Mục lục
Canada lên tiếng về phán quyết Biển Đông, Trung cộng đe doạ đáp trả
Trung cộng vừa doạ rằng quan hệ giữa nước này với Canada sẽ “càng bị tổn hại” sau khi Canada thúc giục Trung cộng tuân thủ phán quyết về Biển Đông mà Toà trọng tài quốc tế đưa ra từ 5 năm trước.
Tuyên bố cảnh báo Canada “không đi sai đường” và “không gây tổn hại thêm cho quan hệ Trung cộng – Canada cũng như hoà bình và ổn định khu vực”.
Ngày 11/7, Bộ Ngoại giao Canada kêu gọi Trung cộng tuân thủ các cam kết ở Biển Đông, nhân kỷ niệm 5 năm ngày Toà trọng tài ra phán quyết.
“Canada đặc biệt quan ngại trước những hành động leo thang và gây bất ổn ở Biển Đông và Hoa Đông… tình trạng quân sự hoá các cấu trúc tranh chấp và dùng các tàu hải quân, hải cảnh và dân quân biển để bắt nạt và đe toạ tàu thuyền của nước khác”, Bộ Ngoại giao Canada nói.
Để đáp trả, Tòa Đại sứ Trung cộng tại Canada ngày 13/7 ra tuyên bố, ngang nhiên nói rằng Bắc Kinh có “chủ quyền không thể chối bỏ ở Biển Đông và Hoa Đông”
Tuyên bố của Tòa Đại sứ Trung cộng nói rằng phán quyết của Toà trọng tài thường trực quốc tế khi bác bỏ quyền lịch sử của Trung cộng ở Biển Đông là “trái luật”.
Tuyên bố của Tòa Đại sứ Trung cộng còn nói rằng “chủ quyền, quyền và các lợi ích của Trung cộng ở Biển Đông không bị phán quyết tác động, và Trung cộng cũng không chấp nhận bất kỳ tuyên bố hay hành động nào dựa trên phán quyết này”.
Tuyên bố còn nói quần đảo Điếu Ngư trên biển Hoa Đông “là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung cộng, và Nhật Bản liên tục khuấy động rắc rối và làm suy yếu ổn định khu vực”. Nhật Bản đang quản lý và gọi quần đảo này là Senkaku.
Canada là một trong nhiều quốc gia lên tiếng nhân kỷ niệm 5 năm Toà trọng tài ra phán quyết lịch sử để công khai thúc giục Bắc Kinh tuân thủ luật quốc tế. Các phái đoàn ngoại giao Trung cộng tại các quốc gia cũng lên tiếng đáp trả.
Tòa Đại sứ Trung cộng tại Anh vừa phủ nhận báo cáo nói rằng lực lượng hải cảnh và tàu cá Trung cộng quấy rối các tàu cá Phi Luật Tân.
Tòa Đại sứ Trung cộng tại Canberra kêu gọi Úc “dừng thao túng chính trị” trong vấn đề Biển Đông.
Ngày 11/7 vừa qua, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken kêu gọi Bắc Kinh “tuân thủ các nghĩa vụ theo luật quốc tế và dừng hành động khiêu khích” ở Biển Đông.
Tuyên bố của Tòa Đại sứ Trung cộng ở Ottawa cũng cáo buộc Washington “gây thêm căng thẳng” ở vùng biển này.
Tháng 3 năm nay, Canada đưa một tàu chiến đến gần quần đảo Trường Sa của Việt Nam để khẳng định tự do hàng hải và thách thức yêu sách của Trung cộng.
Quan hệ giữa Bắc Kinh và Ottawa tiếp tục căng thẳng vì vụ bắt giữ giám đốc tài chính Huawei Mạnh Vãn Châu và việc Trung cộng bắt hai công dân Canada Michael Kovrig và Michael Spavor để trả đũa.
Đất Việt (14.07.2021)
Hoa Kỳ bác bỏ những đòi hỏi chủ quyền phi pháp của Trung cộng ở Biển Đông
Hình minh hoạ: Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken tại Washington DC hôm 12/7/2021 Photo: RFA
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken hôm 14/7 lên tiếng bác bỏ những đòi hỏi về chủ quyền phi pháp của Trung cộng ở Biển Đông, đồng thời khẳng định rằng Washington sẽ tiếp tục đoàn kết với các nước thuộc ASEAN chống lại những hành động cưỡng bức tại vùng nước tranh chấp.
Phát biểu này của Ngoại trưởng Mỹ được đưa ra tại Hội nghị đặc biệt Bộ trưởng ngoại giao ASEAN – Mỹ được tổ chức trực tuyến. Đây cũng là cuộc gặp đầu tiên của Ngoại trưởng Antony Blinken với đại diện 10 nước khối ASEAN kể từ khi ông nhậm chức vào tháng một năm nay.
Bộ Ngoại giao Trung cộng ngay lập tức sau đó đã phản đối lời phát biểu của Ngoại trưởng Hoa Kỳ. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung cộng Triệu Lập Kiên nói tại cuộc họp báo thường kỳ ở Bắc Kinh rằng: “Việc Mỹ cố tình gây tranh cãi về vấn đề chủ quyền lãnh thổ và các quyền trên biển ở Biển Đông là rất vô trách nhiệm, gây chia rẽ giữa Trung cộng và các nước ASEAN”.
Trung cộng hiện là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc chín đoạn lấn sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng bao gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Malaysia, Brunei.
Nhiều nước trên thế giới trong năm 2020 đã gửi công hàm đến Liên Hiệp Quốc phản đối các đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung cộng và viện dẫn phán quyết của Toà Trọng tại quốc tế hồi năm 2016, bác bỏ tính hợp lệ của đường đứt khúc chín đoạn.
Bộ Ngoại giao Canada mới đây cũng đã lên tiếng “bày tỏ lo ngại trước các hành động leo thang và gây mất ổn định của Trung cộng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, bao gồm các diễn biến ở ngoài khơi bờ biển Phi Luật Tân thời gian gần đây, việc quân sự hóa các thực thể đang tranh chấp và sử dụng các tàu hải quân, tuần duyên và dân quân biển để uy hiếp và đe dọa”.
Cũng trong phát biểu tại hội nghị với đại diện các nước ASEAN, Ngoại trưởng Blinken tiếp tục khẳng định cam kết của Mỹ cho một khu vực Mekong mở và tự do theo Hợp tác Đối tác Mekong Mỹ.
Ngoại trưởng Malaysia Hishammuddin Hussei nói, ông hy vọng cuộc gặp giữa Mỹ và ASEAN đã đưa ra một tín hiệu về một cam kết được làm mới lại trong hợp tác đa phương của Hoa Kỳ.
RFA (14.07.2021)
Phi Luật Tân điều tra thông tin Trung cộng xả thải ra Biển Đông
Lực lượng tuần duyên Phi Luật Tân theo dõi các tàu dân quân Trung cộng ở Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Phi Luật Tân hôm 13/7 ra lệnh cho quân đội điều tra thông tin trong báo cáo của một công ty công nghệ có trụ sở tại Hoa Kỳ rằng hàng trăm tàu Trung cộng đã xả thải vào các khu vực tranh chấp ở Biển Đông, theo Reuters.
Trung cộng vốn vẫn luôn duy trì sự hiện diện thường xuyên của lực lượng tuần duyên và tàu cá ở Biển Đông để khẳng định yêu sách yêu sách chủ quyền, nơi Phi Luật Tân, Brunei, Đài Loan, Việt Nam và Malaysia cũng tuyên bố chủ quyền.
Trước đó hôm 12/7, công ty phân tích hình ảnh vệ tinh dựa trên công nghệ AI, Simularity, công bố các hình ảnh vệ tinh đã chụp trong khoảng thời gian 5 năm, trong đó cho thấy những thiệt hại do chất thải vệ sinh từ con người không được xử lý từ các tàu của Trung cộng gây ra.
“Trong khi chúng tôi đang chờ xác nhận và xác minh những chất thải này có được xả ra hay không, chúng tôi coi những hành động vô trách nhiệm như vậy, nếu có, sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến hệ sinh thái biển trong khu vực”, Reuters dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Phi Luật Tân Delfin Lorenzana nói.
“Bất chấp các tuyên bố chủ quyền và lợi ích xung đột của các quốc gia ở Biển Đông, tất cả các quốc gia phải có trách nhiệm quản lý tài nguyên và môi trường của chúng ta”, Bộ trưởng Lorenzana nói thêm.
Tại một diễn đàn hôm 12/7, bà Liz Derr, đồng sáng lập kiêm Giám đốc điều hành công ty Simularity, cho biết chất thải có thể đe dọa đến nguồn cá.
“Nó khủng khiếp đến mức bạn có thể nhìn thấy nó từ trên không gian”, Reuters dẫn lời bà Derr nói.
Tòa Đại sứ Trung cộng tại Manila chưa trả lời yêu cầu bình luận của báo chí về báo cáo của Simularity.
Theo Reuters, Phi Luật Tân gần đây đã trở nên mạnh miệng hơn sau khi hàng trăm tàu cá mà nước này cho là của lực lượng dân quân hàng hải Trung cộng xuất hiện ở khu vực gần Đá Ba Đầu, thuộc quần đảo Trường Sa, nơi Phi Luật Tân và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền.
VOA (13.07.2021)
Biển Đông: Mỹ tái khẳng định yêu sách của Bắc Kinh là phi pháp
Ảnh minh họa : Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan và các chiến hạm hộ tống thuộc Hạm đội 7, hoạt động trong vùng Biển Đông ngày 06/10/2019 (ảnh do Hải quân Mỹ cung cấp cho AFP) Hải quân Mỹ/ AFP
Hôm nay 12/07/2021 là dịp kỷ niệm 5 năm ngày Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ra phán quyết về đơn Manila kiện Bắc Kinh, bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung cộng trên gần trọn Biển Đông. Nhân dịp này, Hoa Kỳ đã có hai động thái biểu tượng : tái bác bỏ đòi hỏi phi pháp của Bắc Kinh và đưa tàu áp sáp quần đảo Hoàng Sa, do Trung cộng kiểm soát.
Theo hãng tin Anh Reuters, trong một tuyên bố bằng văn bản đề ngày 11/07/2021, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken một mặt tái khẳng định chính sách Biển Đông đã được chính quyền tiền nhiệm của tổng thống Donald Trump thúc đẩy, nhấn mạnh tính phi pháp của các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh. Tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ ghi rõ: “Mỹ tái khẳng định chính sách ngày 13/07/2020 liên quan đến các tuyên bố chủ quyền trên biển ở Biển Đông”. Theo Reuters, ông Blinken cũng bác bỏ đòi hỏi của Trung cộng đối với các nguồn tài nguyên trên gần như toàn bộ Biển Đông.
Về Phi Luật Tân, ông Blinken xác nhận trở lại cam kết bảo vệ Manila : Hoa Kỳ “tái khẳng định rằng một cuộc tấn công vào lực lượng võ trang, tàu công vụ hay phi cơ tại vùng Biển Đông, sẽ nằm trong diện áp dụng cam kết bảo vệ lẫn nhau ghi trong Điều 4 bản Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương năm 1951 ký kết giữa Mỹ và Phi Luật Tân“. Nói cách khác, Mỹ sẽ bảo vệ Phi Luật Tân nếu bị Trung cộng tấn công.
Chiến hạm Mỹ áp sát Hoàng Sa
Như để cho thấy rõ lời nói đi đôi với hành động, gần như cùng lúc với tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ, Hải Quân Mỹ ngày 12/07/2021 cho biết là khu trục hạm USS Benfold (DDG-65) đã tiến vào vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa tại Biển Đông để “khẳng định tự do hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế”.
Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa mà Trung cộng kiểm soát sau khi chiếm trọn từ tay Việt Nam vào năm 1974, vẫn đang bị cả Việt Nam và Đài Loan tranh chấp.
Trong một thông cáo được Reuters trích dẫn, Hải Quân Mỹ xác định rõ : “bằng chiến dịch được mệnh danh là tự do hàng hải ở vùng Hoàng Sa, Hoa Kỳ muốn chứng minh rằng những vùng biển đó nằm ngoài những gì Trung cộng có thể tuyên bố là lãnh hải hợp pháp của họ và các đường cơ sở thẳng mà Trung cộng vẽ ra để đòi hỏi chủ quyền xung quanh quần đảo Hoàng Sa đều không phù hợp với luật pháp quốc tế”.
Như thông lệ, Quân Đội Trung cộng đã lên tiếng khẳng định rằng họ đã phát hiện được tàu chiến Mỹ “xâm phạm trái phép” vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa, và đã triển khai lực lượng hải quân và không quân để theo dõi và xua đuổi chiến hạm Mỹ.
Hôm nay là lần thứ ba từ đầu năm đến nay Hoa Kỳ cho chiến hạm tiến vào vùng biển Hoàng Sa để thách thức các đòi hỏi chủ quyền phi pháp của Trung cộng. Ngày 20/05 vừa qua, chiến hạm Mỹ USS Curtis Wilbur cũng đã tiến vào vùng biển gần Hoàng Sa trong một hoạt động khẳng định quyền tự do hàng hải. Chiếc Curtis Wilbur đã tiếp nối hành động trước đó của chiếc USS John McCain ngày 05/02.
RFI (12.07.2021)
Hoa Kỳ tái cảnh báo Trung cộng việc tấn công vào các lực lượng Phi Luật Tân
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken hôm 1/7/2021.
Hôm 11/7, Hoa Kỳ lặp lại cảnh báo với Trung cộng rằng một cuộc tấn công nhắm vào các lực lượng vũ trang của Phi Luật Tân ở Biển Đông sẽ kích hoạt hiệp ước phòng thủ chung giữa Mỹ và Phi Luật Tân năm 1951, theo Reuters.
Ngoại trưởng Antony Blinken đưa ra bình luận như trên trong một tuyên bố kỷ niệm 5 năm ngày ra phán quyết của một tòa trọng tài quốc tế bác bỏ các yêu sách lãnh hải của Trung cộng ở Biển Đông.
“Hoa Kỳ tái khẳng định chính sách ngày 13/7/2020 liên quan đến các tuyên bố chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông”, ông Blinken nói. Chính sách ngày 13/7/2020 của Ngoại trưởng Mike Pompeo dưới chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump bác bỏ các tuyên bố chủ quyền của Trung cộng đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi ở hầu hết Biển Đông.
Ông Blinken nói thêm: “Chúng tôi cũng tái khẳng định rằng một cuộc tấn công vũ trang nhắm vào các lực lượng vũ trang, tàu công vụ hoặc máy bay của Phi Luật Tân ở Biển Đông sẽ dẫn đến việc kích hoạt cam kết tương trợ quốc phòng theo Điều IV trong Hiệp ước Phòng thủ chung của Hoa Kỳ – Phi Luật Tân năm 1951,”
Điều khoản này của hiệp ước nói lên một phần rằng “mỗi bên thừa nhận rằng một cuộc tấn công vũ trang ở khu vực Thái Bình Dương đối với một trong hai bên sẽ nguy hiểm cho hòa bình và an toàn của chính mình và tuyên bố rằng mỗi bên sẽ hành động để đối phó với những nguy hiểm chung phù hợp với các quy trình lập hiến.”
Trước đây, Ngoại trưởng Blinken cũng đã đề cập đến cam kết tương trợ quốc phòng này, bao gồm trong cuộc thảo luận ngày 8/4 với ngoại trưởng Phi Luật Tân, trong đó Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết ông “tái khẳng định khả năng áp dụng” của Hiệp ước 1951 đối với Biển Đông.
VOA (12.07.2021)
Chuyên gia Đức hiến kế buộc Bắc Kinh tuân thủ phán quyết từ PCA về Biển Đông
Chuyên gia Đức gợi ý chiến lược buộc Trung cộng tuân thủ phán quyết từ PCA về Biển Đông. Năm nay kỷ niệm 5 năm phán quyết từ Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (ở đây gọi tắt là tòa PCA), một chuyên gia Đức về Biển Đông đã nêu bật vai trò của phán quyết này và gợi ý chiến lược buộc Trung cộng phải tuân thủ phán quyết đó.
LTS: Tiến sĩ Rodion Ebbighausen – phụ trách khu vực châu Á của Đài truyền hình Làn sóng Đức (Deutsche Welle), là một chuyên gia về Biển Đông. Vừa qua ông tham gia cuộc hội thảo trực tuyến do Đại học Hamburg (Đức) tổ chức với chủ đề về Phán quyết lịch sử ngày 12/7/2016 của Tòa trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (sau đây gọi tắt là tòa PCA). Nhân dịp này, Tiến sĩ Rodion Ebbighausen đã chia sẻ một số nhận định về vấn đề này.
Tiến sĩ Đức Rodion Ebbighausen. Ảnh: Philipp Böll/DW.
Diễn biến Biển Đông sẽ vẫn phức tạp với sự cứng rắn của Trung cộng
Tình hình ở Biển Đông sẽ vẫn phức tạp và căng thẳng trong tương lai có thể thấy được.
Một trong các lý do chính dẫn đến sự căng thẳng gia tăng này là khác biệt tư duy chính trị giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và phương Tây, đặc biệt là Mỹ.
Trong diễn văn kỷ niệm 100 năm Đảng Cộng sản Trung cộng, Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định rõ rằng “Trung cộng sẽ không để cho ai bắt nạt mình”.
Trong khi ấy, tại một hội nghị thượng đỉnh gần đây của NATO, Tổng thư ký của khối quân sự này Jens Stoltenberg tuyên bố “Trung cộng không chia sẻ các giá trị của chúng ta”.
Hồi tháng 3/2019, Liên minh châu Âu (EU) lần đầu tiên gọi Trung cộng là một “đối thủ có hệ thống”.
Điều này đang ảnh hưởng đến ASEAN và căng thẳng ở Biển Đông. Do vậy, quy mô giải pháp mang tính thực tế cho tình trạng đối đầu ở đây có thiên hướng thu nhỏ hơn là mở rộng. Trung cộng có xu hướng phô diễn sức mạnh và ít sẵn lòng thỏa hiệp trong vấn đề Biển Đông.
Đối sách cho các nước như Việt Nam trong bối cảnh Trung cộng phớt lờ phán quyết từ PCA
Phán quyết này là một tín hiệu quan trọng. Nhưng luật quốc tế chỉ mạnh khi các quốc gia có chủ quyền sẵn lòng tuân thủ nó. Đáng tiếc là phán quyết của Tòa trọng tài đã bị Trung cộng phớt lờ.
Các đại cường quốc như Trung cộng chỉ tôn trọng luật pháp quốc tế khi điều này phục vụ lợi ích của họ. Các quốc gia hạng trung như Đức và Việt Nam hay các nước nhỏ hơn không có gì ngoài luật pháp quốc tế để bảo vệ bản thân họ trước các hành động võ đoán của các nước lớn hơn.
Do rất khó ép các nước lớn tuân thủ luật pháp quốc tế, nên chiến lược khả dĩ cho các nước còn lại là nâng cao cái giá phải trả nếu vi phạm luật quốc tế.
Để làm được điều này trong vấn đề Biển Đông, cần phải nhấn mạnh tính hiệu lực của phán quyết trọng tài mỗi khi có cơ hội. Trong luật quốc tế thì “nước chảy đá mòn”.
Đồng thời các nước hạng nhỏ và vừa cần hợp tác với nhau hơn nữa. Về mặt này, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là giải pháp đúng đắn dành cho Đông Nam Á, tượng tự như mô hình Liên minh châu Âu (EU) dành cho châu Âu.
Đây là cách tin cậy để bảo vệ luật pháp quốc tế trước tình trạng phớt lờ từ phía các nước lớn.
Luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) sẽ được tôn trọng nếu ngày càng có nhiều quốc gia tình nguyện tuân thủ. Đến một thời điểm nào đó, sức mạnh ràng buộc của luật pháp quốc tế sẽ khiến Trung cộng không thể phớt lờ được nữa.
Vai trò của Đức nói riêng và EU nói chung đối với giải quyết tranh chấp trên Biển Đông
Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của châu Âu cho tới nay mới chỉ có phiên bản thứ nhất. Một bản toàn diện hơn sẽ có vào tháng 9/2021.
Các nước thành viên EU, bao gồm Đức, Pháp, và Hà Lan, cũng đều có chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương riêng.
Tất cả các cách tiếp cận đều nhấn mạnh rằng luật pháp quốc tế và UNCLOS là khuôn khổ duy nhất để giải quyết các xung đột ở Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Đức Kramp-Karrenbauer mới đây nhắc người đồng cấp Trung cộng Ngụy Phượng Hòa về tầm quan trọng của phán quyết tòa trọng tài năm 2016.
EU và các nước nêu trên xem mình chủ yếu là đối tác đối thoại và hợp tác với tất cả các bên. Điều này bao gồm cả Trung cộng.
EU hình thành một quan điểm vượt ra bên ngoài sức mạnh lớn của cả Mỹ và Trung cộng. ASEAN được xem là đối tác tự nhiên ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cho quan điểm thứ 3 này. EU đang tìm kiếm các đối tác dựa vào hợp tác đa phương và luật pháp quốc tế
VietBF (12.07.2021)
Việt Nam lên tiếng dịp 5 năm toà quốc tế phán quyết về vụ kiện Biển Đông
Người dân Việt Nam phản đối Trung cộng với các khẩu hiệu chống “đường lưỡi bò chín đoạn” tại Hà Nội ngày 19/6/2014, sau khi Bắc Kinh đưa dàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Toà trọng tài quốc tế ngày 12/7/2016 ra phán quyết bác bỏ đường ‘9 đoạn’ của Trung cộng.
Việt Nam hôm 12/7 khẳng định ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền bằng ngoại giao và pháp lý cũng như kêu gọi tôn trọng luật quốc tế, nhân dịp đánh dấu 5 năm ngày toà trọng tài quốc tế ra phán quyết bác các yêu sách chủ quyền trên hầu hết Biển Đông của Trung cộng trong vụ kiện với Phi Luật Tân.
Toà trọng tài thường trực quốc tế, được thành lập theo Công ước Luật biển 1982 có trụ sở ở La Haye của Hà Lan, vào ngày 12/7/2016 ra phán quyết bác bỏ các tuyên bố chủ quyền rộng lớn trên Biển Đông của Trung cộng khi cho rằng chúng không có cơ sở. Trong phán quyết của vụ kiện do Phi Luật Tân đệ trình, toà tuyên bố rằng Trung cộng không có yêu sách hợp pháp đối với khu vực được Toà trọng tài xác định là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia Đông Nam Á. Trung cộng và Phi Luật Tân, theo nghĩa vụ của họ đối với Công ước về Luật biển, phải tuân thủ quyết định này.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng, khi trả lời yêu cầu bình luận của phóng viên nhân dịp 5 năm phán quyến của Toà trọng tài trong vụ kiện Biển Đông hôm 12/7, nói rằng lập trường nhất quán của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp liên quan ở Biển Đông là thông qua giải pháp hoà bình và theo luật quốc tế, theo truyền thông trong nước.
Bà Hằng được Tuổi Trẻ trích lời nói rằng Việt Nam luôn ủng hộ việc giải quyết các tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở Biển Đông thông qua các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, một lập trường nhất quán mà Hà Nội luôn đưa ra trước các tranh chấp trên biển.
Việt Nam là một trong những quốc gia trong khu vực Đông Nam Á có nhiều tranh chấp nhất với Trung cộng về chủ quyền biển đảo. Trong 5 năm qua, Việt Nam nhiều lần phản đối tàu của Trung cộng xâm phạm chủ quyền của mình, từ việc Bắc Kinh đưa tàu thăm dò vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cho tới việc tàu hải cảnh Trung cộng đâm chìm tàu cá Việt Nam. Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hợp quốc vào tháng 3 năm ngoái đã gửi công hàm lên tổ chức liên chính phủ này để phản bác các lập luận của Trung cộng về vấn đề Biển Đông.
Trung cộng không tham gia vụ kiện của Phi Luật Tân năm 2016 và luôn phủ nhận phán quyến không có cơ chế thi hành của Toà trọng tài ở La Haye. Kể từ đó đến nay, Bắc Kinh bị Mỹ và cộng đồng quốc tế cáo buộc là ngày càng có các hoạt động quân sự hoá các đảo cũng như mở rộng thêm các tuyên bố chủ quyền của mình trên vùng biển giàu tài nguyên nhưng đầy tranh chấp.
Nhân kỷ niệm 5 năm sau phán quyến của Toà trọng tài, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Antony Blinken hôm 11/7 đưa ra một tuyên bố trong đó nói rằng “không ở đâu trật tự hàng hải dựa trên luật lệ lại bị đe doạ nhiều hơn là ở Biển Đông.” Nhà ngoại giao hàng đầu của Mỹ cáo buộc Trung cộng “tiếp tục cưỡng bức và đe doạ các quốc gia ven biển của Đông Nam Á, đe doạ quyền tự do hàng hải trên tuyến hải lộ quan trọng toàn cầu này.”
Trong tuyên bố, Bộ trưởng Blinken nói rằng Mỹ tái khẳng định chính sách mà Washington đưa ra ngày 13/7/2020 liên quan đến các tuyên bố hàng hải trên Biển Đông và kêu gọi Trung cộng “tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, ngừng các hành vi khiêu khích và phải cam kết tuân thủ trật tự hàng hải dựa trên luật lệ, tông trọng quyền của tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ.”
Việt Nam, với tư cách là quốc gia thành viên Công ước và quốc gia ven Biển Đông, nhân dịp này cũng lên tiếng “đề nghị tất cả các bên liên quan tôn trọng và thực thi đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình được quy định trong Công ước UNCLOS 1982, cùng nhau hợp tác, đóng góp tích cực, thiết thực vào việc duy tình hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không và trật tự ở Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế,” theo bà Hằng được VietNamNet trích lời cho biết.
VOA (12.07.2021)
Mỹ tiếp tục ủng hộ phán quyết Biển Đông của Tòa Trọng tài năm 2016
Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken ngày 11/07 nhấn mạnh Mỹ tiếp tục ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế trong vụ kiện Phi Luật Tân-Trung cộng liên quan đến vấn đề Biển Đông năm 2016.
Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12/07/2016 đã ra phán quyết về vụ kiện Phi Luật Tân-Trung cộng liên quan đến vấn đề Biển Đông.
Nhân dịp kỷ niệm 5 năm sự kiện này, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nhấn mạnh tự do hàng hải là lợi ích lâu dài của tất cả các nước và là vấn đề sống còn đối với hòa bình và thịnh vượng toàn cầu. Theo Ngoại trưởng Blinken, cộng đồng quốc tế đã từ lâu được hưởng lợi từ trật tự hàng hải dựa trên luật lệ nơi luật pháp quốc tế, được phản ánh trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, thiết lập khung pháp lý cho mọi hoạt động trên biển và đại dương. Công ước này là cơ sở cho các hành động và hợp tác quốc gia, khu vực và toàn cầu trong lĩnh vực hàng hải và quan trọng đối phó với việc đảm bảo dòng chảy tự do của thương mại toàn cầu.
Ngoại trưởng Blinken nhấn mạnh trật tự hàng hải dựa trên luật lệ đang gặp thách thức lớn ở Biển Đông hơn bất kỳ khu vực nào khác. Trung cộng tiếp tục cưỡng ép và đe dọa các nước giáp biển ở Đông Nam Á, đe dọa tự do hàng hải ở tuyến đường toàn cầu quan trọng này.
Theo Ngoại trưởng Blinken, 5 năm trước, Tòa Trọng tài quốc tế, theo UNCLOS 1982, đã ra quyết định thống nhất bác bỏ các yêu sách bành trướng hàng hải của Trung cộng ở Biển Đông do không có cơ sở trong luật pháp quốc tế. Tòa Trọng tài cho rằng, Trung cộng không có yêu sách hợp pháp trong khu vực được xác định là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Phi Luật Tân. Theo Ngoại trưởng Mỹ, Trung cộng và Phi Luật Tân, trên cơ sở nghĩa vụ theo UNCLOS, bị ràng buộc về mặt pháp lý để tuân theo quyết định này.
Mỹ ngày 13/07/2020 đã tái khẳng định chính sách của mình liên qua tới các yêu sách hàng hải của Trung cộng ở Biển Đông. Mỹ cũng tái khẳng định rằng bất kỳ một cuộc tấn công có vũ trang nào đối với các lực lượng vũ trang, tàu bè công cộng, hoặc máy bay của Phi Luật Tân ở Biển Đông sẽ kích hoạt cam kết phòng vệ tương hỗ theo Điều IV của Hiệp ước phòng thủ chung năm 1951 giữa Mỹ và Philipin.
Mỹ kêu gọi Trung cộng tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế, ngừng hành vi gây hấn và có các bước để trấn an cộng đồng quốc tế rằng nước này cam kết đối với trật tự hàng hải dựa trên luật lệ vốn tôn trọng quyền của tất cả các nước dù lớn hay nhỏ.
VietBF (12.07.2021)
5 năm phán quyết Biển Đông: Trung cộng đã phải giật mình
LTS: Hôm nay (12/7/2021) là kỷ niệm tròn 5 năm ngày Tòa trọng tài quốc tế ra phán quyết lịch sử về Biển Đông. Nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu tới quý độc giả ý kiến của các chuyên gia Việt Nam về ý nghĩa của phán quyết này cũng như giá trị thực tế của nó trong 5 năm qua.
Năm 2012, Phi Luật Tân và Trung cộng xảy ra tranh chấp liên quan đến bãi cạn Scarborough, nguyên nhân dẫn đến việc Manila quyết định đưa Bắc Kinh ra Tòa trọng tài được thành lập theo Công ước Luật Biển 1982. Sử dụng sự vượt trội về tiềm năng quân sự, Trung cộng đã đẩy các tàu Phi Luật Tân ra khỏi vùng biển quanh bãi cạn Scarborough và kiểm soát khu vực, nơi Phi Luật Tân đã tuyên bố chủ quyền từ năm 1946 và cũng là ngư trường truyền thống của ngư dân nước này.
Trung cộng ỷ thế mạnh, Phi Luật Tân không còn lựa chọn.
Cuộc đối đầu kéo dài 10 tuần giữa Trung cộng và Phi Luật Tân
Ngày 8/4/2012, máy bay tuần tra của hải quân Phi Luật Tân phát hiện 8 tàu cá Trung cộng gần bãi cạn Scarborough, có hành vi chở bất hợp pháp sò tai tượng, san hô và cá mập, những sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng, vi phạm luật của Phi Luật Tân.
Manila cử tàu khu trục nhỏ BRP Gregorio del Pilar tiếp cận và bắt các ngư dân Trung cộng. Viện cớ này, Trung cộng tuyên bố rằng Phi Luật Tân đã sử dụng một tàu quân sự cho các hoạt động thực thi pháp luật.
Yêu cầu Phi Luật Tân lập tức rút lui, Trung cộng dàn đội hình tàu lấn át số lượng tàu của Phi Luật Tân đang tới để giải cứu chiến hạm BRP Gregorio del Pilar. Sau đó, tàu hải giám Trung cộng, được cho là đã phối hợp với các ngư dân, thực hiện động thái gây bất ngờ là dựng một hàng rào dây thừng quanh bãi cạn Scarborough, khiến các ngư dân Phi Luật Tân bị nhốt bên trong. Ở phía xa, các tàu của hải quân Trung cộng vẫn hiện diện, gửi thông điệp tới Manila: Đừng gây rắc rối.
Căng thẳng ngày càng gia tăng, khi Trung cộng cũng sử dụng các đòn trừng phạt kinh tế nhắm vào Phi Luật Tân. Các kênh ngoại giao truyền thống không thực sự đem lại hiệu quả. Chính phủ Phi Luật Tân và Trung cộng tìm tới Mỹ như một “trọng tài”.
Sau nhiều tuần nhóm họp, thảo luận và đàm phán, với vai trò trung gian, các quan chức Mỹ giữa tháng 6/2012 đã giúp xây dựng một thỏa thuận mà theo đó hai bên sẽ cùng rút lui khỏi khu vực tranh chấp.
Ngày 15/6/2012, 10 tuần đối đầu, kiệt sức, bị lấn át về số lượng và thiếu các giải pháp thay thế khả thi, Manila rút các tàu còn lại của mình với lý do tránh bão. Song Trung cộng lại không tuân thủ hạn chót mà thỏa thuận đề ra, vẫn duy trì các tàu hải giám tại khu vực và dần dần giành quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Nhắc lại thời điểm xung quanh sự kiện đó, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho rằng, đó không phải là hành vi đơn lẻ của Trung cộng. Thời điểm cuối tháng 5 – đầu tháng 6/2011, Trung cộng 2 lần xâm nhập trái phép vùng biển Việt Nam, cắt cáp 2 tàu thăm dò của Việt Nam là Bình Minh và Viking. Chúng ta đã ngay lập tức phản đối và ngay tại hội nghị SOM ASEAN và SOM ARF khi đó đang họp tại Indonesia, Việt Nam cũng tiếp tục lên tiếng phản đối hành động này.
Kể từ năm 2011, từ sự kiện của tàu Viking và Bình Minh đến giờ, Trung cộng tiếp tục có một loạt hành vi sai trái Quốc như câu chuyện hạ đặt giàn khoan trái phép ở vùng biển Việt Nam năm 2014, hay cản trở một loạt hoạt động kinh tế đầu năm 2020 với cả Việt Nam, Phillippines và Malaysia ở vùng thềm lục địa của các nước. Trung cộng dùng yêu sách Đường lưỡi bò phi lý và cái gọi là quyền lịch sử để biến tất cả vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia ven biển thành vùng tranh chấp; và dựa vào đó để tiến hành những hành vi cắt cáp, ngăn cản hoạt động kinh tế hợp pháp trong vùng EEZ và thềm lục địa của các quốc gia ven biển mà Công ước Luật Biển (UNCLOS) đã quy định.
Các sự kiện như vậy dẫn đến câu chuyện là áp dụng UNCLOS thế nào trước thực trạng có những hành động có thể đẫn dến xung đột, xâm phạm quyền hợp pháp và phải xử lý thế nào với đòi hỏi vượt quá căn cứ pháp lý của Trung cộng, ông Vinh nói.
Có một thực tế là, Trung cộng ỷ thế mạnh, và dù không ai công nhận Đường lưỡi bò của Trung cộng nhưng cho đến trước phán quyết của Tòa thì về mặt pháp lý chưa đủ căn cứ để phản bác.
Năm 2013, quyết định khởi kiện của Phi Luật Tân là bắt buộc phải làm và là quyết định rất dũng cảm. Quyết định này chỉ được đưa ra sau khi sự đã rồi, Phi Luật Tân không còn bài toán nào, kể cả sau sự dàn xếp thất bại giữa Phi Luật Tân và Trung cộng do Mỹ làm trung gian, ông Vinh cho hay.
Chiến thắng của pháp lý
Thạc sỹ Hoàng Việt, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh cho biết, trong 15 đệ trình yêu cầu Tòa phán quyết thì tòa đã đáp ứng được cho Philippine 14 điều rưỡi, như vậy Phi Luật Tân đã thắng gần như tuyệt đối trong trường hợp này.
Mặc dù có ý kiến cho rằng luật pháp quốc tế nói chung có điểm yếu, đó là Phán quyết sẽ không có cơ quan nào cưỡng chế thực hiện, không phải chỉ phán quyết này mà tất cả các phán quyết, kể cả tòa ICJ là cơ quan tư pháp của LHQ, các phán quyết đều có tính chất là yêu cầu các bên thiện chí chấp hành, nhưng theo ông Hoàng Việt, phán quyết này có ảnh hưởng rất lâu dài.
Cụ thể, có 3 vấn đề lớn trong phán quyết này sẽ trở thành tiền lệ. Thứ nhất là, bác bỏ cái gọi là yêu sách về quyền lịch sử của Trung cộng đối với vùng nước bên trong Đường lưỡi bò.
Hai là, Tòa đưa ra giải thích rằng, những quy định trong UNCLOS đối với các quốc gia thành viên sẽ ưu tiên hơn so với những cái gọi là lịch sử.
Ba là, Tòa giải quyết được vấn đề quy chế của các cấu trúc ở Trường Sa. Toà kết luận rằng các cấu trúc mà Trung cộng yêu sách không phải là đảo và vì thế không tạo thành vùng EEZ và thềm lục địa. Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.
Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Phó Tổng thư ký Hội Luật Quốc tế Việt Nam, lần đầu tiên, một cơ chế tài phán quốc tế chính thức đưa ra ý kiến phản bác yêu sách “Đường chín đoạn” của Trung cộng ở Biển Đông, giải thích các quy định về quy chế pháp lý của đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm và bãi ngầm trong Công ước Luật biển 1982 và áp dụng đối với các thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa.
Cũng theo chuyên gia này, Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài trong vụ kiện giữa Phi Luật Tân và Trung cộng còn trực tiếp xem xét và kết luận về tính chất phi pháp của một số hành động mà lực lượng chấp pháp Trung cộng tiến hành dựa trên những yêu sách vùng biển của Trung cộng tại Biển Đông. Đây đều là những tiền lệ pháp lý quốc tế có giá trị tham khảo đối với các quốc gia thành viên Công ước Luật biển 1982, đặc biệt là các quốc gia ven Biển Đông.
Đồng tình với ý kiến này, ông Việt cho rằng, nội dung bác bỏ Đường lưỡi bò, với những quốc gia ven Biển Đông khác như Việt Nam, Indonesia, Malaysia đều có lợi vì những quốc gia này nói cho cùng đều bị Trung cộng dùng Đường lưỡi bò xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế.
Ông Phạm Quang Vinh cho rằng, phán quyết của tòa là chiến thắng của pháp lý, của UNCLOS chứ không phải của Phi Luật Tân hay của Trung cộng. Biển Đông là khu vực địa chính trị và có tranh chấp rất phức tạp, phán quyết của tòa trọng tài tạo ra căn cứ rõ ràng hơn rất nhiều về cách nhìn các tranh chấp này và quản trị các tranh chấp này.
“Phán quyết như căn cứ cho các nước dùng lẽ phải và để chứng tỏ sức mạnh không phải là tất cả”, ông Vinh nói.
Làm thế nào để sức mạnh của phán quyết được củng cố?
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt, mặc dù Trung cộng vẫn không chấp nhận, nhưng phán quyết này có tác động không nhỏ, nên sau phán quyết Trung cộng mới tìm cách nối lại quan hệ với Phi Luật Tân.
Trung cộng là một nước lớn, không phải lúc nào họ cũng dễ gì mà đáp ứng những yêu cầu của Phi Luật Tân. Sau phán quyết họ mất mặt và cảm thấy cần xuống thang với Phi Luật Tân và ông Duterte đã cung cấp cho họ 1 cái thang để họ đi xuống, ông Việt bình luận.
“Phán quyết này đã tạo thành một tiền lệ. Nếu không có phán quyết này thì không dễ gì ông Duterte có thể nói chuyện với ông Tập Cận Bình, và nếu không có phán quyết thì Phi Luật Tân phải nói chuyện với Trung cộng bằng một thế khác”, ông Việt nói.
Về giá trị của phán quyết, Đại sứ Phạm Quang Vinh cho rằng, dù cho các bên phản bác hay không phản bác thì phán quyết vẫn tồn tại một cách khách quan như một bộ phận của luật pháp quốc tế.
Ngoài ra, các chuyên gia đều cho rằng, cuộc chiến công hàm có sự tham gia của các nước trong và ngoài khu vực trong thời gian vừa qua là một bước tiến và sự khẳng định sức mạnh của phán quyết.
Phán quyết của tòa trọng tài đóng vai trò quan trọng trong luật biển quốc tế, không dễ dàng xóa bỏ được, dù Trung cộng không chấp nhận thẩm quyền của tòa trọng tài, không tham gia, không thừa nhận cũng như không tuân thủ. Bằng chứng là trong khoảng thời gian từ cuối năm 2019, đến năm 2020, cũng như trong đầu năm 2021, các quốc gia đã đưa ra một loạt công hàm, trong đó hầu hết đều viện dẫn trực tiếp UNCLOS và phán quyết của tòa trọng tài năm 2016 và nhấn mạnh Trung cộng phải tuân thủ, ông Việt dẫn chứng.
Nhìn lại 5 năm qua kể từ sau khi có phán quyết, Đại sứ Phạm Quang Vinh cho rằng, dù Trung cộng ngày càng tiến hành nhiều hành sai trái liên quan đến Đường lưỡi bò, xâm phạm EEZ và thềm lục địa của các nước khác, thì cũng ngày càng nhiều hơn các nước ủng hộ UNCLOS một cách rất mạnh mẽ.
Rõ ràng, điều này tạo ra xu thế dù Trung cộng có muốn hay không. Và dường như, Trung cộng cũng dần ít nhắc đến cái gọi là Đường lưỡi bò, mà thay vào đó là “yêu sách Tứ Sa”. Như vậy là trước áp lực của dư luận quốc tế, Trung cộng cũng đã phải giật mình, ông Vinh nói thêm.
Bà Nguyễn Thị Thanh Hà thì cho rằng, hiệu lực pháp lý của Phán quyết sẽ ngày càng được củng cố khi các quốc gia không phải là một Bên của vụ kiện, nhất là những quốc gia ven Biển Đông, những quốc gia tham gia sử dụng vùng biển và khai thác tài nguyên ở Biển Đông viện dẫn Phán quyết này khi giải quyết các tranh chấp liên quan tới họ ở Biển Đông hay ở các vùng biển khác.
Thực tế cho thấy đã có nhiều nước tuyên bố khẳng định giá trị pháp lý ràng buộc của Phán quyết đối với Phi Luật Tân và Trung cộng. Không những thế, ngay trong năm 2020, một số nước đã gửi công hàm chính thức tới Tổng thư ký Liên Quốc, viện dẫn kết luận của Tòa Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông giữa Phi Luật Tân và Trung cộng để phản bác cái gọi là “Yêu sách Tứ Sa” hay “yêu sách lịch sử” của Trung cộng ở Biển Đông, bà Hà dẫn chứng.
Bằng những hình thức khác nhau, các quốc gia đã đi được một bước trong 5 năm qua, qua một loạt các công hàm và tuyên bố, nhưng còn phải làm nhiều hơn. Sẽ đến lúc phải sử dụng phán quyết này như một phần căn cứ để đảm bảo trật tự pháp lý trên biển ở khu vực Biển Đông, Đại sứ Phạm Quang Vinh nói.
Phi Luật Tân đã giành chiến thắng pháp lý lật tẩy yêu sách sai trái của Trung cộng
Tâm trạng của người Phi Luật Tân vào thời điểm quyết định đưa vụ kiện ra tòa trọng tài khá hỗn độn. Đó vừa là cảm giác không còn lựa chọn nào khác sau khi Trung cộng từ chối rút tàu khỏi bãi cạn Scarborough, nhưng đó cũng là sự e ngại về những phản ứng sau đó của Trung cộng.
Nhiều người nghĩ rằng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, đứng về phía Phi Luật Tân và lòng dũng cảm của đất nước này cuối cùng sẽ được đền đáp. Nhưng nhiều người cũng bày tỏ lo ngại về sức mạnh và ảnh hưởng của Trung cộng và điều này có thể tác động đến kết quả của vụ việc như thế nào.
Khi phán quyết mang tính bước ngoặt của tòa án được tuyên, trong lòng người dân Pilippines có một cảm giác nhẹ nhõm, tự hào và lạc quan tuyệt vời. Người dân kỳ vọng rằng Trung cộng sẽ tuân thủ phán quyết và Phi Luật Tân có thể tập hợp sự ủng hộ của khu vực và quốc tế để khuyến khích, nếu không thế ép buộc, Trung cộng tuân thủ.
Tuy nhiên, niềm hân hoan về phán quyết lịch sử của tòa trọng tài cũng đi kèm với sự cảnh giác về những đòn trả đũa kinh tế của Trung cộng. Phi Luật Tân đã chuẩn bị cho các đòn trả đũa kinh tế của Trung cộng hoặc các hành động có thể gây tổn hại đến lợi ích của họ. Những người trồng và xuất khẩu nông sản đã gặp phải những hạn chế tiếp cận thị trường vào Trung cộng kể từ năm 2012 và lượng khách du lịch Trung cộng đã giảm dần. Các ngành công nghiệp khác cũng lo sợ về một viễn cảnh tương tự.
Cố Tổng thống Benigno Simeon Aquino III đã đưa ra quyết định khó khăn là kiện Trung cộng ra tòa. Mặc dù có thể đã có cuộc tranh luận nội bộ trong nội các của ông về thế nào là cách ứng phó tốt nhất với bế tắc ở bãi cạn Scarborough, nhưng chính ông Aquino đã đưa ra quyết định cuối cùng để lựa chọn con đường pháp lý, và nhờ vậy, Phi Luật Tân đã giành được một chiến thắng pháp lý to lớn giúp lật tẩy những yêu sách sai trái của Trung cộng ở Biển Đông.
Dù thế nào, cố Tổng thống Aquino sẽ được nhớ đến là người đã dũng cảm thách thức yêu sách tham lam và sai trái của Trung cộng ở trên biển.
Lucio Blanco Pitlo III, Hiệp hội Nghiên cứu Trung cộng của Phi Luật Tân.
Đất Việt (12.07.2021)