Theo Truyện cổ tích NỮ HOÀNG TUYẾT của nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen
Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng phóng tác
Ở một thành phố cổ kia thời đó có hai đứa trẻ cùng lứa tuổi – tuy không phải là anh em nhưng yêu thương nhau chẳng khác gì ruột thịt. Bé trai tên là Kay còn bé gái tên là Gerda. Vì cả hai gia đình đều nghèo nên phải ở tít trên tầng cao nhất ngay dưới mái nhà, mùa đông thì lạnh buốt mà mùa hè thì nóng như thiêu. Kay và Gerda có thể leo qua cửa sổ lên sân thượng chơi. Bên cửa sổ hoa hồng mọc đầy nên chúng thường hát:
“Tàn rồi lại nở vườn hồng
Chúng mình thấy chúa Hài-đồng Giáng Sinh”
Mùa đông chúng không chơi ở đây được nữa vì cửa sổ bị tuyết phủ kín không mở ra được. Vào những ngày đông tháng giá đó, thường Gerda thơ thẩn một mình trong nhà vì Kay xuống đi xe trượt tuyết chơi cùng bọn con trai.
Từ trên cao Gerda chăm chú nhìn xem Kay ở chỗ nào dưới đó. Về phía công-trường rộng của khu phố bọn con trai thường thích buộc xe trượt tuyết của chúng vào xe của những người nông dân để được kéo đi một đoạn đường về quê. Chính Kay cũng thích trò chơi nguy hiểm này.
Một hôm có một chiếc xe trượt tuyết lớn màu trắng đi vào thành phố. Trên đó có một người ẩn mình trong chiếc áo lông thú màu xanh, đầu cũng đội mũ lông xanh. Hai con ngựa màu trắng kéo chiếc xe chạy một lần, rồi lại một lần nữa quanh công-trường. Kay thấy thế thích chí tìm cách buộc vội chiếc xe trượt tuyết nhỏ của mình vào chiếc xe lớn kia để được kéo theo. Cỗ xe lớn chạy càng ngày càng nhanh hơn. Dần dần Kay thấy sợ nhưng mỗi lần định tháo giây buộc xe của mình với xe lớn ra Kay lại thấy bóng người mặc áo lông xanh gật đầu vui vẻ, thế là Kay lại ngồi yên như bị thôi miên. Chẳng bao lâu hai xe đã ra khỏi cổng thành. Tuyết dần dần rơi thành những bông lớn. Kay nhất định lần này phải tháo xe của mình ra khỏi cỗ xe trượt tuyết lớn, nhưng rút cuộc vẫn không được! Chiếc xe nhỏ của cậu bé vẫn như bị giữ chặt lại và ào ào như gió lướt đi. Những bông tuyết trở nên mỗi lúc một lớn hơn nữa. Bỗng nhiên cỗ xe trượt tuyết lớn màu trắng ngừng lại. Bóng người ngồi đó đứng lên: đó là hình dáng đầy tuyết phủ, cao, gầy và trắng toát. Bây giờ thì Kay biết rồi: Đó là Nữ Hoàng Tuyết. “Con lạnh phải không?” Nữ Hoàng nói với Kay rồi choàng chiếc áo lông của bà lên người cậu bé, kéo cậu lên chiếc xe trượt tuyết của bà. Rồi bà hôn lên trán cậu. Cái hôn lạnh như băng, vào thấu tận tim. Mới đầu Kay cảm thấy như chết được, nhưng sau đó bỗng nhiên thấy khỏe hẳn. Cậu bắt đầu quên cả Gerda, cha mẹ, rồi không biết lạnh là gì nữa. Nữ Hoàng Tuyết đã hôn làm cậu bé thành băng. Chẳng bao lâu họ bay tít lên cao đến tận những tầng mây đen xám, qua bao nhiêu rừng rú, cánh đồng, bao nhiêu hồ và biển. Dưới họ gió thét gào, chó sói rú lên và đâu đâu cũng long lanh tuyết trắng.
Ở quê nhà chiều đó cũng như chiều hôm sau không thấy Kay trở về, Gerda buồn quá. Cô bé tìm bạn ở khắp nơi trong thành phố. Bọn con trai cùng chơi tuyết với Kay kể rằng cậu bé đi cùng với một cỗ xe trượt tuyết lớn màu trắng xóa ra khỏi cổng thành, nhưng đi đâu thì không ai biết cả. Gerda khóc nức nở. Rồi một mùa đông dằng dặc, đầy bồn chồn lo sợ đến với cô bé.
Chẳng bao lâu xuân đã về, Gerda lấy đôi giầy đỏ ra xỏ vào đi ra phía sông để hỏi tin tức Kay, vì cô sợ Kay có thể bị chết đuối.
“Sông ơi, sông đã bắt mất bạn ta phải không?” Gerda lên tiếng hỏi. “Ta sẽ tặng sông đôi giầy đỏ mới của ta, thứ mà ta thích nhất, nếu sông trả bạn lại cho ta”. Cô bé nói rồi bước lên một chiếc thuyền bên bờ để có thể ném đôi giầy ra xa được. Nhưng giòng sông không lên tiếng trả lời. Chiếc thuyền vì không cột chặt vào bờ nên dần dần bị sóng nhẹ đẩy ra xa. Khi nhận ra điều đó, Gerda tính nhảy lên bờ thì đã quá chậm. Chiếc thuyền mỗi lúc lại trôi mau hơn theo giòng nước. Gerda sợ quá bật lên tiếng khóc. Nhưng tự nhiên cô bé nghĩ: “Có thể sông đưa ta đến chỗ Kay cũng nên”. Rồi lòng hồi hộp cô không khóc nữa. Thuyền trôi qua những bờ sông xanh thẳm nhưng tuyệt không có lấy một bóng người. Sau cùng một vườn anh đào hiện ra bên trong thấp thoáng một căn nhà nhỏ với những cửa sổ màu xanh đỏ lạ kỳ, mái lợp bằng rơm. Chiếc thuyền trôi về phía đó. Gerda gọi vọng về hướng nhà và ngay lúc đó một bà già chạy ra. Bà chống gậy và đội một chiếc mũ lớn che nắng có vẽ đủ các thứ hoa đẹp nhất đời: “Tội nghiệp chưa, làm sao con lại bị trôi trên sông đi lạc loài thế này?”. Bà hỏi cô bé thế rồi nói tiếp: “Lên đây kể cho ta nghe con là ai và bị lạc đến đây như thế nào”. Bà già đỡ Gerda lên, rồi cô bé thuật lại mọi chuyện. Bà già bảo cho đến bây giờ vẫn chưa thấy Kay đến đây, nhưng có thể cậu bé một ngày nào đó sẽ đến chăng? Bà cầm tay dắt Gerda vào nhà cho Gerda ăn anh đào thỏa thích. Trong khi Gerda ăn, bà lấy chiếc lược vàng ra chải đầu cho cô bé, càng chải cô càng quên dần người bạn lạc loài của mình. Bà già chính là một phù thủy, nhưng không phải thứ phù thủy độc ác. Thích gì thì bà hoá phép cho vui thôi. Bà muốn giữ Gerda lại lắm chỉ vì bà cô độc. Vì thế bà đi nhanh ra vườn , chạm chiếc gậy thần vào những đoá hoa hồng tuyệt đẹp, những đoá hoa này liền rũ cả xuống đất, vì hoa hồng có thể sẽ làm cô bé nhớ Kay với những đóa hông trên sân thương ở nhà hai trẻ. Bà sợ Gerda bỏ bà ra đi. Bà dẫn Gerda đến vườn hoa. Hoa mới thơm làm sao, đẹp làm sao! Muôn hoa bừng nở muôn màu sắc, cô bé biết đủ loài hoa nhưng dù biết nhiều thế nào cũng vẫn cảm thấy ở đây thiếu một loại, nhưng là loại nào thì cô bé chịu không nghĩ ra được.
Rồi bỗng nhiên một ngày cô bé khám phá ra trên chiếc mũ che nắng lớn của bà già một bông hồng, vì bà quên bẵng đã không hoá phép cho bông hồng này biến đi. “Kay! Kay! Tôi muốn đi tìm Kay của tôi!”. Gerda tuyệt vọng kêu lên và bắt đầu khóc nức nở. Những giọt lệ rỏ xuống đất khiến những bông hồng bị phép phù thuỷ làm biến đi lại mọc bừng dậy. “Hồng ơi, các người có biết bạn ta ở đâu không? Các người có nghĩ rằng Kay chết rồi không?”. Những bông hồng nghe Gerda kể thế bèn lên tiếng trả lời: “Chúng tôi vừa nằm dưới đất, nhưng không thấy Kay của em đâu. Kay không chết đâu”. Gerda mới mừng rỡ làm sao! Mặc dù đang chân đất, cô bé vùng chạy ra khỏi vườn hoa nở rộ của bà phù thuỷ để đi tìm Kay.
Khi rời khỏi khu vườn của bà phù thuỷ dễ thương Gerda cũng rời khỏi mùa hè. Ở cánh rừng, chỗ cô bé vừa đến, đang vào lúc tàn thu, cây lá ánh lên một màu vàng rực rỡ. “Mình chậm chễ quá!”. Cô bé thở dài và chạy, chạy hoài cho đến khi chân mỏi rụng và xây sát. Gerda phải ngồi lại nghỉ. Bỗng nhiên một con quạ nhảy đến: “Quạ, quạ, quạ…”. Nó kêu to rồi nhảy đi trước. Gerda nhìn theo và khi nó một lần nữa kêu lên “quạ, quạ, quạ” thì Gerda nghĩ rằng nó muốn dẫn mình đến Kay. Cô bé bèn đi theo nó. Cả hai đến một con đường đầy lá phủ. Cuối cùng sừng sững một toà lâu đài. Con quạ lại kêu lên: “quạ, quạ, quạ…” rồi biến vào trong lâu đài. Gerda rụt rè bước theo, trống ngực đập thình thịch nghĩ: “Không biết mình có thấy Kay ở đây không?”. Cô bé bước vào lâu đài, đến một căn phòng uy nghi. Trên ngai có một nàng công chúa tuyệt đẹp ngồi, gần đó một thiếu niên đứng quay lại phía Gerda. Cô bé hồi hộp trong dạ vì thấy chàng hao hao giống Kay, nhưng thất vọng khi thấy chàng quay lại: đó là một hoàng tử xa lạ. Công Chúa rất dịu hiền, săn đón và bảo Gerda kể cho biết tại sao cô tới đây và muốn đi đâu. “Chúng ta sẵn sàng giúp em những gì chúng ta làm được”. Hoàng-tử và công chúa an ủi Gerda, thế rồi sai đem quần áo nhung lụa cho Gerda mặc. Để khỏi lạnh trên đường dài cô bé được tặng một đôi ủng lông xinh xắn và một bao tay cũng bằng lông. Một chiếc xe ngựa bằng vàng y đã đậu ngoài cửa , trên xe có một người xà ích (đánh xe) ngồi chờ sẵn sàng. Công chúa đỡ Gerda lên xe và chúc nàng nhiều may mắn. Con quạ bay theo tiễn cô bé một quãng đường. Sau đó chỉ còn Gerda một mình tiếp tục đi tìm Kay…
Lúc xe qua một cánh rừng âm u, chiếc xe vàng ánh lên như một ngọn đuốc sáng làm một đám cướp nhìn thấy, đổ ra bao vây khắp bốn phía. “Xe đúng là vàng! vàng y!” bọn chúng la lên ơi ới, nắm lấy cương ngựa, bắt giữ người xà ích và kéo tuột Gerda ra khỏi xe. Một mụ cướp xấu xí nắm lấy cô bé định kéo vào rừng tối thăm thẳm. Mụ cầm trong tay một con dao sáng loáng. Bỗng nhiên một cô cướp tý hon nhảy ra chặn đường la lớn: “U, u, ơ …, ta muốn chơi với con nhỏ này! Nó phải đưa cho ta chiếc bao tay và bộ quần áo và phải ngủ một giường với ta. U, u, ơ …, ta muốn vào chơi trong xe ngựa”. Cô bé cướp đẩy Gerda vào xe, giật lấy chiếc bao tay Gerda đang ủ hai bàn tay trong đó và giật cả chiếc mũ trên đầu, rồi ra lệnh cho Gerda phải cởi đôi ủng ra. Cô cướp tý hon hỏi một cách tò mò: “Mày là công chúa à? “. “Không phải”, Gerda trả lời và kể tất cả những gì đã trải qua. Gerda cũng kể mình thương mến Kay biết chừng nào. Cô cướp tý hon lẩm bẩm “U, u, ơ …” và bỗng trở nên nghĩ ngợi. Cô lau nước mắt cho Gerda và lại cho tay Gerda vào chiếc bao tay mềm ấm.
Chiếc xe ngừng lại giữa sân một lâu đài đổ nát hoang phế của bọn cướp. Quạ bay ra tới tấp từ những lỗ tường thủng. Trên nền đá trong một căn phòng lớn ám khói có một bếp lửa cháy sáng. Khói bay lên mái nhà theo những lỗ hổng thoát ra ngoài. Một nồi cháo khổng lồ đang được nấu trên bếp lửa. Gerda và cô cướp bé con múc ăn xì xụp. “Tối nay mày nằm với tao và lũ súc vật bé nhỏ của tao”. Cô cướp quyết định thế và kéo ngay Gerda vào một góc phòng có chiếc giường sắt. Mấy con bồ câu đậu trên khăn giải giường, trên cọc giường. “Chúng nó thuộc về tao hết. Và đây là con tao quý nhất”. Nói xong cô cướp bé nắm sừng một con tuần lộc kéo lại. Con vật này đeo một chiếc giây trên cổ mắc vào một chiếc xích sắt. “Tụi ta phải buộc kỹ nó lại nếu không nó chạy mất tiêu! Tối nào tao cũng gại gại lưỡi dao sắc vào cổ nó, thấy thế nó sợ lắm!”. Cô cướp tý hon rút một con dao dài ở khe tường ra lướt nhẹ lên cổ con tuần lộc, nó sợ quá nhẩy chồm lên đạp tứ tung. Cô cướp bé con thích trí cười rồi kéo Gerda vào giường. Họ lấy thảm làm chăn đắp. Gerda dụt dè hỏi : “Chị giữ dao cả khi ngủ à?” “Ừ, tao ngủ lúc nào cũng có dao! “ cô bé cướp đáp “chẳng thế nào biết trước chuyện gì sẽ xẩy ra! Nhưng thôi kể cho tao nghe chuyện Kay và tại sao mày lại đi lạc loài như thế?”. Thế rồi Gerda lại kể lại từ đầu và lũ bồ câu gần đó cũng gù gù nghe. Cô cướp bé quàng một tay lên cổ Gerda, tay kia giữ dao và ngủ thiếp đi. Gerda thì không ngủ được vì sợ. Bọn cướp ngồi quây quần quanh ánh lửa hồng hát những bài hát khủng khiếp. Mấy con chim bồ câu bắt đầu gù gù lên tiếng nói chuyện : Gù, gù, gù … chúng tôi đã thấy cậu nhỏ Kay! Cậu ngồi trên xe trượt tuyết của nữ Hoàng Tuyết, xe của họ lướt qua rừng cây, chắc là đi về hướng Phần-Lan. Chả là ở đó lúc nào cũng đầy băng tuyết. Gù, gù, gù …, hãy hỏi anh tuần lộc, anh ta biết rõ xứ sở của nữ Hoàng Tuyết trên miền Bắc lắm!”. Con tuần lộc thở dài buồn rầu: “Ừ, đấy là quê hương tôi! ở đó tha hồ được chạy nhảy tung tăng khắp thung lũng trùng trùng điệp điệp. Còn ở mãi tít trên miền Bắc Nữ Hoàng Tuyết có một lâu đài mùa hè”.
“Ủa! Tụi bay thấy Kay à ? Kay ở với Nữ Hoàng Tuyết sao? Vậy ra Kay hãy còn sống! Kay, Kay của ta, ta nhất định sẽ lên tận miền Bắc kiếm!”. Gerda nói thì thầm như thế rồi ngủ thiếp đi với niềm hy vọng mới trong lòng…
Sáng hôm sau Gerda kể cho cô cướp bé con nghe những gì lũ chim bồ câu đã nói. Cô bé này suy nghĩ không lâu “u, u, ơ…” lên vài tiếng rồi quyết định thả ngay cho Gerda đi với con tuần lộc. Gerda mừng quá phát khóc. Cô cướp bé hỏi con tuần lộc: “Mày biết Phần-lan ở đâu không?”. Nó đáp liền: “Ai biết rõ được hơn tôi nữa? Tôi đã sinh ra ở đó, đã nhảy nhót chơi đùa trên những cánh đồng tuyết phủ ở đó mà!”. “Vậy thì ta thả mày ra để mày chạy tới Phần-lan mang cô bé này tới lâu đài Nữ Hoàng Tuyết. U, u, ơ…chắc mày đã nghe rõ cô bé kể gì rồi!”. Con tuần lộc mừng quá nhẩy tưng tưng. Cô cướp tý hon bảo Gerda: “ Đây tao trả lại cho mày đôi ủng lông và chiếc mũ, vì trời lạnh lắm, nhưng chiếc bao tay thì tao giữ lại vì tao thích quá! U, u, ơ…! Nhưng mày đừng ngại lạnh, đây tao cho mày đôi “găng” tay lớn của mẹ tao, “găng” dài tới tận khuỷ tay lận. Này, đây hai chiếc bánh mì và một miếng thịt đùi ướp muối nữa, để đi đường khỏi đói”.
Nói rồi cô cướp tý hon cởi xích, dẫn con tuần-lộc ra phía trước lâu đài. Ánh bình minh đã bắt đầu lên. Cô cướp bé đỡ Gerda lên lưng con tuần lộc và cho Gerda thêm cả một chiếc gối nhỏ. Rồi cô rút dao bén ra cắt đứt chiếc giây buộc cổ con tuần lộc và nói: “U, u, ơ…, chạy mau lên, nhưng ráng để ý đến cô bé nghe!”. Vụt một cái con vật đã phi khuất vào rừng. Gerda giơ đôi “găng” lớn ra vẫy và nghe cô cướp từ giã bằng những tiếng “ U, u, ơ!”.
Rồi người và vật vùn vụt vượt qua núi rừng, qua những đầm lầy, những cánh đồng cỏ khô, nhanh hết sức khiến trên đường chó sói hú lên và quạ kêu quàng quạc.
Con tuần lộc đưa Gerda đi bất kể ngày đêm. Bánh mì và cả thịt ướp đã hết. Phần-lan đây rồi! Ở đó con tuần lộc quen một mụ đàn bà Phần-lan, mụ biết hết những gì huyền bí trên miền Bắc. Tuần lộc đưa Gerda đến mụ. Cả hai bước vao một túp lều thấp lè tè. Bên trong nóng đến nỗi Gerda phải cởi liền đôi ủng lông, chiếc mũ cùng đôi găng dầy cộm và mụ đàn bà phải đặt lên đầu con tuần lộc một miếng băng. Nó bắt đầu kể chuyện của Gerda.
“Tôi biết bà khôn ngoan lắm”, con tuần lộc nói tiếp, “bà có thể cho cô bé uống thứ gì để cô có sức mạnh chống chọi được với Nữ Hoàng Tuyết không? “.
Người đàn bà Phần-lan cười rồi lấy ra một miếng da thú đã được cuộn lại mở ra. Trên đó có những hàng chữ linh thiêng, người đàn bà Phần-lan đọc trong khi trên trán bà nước rỏ xuống long tong. Con tuần-lộc lại tiếp tục khẩn khoản xin cho Gerda , còn chính cô bé cũng nhìn người đàn bà Phần-lan với đôi mắt khẩn cầu. Không đừng được, bà kéo con tuần-lộc riêng ra một chỗ thì thầm trong khi thỉnh thoảng lại đặt lên đầu nó một miếng nước đá: “Kay hiện đang sống sung sướng cạnh Nữ Hoàng Tuyết. Nhưng phép mầu của Nữ Hoàng Tuyết thần diệu đến nỗi làm nó quên cả cha mẹ lẫn cô bé Gerda này”.
Con tuần-lộc hỏi: “Nhưng sao bà không cho Gerda được thứ gì giúp Gerda có sức mạnh chống lại Nữ Hoàng Tuyết?”.
“Tao không thể cho Gerda được sức mạnh nào lớn hơn cái mà chính cô đã có”. Người đàn bà Phần-lan trả lời.
“Mày không thấy sức mạnh của cô bé lớn bằng nào sao? Mày không thấy người cũng như vật phải phục-vụ cho cô bé thế nào sao? Không thấy cô bé chỉ với đôi chân trần mà đi khắp nơi đó sao? Chẳng ai đã làm gì nổi Gerda trong chuyến đi dài dằng dặc này. Ngay cả con bé cướp cũng phải làm thoả mãn những ước muốn của cô bé. Chúng ta không thể cho cô bé một sức mạnh như thế, sức mạnh đó nằm trong trái tim đầy yêu thương của cô bé, lòng yêu thương của cô bé lớn bằng nào thì sức mạnh của cô cũng lớn bằng ấy.
Cách đây hai dặm nữa là bắt đầu khu vườn của Nữ Hoàng Tuyết, mày có thể cõng cô bế đến đó. Hãy để cô bé xuống ở chỗ bụi cây dâu đỏ mọc trên tuyết. Nhưng mày phải nhanh chân chạy về đây, trước khi lạnh quá đối với mày!”. Bà người Phần-lan nói xong đặt Gerda lên con tuần lộc rồi nó ba chân bốn cẳng, hết sức
chạy đi.
“Trời ơi, tôi không đi ủng! Tôi cũng không có “găng” và mũ nữa!”. Gerda kêu lên. Trời lạnh như dao cắt. Vậy mà con tuần-lộc không dám quay gót. Nó chạy hoài, chạy hoài…
Đến bụi dâu đỏ con tuần-lộc đặt Gerda xuống, nhẹ hôn lên miệng cô bé, những giọt lệ long lanh chảy dài xuống má cô bé nhân hậu. Rồi nhanh như gió nó chạy về mụ Phần-lan vì sợ Vương Quốc băng giá của Nữ Hoàng Tuyết. Cô bé đáng thương đứng đó, không giầy, không bao tay giữa đất bắc Phần-lan khủng khiếp lạnh như băng. Cô bé bắt đầu chạy, mỗi lúc một nhanh, chạy thẳng vào đám bão tuyết. Vì ở đó, chỗ tuyết rơi nhiều nhất chắc có lâu đài của Nữ Hoàng Tuyết. Lạnh quá đến nỗi Gerda nhìn thấy cả hơi thở của chính mình. Rồi trong cơn tuyệt vọng Gerda cầu nguyện. Khi cô bé vừa dứt câu “Xin Cha Cả ở trên trời” thì bao nhiêu thiên thần đã đến xung quanh. Các thiên thần này xua đuổi tuyết và giá lạnh đi. Gerda vui vẻ vững bụng tiến lên. Thiên thần xoa tay chân cô bé khiến cô không còn biết lạnh là gì. Cô đi nhanh đến lâu đài của Nữ Hoàng Tuyết.
Lâu đài của Nữ Hoàng rực rỡ một cách băng giá. Những bức tường được làm bằng tuyết , các cửa của lâu đài được tạo nên do gió lạnh buốt thổi qua những bức tường tuyết. Gió được làm nên bằng những bông tuyết quay cuồng lướt qua hàng trăm căn phòng của lâu đài. Ánh sáng mờ mờ của Bắc cực dội vào những căn phòng này khiến chúng nằm đó lạnh ngắt và trống trải. Giữa những căn phòng mênh mông là một hồ nước đông lại thành băng. Băng vỡ ra ngàn mảnh nhỏ, mảnh nào cũng giống mảnh nào. Giữa băng tuyết là chiếc ngai cũng bằng băng của Nữ Hoàng Tuyết; nữ hoàng ngồi đó mỗi khi ở nhà, cô đơn và lạnh lẽo. Kay đang quỳ chơi một mình với những miếng băng nhỏ óng ánh và cứng. Cậu bé xanh đi vì lạnh. Nữ Hoàng Tuyết đã hôn cậu cho đến khi tim cậu đông lại thành một tảng băng không còn tình cảm. Sau đó Nữ Hoàng ra đi để Kay lại một mình giữa băng tuyết lóng lánh. Cậu ngồi đó chơi với những miếng băng nhỏ bao nhiêu ngày tháng rồi. Lúc Gerda bước vào lâu đài nhìn thấy cậu nhận ra ngay. Cô bé chạy đến ôm choàng lấy cổ Kay, giữ thật chặt gọi: “Kay, Kay yêu quý, bé nhỏ, thế là em đã tìm được anh rồi! “.
Nhưng Kay ngồi yên lặng, cứng đờ và lạnh ngắt khiến người ta tưởng là cậu hoá băng thực sự. Gerda khóc nức nở, những giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống ngực Kay thấm dần vào tim và làm ấm dần lại trái tim đã hoá băng. Cậu bắt đầu nhìn cô bé và Gerda cất tiếng khe khẽ hát:
“Tàn rồi lại nở vườn hồng
Chúng mình thấy Chúa Hài-đồng Giáng-sinh”
Tình cảm sống lại dần trong lòng Kay. Cậu nhận ra Gerda qua tiếng hát, reo lên “Gerda nhỏ bé yêu quý, em ở đâu lâu thế? Sao ở đây xa xôi , trống trải thế này? Trời lạnh quá! Anh bị rét run lên đây”. Rồi cậu bé bám chặt lấy Gerda. Cả hai hết cười đến khóc vì vui mừng.
Gerda hôn lên má Kay, má cậu bé dần dần hồng lại. Cô hôn lên đôi mắt, chúng long lanh lại như mắt cô. Cô hôn vào tay,chân Kay, cậu cảm thấy người nóng lại. Thế là Kay được tình yêu thương bao la của Gerda giải thoát khỏi phép làm hoá băng của Nữ Hoàng Tuyết. Cả hai nắm tay nhau bước ra khỏi lâu đài nói chuyện về cha mẹ, về những bông hồng ở vườn nhà. Hai trẻ đi đến đâu là gió lạnh buốt người ngừng thổi đến đó. Mặt trời hiện lên.
Tại bụi cây dâu đỏ con tuần lộc đã đợi sẵn với chiếc xe trượt tuyết cùng những áo quần do người đàn bà Phần-Lan gửi tặng. Con tuần-lộc chở hai người đến biên giới đưa vào vùng ấm áp. Ở đây bắt đầu thấy cỏ non xanh và cũng ở đây Gerda và Kay từ biệt con vật nhân từ. Đâu đây có tiếng chim hót trên cành và rừng cây đầy những lá non mới nhú: mùa xuân đang đến.
Gerda và Kay dắt tay nhau tìm đường về. Họ gặp cô cướp tý hon đi trên chiếc xe ngựa vàng y chu du khắp thế giới. Cô kể đã chán đời cướp bóc giang hồ, nay bỏ đi cho biết đó đây. “U, u, ơ… anh này đúng là một chàng lang thang”, cô nói với Kay. “Ta muốn biết xem chàng có xứng đáng để người ta đi khắp góc biển chân trời để tìm không! Nhưng này Gerda, hãy kể tao nghe những gì đã xảy ra với mày và mày tìm được Kay như thế nào!“ Gerda và Kay thuật lại mọi chuyện. “U, u, ơ…“ cô cướp bé cười nắm tay hai người hứa khi nào qua thành phố hai người ở sẽ ghé lại thăm. Nói xong đánh xe mất hút vào rừng.
Khi Gerda cùng Kay trở lại lâu đài của Công-chúa và Hoàng-tử cả hai được đón tiếp nồng hậu, linh đình. Lần này lúc họ ra đi, chú quạ cũng bay tiễn một quãng đường. Tất cả những chốn Gerda và Kay đi qua đều đang mùa xuân, đâu cũng đầy hoa tươi lá nõn. Đi hoài sau bao tháng ngày chợt họ nghe văng vẳng từ xa tiếng chuông nhà thờ vọng lại. Cả hai nhận ra ngay những chiếc tháp cao nơi mình ở. Họ vào thành phố và trở về nhà. Gerda cùng Kay leo lên những bậc thang cao tít bước vào phòng. Khi đi qua cửa họ mới chợt nhận thấy mình sau thời gian phiêu bạt nay đã thành người lớn. Nói sao nỗi vui mừng của cha mẹ khi nhìn thấy những đứa con tưởng đã mất hẳn không bao giờ gặp lại. Họ nhìn hai trẻ nắm tay nhau mỗi người ngồi trên những chiếc ghế nhỏ bé ngày xưa chúng thường ngồi. Bên ngoài sân thượng hoa hồng nở lan vào cửa sổ. Kay và Gerda ngồi giữa khung cảnh quen thuộc êm đềm quên vẻ hùng vĩ mà lạnh lẽo ở xứ Nữ Hoàng Tuyết như quên đi một giấc mộng nặng nề. Hai trẻ nhìn nhau hát lên một bài hát cũ:
“Tàn rồi lại nở vườn hồng
Chúng mình nhớ Chúa Hài-đồng giáng-sinh”.
Dù đã lớn lên theo ngày tháng trôi qua nhưng cả hai vẫn giữ nguyên tâm hồn thơ dại. Kay và Gerda đứng dậy đi về phía cửa sổ. Bên ngoài bây giờ đang mùa hè, mùa hè đầm ấm reo vui.
NGUYỄN-KHẮC TIẾN-TÙNG