Seite auswählen

40 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 4 vấn đề giáo hội không muốn nhắc đến

 

Những phần lịch sử bị lãng quên của Phật giáo Việt Nam.

 

 

Đoàn Phật giáo diễu hành trong lễ kỷ niệm 30/4 và 1/5 năm 1985 tại TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Tim Page/ CORBIS.

Sau ngày 30/4/1975, tương lai mà các nhà sư miền Nam mong đợi đã không đến. Sự tự do ở miền Nam trở thành một trong những vấn đề của Bắc Việt. Các tổ chức, hiệp hội, phong trào, giáo hội, v.v. đều là mối đe dọa đối với miền Bắc vì mối nghi ngờ họ có thể dính líu với CIA – Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ.

Trong số những người bị nghi ngờ đó có cả các nhà sư của khối Ấn Quang, những người đã góp phần lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm vào năm 1963 rồi tái lập một giáo hội có thanh thế lớn ở miền Nam – Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.

Năm 1977, ba nhà sư của khối Ấn Quang bị đưa đi thẩm tra, nhưng chỉ có hai người bước ra khỏi nhà giam. Đó là Thượng tọa Thích Quảng Độ và Thượng tọa Thích Huyền Quang. Người còn lại, Thượng tọa Thích Thiện Minh, đã chết trong trại giam vào tháng 10/1978. [1]

Theo Hòa thượng Thích Đôn Hậu, trước khi thành viên của Viện Hóa Đạo của giáo hội đến chứng kiến, thi thể của Thượng tọa Thiện Minh đã được đưa vào quan tài chỉ để lộ mỗi gương mặt. Các nhà sư cũng không được phép mang thi thể ông về an táng. [2]

Tháng 11 tới đây, Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) kỷ niệm 40 năm thành lập. Sau đây là bốn vấn đề có thể bạn chưa biết và có lẽ giáo hội cũng không muốn nhắc đến.

1. Quan điểm thật sự của Hòa thượng Thích Đôn Hậu về việc thống nhất Phật giáo năm 1981 không được nói rõ

Nếu đọc các bài viết về kỷ niệm 40 năm thành lập GHPGVN, bạn sẽ cảm giác như tất cả các nhà sư đều đồng lòng thống nhất Phật giáo vào năm 1981. Bài viết Tiến trình vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam đăng vào tháng 5/2021 là một ví dụ. [3]

Bài viết ghi: “HT. Thích Đôn Hậu phát biểu: ‘Thực hiện đại đoàn kết là việc cần thiết đối với Phật giáo cũng như đối với dân tộc. Nguyện vọng của tôi trước sau như một là cần thực hiện thống nhất Phật giáo’.” Tiếp theo: “Toàn thể buổi họp đồng tâm suy cử Đại lão HT. Thích Đức Nhuận và HT. Thích Đôn Hậu, chứng minh buổi họp”. Kết quả là Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập vào ngày 13/2/1980.

Với thông tin như vậy, bạn sẽ nghĩ rằng Hòa thượng Đôn Hậu hết lòng ủng hộ việc thống nhất Phật giáo vào năm 1981 để lập ra GHPGVN như ngày nay. Tuy nhiên, đó chỉ là một nửa sự thật.

Theo ông Đỗ Trung Hiếu (Mười Anh), người từng là cán bộ Ban Tôn giáo TP. Hồ Chí Minh và có vai trò quan trọng trong việc thành lập GHPGVN, Hòa thượng Đôn Hậu đã rời khỏi cuộc họp đó trong buổi sáng và không tham gia nữa do bất đồng quan điểm về việc thống nhất Phật giáo. Chi tiết này được ông kể lại trong cuốn sách “Thống nhất Phật giáo Việt Nam”, do nhà xuất bản Quê Mẹ phát hành năm 1995. [4]

Theo tài liệu này, “quan điểm trước sau như một” của Hòa thượng Đôn Hậu là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ở miền Nam và Hội Phật giáo Thống nhất ở miền Bắc hợp lại thành một, hàng giáo phẩm, tăng ni, Phật tử tự quyết định mọi việc. [5]

Quan điểm này không được chính quyền và các nhà sư ủng hộ nhà nước đồng ý, do lo ngại giáo hội nếu được thống nhất theo cách này sẽ tuột khỏi sự kiểm soát của đảng.

Trong lá thư gửi Hòa thượng Thích Trí Thủ, Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN vừa nhậm chức khi ấy, Hòa thượng Đôn Hậu viết: “… khi Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam ra đời, tuy quý vị có ghi tên tôi vào Ban vận động… nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật”. [6]

Ảnh: Phật học Đời sống.

Vì sao sự hiện diện của Hòa thượng Đôn Hậu lại quan trọng đến mức giáo hội không muốn tiết lộ quan điểm bất đồng của ông và phải đưa bằng được tên ông vào Hội đồng chứng minh?

Theo hiến chương năm 1964, GHPGVNTN có hai viện: Viện Tăng thống và dưới viện này là Viện Hóa Đạo.

Từ năm 1979, Hòa thượng Thích Đôn Hậu là tăng thống của GHPGVNTN. Với chức vụ này, ông trở thành người lãnh đạo giáo hội. [7]

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tổ chức Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở miền Nam, không thể thống nhất Phật giáo sau năm 1975 mà không có sự đồng thuận của họ. Trong khi Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo đã đồng ý tham gia theo chủ trương, việc còn lại là dàn xếp sự hiện diện của Hòa thượng Thích Đôn Hậu sao cho có vẻ như hai viện của giáo hội đều tán đồng thống nhất Phật giáo vào năm 1981, dù thực tế không đúng như vậy.

Có thể thấy, GHPGVN ngày nay được thành lập không dựa trên sự tán thành của tất cả thành viên cấp cao của GHPGVNTN, đặc biệt là Hòa thượng Đôn Hậu, Tăng thống của giáo hội.

2. Quần chúng Phật tử không còn là trung tâm của giáo hội trong Hiến chương 1981

Quần chúng Phật tử là thành phần quan trọng của Phật giáo miền Nam. Nếu các nhà sư là gốc rễ của một cái cây thì Phật tử là những cành, lá của cây. Các cuộc tranh đấu trước năm 1975 của Phật giáo sẽ không thể thành công mà không có quần chúng Phật tử dũng cảm đứng bên cạnh các nhà sư.

Tổ chức quần chúng Phật tử là hoạt động được coi trọng trước năm 1975.

Hiến chương 1964 của GHPGVNTN thừa nhận tín đồ Phật tử là một thành phần của giáo hội trong một chương riêng. [8]

Theo hiến chương, Viện Hóa Đạo được tổ chức thành sáu tổng vụ, trong đó có Tổng vụ Thanh niên. Tổng vụ này bao gồm các vụ: Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, Học sinh Phật tử, Thanh niên Phật tử. Ở mỗi tỉnh có một đặc ủy thanh niên. Tổng vụ Thanh niên do Hòa thượng Thiện Minh – người chết trong trại giam được nhắc đến ở đầu bài viết này – coi sóc.

Đơn vị cơ sở của giáo hội là xã hoặc phường, với ban đại diện được quy định cụ thể.

Thượng tọa Thích Quảng Độ (góc trái) cùng các tăng ni, Phật tử xô xát với cảnh sát ở Sài Gòn để phản đối chính sách đàn áp của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Các lãnh đạo Phật giáo đã yêu cầu chính quyền tôn trọng giáo kỳ Phật giáo, đối xử công bằng, tôn trọng tự do truyền đạo và hành đạo, ngừng đàn áp Phật tử và bồi thường cho những người thiệt mạng. Ảnh: HORST FAAS/ AP.

Đến năm 1981, Hiến chương của GHPGVN không có một chương riêng về tín đồ. [9] Về tổ chức quần chúng, giáo hội chỉ còn lại một chức danh là trưởng ban Hướng dẫn Phật tử thuộc Hội đồng trị sự, không còn các chức danh phụ trách cụ thể về gia đình, sinh viên, học sinh, và thanh niên.

GHPGVN chỉ tổ chức các ban trị sự cấp tỉnh. Ở cấp huyện và xã có thể không có ban đại diện. Đáng chú ý nhất là đơn vị cơ sở của giáo hội đã thu hẹp hết mức, chuyển từ xã, phường thành các “Tự, Viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Niệm Phật đường”.

Theo ông Đỗ Trung Hiếu, việc thay đổi đơn vị cơ sở của giáo hội cho thấy giáo hội đã lấy chùa làm trung tâm, thay vì quần chúng Phật tử như trước đó. [10]

Sau 40 năm thành lập GHPGVN, số tín đồ Phật giáo theo Tổng Điều tra về Dân số và Nhà ở năm 2019 chỉ còn 4,6 triệu người, giảm hơn 30% so với năm 2009, trở thành tôn giáo có số tín đồ đông thứ hai tại Việt Nam, sau Công giáo. [11]

3. Cờ Phật giáo bị loại bỏ trong Hiến chương GHPGVN trong 26 năm

Có một điều vô cùng bất thường trong Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo năm 1981 là không một lá cờ Phật giáo nào được treo, thay vào đó là cờ đỏ sao vàng và tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội từ ngày 4 đến ngày 7/11/1981. Ảnh: Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Cờ Phật giáo được Hòa thượng Thích Tố Liên treo lần đầu tiên tại chùa Quán Sứ vào năm 1951, và rồi trong ba mươi năm sau đó, cũng tại ngôi chùa này, các nhà sư tham gia hội nghị thống nhất Phật giáo lại để lá cờ tuột khỏi hiến chương của giáo hội.

Trong 40 năm thành lập, GHPGVN có đến 26 năm (1981 – 2007) không đưa được giáo kỳ – một trong những biểu tượng thiêng liêng nhất của Phật giáo Việt Nam và Phật giáo quốc tế – vào trong hiến chương của mình. [12]

Cờ Phật giáo không đơn giản là một mảnh vải năm màu. Dưới lá cờ này, các nhà sư và Phật tử đã tranh đấu quyết liệt, đánh đổi bằng nhiều tánh mạng để bảo vệ cho quyền tự do tôn giáo, gầy dựng thanh thế của Phật giáo ở miền Nam và trên trường quốc tế.

Cũng chính vì để giữ lấy giáo kỳ mà nhiều tăng, ni đã tự thiêu để phản đối chế độ mới cấm treo cờ Phật giáo sau năm 1975, điển hình như vụ tự thiêu của 12 tăng, ni chùa Dược Sư, tỉnh Cần Thơ vào tháng 11/1975. [13]

Cờ Phật giáo được treo cùng cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 1/5/1975 tại khu Chợ Lớn, Sài Gòn. Sau đó, chính quyền đã cấm treo cờ Phật giáo. Ảnh: Herve GLOAGUEN/ Gamma-Rapho via Getty Images.

4. Phủ nhận sự tồn tại của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất

Lời nói đầu trong Hiến chương năm 1981 của GHPGVN tuyên bố “Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Phật giáo duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và ngoài nước”. [14]

Trong khi đó, Hòa thượng Đôn Hậu đã tuyên bố ông vẫn lãnh đạo GHPGVNTN. Từ đây, các nhà sư đã chia ra thành hai phe. Nhà sư hợp pháp theo GHPGVN khoác lên mình chiếc áo mới hợp thời hơn, đồng thời đẩy những nhà sư từng tranh đấu với họ trước năm 1975 trở thành các nhà sư bất hợp pháp.

Hơn ba tháng sau khi GHPGVN ra đời, Công an thành phố Hồ Chí Minh đã ra lệnh trục xuất Thượng tọa Quảng Độ và Thượng tọa Huyền Quang ra khỏi thành phố vào ngày 25/2/1982. [15] Năm tháng sau, Ấn Quang Tự, trụ sở của GHPGVNTN bị cưỡng chiếm. Trong năm ngày, toàn bộ tài liệu của giáo hội đã bị đốt bỏ. [16]

Năm 1997, GHPGVN sửa đổi hiến chương với lời nói đầu ghi: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức Giáo hội duy nhất của Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam”. [17]

Sau khi Hòa thượng Đôn Hậu qua đời vào tháng 4/1992, Hòa thượng Huyền Quang nhậm chức tăng thống, tiếp tục lãnh đạo GHPGVNTN cho đến năm 2008. Chức tăng thống sau đó được Hòa thượng Thích Quảng Độ đảm nhận cho đến năm 2020. Hiện nay, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đảm trách Xử lý Viện Tăng Thống của GHPGVNTN. [18]

Trong khi GHPGVN được phép xây dựng những ngôi chùa cao lớn, GHPGVNTN chật vật với việc duy trì các hoạt động và chịu đựng các hành động đe dọa của chính quyền.

Hòa thượng Thích Huyền Việt, người điều hành Văn phòng 2 Viện Hóa đạo của GHPGVNTN tại Texas, Mỹ (đề phòng văn phòng trong nước không hoạt động được), nói với VOA rằng dù hàng giáo phẩm của giáo hội trong nước còn ít người nhưng “từ tăng, ni cho đến Phật tử vẫn còn hàng hàng lớp lớp”. [19]


Cập nhật (30/8/2021, 14:52): Bài viết sửa lại đúng tên Hòa thượng Thích Huyền Quang. Do sơ suất, bản gốc viết nhầm thành Thích Huyền Trang. Xin cáo lỗi cùng bạn đọc.

Vụ án 12 Tăng Ni Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ tự thiêu cùng lúc năm 1975 để tố cáo cộng sản đàn áp GHPGVNTN

31.3.2008

Vụ tự thiêu tại Thiền Viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ 1975 là ngòi nỗ đầu tiên làm bùng lên cao trào Pháp Nạn cộng sản, từ đó lại lan rộng ra khắp nơi. Thiền viện Dược Sư thuộc Ấp Tân Long A, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ; nằm cách thành phố Cần Thơ khoảng 30 Km, trên quốc lộ Cần Thơ – Sóc Trăng.

Diễn biến vụ án

1975, ngày 02 tháng 11 (ngày 29 tháng 9 Ất Mão) xẩy ra vụ tự thiêu cùng lúc của 12 vị Tăng Ni ở Thiền Viện Dược Sư để phản đối cộng sản đàn áp Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống nhất. 12 vị đó là những Giáo Hội Phật Giáo Việt nam Thống nhất – Thánh Tử Đạo – Chi Giác linh:

Đại đức Thích Huệ Hiền (Phạm Văn Có), 30 tuổi, trụ trì Thiền viện Dược sư.
Sa di Thích Minh Thạnh (Trần Văn Sang), 20 tuổi
Sa di Thích Minh Hiển (Phạm Văn Anh), 17 tuổi.
Thích Nữ Diệu Phước (Nguyễn Thị Tiếp), 58 tuổi.
Thích Nữ Diệu Định (Lê Thị Thiền), 54 tuổi.
Thích Nữ Diệu Tánh (Lê Thị Tâm), 34 tuổi.
Thích Nữ Diệu Hạnh (Nguyễn Thị Đạo), 23 tuổi.
Thích Nữ Diệu Trường (Dương thị Mỹ Lệ), 23 tuổi.
Thích Nữ Diệu Thiền (Phạm Thị Nương), 22 tuổi.
Thích Nữ Diệu Tốt (Trần Thị Phương), 17 tuổi.
Thích Nữ Diệu Xuân (Lê Thị Thu), 15 tuổi.
Thích Nữ Diệu Nghiêm (Lê Thị Út), 14 tuổi.
Bản tuyên bố để lại, 12 vị Tăng Ni nêu rõ: “chúng tôi sắp sửa thể hiện việc thiêu thân để bảo toàn chánh pháp, để bảo vệ danh nghĩa của giới Tăng sĩ tại địa phương cũng như toàn quốc… Hành động của chúng tôi ngày hôm nay là cốt đem tấm nhục thân này làm bó đuốc soi sáng cho những người mê muội vô ý thức, những người với lòng lang dạ thú”…
Đối với đệ tử của Chùa Dược Sư, Đại Đức Huệ Hiền căn dặn: “chúng ta không nên vì cái thân vị kỷ này, không nên nuối tiếc nó, không nên khóc lóc vì nó. Trái lại, chúng ta phải tự hãnh diện là đã sử dụng nó đúng mức, sử dụng nó cho công lý, cho tự do… Nên nhớ không ai cứu ta bằng ta tự cứu ta, không ai giải thoát ta bằng ta tự giải thoát ta”.
Đối với nhà cầm quyền cộng sản, Đại Đức Huệ Hiền đại diện toàn thể Tăng Ni tự thiêu, nêu lên nguyện vọng 6 điểm rồi kết luận rằng: “chúng tôi, Tăng Ni chùa Dược Sư, tha thiết kêu gọi quý vị hãy tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả mọi tôn giáo… Chúng tôi quyết nguyện thiêu thân hôm nay vì chúng tôi nghĩ thà chết vinh hơn sống nhục, thà chết cho chân lý đạo nghĩa hơn sống mà phải theo tà thuyết hại dân”.
Vụ tự thiếu bị đàn áp dã man, mọi dấu vết bị xóa sạch. “Sau khi mười hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa phương kéo mười hai cái xác ra để bên lề đường cho những người qua lại được thấy, sau đó hai ngày họ phun xăng vào đốt rồi tất cả phần còn lại của mười hai xác chết được dồn vào hai cái quan tài và họ đưa đi chôn ở đâu, không ai biết”. Sau đó không lâu “Thiền Viện Dược Sư bị san bằng”. Khu đất Thiền Viện được thay bằng khu vườn trồng chuối, với những cây chuối mới toan cao trên 1m và chỉ sau vài đám mưa đầu mùa là nơi đây trở thành khu vườn chuối xanh tươi hoàn toàn xa lạ ngay với cả tín đồ Phật tử địa phương.
Do bị khủng bố gắt gao, cho nên hơn 1 năm sau (1975-11-02 đến 12-1976), vụ tự thiêu Thiền viện Dược Sư mới được Phật giáo đồ tỉnh Cần Thơ chính thức báo cáo về Viện Hóa Đạo. Sau đó Trung ương, GHPGVNTN gửi văn thư khiếu nại với nhà nước cộng sản, yêu cầu điều tra sự việc. Viện Hóa Đạo ra Văn thư số 0316 VHĐ/VT/VT gởi Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, nội dung trình bày nguyện vọng 5 điểm như sau:
1. (chính quyền) chỉ thị cho cán bộ hạ tầng triệt để tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của toàn dân đã được Mặt Trận và chính phủ cách mạng bảo đảm bằng minh văn.
2. Xử lý thích đáng những người có trách nhiệm đã gây ra sự kiện bi thảm tại thiền viện Dược Sư.
3. Xin phóng thích những người bị bắt khi họ về thăm Thiền Viện Dược Sư.
4. Xin giải tỏa và trả lại ngôi Thiền Viện Dược Sư.
5. Tìm biện pháp hữu hiệu ngăn chận không để cho những trường hợp tương tự tái diễn.
Văn thư kháng cáo nhà nước bằng nhiều cách được gởi đến Quốc tế nhân quyền, Ủy Ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt nam, các cơ quan nầy lên tiếng can thiệp mạnh mẽ. Cho nên nhà nước buộc lòng phải giải quyết vụ án và âm mưu XHCN đánh phá Phật giáo tiếp tục diễn ra.
Tư liệu Vụ án Thiền viện Dược Sư tỉnh Cần Thơ được bí mật chuyền ra hải ngoại, vụ nầy gây nên cao trào Quốc tế chống đối nhà nước XHCN mạnh mẽ; Do áp lực Quốc tế nhân quyền, nhà nước dở trò Âm mưu hợp thức hoá vụ án nầy. Mặc dù trước đó (30-04-1975 đến tháng 12-1976) GHPGVNTN đã có 62 văn thư Kháng Cáo nhà nước XHCNVN về đàn áp Phật giáo mà GH chưa bao giờ được hồi đáp. Tháng 12-1976 Ông Mai Chí Thọ, Giám Đốc sở công an Thành Phố Sài Gòn (đương nhiệm Giám đốc công an Thành phố 1975-1976), đến chùa Ấn Quang yêu cầu các sư Phật giáo Thống nhất đi Cần Thơ “điều tra vụ án”. “Bấy giờ Thượng tọa Trí Tịnh [ hiện là đệ nhị chủ tịch hội đồng trị sự PG quốc doanh- 2007] đề nghị rằng sự việc xẩy ra đã hơn một năm rồi, thôi, xin bỏ qua ! Nhưng cố Thượng tọa Thiện Minh, Thượng tọa Huyền Quang và TT Quảng Độ phản đối đề nghị ấy và yêu cầu Viện Hóa Đạo cử người đi điều tra, Viện liền cử Đại Đức Hộ Giác và TT Quảng Độ đại diện Viện đi điều tra, nhưng sau Đ.Đ. Hộ Giác bận việc khác nên chỉ có Thầy Quảng Độ đi”.
Cuộc họp diễn ra tại cơ quan tỉnh Cần Thơ (trụ sở Mặt trận Tổ quốc tỉnh).
Thượng tọa Thích Quảng Độ yêu cầu được về tận nơi Thiền viện Dược Sư thuộc huyện Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ để “xem xét hiện trường”. Nhưng nhà nước bảo: “về đó không an ninh”. Thượng tọa Quảng Độ bảo rằng: “bây giờ chính quyền cách mạng làm chủ cả nước còn ai làm gì nữa mà không an ninh? Diễn biến cuộc họp hết sức căng thẳng, trong phòng họp, công an “đầu gấu” “có một người to béo vạm vỡ, lúc nào cũng nhìn Thầy Quảng Độ trừng trừng với nét mặt hầm hầm dữ tợn, đằng đằng sát khí như muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Tiếp sau đó, giấy tờ ghi chép, băng thu âm của phái đoàn Viện Hóa Đạo đều bị tịch thu, bản thân Thầy Quảng Độ bị đe dọa.
Để kết thúc vụ án, Phó Chủ nhiệm Ủy ban thanh tra nhà nước đưa ra Biên bản [soạn sẳn] với nội dung:
– Huệ Hiền trước đây làm chỉ điểm cho CIA, Mỹ nguỵ
– Huệ Hiền đã dâm ô, hủ hoá với mấy ni cô, sợ việc đổ bể nên y đã tự tử và đốt chùa
Kết luận trên đây hoàn toàn trái ngược với bức thư tuyệt mệnh của Đại đức Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng chín, Ất mão (ngày 02/11/1975). Để vạch trần sự thâm độc của nhà nước, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm tu sĩ, vu vạ thành viên tôn giáo, Thầy Quảng Độ trong buổi họp đã đọc lại đầy đủ Bức Thư Tuyệt Mạng của Đại đức Thích Huệ Hiền.
Bức Thư Tuyệt mạng được công bố khiến cho âm mưu nhà nước vụ vạ cho Phật giáo bị vô hiệu hóa. Để hợp pháp hóa việc đàn áp Phật Giáo, qua vụ án nầy, chính quyền đã áp lực Thượng tọa Thích Quảng Độ, Viện Hóa Đạo phải ký vào biên bản soạn sẳn . Thầy Thích Quảng Độ cho biết: “Họ giữ tôi lại thêm một ngày một đêm để làm áp lực buộc tôi phải kí, họ định dùng tôi để hợp thức hóa cho những điều dối trá của họ, nhưng tôi đã kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc được nên đành phải đưa tôi về chùa Ần Quang. Phó chủ nhiệm UB thanh tra nhà nước, Huỳnh Châu Sổ là ai? Cần phải nêu rõ trách nhiệm của ông về vụ án ra trước tòa án Quốc tế.
Nhìn lại diễn biến chung quanh vụ án 12 Tăng ni tự thiêu nói trên, qua đó:
1. Thi thể 12 Tăng ni: Đại đức Thích Huệ Hiền v.v… (phần cháy chưa hết) bị đem ra bỏ bên lề đường phơi nắng 2 ngày trời theo kiểu khủng bố với mọi người. Sau đó họ đem thi thể, tro tàn vùi chôn nơi đâu, không ai được biết.
2. Mọi dấu vết ngôi Thiền viện Dược Sư đều bị xóa sạch và thay vào đó là một vườn chuối mới được mọc lên.
3. Sau vụ án, thân nhân, tín đồ vãng lai thăm viếng, tìm hiểu đều bị bắt giữ.
4. Băng từ ghi âm cuộc họp vụ án của Thầy Quảng Độ đã bị nhà nước tịch thu với lý do: “bí mật quốc gia”.
Nhân đây cũng xin nói thêm, Thích Trí Tịnh quê quán làng Cái Tàu Thượng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Xuất thân Tổ đình Kim Huê, Sa Đéc. Chùa Kim Huê, Sa Đéc là “địa chỉ đỏ” của Kháng chiến “có tiền án” vun chứa cộng sản hoạt động nội thành đánh phá thị xã Sa Đéc. Thích Trí Tịnh thuộc loại “máu Vẹm” từ lâu đời.
– Sau cái gọi là ngày Giải phóng, đến 1-05-1975, nhà nước tổ chức mừng chiến thắng thì trên hàng ghế danh dự của lễ đài trước Dinh Độc lập thì nhà nhà xem tivi lúc bấy giờ đều thấy Thầy Trí tịnh Ngồi chểm chệ trên đó rồi.
– Thích Trí Tịnh “mách nước” với nhà nước XHCN “giết rắn phải đập đầu nó” để mượn tay XHCN đưa lưu đày 2 Thầy Huyền Quang với Quảng Độ vào năm 1982.
– Trong “Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sãn có tài sản vài trăm triệu Mỹ kim” thì Thích Trí Tịnh đứng hàng thứ 3 trong danh sách triệu phú nầy.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân trao Huân chương Hồ Chí Minh cho Hòa thượng Thích Trí Tịnh

– “Thích Trí Tịnh, người mà sự nghiệp dịch kinh không xóa hết tội “dẫm đạp lên “bạn đồng thuyền” để mình bước lên đài danh vọng. Trước thềm diễn ra Đại hội GHPGVN kỳ 4 (Giáo hội quốc doanh) Thích Trí Tịnh “cò kè” nhân sự nọ kia. Nhà nước ta bèn chơi cái trò “cả vú lấp miệng em”, bày ra cái màn “trúng số độc đắc” mà Thầy Trí Tịnh là người được giải. Theo đó, từ trên trời rơi xuống, Thầy có ngay cái xe du lịch 4 chỗ ngồi láng cón, thuộc loại Đại Gia làm cho Thầy đổi đời một cách tốc hành một khi ngồi vào cái “phương tiện đi lại” mới cáo cạnh ấy. “Nào, đến 420 triệu đấy nhé”. Vào thời điểm của những năm 1995-96 thì chiếc xe ấy trị giá trên dưới 100 cây vàng đấy Phật – Bồ Tát ạ. Đó là cái chuyện của trần gian, của Thành Ủy, chứ với người còn trong chốn ngục tù cộng sản, với những người tù lương thức, với những con người có dòng máu Nhân Quyền, Dân Chủ đấu tranh cho Đạo Pháp và Dân Tộc; cho Con Đường Sống của Giáo Hội thì cái chuyện bao cấp xe cộ kia, đó là cái chuyện “bí mật quốc gia” không được tiết lộ đâu…

NHÀ SƯ, NI CÔ NGƯỜI VIỆT TỰ SÁT TẬP THỂ 

Sách Hiếm

15.11.2014


Paris (AP) – Mười hai ni sư Phật giáo đã tự thiêu tại một ngôi làng ở Đồng bằng Sông Cửu Long hồi tháng 11 năm ngoái (1975) để phản đối sự đàn áp của chính quyền Cộng Sản Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cho biết hôm thứ Ba.

Văn phòng đại diện chính thức của GHPGVNTN tại Pháp đã công bố bản sao di chúc của nhà sư Thích Huệ Hiền, viện trưởng Thiền viện Dược Sư, cùng với hai nhà sư và chín ni cô trong đó giải thích hành động tự thiêu của họ.

Bản di chúc còn kèm theo lời thỉnh cầu gửi đến nhà cầm quyền CSVN “hãy tôn trọng quyền tự do thờ cúng của tất cả các tôn giáo”.

Cũng theo GHPGVNTN, ba tuần sau vụ tự thiêu, Đại Đức Thích Trí Thủ, một lãnh đạo GHPGVNTN, đã viết thư gửi đến nhà chức trách ở Sài Gòn để khiếu nại việc những “cán bộ Cộng Sản cấp cơ sở” đã cướp lấy thi thể của các nhà sư và ni cô, đồng thời cho đóng cửa thiền viện ở huyện Phú Hiệp, Cần Thơ.

Bức Thư của Thượng Tọa Thích Trí Thủ gửi cho Ủy ban Hành chính Lâm thời Miền Nam Việt Nam (nay đã ngừng hoạt động) nói rằng mười hai ni sư quyết định tự thiêu sau khi nhận được lệnh từ chính quyền địa phương cấm không được tiếp tục treo cờ Phật giáo, cầu nguyện hay làm lễ tưởng niệm cho các nạn nhân chiến tranh.

Nguồn:
– Báo Chicago Tribune số ra thứ Tư ngày 8/9/1976
http://archives.chicagotribune.com/…/reveal-viet-monks…
– Báo Sarasota Herald-Tribune số ra thứ Tư ngày 8/9/1976
http://news.google.com/newspapers?nid=1755&dat=19760908&id=3roqAAAAIBAJ&sjid=O2cEAAAAIBAJ&pg=5198,2860492
– Arthur J. Dommen, “The Indochinese Experience of the French and the Americans, Nationalism and Communism in Cambodia, Laos and Vietnam”, p.956