành viên khác hy vọng rằng khi nền kinh tế của Ấn Độ phát triển, nó sẽ nhận ra nhiều giá trị hơn trong hợp tác khu vực. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia ban đầu đàm phán để hình thành Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), một hiệp định thương mại tự do được đề xuất nhằm mục đích hợp nhất tất cả các nền kinh tế lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, tương tự như Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (nay là Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada) liên kết các quốc gia ở Bắc Mỹ. Sau các cuộc đàm phán rộng rãi, Ấn Độ năm ngoái đã quyết định không tham gia RCEP; 15 quốc gia tham gia còn lại đang tiếp tục đàm phán mà không có Ấn Độ, nhưng một đối tác quan trọng đã ra đi.     

Như hầu hết các nước châu Á nhận ra, giá trị của các thỏa thuận như vậy vượt xa lợi ích kinh tế mà chúng tạo ra. Chúng là những nền tảng cho phép các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương hợp tác với nhau, phát triển sự tham gia trong thành công của nhau và cùng nhau hoàn thiện kiến trúc khu vực và các quy tắc chi phối nó. Những sự thỏa thuận khu vực như vậy phải mang tính mở và tính bao trùm. Chúng không nên, dù bởi thiết kế hay do kết quả, ngăn chặn bất kỳ bên nào, hoặc làm suy yếu các thỏa thuận hợp tác hiện có, hay tạo ra các khối đối thủ, hoặc buộc các quốc gia đứng về phía nhau. Đây là lý do tại sao các thành viên CPTPP đã để cánh cửa mở cho Mỹ để tham gia một lần nữa, và tại sao các quốc gia đang đàm phán để thành lập RCEP vẫn hy vọng rằng Ấn Độ sẽ tham gia vào một ngày nào đó.

Đây cũng là cơ sở để các nước châu Á – Thái Bình Dương hỗ trợ các sáng kiến hợp tác khu vực như các khái niệm Ấn Độ-Thái Bình Dương khác nhau do Nhật Bản, Mỹ và các quốc gia khác, cũng như Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung cộng đề xuất. Nhiều quốc gia châu Á khác coi việc ủng hộ Sáng kiến Vành đai và Con đường là một cách thức mang tính xây dựng để phù hợp với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung cộng trong khu vực. Nếu được thực hiện tốt và có kỷ luật tài chính, các dự án của Sáng kiến Vành đai và Con đường có thể tăng cường hợp tác khu vực và hợp tác đa phương, giải quyết nhu cầu cấp thiết về cơ sở hạ tầng, và sự kết nối tốt hơn tại nhiều nước đang phát triển. Một số dự án như vậy đã bị chỉ trích vì thiếu tính minh bạch hoặc tính khả thi, nhưng không có lý do gì để tin rằng tất cả các dự án của Sáng kiến này sẽ áp đặt gánh nặng tài chính không bền vững lên các quốc gia hoặc ngăn chúng phát triển sự liên kết với các nền kinh tế lớn khác. Những hậu quả như vậy cũng sẽ không phục vụ lợi ích của Trung cộng, vì chúng sẽ làm suy yếu vị thế và ảnh hưởng quốc tế của nó.   

Phát triển các thỏa thuận khu vực mới không có nghĩa là từ bỏ hoặc đứng ngoài các thể chế đa phương hiện có. Các thể chế và tổ chức đa phương vốn rất khó xác lập được này tiếp tục mang đến cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nhỏ hơn, một khuôn khổ để làm việc cùng nhau và thúc đẩy lợi ích chung của họ. Nhưng nhiều thể chế đa phương hiện tại đang cần cải cách khẩn cấp: chúng không còn hiệu quả, do thực tế kinh tế và chiến lược hiện tại. Chẳng hạn, kể từ khi kết thúc Vòng đàm phán thương mại Uruguay năm 1994, WTO đã gặp khó khăn trong việc đạt được các hiệp định thương mại có ý nghĩa, bởi vì bất kỳ thỏa thuận nào cũng cần có sự đồng thuận từ 164 thành viên, vốn có lợi ích và triết lý phát triển kinh tế rất khác nhau. Và kể từ năm ngoái, Tòa Phúc thẩm của WTO đã bị tê liệt do thiếu số thẩm phán quy định. Đây là một mất mát cho tất cả các quốc gia, những người nên làm việc mang tính xây dựng theo hướng cải cách các tổ chức như vậy thay vì làm giảm hiệu quả của chúng hoặc bỏ qua chúng hoàn toàn.  

NIỀM HY VỌNG SÂU SẮC

Các lựa chọn chiến lược mà Mỹ và Trung cộng đưa ra sẽ định hình các đường nét của một trật tự toàn cầu đang nổi lên. Đó là điều tự nhiên cho các cường quốc đang cạnh tranh nhau. Nhưng khả năng hợp tác của họ là một thử nghiệm thực sự dành cho các tài năng chính trị, và nó sẽ quyết định liệu loài người có đạt được tiến bộ trong các vấn đề toàn cầu như giảm biến đổi khí hậu, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân và hạn chế sự lây lan các bệnh truyền nhiễm hay không. 

Đại dịch COVID-19 là một lời nhắc nhở rõ ràng về tầm quan trọng của việc các quốc gia hợp tác với nhau. Bệnh tật không tôn trọng biên giới quốc gia, và hợp tác quốc tế là hết sức cần thiết để đưa đại dịch vào tầm kiểm soát và giảm thiệt hại cho nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả với các mối quan hệ tốt nhất giữa Mỹ và Trung cộng, việc đưa ra một phản ứng tập thể đối với COVID-19 sẽ là một thách thức lớn. Thật không may, đại dịch đang làm trầm trọng thêm sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung cộng, làm gia tăng sự ngờ vực, cổ xúy các tiểu xảo để dành lợi thế, và đổ lỗi qua lại cho nhau. Điều này chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn, bởi dường như không thể tránh khỏi, đại dịch trở thành một vấn đề lớn trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Người ta chỉ có thể hy vọng rằng sự nghiêm trọng của tình huống sẽ giúp các trí tuệ trở nên tập trung hơn, và cho phép kẻ khôn ngoan hơn thắng thế. 

Trong khi đó, các nước châu Á đã chung tay, đương đầu với đại dịch và nhiều trở ngại khác để cải thiện cuộc sống của công dân và tạo ra một khu vực an toàn và thịnh vượng hơn. Thành công của họ và triển vọng của một thế kỷ châu Á sẽ phụ thuộc rất lớn vào việc Mỹ và Trung cộng có thể vượt qua sự khác biệt của họ, xây dựng niềm tin lẫn nhau và làm việc trên tinh thần xây dựng để duy trì trật tự quốc tế ổn định và hòa bình hay không. Đây là một vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta. /.

Lý Hiển Long

* Ông Lý là Thủ tướng Singapore.

(Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/articles/asia/2020-06-04/lee-hsien-loong-endangered-asian-century )

Durch die weitere Nutzung der Seite stimmst du der Verwendung von Cookies zu. Weitere Informationen

Die Cookie-Einstellungen auf dieser Website sind auf "Cookies zulassen" eingestellt, um das beste Surferlebnis zu ermöglichen. Wenn du diese Website ohne Änderung der Cookie-Einstellungen verwendest oder auf "Akzeptieren" klickst, erklärst du sich damit einverstanden.

Schließen