Mục lục
Hoa Kỳ điều hơn 500 chuyến máy bay do thám Biển Đông trong năm 2021
Hình minh họa. Tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke USS Dewey của Hải quân Hoa Kỳ tiếp nhiên liệu trên biển với tàu sân bay lớp Nimitz USS Carl Vinson hôm 11/10/2018. Reuters/Hải quân Hoa Kỳ
Hoa Kỳ đã tăng cường các hoạt động quân sự ở Biển Đông trong năm 2021, với hơn 500 chuyến bay do thám trong khu vực. Con số này lên tới hơn 2.000 chuyến nếu tính cả biển Hoàng Hải và biến Hoa Đông, trong khi năm ngoái Mỹ thực hiện chưa tới 1.000 chuyến bay trên các vùng biển này.
Đó là kết luận nghiên cứu của Sáng kiến Khảo sát Tình hình Chiến Lược Biển Đông (SCSPI), một cơ quan nghiên cứu có trụ sở tại Bắc Kinh, công bố hôm 2 tháng 11. Tờ South China Morning Post đưa tin hôm 5 tháng 11.
Theo dữ liệu từ SCSPI, Quân đội Mỹ đã thực hiện 52 chuyến bay do thám tại Biển Đông vào tháng mười. Mặc dù con số này thấp hơn so 62 chuyến bay thực hiện vào tháng chín, các chuyên gia chỉ ra rằng các hoạt động quân sự của nước Mỹ trong khu vực đã gia tăng về quy mô, đặc biệt sau khi các tàu sân bay USS Carl Vinson của Mỹ và HMS Queen Elizabeth của Anh tiến hành hàng loạt cuộc tập trận trong tháng mười. Các chuyên gia cho biết, tàu sân bay Mỹ đã đi vào khu vực ít nhất chín lần trong năm nay.
Trung cộng là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông với đường đứt khúc chín đoạn mà nước này tự vẽ ra trên biển nhưng không được quốc tế công nhận.
Hoa Kỳ và đồng minh thời gian đã tiến hành các hoạt động tuần tra tự do hàng hải và tập trận ở vùng nước tranh chấp này, thách thức các đòi hỏi về chủ quyền quá đáng của Trung cộng, đồng thời khẳng định quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực.
Trung cộng nhiều lần lên tiếng chỉ trích Mỹ và đồng minh đang gây bất ổn trong khu vực với các hoạt động quân sự.
RFA (05.11.2021)
Trung cộng đã bàn cãi chuyện tấn công quần đảo Đông Sa
Tuần duyên Đài Loan tuần tra quần đảo Đông Sa.
Một giới chức an ninh hàng đầu của Đài Loan nói với các nhà lập pháp nước này hôm 4/11 rằngTrung cộng đã thảo luận nội bộ chuyện nên hay chăng tấn công quần đảo Đông Sa nhưng sẽ không động thủ trước 2024, khi nhiệm kỳ của Tổng thống Thái Anh Văn chấm dứt.
Tổng giám đốc Cục An ninh Quốc gia Chen Ming-tong khi tiết lộ tin này không cho biết làm thế nào ông biết được chuyện đó.
Đài Loan, một hòn đảo tự trị mà Bắc Kinh tuyên bố có chủ quyền, trong hơn năm qua than phiền về những chuyến bay liên tục của không lực Trung cộng, thường tại khu vực phía tây nam của vùng nhận diện phòng không gần quần đảo Đông Sa do Đài Loan kiểm soát nhưng ít phòng thủ.
Nằm giữa phía nam Đài Loan và Hong Kong, quần đảo Đông Sa được một số chuyên gia an ninh xem là dễ bị Trung cộng tấn công vì chỉ cách đất liền Đài Loan hơn 400 km.
Đài Loan luôn khẳng định muốn giữ nguyên trạng với Trung cộng nhưng thề sẽ bảo vệ tự do và dân chủ.
Tại Washington, tướng Mark Milley, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, nhận định Trung cộng sẽ không chiếm Đài Loan bằng vũ lực trong vài năm tới cho dù quân đội Bắc Kinh phát triển những khả năng đánh chiếm bằng vũ lực.
Reuters, VOA (05.11.2021)
Hình ảnh vệ tinh cho thấy Việt Nam bồi đắp một đảo nữa trên Biển Đông
Hình vệ tinh cho thấy đảo Nam Yết ở quần đảo Trường Sa hôm 29/10/2021 Planet Labs Inc. Analysis: RFA
Hình ảnh vệ tinh thương mại do Đài Á Châu Tự do (RFA) phân tích cho thấy Việt Nam đang tiến hành xây dựng và bồi đắp một hòn đảo nữa thuộc quyền kiểm soát của nước này trong khu vực Biển Đông.
Hình ảnh này cho thấy mũi phía Tây của đảo Nam Yết – hòn đảo nằm ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa – đang được mở rộng.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt đầu quản lý đảo này vào năm 1973 và gọi đảo là Nam Yết. Quân đội miền Bắc Việt Nam tiếp quản đảo này vào năm 1975 sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Hình ảnh vệ tinh của Planet Labs ngày 30/10 vừa qua cho thấy các hoạt động xây dựng trên đảo Nam Yết, trong đó có một chiếc sà lan và một nền móng công trình. Hai hình ảnh này không nhìn thấy trong hình ảnh chụp ngày 29/9/2021.
Các nguồn tin hiểu biết về kế hoạch phát triển này nhưng không được quyền phát ngôn, nói rằng Việt Nam có thể đang xây một bến tàu để tạo thuận lợi cho việc tiếp cận đảo.
Các chuyên gia Việt Nam nói rằng nước này thường tiến hành các công trình chống xói mòn và sạt lở đất để bảo vệ chứ không mở rộng hay thay đổi cấu trúc của các thực thể dưới thuộc quyền kiểm soát của mình.
Cùng lúc với Nam Yết, các hoạt động xây dựng cũng được tiến hành trên đảo Phan Vinh, một thực thể khác do Việt Nam kiểm soát trong khu vực quần đảo Trường Sa. Qua phân tích hình ảnh vệ tinh ngày 30/10 và 31/10, Đài Á Châu Tự do phát hiện công việc nạo vét đang diễn ra tại mũi phía Nam của đảo đá này.
Theo Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI), Việt Nam có 49 hoặc 51 tiền đồn ở Biển Đông nằm rải rác ở 27 thực thể, trong đó có 10 đảo nhỏ. AMTI cho biết, cho đến nay chưa thấy các hoạt động cải tạo rõ ràng ở hai trong số 10 đảo nhỏ là đảo An Bang và Niêm Yết.
Nam Yết là đảo san hô tự nhiên với tổng diện tích 13 mẫu Anh, lớn thứ năm trong số các đảo do Việt Nam kiểm soát ở Biển Đông.
Theo báo chí Việt Nam, đây cũng là một trong những đảo phát triển hơn với một số công trình dân sự mới trong đó có chùa Phật giáo, trung tâm y tế, nhà văn hóa và một khu bảo tồn thiên nhiên đang được xây dựng.
Đảo Nam Yết cũng được Trung cộng, Phillipines và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.
Trung cộng, quốc gia tuyên bố chủ quyền đối với phần lớn Biển Đông, đã và đang chỉ trích các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam, về việc xây dựng đảo. Tuy nhiên, tính đến năm 2016, Việt Nam chỉ bồi đắp hơn 120 mẫu đất mới ở Biển Đông so với gần 3.000 mẫu mà Trung cộng cải tạo, AMTI cho biết.
RFA (04.11.2021)
Nghiên cứu: Hoa Kỳ đang đẩy mạnh hoạt động ở Biển Đông
Theo một nghiên cứu mới từ Trung cộng, Hoa Kỳ đã và đang tăng cường các hoạt động quân sự ở Biển Đông trong năm nay.
Chiến hạm Mỹ sẽ tiếp tục hoạt động tăng cường ở Biển Đông.
Tổ chức Sáng kiến thăm dò Biển Đông có trụ sở tại Bắc Kinh cho biết quân đội Mỹ đã thực hiện 52 chuyến bay do thám trên Biển Đông trong tháng 10.
Số chuyến bay do thám trong tháng 10 đã giảm so với 62 chuyến được ghi nhận vào tháng 9, nhưng cơ quan này cho biết các hoạt động quân sự khác của Mỹ ở Biển Đông đều đang tăng lên.
Hôm thứ Ba (2/11), tổ chức cho biết quy mô của các hoạt động đã tăng lên sau khi nhóm tấn công tàu sân bay USS Carl Vinson và tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Anh tiến hành một loạt cuộc tập trận vào tháng trước, đồng thời cho biết thêm rằng nhóm tàu sân bay Mỹ đã đi vào khu vực này 9 lần trong năm nay.
Wu Shicun, chủ tịch Viện Nghiên cứu Quốc gia về Biển Đông của Trung cộng, cho biết Mỹ đã thực hiện hơn 500 chuyến bay do thám trên Biển Đông trong năm nay, còn nếu tính cả số chuyến bay đến biển Hoàng Hải và Hoa Đông thì tổng số lên hơn 2.000.
Năm ngoái, Hoa Kỳ chỉ thực hiện chưa tới 1.000 chuyến bay, theo Sáng kiến thăm dò Biển Đông.
Ông Wu cho biết nguy cơ xảy ra sự cố giữa Trung cộng và Mỹ đang gia tăng, đồng thời kêu gọi cả hai bên đẩy nhanh các cuộc thảo luận về bộ quy tắc ứng xử.
Ngoài nhóm tấn công tàu sân bay Carl Vinson, Tổ chức Sáng kiến thăm dò Biển Đông cho biết Mỹ đã cử ba nhóm tấn công tàu sân bay khác, gồm Theodore Roosevelt, Nimitz và Ronald Reagan tới Biển Đông trong năm nay.
Cùng với hai tàu tấn công đổ bộ, USS Makin Island và USS Essex, các tàu hải quân Mỹ đã đi qua Biển Đông 11 lần trong năm nay, nhóm nghiên cứu cho biết.
Ngoài ra, Mỹ cũng đã triển khai máy bay ném bom B-52H và B-1B 14 lần trong vùng biển tranh chấp trong năm nay, cùng với 11 tàu ngầm hạt nhân, bao gồm cả tàu USS Connecticut gần đây đã bị hư hại trong một vụ va chạm.
“Việc triển khai quân sự của Hoa Kỳ trên Biển Đông đã tăng lên kể từ năm 2009. Việc triển khai như vậy đã được tăng cường trong năm nay so với năm ngoái”, Hu Bo, giám đốc của tổ chức nói với đài truyền hình nhà nước CCTV.
Căng thẳng giữa Trung cộng và Mỹ trên Biển Đông ngày càng leo thang. Bắc Kinh đã liên tục phản đối khi Mỹ hợp tác với các đồng minh bao gồm Anh, Đức và Canada để tăng cường hiện diện quân sự trên Biển Đông.
Washington cho biết những hoạt động đó là cần thiết để đảm bảo quyền tự do hàng hải trong vùng biển tranh chấp, nhưng Bắc Kinh cho rằng chúng vi phạm chủ quyền của nước này.
Trithucvn (04.11.2021)
Biển Đông: ExxonMobil rút khỏi dự án Cá Voi Xanh ‘sẽ không chỉ có tác động kinh tế’
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES Chụp lại hình ảnh, Một dàn khoan trên Biển Đông (ảnh chỉ có tính chất minh họa)
Tập đoàn dầu khí Mỹ ExxonMobil được cho là đang xem xét rút lui khỏi dự án Cá Voi Xanh trị giá hàng tỷ đôla với Việt Nam trên Biển Đông. Nếu đúng kế hoạch, quyết định của ban giám đốc đã được chốt vào cuối tháng 10, hiện chỉ còn chờ công bố.
Dự án Cá Voi Xanh mà ExxonMobil nắm 64% cổ phần đã hoàn tất thiết kế tổng thể, chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển mỏ, nhưng bị ‘tắc’ sau 3 năm đàm phán các điều khoản hợp đồng không thành công với chính phủ Việt Nam.
Việt Nam, một lần nữa, đứng trước các tổn thất lớn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế.
Nguyên nhân của sự việc này là gì và bài học nào được rút ra ở đây?
Có sức ép từ Trung cộng?
Việc Exxon Mobil muốn rút khỏi mỏ Cá Voi Xanh trên thực tế đã được đề cập từ lâu. Tuy nhiên thời điểm hiện tại được coi mang tính quyết định, khi các thương thảo thất bại kéo dài nhiều năm gây đội vốn, giảm hiệu quả đầu tư, cộng thêm khó khăn về tài chính do dịch Covid khiến để càng lâu sẽ càng khó cho ExonMobil rút khỏi dự án.
Chuyên gia trong ngành dầu khí, ông Nguyễn Lê Minh, nói với BBC News Tiếng Việt rằng nguyên nhân vụ rút lui, theo ông, chỉ đơn thuần vì kinh tế.
“Về mặt địa lý, mỏ Cá Voi Xanh chỉ cách bờ 90km, nằm hoàn toàn trong thềm lục địa Việt Nam, nên không có chuyện bị gây sức ép về chính trị.
“Ngoài ra ExxonMobile hoàn toàn có thể chọn cách ‘đánh trận giả’, đợi chuyển nhượng dự án thành công, ‘được giá’, rồi mới chính thức công bố việc rút khỏi dự án.
“Tuy nhiên họ không làm vậy, chứng tỏ họ không còn mặn mà với dự án nữa, và cũng không chịu sức ép nào ngoài nhu cầu nội tại. Trong đó còn phải kể đến xu hướng chuyển dịch đầu tư vào năng lượng sạch, xanh, năng lượng tái tạo theo đúng các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường.”
Cùng quan điểm này, giảng viên luật quốc tế, ông Hoàng Việt, chia sẻ nhận định với BBC:
“Thứ nhất, thời gian qua, giá dầu trên thế giới nhiều lúc sụt giảm khiến hoạt động kinh doanh của Exxon Mobil không thuận lợi. Đo đó, họ cần cắt giảm một số dự án ít lợi nhuận để tập trung vào các dự án có lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai, việc đàm phán hợp đồng ở mỏ Cá Voi Xanh kéo dài, không theo đúng tiến độ nên khó thu xếp vốn và giảm hiệu quả đầu tư. Chưa kể, phía hạ nguồn chưa chốt xong giá khí, điện, chưa biết chắc chắn mốc thời gian khi nào dự án mới triển khai. Do đó, Exxon Mobil cho rằng khả năng sinh lời của dự án không được như dự tính ban đầu. Dẫn đến việc họ muốn rút.”
Bill Hayton, tác giả cuốn “Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á” (2014), cũng nghiêng về lý do thương mại khi ExxonMobil mới công bố ý định rui lui hồi tháng 9/2019.
“Exxon đang chịu áp lực phải tăng giá cổ phiếu vì vậy họ phải bán tài sản để mua lại cổ phiếu… Exxon đã mặc cả với chính quyền Việt Nam về giá khí đốt của dự án Cá Voi Xanh trong nhiều năm mà không đạt thỏa thuận… Tin đồn về việc mỏ này nhiễm CO2 có nghĩa phát triển mỏ này có thể tốn kém hơn nhiều suy nghĩ ban đầu. Vì vậy, theo tôi việc này có vẻ như là do áp lực thương mại chứ không phải do áp lực chính trị từ Bắc Kinh,” ông Bill Hayton viết trên Twitter.
Với vị thế là tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, ExxonMobil đã ‘cảm thấy rất khó chịu’ khi chính phủ Việt Nam, lẽ ra, phải nỗ lực hợp tác, làm đúng các thoả thuận như ban đầu hai bên đã ký kết, nhưng lại không làm, theo ông Hoàng Việt.
NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES
Ngoài vô số luật và quy định chồng chéo, phía Việt Nam còn vướng các yếu tố chính trị, khi những người tiền nhiệm trong ngành dầu khí, như ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, đã bị truy tố và kỷ luật.
“Vì vậy, những quan chức phụ trách dự án Cá Voi Xanh rất ngại ngần trước việc đưa ra các quyết định, do có thể phải chịu trách nhiệm sau này. Những điều này đưa đến kết cục là ExxonMobil muốn rút,” ông Hoàng Việt phân tích.
Tuy nhiên, giới quan sát cũng không loại trừ khả năng sức ép từ Trung cộng.
GS Carl Thayer từ Úc từng tiết lộ với BBC trong cuộc phỏng vấn hồi tháng 9/2019 rằng một quan chức Việt Nam nói với ông rằng sau vụ Trung cộng đưa tàu tới Bãi Tư Chính và vụ liên doanh dầu khí Rosneft rút lui khỏi một dự án khoan thăm dò cũng ở Bãi Tư Chính do sức ép từ Trung Quóc, sẽ đến lượt dự án Cá Voi Xanh bị Trung cộng để ý đến.
Ai sẽ tiếp quản mỏ Cá Voi Xanh?
ExxonMobil sẽ chuyển nhượng lại toàn bộ 64% cổ phần dự án (khâu thượng nguồn) cho phía chủ nhà (PetroVietnam hoặc một đối tác tiềm năng khác, theo nhận định của ông Nguyễn Lê Minh với BBC.
Để được chuyển nhượng quyền điều hành mỏ khí Voi Xanh, Việt Nam cần đàm phán với ExxonMobil và cần bỏ ra ít nhất hơn 300 triệu đôla đền bù.
Trong trường hợp đàm phán thất bại, ExxonMobil có quyền về mặt pháp lý để chuyển nhượng dự án Cá Voi Xanh cho một bên thứ ba.
Bên thứ ba này, không loại trừ có thể rơi vào tập đoàn dầu khí Trung cộng vì họ có tiềm lực và cũng đã bày tỏ sự quan tâm tới mỏ Cá Voi Xanh, theo ông Nguyễn Lê Minh.
Chồng chéo về luật pháp và quản trị
Dự án Cá Voi Xanh có tổng mức đầu tư khoảng 10 tỷ đô la, ban đầu rất hứa hẹn, nhưng nay có nguy cơ thất bại cao, do liên quan nhiều bên, nhiều luật phức tạp, gây mất rất nhiều thời gian, làm mất cơ hội đầu tư và hiệu quả kinh tế, các nhà quan sát cho biết.
Theo một chuyên gia quan sát Biển Đông thì “mớ bòng bong luật” ở đây gồm Luật Dầu khí (đối với khâu thượng nguồn, gồm giàn khai thác, các giếng khoan, ống ngầm nội mỏ), luật Xây dựng (đối với khâu trung nguồn, gồm đường ống vận chuyển khí; và khâu hạ nguồn, gồm nhà máy xử lý khí và các nhà máy điện), và Luật Đầu tư công (liên quan phần vốn nhà nước).
Bên cạnh đó, mỏ Cá Voi Xanh có hàm lượng C02 cao nên cần áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, dẫn đến chi phí đầu tư cao, khiến giá bán khí không được cạnh tranh.
Việc này dẫn đến bế tắc kéo dài nhiều năm trong đàm phán giá bán khí – điện, gây mất cơ hội đầu tư.
Ngoài ra, sau đại dịch Covid và suy thoái kinh tế toàn cầu, cả ExxonMobil và Petrovietnam đều khó khăn về tài chính và đều muốn tái cơ cấu đầu tư theo các ưu tiên riêng.
“Về phía ExxonMobil là chuyển dịch sang đầu tư năng lượng sạch. Còn PetroVietnam là tập trung dòng tiền vào Lô B, nằm ở bể Malay-Thổ Chu thuộc phía Tây Nam Việt Nam, theo phân cấp mức độ ưu tiên và tiến độ, chứ không vào mỏ Cá Voi Xanh nữa,” theo ông Nguyễn Lê Minh.
Việt Nam sẽ thiệt hại gì?
Các chuyên gia cũng cho BBC biết, dự án Cá Voi Xanh nếu được triển khai sẽ thúc đẩy tăng trưởng các tỉnh miền Trung Việt Nam, làm thay đổi diện mạo và cân bằng cấu trúc kinh tế xã hội giữa các vùng miền.
Dự án cũng sẽ đóng góp khoảng 20 tỷ đô la vào ngân sách nhà nước, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo ra khoảng từ 3000 đến 4000 việc làm chất lượng cao cho các tỉnh miền trung; thu nhập xã hội từ thuế và lợi tức đầu tư ở các khu công nghiệp, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), các chuyên gia trả lời phỏng vấn cho biết.
Ngoài ra, Cá Voi Xanh còn được dự kiến trở thành “một dấu mốc” để Việt Nam thúc đẩy các dự án trọng điểm ở khu vực ngoài khơi miền Trung trong tương lai, bao gồm mỏ Kèn Bầu.
Nếu không tiếp tục dự án Cá Voi Xanh, tất nhiên, các cơ hội này không còn. Vì đây không chỉ là kinh tế, đây còn là vấn đề chính trị và chiến lược, theo giới quan sát.
Theo ông Hoàng Việt, trong bối cảnh Trung cộng đang sử dụng sức mạnh và sự đe doạ để đạt được mục tiêu độc chiếm biển Đông, hoạt động ở mỏ Cá Voi Xanh được coi cách Việt Nam lấy lại thế cân bằng, do Trung cộng không dễ đe dọa một tập đoàn lớn của Mỹ như ExxonMobil.
Trước sức ép từ Trung cộng, năm 2017, Việt Nam đã phải yêu cầu công ty Repsol của Tây Ba Nha huỷ bỏ việc thăm dò tại Lô 136.3 trên Biển Đông.
Năm 2018, Việt Nam tiếp tục yêu cầu Repsol huỷ bỏ dự án đang tiến hành tại Lô 07.3.
Năm 2020, Việt Nam huỷ bỏ việc thăm dò và khai thác mới tại Lô 06.1.
“Sau ba lần Việt Nam rút dự án dầu khí trên Biển Đông, lần này, nếu ExxonMobil rút, các tập đoàn dầu khí trên thế giới sẽ e ngại việc đầu tư vào Việt Nam Việc này sẽ có tác động nhiều mặt và lâu dài đến sự phát triển của ngành dầu khí cũng như uy tín của chính phủ Việt Nam, tạo đà cho Trung cộng tiếp tục lấn lướt Việt Nam trên biển Đông,” ông Hoàng Việt nói.
Bài học cần rút ra
Theo ông Lê Minh, về mặt quản lý nhà nước, chính phủ Việt Nam cần phải có những thay đổi, chỉnh sửa về luật định hiện hành và các ưu tiên chiến lược.
Quy trình phê duyệt các dự án dầu khí và một số điều khoản chi tiết khác cần được luật hóa để phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm thu hút đầu tư và dễ áp dụng hơn.
Chính phủ Việt Nam cũng cần phải tái tạo chính sách thu hút đầu tư, bằng các cam kết về một môi trường đầu tư bền vững, an toàn và có nhiều hứa hẹn, bao gồm sự nhất quán trong chính sách, luật và thuế.
Về chiến lược, chính phủ Việt Nam cần duy trì đường lối đa phương hóa các hợp tác dầu khí trên Biển Đông, điểm nhấn là hai cường quốc Nga và Mỹ.
Ông Hoàng Việt còn cho rằng khả năng quản trị của Việt Nam trước các dự án như Cá Voi Xanh chưa tỏ ra hiệu quả. Các luật và quy trình chồng chéo và phức tạp khiến nhà đầu tư nước ngoài dễ nản lòng. Đó là tất cả những vấn đề mà chính quyền Việt Nam cần phải khắc phục nếu muốn thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển ngành dầu khí.
BBC (04.11.2021)
Việt Nam yêu cầu Trung cộng tôn trọng chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa
Việt Nam yêu cầu tàu Trung cộng chấm dứt hoạt động ở lãnh hải Sinh Tồn Đông thuộc quần đảo Trường Sa, và tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.
Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Việt Nam chiều 4/11, trước đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam về sự xuất hiện trở lại của các tàu cá Trung cộng ở đá Ba Đầu thuộc cụm Sinh Tồn của quần đảo Trường Sa của Việt Nam, đại diện Bộ Ngoại giao, Phó phát ngôn viên Phạm Thu Hằng nhấn mạnh Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa là phù hợp với luật pháp quốc tế, được hưởng các quyền chủ quyền, quyền tài phán theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982.
Đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định Việt Nam luôn “kiên quyết kiên trì các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để bảo vệ các quyền hợp pháp và chính đáng trên”.
“Việc các tàu Trung cộng hoạt động trong phạm vi lãnh hải Sinh Tồn Đông thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm các quy định của UNCLOS 1982 và đi ngược lại tinh thần, nội dung Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông.
Việt Nam yêu cầu Trung cộng rút tàu cá khỏi các vùng biển trên, tôn trọng chủ quyền Việt Nam”, bà Hằng nêu yêu cầu.
Theo các bức ảnh vệ tinh chụp ngày 1/11 của Công ty Planet Lab, hàng chục tàu cá Trung cộng đã trở lại đá Ba Đầu sau một thời gian vắng bóng.
Trước đó, trong báo cáo công bố ngày 22/10, Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) của Mỹ cho biết số tàu Trung cộng tại đá Ba Đầu đã tăng lên trong 3 tháng trở lại đây. Theo AMTI, từ đầu tháng 8, khoảng 40 tàu Trung cộng bắt đầu quay lại khu vực phía bắc cụm Sinh Tồn, bao gồm bãi Ba Đầu. Đến tháng 9, đội tàu Trung cộng ở cụm Sinh Tồn tăng lên hơn 100 chiếc và tiếp tục tăng lên 150 chiếc một tháng sau đó.
AMTI cho biết, qua phân tích hình ảnh cho thấy nhiều khả năng đây là các tàu dân quân biển do chúng không có hoạt động đánh bắt nào, nhiều chiếc có kích thước lớn.
Hồi tháng 4/2021, phía Trung cộng giải thích các tàu cá của nước này vào đá Ba Đầu để tránh trú thời tiết xấu. Tuy nhiên Phi Luật Tân – nước có yêu sách hàng hải tại khu vực, cáo buộc đây là các tàu dân quân biển và tỏ ra cảnh giác.
NTDVN (04.11.2021)
Mỹ – Nhật tăng cường hợp tác đối phó Trung cộng, Việt Nam là quốc gia trong chiến lược
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida.
Tân Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida và Tổng thống Mỹ Joe Biden trong cuộc hội đàm trực tiếp đầu tiên hôm 2/11 đã nhất trí tăng cường liên minh song phương và hợp tác chặt chẽ hướng tới một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở, giữa bối cảnh Trung cộng ngày càng trở nên hung hăng và quyết đoán trong khu vực.
Theo truyền thông Nhật Bản, cuộc gặp của Thủ tướng Nhật với các lãnh đạo thế giới diễn ra bên lề hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên Hiệp Quốc ở Glasgow của Scotland. Tại đây, ông Kishida đã có các cuộc gặp trực tiếp mà tờ Kyodo của Nhật mô tả là “không chỉ thể hiện cam kết của ông đối với các vấn đề có tầm quan trọng toàn cầu mà còn kết nối với các quốc gia quan trọng có chung mối quan ngại về sự quyết đoán của Trung cộng ở Ấn Độ – Thái Bình Dương”.
Ngoài Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Kishida còn có các cuộc gặp với Thủ tướng Anh Boris Johnson, Thủ tướng Úc Scott Morrison và Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính, ba quốc gia mà Tokyo coi là đối tác quan trọng trong việc thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở.
Từng giữ chức ngoại trưởng lâu năm, tân thủ tướng Nhật Bản cho biết ông đã có một “khởi đầu rất tốt” trong hoạt động ngoại giao trực tiếp và xúc động trong các cuộc trò chuyện ngắn ngủi với Tổng thống Mỹ và các lãnh đạo trên, vẫn theo tường thuật của Kyodo.
Tờ báo Nhật dẫn lời các chuyên gia nói rằng chỉ vài giờ có mặt ở Glasgow thì rất khó để tân thủ tướng Nhật chuyển tải nhiều nội dung trong lần “ra mắt” ngoại giao, nhưng ông Kishida cũng đã kịp thể hiện “cam kết chính trị mang tính biểu tượng quan trọng” đối với các quốc gia mà ông đã gặp, trong đó có Việt Nam, quốc gia mà Nhật Bản hy vọng sẽ hợp tác để chống lại các hành vi quyết đoán của Bắc Kinh trên Biển Hoa Đông và Biển Đông.
Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính, ông Kishida đã bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đối với những nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Bộ Ngoại giao Nhật Bản cho biết Thủ tướng Kishida và người đồng cấp Việt Nam cũng đã nhất trí hợp tác trong các vấn đề về chuỗi cung ứng, đồng thời đẩy nhanh các cuộc đàm phán để thúc đẩy xuất khẩu quốc phòng của Nhật Bản.
VOA (03.11.2021)
Luật sư Nguyễn Thanh Tuân: Toà Trọng tài Quốc tế mở văn phòng ở VN là ‘trường hợp khá đặc biệt’
Các phóng viên bên ngoài trụ sở của PCA ở La Hay, Hà Lan, ngày 12/7/2016.
Luật sư Nguyễn Thanh Tuân ở Tp. Hồ Chí Minh nói với VOA rằng việc Toà Trọng tài Thường trực Quốc tế (PCA) mở văn phòng tại Việt Nam là “một trường hợp khá đặc biệt,” tương đương với việc họ mở “Tòa đại sứ” tại quốc gia này, dù đã có văn phòng PCA ở Singapore. Thế nhưng, theo nhận định của ông, nếu có xảy ra trường hợp Việt Nam khởi kiện Trung cộng về tranh chấp Biển Đông, thì văn phòng này sẽ không đóng vai trò là “Nơi giải quyết tranh chấp”.
Sau đây là nội dung cuộc trao đổi.
VOA: Đề nghị luật sư cho biết ý kiến về ý nghĩa của việc Tòa Trọng tài thường trực PCA thành lập Văn phòng đại diện của PCA tại Việt Nam nói chung?
Ls. Nguyễn Thanh Tuân: Trước hết, tôi xin được điểm qua đôi nét về quan hệ đối ngoại của tổ chức Tòa án Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA):
Theo thông tin từ PCA, có ba hình thức hợp tác chủ yếu trên cơ sở các thỏa thuận chính thức giữa PCA, tổ chức liên quốc gia được thành lập theo các Công ước La Hay (1899 và 1907), với các quốc gia thành viên và/hoặc với các tổ chức quốc tế ở phạm vi toàn cầu. Đó là các hình thức: Host Country Agreement, Cooperation Agreement và Representative Office (Agreement).
Trong phạm vi của hình thức Thỏa thuận Nước chủ nhà (Host Country Agreement) giữa PCA và các quốc gia thành viên, thì quốc gia thành viên tham gia thỏa thuận sẽ chấp thuận cho sử dụng lãnh thổ của mình để tiến hành quá trình tố tụng trọng tài quốc tế vụ việc (ad-hoc) theo quy tắc của PCA. Cũng như nhiều quốc gia thành viên của Công ước La Hay nói trên, Việt Nam đã ký Host Country Agreement với PCA vào ngày 23/6/2014.
Trong phạm vi của hình thức Thỏa thuận hợp tác (Cooperation Agreement) giữa PCA với rất nhiều tổ chức, trung tâm trọng tài quốc tế hoạt động trong lĩnh vực giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế ở phạm vi toàn cầu, PCA và các tổ chức, trung tâm trọng tài đó đã ký các Thỏa thuận hợp tác. Hầu hết các thỏa thuận như vậy sẽ cho phép PCA tổ chức các phiên xử hay các cuộc họp của PCA trong cơ sở của các tổ chức hay trung tâm đó, cũng như sẽ cho phép PCA nhận được các trợ giúp do thông qua sự dàn xếp của các dịch vụ trợ giúp tại địa phương cho các sự kiện nói trên của PCA. PCA đã ký Thỏa thuận hợp tác với Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) vào ngày 28/10/2019.
Dưới hình thức Hiện diện trực tiếp (Phygical precence) của PCA ở ngoài trụ sở chính của Tòa này, đối với một số khá ít quốc gia thành viên có chọn lọc của Công ước La Hay, PCA đã ký thỏa thuận với từng quốc gia thành viên nói trên để thiết lập Văn phòng Đại diện (VPĐD) của mình tại đó.
Có thể coi như việc thiết lập VPĐD của PCA tại một quốc gia cũng gần giống như việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, cấp đại sứ giữa PCA và quốc gia thành viên tương ứng, với một VPĐD tương tự như một “tòa đại sứ”, là tài sản thuộc sở hữu, hay thuộc quyền sử dụng của PCA ở nước nơi PCA đặt VPĐD. Đó là vì khi PCA lập VPĐD ở một quốc gia, thì trụ sở của VPĐD của PCA ở đó, với cơ sở hạ tầng có diện tích đủ lớn và với tiện ích đủ tốt sẽ thích hợp để làm địa điểm miễn phí cho việc tiến hành các công việc thuộc phạm vi dịch vụ của PCA như trọng tài, hòa giải, xác định sự thật và các hoạt động khác …
Cho tới nay, ngoài VPĐD mới mà sẽ được thiết lập ở Việt Nam, PCA trước đây mới chỉ ký thỏa thuận đặt VPĐD của PCA tại ba (03) quốc gia cho ba khu vực khác nhau trên thế giới, đó là Maritius (09/2010, cho khu vực châu Phi); Singapore (01/2018, cho khu vực châu Á); và Argentina (10/2019, cho khu vực Mỹ La-tinh).
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Quang Hiệu và ông Hugo Siblesz, đại diện PCA, ngày 27/10/2021. Photo Bao Quoc Te.
Ý nghĩa của việc đặt Văn phòng đại diện của PCA tại Việt Nam nói chung
Việc CPA đặt VPĐD tại Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng.
Trước hết, có thể coi đây là một là trường hợp rất đặc biệt, vì nếu chỉ xét về khía cạnh địa lý, thì châu Á, đặc biệt là khu vực ASEAN, sẽ có tới hai (02) VPĐD của PCA, gồm Văn phòng tại Singapore và Văn phòng tại Hà Nội. Điều làm chúng ta ngạc nhiên là, vì sao khi đã có VPĐD ở Singapore, mà nay PCA còn lập thêm VPĐD tại Hà Nội?
Điều này phải chăng đã thể hiện sự quan tâm của PCA đến xu hướng diễn biến tình hình trong giai đoạn mới trong khu vực, đặc biệt là xu hướng diễn biến tình hình tranh chấp biển và cạnh tranh sức mạnh mang tính chiến lược giữa các siêu cường trên cả hai vùng biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương? Thêm một VPĐD của PCA trong khu vực sẽ tạo cho các bên tranh chấp có khả năng lớn hơn, thuận lợi hơn trong việc lựa chọn địa điểm giải quyết các tranh chấp, phù hợp với bản chất tranh chấp, mục đích và các mối quan hệ đối ngoại đa chiều, tế nhị (tạm gọi là “khẩu vị đối ngoại”) của các bên tranh chấp.
Tiếp theo, đây rõ ràng là cơ sở rất thuận lợi để nâng cao thêm vị thế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, là cơ hội để Việt Nam phấn đấu trở thành một trung tâm giao lưu quốc tế được ưa chuộng ở châu Á, như Singapore hay Tokyo…, qua việc Việt Nam được PCA quảng bá như một địa điểm tiềm năng và nơi cung cấp các dịch vụ bổ trợ cho quá trình giải quyết các loại tranh chấp quốc tế, các hội nghị quốc tế, đặc biệt là các hội nghị, hội thảo quốc tế về UNCLOS (1982) mà có liên quan đến Biển Đông.
Ngoài ra, nếu xét thêm các lý do khác để PCA chọn Việt Nam làm nơi đặt thêm VPĐD thứ tư ở ngoài trụ sở chính của PCA, thì có thể phải lưu ý đến vị trí địa lý và mức độ liên quan đến Biển Đông của Việt Nam. Việt Nam là một trong năm quốc gia ASEAN có tuyên bố chủ quyền biển ở Biển Đông, nhưng Việt Nam lại là quốc gia có chiều dài bờ biển tiếp giáp với phần lớn nhất trong chiều dài của Biển Đông, và cũng có tranh chấp biển liên quan đến phần lớn diện tích Biển Đông, trong đó phần tranh chấp lớn nhất là với Trung cộng, thành viên khác của UNCLOS (1982).
Khu vực tranh chấp biển của Việt Nam cũng rộng nhất khi so với bốn nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền còn lại ở Biển Đông, nên sẽ tạo cho Việt Nam có nhiều vấn đề hơn, khả năng tranh chấp lớn hơn, và cũng tạo nên một vị thế đặc biêt để Việt Nam buộc phải có những hành xử “để người ta trông vào”. Đó có thể là một lý do để PCA ưu tiên tăng cường hợp tác với Việt Nam, và quảng bá cho Việt Nam nhiều hơn các quốc gia khác trong khu vực.
Cuối cùng, những điều nói trên có thể cũng là lý do có sức nặng để PCA tìm thấy Việt Nam như một khách hàng, và một đối tác tiềm năng có quan điểm thống nhất về ủng hộ nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế, đồng thời cũng có khả năng góp phần giúp PCA thực hiện nguyên tắc “luôn sẵn sàng phục vụ” (accessible at all times) để các nước trong khu vực Indo-Pacific có thể tìm thấy sự thuận tiện hơn nữa trong việc sử dụng các dịch vụ pháp lý của PCA.
VOA: Riêng về vấn đề tranh chấp Biển Đông, việc PCA có mặt ở Việt Nam có ý nghĩa gì trong con đường pháp lý mà Việt Nam đã từng đề cập nhưng chưa công bố xúc tiến bất kỳ vụ kiện nào đối với Trung cộng?
Ls. Nguyễn Thanh Tuân: Tôi không phải là một chuyên gia về Luật Biển (UNCLOS 1982) hay về giải quyết tranh chấp chủ quyền, nên trong vấn đề này chỉ xin bày tỏ một số ghi nhận và quan điểm tuần túy của cá nhân, như sau:
Ghi nhận hai luồng quan điểm về sự cần thiết của việc khởi kiện của Việt Nam đối với Trung cộng ở Biển Đông
Trong những năm gần đây, dư luận quốc tế và trong nước của Việt Nam thể hiện hai luồng quan điểm liên quan đến việc giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung cộng.
Luồng quan điểm thứ Nhất cho rằng Việt Nam cần theo gương Phi Luật Tân khởi kiện Trung cộng, ngay và luôn, tại PCA trên cơ sở Công ước về Luật Biển (1982). Những người giữ quan điểm này dựa vào nhận định rằng vụ kiện giữa Phi Luật Tân chống lại Trung cộng là vụ tranh chấp (chỉ) giữa hai quốc gia, do một Hội đồng Trọng tài đã được thành lập theo quy tắc xét xử của PCA riêng cho vụ kiện đó. Vì vậy mà phán quyết của Hội đồng Trọng tài sẽ chỉ có giá trị pháp lý cho riêng hai bên tranh chấp, mà sẽ không trở thành án lệ (precedent) có giá trị áp dụng cho tất cả các tranh chấp khác có bản chất và tình tiết tương tự mà liên quan đến khu vực Biển Đông. Chính vì vậy, nếu Việt Nam muốn bảo vệ chủ quyền của mình ở Biển Đông, thì cần phải kiện Trung cộng bằng một vụ kiện riêng để tìm kiếm có một phán quyết có lợi cho mình.
Luồng quan điểm thứ Hai cho rằng Việt Nam không nhất thiết, hoặc chưa đến lúc, phải đi kiện Trung cộng, bởi vì trong phán quyết năm 2016 của Trọng tài cho vụ kiện Phi Luật Tân vs. China liên quan đến Biển Đông, thì đã có nhiều phần của phán quyết đề cập đến cả những vấn đề có tính nguyên tắc, như là giải thích Công ước về Luật biển (1982), qua đó bác bỏ yêu sách lãnh thổ “đường lưỡi bò” của Trung cộng (ở toàn bộ Biển Đông), hay yêu sách quy chế đảo và vùng đặc quyền kinh tế cho các bãi đá được tôn tạo, bồi đắp thành “đảo” và/hoặc cho các thực thể vốn dĩ không có con người sinh sống người từ trước ở Biển Đông…
Theo những người chủ trương “khoan hãy kiện”, nhiều phần của phán quyết vụ Phi Luật Tân kiện Trung cộng được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận, đồng tình, trong đó đặc biệt có những điểm có hiệu lực trên toàn Biển Đông mà lại rất có lợi cho việc vận dụng UNCLOS để khẳng định và bảo vệ chủ quyền biển, bao gồm Vùng đặc quyền kinh tế và Thềm lục địa, của Việt Nam, một khi “đường lưỡi bò” đã bị vô hiệu hoá. Chính vì vậy mà phần vừa đề cập tương ứng trong Phán quyết Trọng tài 2016 cũng có thể được coi như “án lệ” (precedent) về Biển Đông mà có thể áp dụng cho tất cả các thành viên UNCLOS, trong các vụ việc có liên quan đến quyền tự do lưu thông và các quyền của quốc gia ven biển ở Biển Đông. Những “án lệ” như vậy đã tương đối đủ để xác định và bảo vệ phần cơ bản trong chủ quyền trên biển của Việt Nam.
Ngoài ra, những người chủ trương “khoan hãy kiện” cũng còn e rằng vụ kiện của Việt Nam, nếu có, sẽ có một Hội đồng trọng tài mới, mà trọng tài viên thì cũng chỉ là con người, nên nhỡ đâu họ bênh Trung cộng mà ra phán quyết khác với phán quyết của vụ Phi Luật Tân vs. China, thì có thể lại … gay cho Việt Nam chăng.
Ý nghĩa của sự có mặt ở Việt Nam của PCA trong con đường pháp lý thông qua việc khởi kiện đối với Trung cộng về Biển Đông
Về câu hỏi này của VOA, trước hết tôi tin rằng sự kiện PCA lập VPĐD ở Việt Nam sẽ không có ý nghĩa quan trọng cụ thể nào đối với một vụ kiện, nếu có, của Việt Nam đối với Trung cộng mà có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Trước hết, một khi Việt Nam đã đưa tranh chấp giữa Việt Nam với bất kỳ một bên tranh chấp nào khác ra PCA, thì đất nước Việt Nam, một bên tranh chấp và là nơi có VPĐD của PCA tại Việt Nam, sẽ không thể là “Nơi giải quyết tranh chấp”, kể cả trong khi cần hòa giải để giải quyết tranh chấp theo quy tắc của PCA, trừ trường hợp các bên tranh chấp cùng thỏa thuận (hy hữu) chọn Việt Nam và VPĐD của PCA tại Việt Nam là Nơi/Cơ quan giải quyết tranh chấp.
Nếu các bên tranh chấp không cùng thỏa thuận chọn Việt Nam là nơi giải quyết tranh chấp và/hoặc là VPĐD của PCA ở Việt Nam là cơ quan thụ lý giải quyết đơn kiện, thì Nơi/cơ quan giải quyết tranh chấp tiềm năng trong trường hợp này có vẻ như sẽ là Singapore (VPĐD của PCA ở Singapore) hay chính trụ sở chính của PCA tại Hà Lan.
Vậy là chẳng phải Việt Nam sẽ chẳng được “nhờ” gì ở VPĐD của PCA ở Hà Nội một khi Việt Nam khởi kiện Trung cộng ra PCA liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, hay sao?
Ngoài ra, khi quyết định khởi kiện, Việt Nam trước tiên cũng cần phải xem xét tổng thể các khía cạnh, điều kiện để có quyết định hợp lý, chẳng hạn như thời điểm khởi kiện; lý do khởi kiện, các tranh chấp cần được giải quyết trong vụ kiện, mục đích của việc khởi kiện; và hậu quả pháp lý, bao gồm lợi ích cụ thể có thể giành được từ việc khởi kiện và phán quyết của Trọng tài … Đối với việc xem xét để ra quyết định khởi kiện Trung cộng, nếu cần, thì Việt nam cũng chẳng “nhờ” được gì ở VPĐD của PCA tại Việt Nam. Chẳng phải như vậy hay sao?
VOA: Xin chân thành cảm ơn Luật sư.
VOA (03.11.2021)