- T. K. Trần
- Gửi đến BBC từ Stuttgart, Đức
Vấn đề tổ chức người lao động ở Việt Nam được nhắc tới khi Nhà nước Việt Nam phê chuẩn công ước 98 ILO, phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do với Liên minh Âu châu (EVFTA) hay trong những cuộc đàm phán với Hoa Kỳ về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái bình Dương (TPP).
Nhưng về lịch sử, ta đã nghe đến chuyện ông Tôn Đức Thắng lập tổ chức công nhân ở xưởng Ba Son, hay việc thành lập Công đoàn Đỏ (1929-1935), Nghiệp đoàn Ái hữu (1935-1939), Hội Công nhân phản đế (1939-1941), Hội công nhân cứu quốc (1941-1946) thời đấu tranh giành độc lập từ tay người Pháp.
Từ năm 1988 ở trên cả nước có Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhưng trước đó, sau năm 1945 tổ chức công nhân còn có những tên khác nhau.
Ở miền Nam, cho tới 1975 có “Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam” do ông Trần Quốc Bửu nhiều năm làm chủ tịch. Ông từng tham gia kháng chiến, rồi lập ra Liên đoàn công nhân cơ đốc Việt (tiếng Pháp viết tắt là CVTC). Sau ông sang Pháp (1952-1954) học cách về tổ chức công nhân với Liên đoàn công nhân cơ đốc Pháp (CFTC), để về Nam Việt Nam lập “Tổng liên đoàn lao công Việt Nam”.
Ở Miền Bắc khái niệm “công đoàn” dần dần bị đổi nội dung, rộng hơn định nghĩa ban đầu. “Công đoàn (viết hoa) không còn là một tổ chức thuần túy nghề nghiệp của giai cấp thợ thuyền mà còn là “tổ chức chính trị-xã hội…tham gia quản lý nhà nước” (điều 10 Hiến Pháp 1992).
Công đoàn ban đầu được định nghĩa là “tổ chức của giai cấp công nhân, xuất hiện trong quá trình đấu tranh đòi quyền lợi, đòi cải thiện địa vị kinh tế” (Tự điển chính trị, nxb Sự Thật, Hà Nội, 1961).
Sau này khái niệm “công đoàn” dần dần bị đổi nội dung, rộng hơn định nghĩa ban đầu. „Công đoàn (viết hoa) không còn là một tổ chức thuần túy nghề nghiệp của giai cấp thợ thuyền mà còn là „tổ chức chính trị-xã hội… tham gia quản lý nhà nước” (điều 10 Hiến Pháp 1992).
“Công đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam…” (điều 1, luật Công đoàn).
“Công đoàn hoạt động không thể thiếu sự lãnh đạo của Đảng…, Đảng lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, chủ trương Nghị quyết của Đại hội”…
Và hệ thống chính trị xác định một cách rõ ràng, “Đảng kiểm tra Công đoàn thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng”(xem thêm).
Công đoàn VN đã bỏ ‘đấu tranh giai cấp’?
Hiện Công đoàn Việt Nam có nhiều cấp. Cao nhất là „Tổng liên đoàn lao động Việt Nam”, dưới là „Liên đoàn lao động tỉnh và thành phố”, dưới nữa là „Công đoàn cấp trên cơ sở”. Đơn vị thấp nhất là „công đoàn cơ sở” và „nghiệp đoàn cơ sở”.
Về mặt chính trị, Công đoàn phụ thuộc 100% vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về mặt xã hội, Công đoàn cũng phụ thuộc vào giới chủ nhân tức người sử dụng lao động, khi mọi xí nghiệp đều buộc phải đóng phí Công đoàn 2%, bất kể xí nghiệp đó có công đoàn cơ sở hay không.
Tiền đóng góp của chủ xí nghiệp lên tới 63% tổng ngân sách của Công đoàn. Người lao động chỉ đóng góp 23% qua hội phí, còn lại là nguồn ngân sách và nguồn khác (VnExpress).
Liệu với những điều kiện như trên Công đoàn có giữ được tính độc lập để bảo vệ quyền lợi của người lao động?
Không chỉ vậy, về định nghĩa, Công đoàn chủ trương thỏa hiệp với giới chủ nhân, né tránh đấu tranh, như lời Chủ tịch Nguyễn Đình Khang (05/2020):
“…Công đoàn xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa người sử dụng lao động và người lao động, hạn chế đình công, ngừng việc tập thể…”(3).
Khi làm kinh tế, mục tiêu của giới chủ nhân là đạt tối đa lợi nhuận. Điều này dĩ nhiên là mâu thuẫn với quyền lợi của người lao động, có thể dẫn đến những đấu tranh có khi ôn hòa, có khi gay gắt qua đình công.
Đấu tranh giai cấp ngày xưa là kinh điển thì nay là khái niệm xa lạ với Công đoàn Việt Nam, khi Công đoàn chủ trương “hạn chế đình công”?
Nghiệp đoàn là gì?
“Nghiệp đoàn” là một khái niệm tương đối mới mẻ.
Tự điển chính trị (1961) không có từ “nghiệp đoàn”, chỉ có “nghiệp hội”.
Khác với Công đoàn, “nghiệp đoàn” trong nghĩa rộng nhất, không chỉ là tổ chức của giới thợ thuyền mà còn là của giới chủ nhân, của viên chức… như Nghiệp đoàn công nhân hóa chất, Nghiệp đoàn chủ nhân ngành hóa chất, Nghiệp đoàn nhân viên văn phòng…
Hán Việt Tân Tự Điển (1950) hay tự điển Hán Việt, Nguyễn Văn Khôn (Khai Trí, Sài Gòn 1960), cũng không có từ “nghiệp đoàn”.
Mới hơn, Tự điển tiếng Việt (1977) mới nêu “nghiệp đoàn” là “tổ chức do những người cùng nghề nghiệp hợp thành”.
Trong luật Công Đoàn 2012, cái sườn pháp lý của tổ chức công nhân, không hề có điều khoản nào đề cập tới „nghiệp đoàn”. Mãi tới tháng 2/2020, thay vì “luật” thì là “điều lệ Công đoàn sửa đổi” (4) đưa thêm khái niệm „nghiệp đoàn cơ sở”, mà sự hình thành của nó dường như có tính “sáng tạo” theo mục tiêu gia tăng số lượng đoàn viên.
Hiện tại, người lao động phi chính thức, làm tự do, không trong một xí nghiệp, ví dụ người làm thuê trong gia đình, trong xây dựng, hay trong các dịch vụ linh tinh được nhà nước tập trung, tổ chức thành “nghiệp đoàn cơ sở”, tương đương với công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp(điều 13, 14) và họ cũng chịu sự chỉ đạo của Đảng CSVN như công đoàn cơ sở.
Khác với Công đoàn, những nghiệp đoàn ở những quốc gia dân chủ khác độc lập với nhà nước.
Tổ chức đại diện người lao động ‘sẽ bị công đoàn nhà nước áp đảo’.
‘Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở’, không được đánh đồng, nhầm lẫn với “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”, dù đây là thuật ngữ mới được đưa vào Bộ luật Lao Động sửa đổi, có hiệu lực từ 01/01/2021, được xem như một bước tiến của nhà nước Việt Nam.
Tôi cho rằng đây không phải là một bước tiến nhảy vọt mà là một bước tiến rụt rè trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động theo cam kết trong hiệp định EVFTA và đòi hỏi của người lao động.
Xin giải thích vì sao?
Thứ nhất, luật Lao động vẫn chỉ cho phép thành lập ở các doanh nghiệp (đơn vị nhỏ nhất trong guồng máy lao động) “tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” có tính cách độc lập, song song với công đoàn cơ sở do nhà nước chỉ đạo. Hai loại tổ chức này gọi chung là “tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở” phải cạnh tranh với nhau để giành quyền đại diện cho người lao động trong các tranh chấp với chủ nhân.
Thứ hai, luật Lao Động không cho phép các đoàn thể độc lập quyền thương lượng tập thể trên bình diện liên kết cao hơn, trong các ngành, ví dụ ngành giầy dép, ngành may mặc…, chẳng hạn. Đây vẫn là độc quyền của Công đoàn.
Thứ ba, cho dù luật đã có hiệu lực từ 3 tháng nay, song vẫn không có dấu hiệu gì cho thấy nhà nước sẽ ban hành những văn kiện dưới luật để hiện thực hóa những điều luật. Chưa ai biết muốn thành lập “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” thì phải nộp đơn gì, ở đâu nhận đơn, cần bao nhiêu đoàn viên để có thể làm đại diện cho người lao động?
Những chi tiết nhỏ trong văn kiện dưới luật hoặc hướng dẫn sử dụng luật có thể sẽ là cách tụt lùi ngay trong bước tiến rụt rè của nhà nước.
Thứ tư, trong khi gây khó khăn cho sự thành hình các tổ chức tự do ở ngoài vòng kiểm soát của Đảng, thì Công đoàn Việt Nam tăng cường nỗ lực phát triển đoàn viên qua việc tạo lập “nghiệp đoàn cơ sở” dành cho giới lao động phi chính thức, gia tăng số lượng đoàn viên ở các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ bằng công thức “công đoàn ghép” đã được làm thí điểm ở Quảng Nam (xem thêm).
Chỉ tiêu mà Tổng liên đoàn lao động VN đề ra tại Đại hội XII năm 2018 là tới năm 2023 kết nạp 2 triệu đoàn viên (thêm vào số 10,5 triệu đoàn viên hiện có), thành lập tổ chức công đoàn cơ sở ở tất cả mọi doanh nghiệp có 25 lao động trở lên.
Kết quả thấy trước là sức mạnh vượt trội của Công đoàn với đông đảo đoàn viên (12,5 triệu), tài chính dồi dào (ngân quĩ 2013-2019 là 100.354 tỷ đồng), thêm vào đó là sự hỗ trợ của nhà nước so với thế mong manh non trẻ của các tổ chức tự do sẽ được thành hình.
Tuy thế, trong quá khứ hầu như không có một cuộc đình công nào ở Việt Nam do Công đoàn lãnh đạo, kể cả những đấu tranh cho những đòi hỏi có tính cách cơ bản nhất, như đòi hỏi phải cho công nhân được để xe trong khuôn viên xí nghiệp X, được quyền đi vệ sinh trong giờ làm việc ở xí nghiệp Y, hay phải cải thiện phần ăn trưa đơn sơ ở xí nghiệp Z.
Chúng ta thấy là cần phải lập ra những tổ chức độc lập với giới chủ nhân, độc lập với đảng chính trị cầm quyền thì mới bảo vệ người lao động hữu hiệu được.
Những tổ chức này sẽ được gọi như thế nào?
Cùng quá trình hội nhập quốc tế và giám sát từ các quốc gia, đối tác ký hiệp định với Việt Nam mà Liên minh châu Âu là một, việc minh định các khái niệm căn bản sẽ tránh nhập nhằng về vai trò, và về tính đại diện thực sự cho công nhân.
Câu hỏi vẫn lại là ở Việt Nam sẽ có thêm nghiệp đoàn bên cạnh Công đoàn?
Không phải đơn thuần chỉ là vấn đề từ ngữ
Trong quá khứ đã có tổ chức công nhân tự lấy tên là “Công đoàn độc lập” (thành lập năm 2007).
Bàn về chữ nghĩa thì danh xưng này hàm chứa mâu thuẫn. Công đoàn thì không thể độc lập, đã độc lập thì không phải là Công đoàn. Trên các phương tiện truyền thông những lẫn lộn tương tự không phải là hiếm.
” Công đoàn” đã thành danh xưng riêng cho „Tổng liên đoàn lao động Việt Nam”dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN.
Bởi vậy dùng tên gọi “Công đoàn” cho một tổ chức độc lập nằm ngoài vòng kiểm soát của Đảng Cộng sản, theo tôi là hoàn toàn không thích hợp.
Có lý do để gọi một tổ chức độc lập của người lao động là nghiệp đoàn.
Thứ nhất là nghiệp đoàn tập hợp người cùng nghề nghiệp với nhau, bao trùm mọi ngành nghề, chứ không như công đoàn, trong định nghĩa nguyên thủy chỉ là đoàn thể công nhân.
Thứ hai, dùng chữ „nghiệp đoàn” có thêm tĩnh từ “tự do” (nghiệp đoàn tự do) hay “độc lập” (nghiệp đoàn độc lập) là cách tốt nhất để trách lẫn lộn với một tổ chức nhà nước như “Công đoàn” hay “nghiệp đoàn cơ sở”.
Thứ ba, dùng từ “nghiệp đoàn” là kế thừa đặc điểm độc lập của các tổ chức lao động ở các nước dân chủ ngày nay.
“Công đoàn” là đồng nghĩa với việc trở thành một phần của thể chế do Đảng CSVN độc quyền lãnh đạo và cũng hàm ý sẵn sàng thỏa hiệp với chủ nhân ‘bóc lột’, giới đầu tư bỏ tiền vào VN vì nhân công rẻ.
“Nghiệp đoàn” tự thân nó là phi chính trị, là đồng hành với người lao động
Như vậy chọn lựa “Công đoàn” hay “nghiệp đoàn” không chỉ là chọn lựa một từ ngữ mà còn là chọn lựa một vị thế đối với người lao động nữa.
Đây sẽ là câu chuyện cho hàng triệu người lao động ở Việt Nam những năm tới, khi nước này phải thực hiện các điều khoản của EVFTA và những cam kết quốc tế khác./.