Seite auswählen

Văn Tế Anh Hùng Tử Sĩ – 48 năm ngày giỗ trận hải chiến Hoàng Sa

đọc ở ĐÂY

 

HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974 QUA BÀI PHÂN TÍCH CỦA MỘT CỰU SĨ QUAN HẢI QUÂN HOA KỲ

BỐI CẢNH VÀ DIỄN BIẾN HẢI CHIẾN HOÀNG SA 1974

CARL O. SCHUSTER

Ngày 11/01/1974, các sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhận được báo cáo về những động thái của Trung Quốc trên hai hòn đảo của Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hai ngày sau, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa phái hai tàu khu trục Lý Thường Kiệt HQ-16 và Trần Khánh Dư HQ-4 tới thám sát.

HQ-16 tới đảo Hữu Nhật (Robert Island) vào 16/1 và nhận thấy đảo này đã bị “ngư dân” Trung Quốc, từ hai thuyền đang neo tại bãi ven đảo, chiếm đóng. Chỉ huy tàu HQ-16 lệnh cho những người Trung Quốc rời đảo và bắn thị uy để họ hiểu ý định của ông. Sau đó họ bắn và phá hủy các lá cờ Trung Cộng và một khu vực chế biến cá mà những “người đánh cá” triển khai 6 ngày trước đó. HQ-4 tới Hoàng Sa ngày 17/1 và phái một đơn vị đặc nhiệm SEAL của Nam Việt Nam lên đảo Hữu Nhật và đảo Quang Ảnh (Money Island) gần đó để nhổ những cờ Trung Cộng. Ngày 18/1, hai tàu chiến của Việt Nam Cộng hòa đuổi một tàu đánh cá bằng lưới rà của Trung Quốc, buộc con tàu bị phá hủy nặng nề này phải rời vùng biển. Sau đó các tàu khu trục Trần Bình Trọng HQ-5 và tàu quét mìn Nhật Tảo HQ-10 tới Hoàng Sa.

Chính quyền Việt Nam Cộng hòa nghĩ rằng đã chặn được nỗ lực trong suốt 6 tháng liền của Bắc Kinh nhằm chiếm nửa phía tây của Hoàng Sa. Những “ngư dân” có vũ trang của Trung Quốc trước đó hầu như đã đẩy được các ngư dân Việt Nam ra khỏi vùng biển Hoàng Sa, và ít nhất có hai tàu đánh cá Trung Quốc đã bị phát hiện đang hoạt động tại vùng nước mà Việt Nam Cộng hòa tuyên bố chủ quyền. Nhưng biến động gần nhất này của Trung Quốc lại là khởi đầu của một giai đoạn mới trong nỗ lực nhằm chiếm toàn bộ Hoàng Sa. Lần này, những “ngư dân” Trung Quốc là thành viên của lực lượng Dân quân biển – một lực lượng bán vũ trang của Hải quân Trung Quốc.

Hai chiếc tàu cá gần đảo Hữu Nhật báo cáo về Bộ Tư lệnh Hạm đội Nam Hải Trung Quốc. Ngày 16/1, Bộ Tư lệnh Hạm đội ra lệnh cho hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt đóng tại đảo Hải Nam tháp tùng lực lượng dân quân biển tới hiện trường, về mặt công khai là để bảo vệ ngư dân Trung Quốc, nhưng chủ yếu là để tập trung binh lực. Trung Quốc cũng hạ lệnh triển khai hai tàu quét ngư lôi. Bắc Kinh quyết định giải quyết tranh chấp tại Hoàng Sa bằng vũ lực nếu thời cơ cho phép.

Quần đảo Hoàng Sa gồm 130 đảo san hô, mỏm đá ngầm và bãi cát nằm rải rác trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông, cách gần đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200 hải lý) và đảo Hải Nam của Trung Quốc (162 hải lý). Diện tích của toàn quần đảo (chỉ tính mặt đất) là khoảng 3 dặm vuông. Hầu hết các đảo hợp thành Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía đông bắc và Nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) về phía tây, cách nhau khoảng 39 hải lý. Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh là lớn nhất trong các đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng 530 mẫu Anh.

Cho dù những tuyên bố chủ quyền của cả Việt Nam và Trung Quốc đều có từ các triều đại phong kiến xa xưa, gốc rễ của sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam gắn với những năm 1930 và các tham vọng của thực dân Pháp. Nước Pháp, cường quốc đô hộ Việt Nam từ 1858, đã đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ 1932 nhưng từ đầu không quan tâm đến việc chiếm giữ các đảo này trên thực tế. Điều này thay đổi vào năm 1937 khi cuộc chiến của Nhật Bản với Trung Quốc – vốn bắt đầu từ năm 1931 với việc Nhật chiếm Mãn Châu Lý – leo thang khi Nhật tiến quân sâu vào lãnh thổ Trung Quốc. Người Pháp lo Trung Quốc hay Nhật sẽ chiếm các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) nên đã đặt một trại lính gồm khoảng 100 lính Pháp và Việt tại đảo Phú Lâm vào năm 1938 như một khu đệm để mở rộng chu vi phòng thủ cho các thuộc địa Đông Dương của Pháp.

Nhà cầm quyền Anh ủng hộ bước đi này của Pháp vì nó mở rộng phạm vi phòng thủ của thuộc địa Malaya của Anh. Cả hai cường quốc châu Âu này cho rằng cuộc chiến tranh của Nhật chống Trung Quốc chỉ là bước đi ban đầu của kế hoạch chiếm các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á. Nhưng thay vì răn đe hành động của Nhật trên Biển Đông, việc đồn trú tại Hoàng Sa của Pháp lại khiêu khích Nhật. Nhật cho một đơn vị nhỏ lính thủy đánh bộ đổ bộ lên đảo Phú Lâm chỉ một tháng sau khi Pháp cho quân đồn trú. Quân đồn trú trên đảo đầu hàng, không nố súng chống lại. Nhật sáp nhập Trường Sa và Hoàng Sa vào năm 1941, tuyên bố chúng thuộc Đài Loan, đảo đang bị Nhật chiếm đóng lúc đó.

Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật ngày 6 và 9/8/1945, Tokyo bắt đầu rút quân khỏi các quần đảo này. Chính phủ  Trung Hoa Quốc Dân Đảng chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) hai tháng sau đó, và đặt một đồn trên đảo Phú Lâm vào tháng Giêng 1946. Pháp sau đó do không đẩy được quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng ra khỏi Nhóm đảo An Vĩnh bằng một cuộc biểu dương lực lượng hải quân đành tuyên bố chủ quyền đối với Nhóm đảo Lưỡi Liềm và đổ bộ một trung đội lê dương lên đảo Hoàng Sa (Pattle) để ngăn quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng chiếm đóng đảo này.

Chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng lặp lại yêu sách đối với toàn bộ Biển Đông năm 1947, xuất bản một bản đồ đưa các yêu sách lãnh thổ vào khuôn khổ một “đường chín đoạn” dọc vành ngoài của Biển Đông. Năm 1949, quân Trung Cộng đẩy chính quyền Quốc Dân Đảng ra Đài Loan. Nhật Bản từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951, nhưng không giao quyền kiểm soát của mình cho bất cứ một bên có yêu sách cụ thể nào khác, đẩy vấn đề sở hữu các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) rơi vào tình trạng không được giải quyết. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) tuyên bố rằng họ thừa kế các yêu sách đối với Biển Đông từ chính phủ Quốc Dân Đảng.

Mặc dù vậy Quân đội Việt Nam Cộng hòa đã chiếm đóng nhóm đảo Lưỡi Liềm từ năm 1954 và đặt một lực lượng đồn trú nhỏ trên ba hòn đảo. Trung Cộng giành quyền kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo Phú Lâm vào năm 1956. Ngư dân Trung quốc đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan) năm 1959 nhưng phía Việt Nam Cộng hòa đã đuổi họ đi.

Khi Chiến tranh Việt Nam leo thang, chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hải quân Mỹ, đã rút các đơn vị đồn trú của mình. Tới năm 1967, sự hiện diện của Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo chỉ còn một trạm khí tượng. Trung Quốc tỏ ra chấp nhận nguyên trạng.

Hai biến chuyển trong tình hình những năm 1970 đã thay đổi bàn cờ Biển Đông: các báo cáo về trữ lượng dầu tại thềm lục địa vùng này xuất hiện vào giữa năm 1972, và Hiệp định Paris về lập lại hòa bình ở Việt Nam chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam. Các lãnh đạo châu Á đột nhiên nhận thấy tranh chấp Biển Đông không chỉ là một vấn đề chính trị và hành chính, mà còn là vấn đề phát triển kinh tế. Nhóm thân cận với Mao tính toán rằng những phần thưởng về kinh tế lớn hơn những rủi ro xảy ra xung đột quân sự. Vả lại, những rủi ro đang giảm xuống.

Mao nhận thấy một chính phủ Mỹ đang rút chân khỏi Miền Nam Việt Nam sẽ thiếu ý chí dấn vào một cuộc xung đột khác, lại đang mong được Trung Quốc hỗ trợ chống lại một Liên Xô đang ngày càng thách thức hơn. Nguyên thủ Trung Quốc kết luận rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa khó có khả năng được Mỹ hỗ trợ, và sự tồn tại của nó cũng đang được tính bằng ngày. Nhóm thân cận với Mao cũng hiểu rằng Miền Bắc Việt Nam vẫn còn cần viện trợ của Trung Quốc trong nỗ lực chiến thắng Miền Nam Việt Nam, đồng thời đồng minh khác của Hà Nội là Liên Xô không có lực lượng trên địa bàn này để cản trở Trung Quốc hành động đối với các đảo (trên Biển Đông). Mao ra lệnh tiến hành một loạt những bước đi nhằm ép Việt Nam Cộng hòa từ bỏ Hoàng Sa.

Không biết các ý định của Bắc Kinh, Việt Nam Cộng hòa tuyên bố quyền kiểm soát về hành chính tại nhóm đảo Lưỡi Liềm vào tháng 8/1973 và một tháng sau cho phép thực thi các hợp đồng thăm dò dầu khí tại các vùng nước quanh nhóm đảo này. Cuộc đột nhập đầu tiên của đội tàu đánh cá của Trung Quốc xảy ra vào cuối tháng 7. Một số “ngư dân” có vũ trang, và ít nhất một tàu trong số này là loại bọc thép, nhưng chúng rút ngay mỗi khi các đơn vị Hải quân Việt Nam Cộng hòa tới. Sài Gòn triển khai các đơn vị đồn trú có quân số khoảng một trung đội trên ba hòn đảo thuộc nhóm đảo này.

Tháng 1/1974, các tàu đánh cá lưới rà số 402 và 407 của Trung Quốc đưa thủy thủ đoàn đổ bộ lên đảo Quang Hòa, thiết lập một trạm cung cấp, hầm hào, và cắm cờ Trung Quốc khắp trên đảo. Hải quân Việt Nam Cộng hòa bắt giữ một số tàu đánh cá Trung Quốc vào tháng 11 cùng thủy thủ đoàn của chúng. Các thủy thủ Trung Cộng bị đưa về Đà Nẵng nơi họ phải thú tội trên truyền hình về các hành động phạm pháp và các tội ác đối với nhân dân Việt Nam trước khi được thả. Nhưng những vụ tàu đánh cá Trung Quốc tấn công dân chài Việt Nam tiếp tục diễn ra. Cùng kỳ, Mao ra lệnh cho Hải quân Trung Quốc chuẩn bị hành động quân sự để hỗ trợ các ngư dân Trung Quốc.

Ngày 10/01/1974, một nhóm ngư dân Trung Quốc tiến hành đánh bắt cá tại đảo Hữu Nhật thuộc nhóm đảo Lưỡi Liềm. Nhóm này đã bị các dân chài Việt Nam phát hiện 3 ngày trước, nhưng họ không thông tin được cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cho tới khi về tới Đà Nẵng hôm 11/01/1974. Cùng ngày, Bắc Kinh ra tuyên bố nhắc lại chủ quyền không thể tranh cãi của nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như bãi ngầm Macclesfield, một đảo san hô vòng cách quần đảo Hoàng Sa 70 hải lý về phía Đông.

Nhận thấy những ý đồ của Bắc Kinh, Sài Gòn cử các tàu khu trục HQ-16, HQ-4, HQ-5, và tàu quét thủy lôi HQ-10 chở đội đặc nhiệm SEAL đến đảo Hữu Nhật. Hai trong số các tàu khu trục trên là thủy phi cơ đời Thế chiến II được cải tiến, tháo bỏ các thiết bị hỗ trợ thủy phi cơ, còn chiếc thứ ba là tàu khu trục hộ tống được cải tiến. Tất cả chúng ở trong tình trạng kém, thường xuyên xảy ra các vấn đề về kỹ thuật và vũ khí, khiến tốc độ và hỏa lực đều bị hạn chế.

Đến nơi vào ngày 16/1, các tàu chiến của Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng đuổi các ngư dân Trung Quốc đi. Tàu đánh cá (TQ) số 407 báo cáo sự việc HQ-16 tới lên Bộ chỉ huy dân quân biển tại Du Lâm trên đảo Hải Nam ngay sáng 16. Điện báo này về tới Bắc Kinh vài giờ sau.

Chiều tối hôm đó, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc phái hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 đón một đại đội dân quân biển gồm bốn trung đội (mỗi trung đội 10 người) từ đảo Phú Lâm đưa sang Nhóm đảo Lưỡi Liềm. Bắc Kinh cố gắng tăng viện cho quân của họ, nhưng giống như đối phương, tàu chiến của Trung Quốc cũng ở trong tình trạng tồi tệ.

Cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc – một cuộc thanh trừng chống các ảnh hưởng phi chủ nghĩa xã hội và các đối thủ của Mao – đã làm hư hoại gần như hoàn toàn các xưởng đóng tàu của nước này. Hơn 2 triệu nhà khoa học, kỹ sư, nhà giáo, công nhân lành nghề, cán bộ hành chính bị tù đày hoặc giết chết, gồm cả những người đã đóng và bảo dưỡng tàu bè của nước này cũng như mạng lưới đường sắt chuyển vật tư tới các xưởng đóng tàu.

Kết quả là tàu chiến tốt nhất của Hải quân Trung Quốc, các khu trục hạm loại Type 065 đã không thể khởi hành. Còn chiếc 271 vừa xuất xưởng và chưa hoàn tất việc chạy thử trên biển, và chiếc 274 với động cơ diesel ở tình trạng kém, không thể đạt tốc độ 18 hải lý/giờ. Vậy mà chúng vẫn nhanh hơn, được trang bị tốt hơn các tàu của hải quân Nam Việt Nam. Hai chiếc tiêm kích Thẩm Dương J-6, bản copy của MIG – 19 do Liên Xô sản xuất, yểm trợ đường hàng  không cho các tàu săn ngầm, nhưng không có năng lực hoạt động tầm xa đủ để trực chiến trên đầu các tàu khi chúng nhập cuộc sáng 17/1.

Vào rạng sáng 18/1, hai tàu Trung Quốc đã đưa được một trung đội dân quân biển lên đảo Duy Mộng, một trung đội khác lên đảo Quang Hòa tây, và hai trung đội lên đảo Quang Hòa. Các trung đội này lập tức tiến hành đào hầm hào và đặt mìn và bẫy phía trước trận địa của họ. Hai tàu rà thủy lôi loại Type 10 đóng ở Quảng Châu, mang số hiệu 389 và 396, được lệnh tăng cường cho các tàu săn ngầm loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274. Chúng cũng đến nơi vào cuối buổi sáng hôm đó.

Hai chiếc tàu chiến khác có thể hoạt động được lúc đó của Trung Quốc là hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam được điều từ Sán Đầu, cách đó khoảng 476 hải lý. Chúng tiến về Hoàng Sa với tốc độ tối đa, được tiếp dầu ở Trạm Giang, phía nam Hồng Kông, và tại Du Lâm. Các tàu chiến này được lệnh hỗ trợ các thuyền đánh cá của dân quân biển với điều lệnh chiến đấu “không gây sự; không bắn trước; nhưng nếu lâm chiến, phải thắng”.

Vào sáng sớm 19/1, hạm trưởng chia tàu của Trung Quốc thành hai nhóm: tốp đầu gồm 4 chiếc do các tàu săn ngầm Kronstadt dẫn đầu, và tốp sau gồm các tàu săn ngầm lớp Hải Nam vừa tới. Hạm trưởng được lệnh đáp trả mọi thách thức đối với các tàu đánh cá của dân quân biển và hỗ trợ các ngư dân trên các đảo nếu cần.

Hải quân Việt Nam Cộng hòa cũng chia thành hai tốp. Tốp đầu bao gồm các tàu khu trục HQ-4 và HQ-5. Tốp này chạy vòng quanh các đảo Quang Ảnh (Money) và Hải Sâm (Antelope) từ phía nam và tiếp cận đảo Quang Hòa. Tốp thứ hai gồm các tàu quét mìn HQ-10 và tàu khu trục HQ – 16, băng qua vùng đầm phá tại Nhóm đảo Lưỡi Liềm từ phía tây bắc.

Hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt của Trung Quốc chiếm vị trí để theo dõi các tàu HQ-4 và HQ-5, trong khi các tàu quét mìn loại Type 10 bám theo các tàu HQ-10 và HQ-16. Hạm trưởng HQ-16 dự cảm trận đánh sắp xảy ra – đã tăng tốc vượt lên các tàu quét mìn Trung Quốc, và 14 lính đặc nhiệm của Việt Nam Cộng hòa được đưa lên hai thuyền cao su để giành lại đảo Quang Hòa và Quang Hòa Tây. HQ-16 đâm mạnh và làm hỏng nặng tàu quét mìn 389; thủy thủ trên chiếc 389 bắn vào cầu tàu và ụ súng phía trước của HQ-16, giết hoặc làm bị thương hầu hết thủy thủ Việt Nam Cộng hòa trên đó. Cuộc giao chiến sau đó đã diễn ra theo như ý đồ của Trung Quốc.

Các lính đặc nhiệm, từng dự kiến có hải quân yểm hộ, nay phải một mình đối đầu với các tàu Trung Quốc. Họ lên bờ giữa ban ngày, đối địch với một lực lượng kẻ thù đông, cố thủ trong chiến hào trên cả hai đảo Quang Hòa và Quang Hòa Tây, nên nhanh chóng bị đẩy lùi. Họ cố trở lại các thuyền cao su dưới làn đạn kẻ thù, trong khi các tàu hải quân Việt Nam Cộng hòa dàn hàng ngang tiến thẳng vào đội hình địch, bắn vào buồng hoa tiêu của địch và tìm cách xoay chuyển thế trận thành một cuộc chiến của pháo tầm xa. Không may cho lực lượng Việt Nam, họ không có được tốc độ, do đó các tàu cơ động hơn của Trung Quốc có thể quyết định khoảng cách giao tranh. Hạm trưởng Trung Quốc ra lệnh: “Tăng tốc tiến lên, đánh cận chiến, thọc mạnh”. Biết rằng các tàu của mình trang bị kém và sẽ bị áp đảo trong một cuộc đấu súng tầm xa, hạm trưởng Trung Quốc quyết định dùng chiến thuật “giáp lá cà”. Sau 10 phút giao tranh, chiến trường đã thu hẹp từ phạm vi 2, 3 hải lý xuống còn vài trăm mét.

Các tàu săn ngầm lớp Kronstadt bắn cấp tập vào HQ-4, trong khi các tàu quét mìn Type 10 tập trung hỏa lực pháo 37mm vào chiếc HQ-16, nhằm vào buồng hoa tiêu, trung tâm thông tin và các radar. Bị bắn hỏng nặng, chiếc HQ-16 phải thoái lui. Các tàu quét mìn chuyển sang bắn vào HQ-10, nhằm vào kho đạn ở đuôi tàu, gây một tiếng nổ khiến phần động cơ phía trước con tàu này tê liệt.

Các tàu quét mìn chỉ cách HQ-10 có khoảng mười thước, khiến các nòng pháo còn lại của chiếc tàu Việt Nam Cộng hòa này không thể bắn vào những con tàu thấp và nhỏ hơn của đối phương đang tiếp cận sát thân tàu. Súng bộ binh của thủy thủ Trung Cộng quét dọc ngang sàn tàu và buồng hoa tiêu, sát hại thuyền trưởng và hầu hết thủy thủ điều khiển tàu.

Chiếc HQ-16 bị hư hại cố tiếp ứng cho HQ-10 nhưng bị đẩy ra xa bởi hỏa lực của quân Trung Quốc. Nó phải rút về phía đông nam, trong khi HQ-4 và HQ-5 rút về phía nam. Hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam của Trung Quốc tới nơi khoảng trưa 19/1, bắn tiếp vào chiếc HQ-10 khiến nó chìm vào lúc 1h chiều.

Cùng lúc, Bắc Kinh lo ngại Sài Gòn sẽ tăng cường quân cho các đồn còn lại trên các đảo, gồm khoảng 2 đại đội bộ binh trên các đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa (Pattle), và Quang Ảnh, và các lính đặc nhiệm còn sống sót. Hạm đội Nam Hải pha trộn một đội hình chắp vá gồm tất cả những đơn vị nào còn có thể lên đường: một tàu khu trục, năm tàu phóng lôi, và tám tàu tuần tra loại nhỏ. Được tổ chức thành ba đội tàu đổ bộ và vận tải, các tàu này chở 500 lính thuộc 3 đại đội bộ binh, một đại đội dân quân và một nhóm trinh sát vũ trang.

Đội tàu này triển khai thành đội hình thuận cho xuất phát. Tốp đầu gồm bốn chiếc tàu tuần tra và các tàu lưới rà của dân quân biển mang số hiệu 402 và 407, mang theo một đại đội bộ binh 100 lính. Tốp hai gồm một đại đội bộ binh và đội trinh sát thủy – bộ được rải ra trên bốn chiếc tàu tuần tra và chiếc tàu quét mìn 389. Chiếc tàu khu trục Nam Ninh, vốn là một tàu hộ tống của Nhật trước đây, trở thành thê đội ba, chở một đại đội bộ binh và được bổ nhiệm làm soái hạm của chiến dịch này.

Tốp đi đầu tiến công đảo Hữu Nhật, bắn pháo vào những người giữ đảo để đẩy họ khỏi bờ biển, rồi đổ bộ lính bộ binh bằng các thuyền cao su và xuống ba lá. Hữu Nhật thất thủ sau 10 phút. Thê đội 2 tiến đánh đảo Hoàng Sa (Pattle), đẩy 30 lính giữ đảo về phía giữa đảo nơi họ đầu hàng sau một giờ giao tranh. Trong trận đánh trên đảo này, Trung Quốc bắt được viên thiếu tá Việt Nam Cộng hòa chỉ huy lực lượng đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và viên cố vấn được phái tới từ Đại sứ quán Mỹ. Các lính đặc nhiệm trên đảo Quang Ảnh bỏ vị trí trước khi Hải quân Trung Quốc tiến công, trốn thoát được vài ngày trước khi bị bắt.

Cho đến cuối chiều 20/1, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc. Hơn 100 lính Việt Nam Cộng hòa bị giết hoặc bị thương, và 48 lính Việt Nam và một sĩ quan liên lạc người Mỹ bị bắt, so với 18 lính Trung Quốc bị chết, 67 người khác bị thương.

Đây là một thắng lợi lớn của Hải quân Trung Quốc: một tàu phá thủy lôi của Việt Nam Cộng hòa bị chìm, ba tàu khu trục bị hư hỏng nặng, so với hai tàu săn ngầm, một tàu quét thủy lôi và một tàu đánh cá của Trung Quốc bị hư hỏng nặng.

Trung Quốc dành 2 tuần tiếp theo để gia tăng sự hiện diện hải quân xung quanh các đảo và củng cố phòng ngự, bao gồm cả việc triển khai một tàu ngầm lớp Romeo và ba tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường lớp Thành Đô, mang theo các tên lửa hành trình chống hạm loại Styx.

Về chiến thuật, các đơn vị hải quân Việt Nam Cộng hòa có hỏa lực mạnh hơn đối phương, nhưng họ không có một hệ thống radar điều khiển hỏa lực, do đó phải bắn qua lỗ ngắm, làm giảm đáng kể khả năng bắn trúng các mục tiêu cơ động nhanh như các tàu tuần tiễu của Trung Quốc. Mặc dù tình trạng kỹ thuật của tàu chiến cả hai bên ngăn cản họ hành động ở tốc độ cao nhất, các tàu của Trung Quốc vẫn đạt được tốc độ tới 7-10 hải lý/giờ, một ưu thế khiến họ có thể quyết định cự ly giao tranh.

Một khi đã đạt được cự ly cách các tàu của Việt Nam Cộng hòa nửa dặm, các vũ khí nhẹ, tác xạ nhanh của tàu Trung Quốc và sự linh hoạt tạo cho họ một ưu thế rõ ràng. Chiến trường được quyết định trong một khoảng cách chỉ 200 thước. Không gian chỉ huy, hoa tiêu và liên lạc của các tàu Việt Nam đối mặt với hỏa lực tầm gần chính xác, và các pháo lớn của họ bị vô hiệu ở tầm bắn gần. Các tàu của Việt Nam đành rút lui, để các đơn vị đồn trú trên các đảo không được hỏa lực hải quân hỗ trợ.

Việt Nam Cộng hòa đe dọa sẽ trả đũa nhưng nhận thấy cán cân lực lượng hải quân nghiêng về phía Trung Quốc. Hơn nữa, Sài Gòn có nhiều mối lo đè nặng. Cơ quan tình báo Sài Gòn đang dõi theo các đường vận tải và chuyển quân của Bắc Việt đổ theo hướng qua Lào và đông Campuchia. Việc dồn quân dọc biên giới Việt Nam Cộng hòa là một dấu hiệu gây lo ngại về ý định của Hà Nội.

Cùng lúc, Hà Nội phản đối động thái này của Bắc Kinh nhưng không hành động gì. Bắc Việt vẫn cần sự ủng hộ của Trung Quốc để tổ chức, động viên lực lượng của mình cho trận đánh cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát Miền Nam Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước vào tháng 4/1975, Hà Nội nhanh chóng giành quyền kiểm soát các đảo do Việt Nam Cộng hòa nắm giữ trên quần đảo Trường Sa. Những năm sau chiến tranh, Việt Nam tiếp tục phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và duy trì tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo này, cũng như với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam tuy vậy chưa bao giờ tìm cách chiếm lại Hoàng Sa. Nước này còn bị thua trong một cuộc hải chiến vào những năm 1980 khi Trung Quốc tấn công ba đảo đá san hô do Việt Nam kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa.

Trong các cuộc giao tranh kể trên và trong các hành động gần đây, Bắc Kinh đã lặp lại các chiến thuật nó đã sử dụng vào năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa. Thứ nhất, cho các tàu đánh cá thâm nhập vùng tranh chấp, trong đó có cả các tàu đánh cá của lực lượng dân quân biển, để xua đuổi lực lượng bên kia. Các tàu của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được triển khai gần đó nhằm hỗ trợ các tàu đánh cá nếu cần, còn xa hơn là các nhóm tàu hải quân để hỗ trợ các tàu Hải cảnh. Cả lực lượng hải cảnh lẫn các đơn vị hải quân đều không bắn trước, nhưng nếu chiến sự xảy ra, họ sẽ phải chiến thắng. Trung Quốc cũng thiết lập một sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm và đồn trú quân trên một số đảo san hô mà họ chiếm được gần đây tại Trường Sa.

Việt Nam cũng đáp lại bằng cách vũ trang cho các tàu đánh cá của mình và thiết lập quan hệ đối tác quân sự với Ấn Độ và Nhật Bản, đồng thời tìm cách hợp tác quân sự với cựu thù Hoa Kỳ. Với 5 bên cùng tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc, Biển Đông đã trở thành một “điểm nóng” và kích thích một cuộc chạy đua vũ trang khu vực mà có người lo ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh mới.

—-

(*) Carl O. Schuster là một sĩ quan Hải quân đã nghỉ hưu sau 25 năm công tác, với những năm cuối cùng phục vụ trong ngành tình báo quân sự. Hiện sống ở Honolulu, Schuster tham gia giảng dạy chương trình Ngoại giao và Khoa học Quân sự tại Hawaii Pacific University.

* Nguồn: Carl O. Schuster, “Battle for Paracel Islands”, Historynet, 06/2017. Biên dịch: Lê Đỗ Huy | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

* Nguồn tiếng Việt: http://nghiencuuquocte.org/…/boi-canh-va-dien-bien-hai…/

 

 

Trận hải chiến Hoàng Sa 1974

đọc ở ĐÂY

Melbourne – Lễ Tưởng Niệm các Anh Hùng Tử Sĩ Trong Trận Hải Chiến Hoàng Sa (2021)

đọc ở ĐÂY

HỒI KÝ VỀ HẢI CHIẾN HOÀNG SA – HQ TRUNG ÚY HÀ ĐĂNG NGÂN – WICHITA, ngày 3-5-2005

 

Tôi là HQ/ Tr.u HÀ ĐĂNG NGÂN, thủy thủ của HQ10 và có tham dự trận hải chiến tại Hoàng Sa.

Tôi viết đoạn hồi ký này qua sự gợi ý của anh Thềm Sơn Hà, thời gian cũng khá lâu, nhiều chi tiết cũng đã quên, tôi xin viết lại những gì tôi thấy trong tầm mắt của tôi, không thêm bớt.

HOÀNG SA và HQ10

HQ10 đã hết hạn đi tuần ngoài Cửa Việt, trên đường về Đà Nẵng nghỉ bến và nhận thực phẩm, nước uống thì Hạm trưởng thông báo có lệnh khẩn cấp, quay mũi trực chỉ quần đảo Hoàng Sa và cố gắng đi với tốc độ nhanh nhất.

Theo lời Hạm trưởng, HQ10 ra Hoàng Sa trợ giúp hỏa lực cho hai chiến hạm của Hải quân Việt Nam (HQ/VN) đang thi hành công tác tại Hoàng Sa, đang bị tàu của Hải quân Trung cộng (HQ/TQ) đến Hoàng Sa lấn chiếm và khiêu chiến.

Trên đường đi, Hạm trưởng ra lệnh kiểm soát lại tất cả mọi ụ súng, đem đạn từ hầm đạn lên các dàn súng tối đa. Theo lệnh từ Sài Gòn, tất cả mọi khẩu súng đều phải bao lại và chỉa lên trời, cấm quay ngang.

Kiểm soát súng đạn xong, ông bảo những ai không thuộc phiên ‘đi ca’, cố ngủ để có sức cho những ngày kế tiếp.

Khoảng gần 11 giờ đêm ngày sau, HQ10 đến Hoàng Sa nhập vùng cùng 3 chiến hạm đang tuần tiểu.

Tại Hoàng Sa lúc này gồm có 4 chiến hạm của HQ/VN, 4 chiến hạm của HQ/TQ và một số tàu đánh cá ngụy trang của Trung quốc đang loanh quanh trong mấy hòn đảo nhỏ.

Hạm trưởng cũng ra lệnh mang lương khô để ở các nhiệm sở tác chiến càng nhiều càng tốt và từ lúc này không ai được rời nhiệm sở tác chiến. Ông cũng ra lệnh kiểm soát lại 4 phao cấp cứu, được báo cáo là tất cả phao còn tốt.

Mặc dù trời rất nắng, nóng nực, nhưng tất cả đều phải mặc áo phao và nón sắt, đây là một nghiêm lệnh của Hạm trưởng.

Bây giờ lấy quần đảo Hoàng Sa làm tâm, Hoàng Sa có 3 lớp bao bọc chung quanh, lớp thứ nhất là các tàu đánh cá ngụy trang của Trung quốc, lớp thứ hai là 4 chiến hạm của Trung quốc, lớp thứ 3 là 4 chiến hạm của HQ/VN.

Khi Rạng sáng ngày 19 tháng 1, trước khi nổ súng, chiến hạm của HQ/VN và chiến hạm của HQ/TQ cứ chạy ‘quấn quít’ với nhau, rất gần, có khi đụng cả vào nhau, nhưng cả hai phía, các súng lớn nhỏ đều còn bao bọc và chỉa lên trời, lính hai bên nhìn nhau, vẫy tay, cười…

Sau đó, nghe có tiếng súng nổ ở một hòn đảo nhỏ, qua liên lạc, Hạm trưởng cho biết một số thủy thủ trên HQ5 đổ bộ lên đảo nhỏ và lính Trung Quốc chiếm đảo, ở trong các hố cá nhân, đã nổ súng. Hạm trưởng ra lệnh tất cả sẳn sàng, xin phép thượng cấp mở bao súng và hạ súng xuống, nhưng lệnh chưa cho phép.

Bây giờ, sau khi súng đã nổ ở trên đảo; các chiến hạm của HQ/VN và HQ/TQ không còn quần thảo với nhau nữa, từ từ lảng xa nhau, nhưng vẫn không có lệnh mở bao súng.

Khoảng 9.00 sáng, các tàu của HQ/TQ dùng đèn tín hiệu cho nhau, từ từ các tàu đánh cá ngụy trang và 4 chiến hạm theo hàng dọc đi về phương Bắc, dần dần biến mất ở cuối chân trời. Mọi người ai cũng thở phào nhẹ nhỏm, hy vọng HQ/TQ đã rút lui.

 

Hai ngày qua, lúc nào thần kinh cũng căng thẳng, áo phao, nón sắt rất bực bội, bấy giờ được tạm cởi ra, xuống phòng ăn cơm rồi tắm gội cho sạch sẽ, ngủ một giấc cho lại sức. Ôi hạnh phúc biết bao.

Vừa đặt chân vào phòng tắm, còi nhiệm sở tác chiến đột ngột reo inh ỏi, chạy vội lên nhiệm sở, mặc áo phao, nón sắt, nhìn theo hướng chỉ ở trên đài chỉ huy, thấy có mấy vệt khói mỏng nơi cuối chân trời, rồi từ từ 4 chiến hạm của HQ/TQ rời vùng cách đây mấy tiếng, lại xuất hiện, đang chậm chậm vào vùng! Tôi thầm nghĩ chắc không ổn rồi.

Khi các chiến hạm của HQ/TQ đến gần các chiến hạm của HQ/VN, họ không đến gần như lúc sáng mà ở xa xa khoảng hơn 1 cây số, làm thành một vòng tròn bao HQ/VN ở trong.

Chạy loanh quanh với nhau chừng 2 vòng, các chiến hạm của Trung quốc từ từ lảng ra xa hơn. Như một dấu hiệu khác thường, Hạm trưởng liền xin lệnh trên cho mở bao súng, hạ nòng xuống, nạp đạn và đề phòng mọi bất trắc, nhưng lệnh trên không cho phép.

Chung nửa giờ sau, 2 trong 4 chiến hạm của Trung quốc xích lại chạy song song với nhau. Như một kinh nghiệm chiến trường thúc đẩy Hạm trưởng ra lệnh hạ nòng súng, tháo bao, nạp đạn sẳn sàng và quay súng về phía tàu Trung quốc.

Ít phút sau, hai tàu Trung quốc này chạy gần sát vào nhau và thình lình cùng quay mũi song song tiến về phía HQ10, hướng 3.00 giờ.

Hạm trưởng ra lệnh tất cả súng hướng về mục tiêu 1 và mục tiêu 2.

Tôi ở ụ súng lớn phía trước mũi (khẩu 76.2 ly) được lệnh nhắm vào mục tiêu 1.

Hạm trưởng lại xin lệnh nổ súng một lần nữa nhưng được trả lời chờ Sài Gòn quyết định.

Thần kinh thật căng thẳng, 2 tàu Trung quốc cứ từ từ đến gần, khi còn cách khoảng 200 thước – 250 thước, Hạm trưởng hét lớn “Bắn”. Tất cả hỏa lực trên tàu cùng nhả đạn. HQ10 khai hỏa đầu tiên do lệnh của chính Hạm trưởng.

Khoảng 5 phút sau, mục tiêu 1 bốc khói mịt mù và lùi lại phía sau, tất cả hỏa lực lại nhắm vào mục tiêu 2. HQ10 đến lúc này vẫn an toàn, đạn từ tàu Trung quốc bắn tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên mặt nước trước mặt.

 

Vài phút sau, mục tiêu 2 cũng bốc khói, mục tiêu 1 tuy còn chút khói bốc lên, chạy trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10 bắt đầu trúng đạn của tàu Trung quốc.

 

HQ10 bị trúng trái đạn đầu tiên ngay trên đài chỉ huy, Hạm trưởng cùng các sĩ quan và thủy thủ có nhiệm sở tác chiến trên đài chỉ huy chết hết, trừ Hạm phó bị thương nặng, bò xuống được sàn tàu.

 

Đạn vẫn nổ liên miên như pháo bông bên hữu hạm của HQ10, tôi vừa đở Hạm phó để ngồi dựa lưng vào vách nơi chân đài chỉ huy thì một tiếng nổ chát chúa, lửa loé chói mắt, tôi ngã quỵ xuống và tay phải không nhấc lên được nữa, chân trái cũng không cử động được, tôi nghĩ là tay phải và chân trái của tôi đều đã bị gãy, thấy máu ra ướt áo, ướt quần nhưng không có cảm giác đau đớn gì cả.

Chừng 5 phút sau, tiếng súng từ từ ngưng bặt, tứ phía đều im lặng, chỉ còn nghe tiếng nổ từ hầm đạn phía sau của HQ10 và khói bắt đầu bốc lên mù mịt, tiếng đạn nổ gia tăng dưới hầm đạn, tất cả mọi phương tiện chửa cháy, máy móc đều bất khiển dụng.

Tàu của HQ/VN và HQ/TQ cùng rút lui. Tại trận chiến chỉ còn HQ10 đang bốc cháy, hầm đạn đang nổ, cách HQ10 khoảng 400 thước – 500 thước là HQ16 cũng bị bất khiển dụng, tàu bị nghiêng.

Hạm phó ra lệnh rời tàu, những người còn khỏe mạnh lo việc thả 4 phao cấp cứu cùng giúp thả những người bị thương xuống phao, tôi rồi tới Hạm phó là người được thả xuống phao cuối cùng, ông cũng bị thương nặng.

Xuống phao xong, được khoảng hơn 20 người, chia ra 4 phao, phao nào cũng bị trúng đạn, riêng phao của tôi cũng bị trúng đạn bể một mãng lớn nên chỉ có thể ngồi được 8 người và nước ngập tới ngực.

Hạm phó rất tỉnh táo, ông bảo thủy thủ cố đem 4 phao lại gần nhau rồi dùng những dây có sẳn tua tủa chung quanh phao để cột 4 phao lại với nhau cho tàu tìm kiếm dể thấy, nhưng đừng sát nhau quá kẻo sóng xô dập rồi đè lên nhau.

Luồng nước chảy từ từ đưa chúng tôi rời xa HQ10, nhìn lại tàu, thấy tàu bị trúng đạn quá nhiều, lổ chổ như tổ ong.

Thôi giả biệt HQ10, giả biệt Hạm trưởng cùng các chiến hữu hy sinh trên tàu.

Gió hiu hiu, mặt biển rất êm, HQ10 cũng lửng lờ trôi sau chúng tôi khoảng 80 – 100 thước, không còn nghe đạn nổ, chỉ còn một ít khói bốc lên, xa xa khoảng 400 thước, hướng 4 giờ là HQ16 bị bât khiển dụng, vẫn còn nghiêng, không thấy ai lui tới trên boong tàu.

Khoảng nửa giờ …sau, chúng tôi thấy một luồng khói đen bốc lên từ ống khói của HQ16 rồi thấy có người tới lui trên boong tàu, lúc này, nhóm chúng tôi cách HQ16 khoảng 500 – 600 thước, ai nấy đều có chút hy vọng, vui mừng vì sẽ được HQ16 ghé đón lên tàu. Chúng tôi ngâm người dưới nước biển cả tiếng rồi, lạnh cóng chân tay rồi! Nhưng mà ủa sao càng ngày HQ16 càng chạy xa, sao không quay đầu lại vớt tụi tôi? HQ16 phải trông thấy chúng tôi và HQ10 chứ ? Thất vọng quá, bây giờ chỉ còn ta với trời và sóng nước bao la.

Chừng một khoảng sau, chúng tôi thấy có khói xuất hiện ở cuối chân trời, đoán thế nào cũng có tàu ra cứu hoặc HQ16 quay lại vớt, nhưng dần dần thấy 2 chấm đen, đến gần thì ra 2 tàu của HQ/TQ, chúng chạy chầm chậm về hướng HQ10, lúc này có tiếng súng bắn ra từ HQ10, 2 chiếc tàu Trung Cộng vừa chạy vừa bắn xối xả vào HQ10, một hồi sau tiếng súng trên HQ10 im bặt, tuy nhiên một chiếc vẫn tiếp tục bắn còn chiếc kia chạy lại chổ 4 phao của chúng tôi. Hạm phó dặn nếu bị bắt, bị đánh cũng đừng khóc, đừng van xin, nhưng chiếc tàu này chỉ chạy quanh chúng tôi 2 vòng, thủy thủ trên tàu vẫy tay cười rồi bỏ đi theo chiếc kia. Lúc tàu này chạy vòng thứ 2, chợt tôi có ý nghĩ tất cả chúng tôi có thể là mục tiêu sống cho họ nhắm bắn…

Khi mặt trời gần lặn, dòng nước đưa chúng tôi tới gần một hòn đảo nhỏ, cách khoảng gần 1 cây số, Hạm phó bảo có thể hơn một giờ nửa sẽ gặp được đảo và ông ân cần dặn nếu lên được đảo thì phải đào hố để che gió cho ấm và kiếm nước uống, tuyệt đối không được uống nước biển, sẽ chóng chết.

Mặt trời lặn chừng 15 phút sau là trời tối rất lẹ, hòn đảo nhỏ hướng chúng tôi trôi tới đang mờ dần khi đêm xuống, HQ10 thân yêu đang âm thầm theo sau cũng mờ dần, mờ dần, tàu bị hơi nghiêng, chỉ ít phút sau là trời tối mịt, không còn trông thấy gì cách xa chừng 5 thước, gió bắt đầu nổi lên, phao cứ lên xuống theo ngọn sóng, không còn ai nói với ai tiếng nào, ai cũng lạnh, khát và mệt.

Trời mờ mờ sáng, gió dịu dần. Khi trời sáng tỏ, tôi nhìn quanh quẩn không thấy có phao nào chung quanh, tôi nghĩ khi gió lớn, sóng to, các phao giằng co rồi đứt dây, bây giờ trôi nổi mỗi phao một hướng, không còn thấy gì chung quanh cả, chỉ có ta và biển cả bao la, quần đảo Hoàng Sa ở hướng nào? mình đang trôi về đâu? Còn HQ10 đâu rồ? sao không thấy bóng dáng đâu cả? Không lẽ trong đêm khuya u tịch, HQ10 thân yêu của chúng tôi đã âm thầm về với lòng đại dương trong đêm thâu chăng?

Khi mặt trời đã lên cao, kiểm điểm trong phao có 3 người hy sinh, trong đó có Hạm phó, phao còn lại 5 người và tất cả đồng ý thả những người chết ra, chỉ việc cởi áo phao là xác từ từ chìm. Tôi thầm cầu mong xin các anh phù hộ giúp chúng tôi vào được đất liền. Sau khi thả 3 xác người xuống biển, bây giờ nước ngập tới bụng.

Hôm nay ngày đầu tiên sau trận hải chiến Hoàng Sa, quanh đây chỉ có 5 người, không cất nổi tiếng nói, tay chân khó cử động, tôi băn khoăn không biết mấy phao kia có trôi loanh quanh ở đây không? Dòng nước sẽ đưa chúng tôi về đâu? Sao không thấy bóng dáng tàu của HQ/VN, HQ/TQ hay các thương thuyền qua lại?

Hình ảnh HQ16 lại lảng vảng trong đầu, sao lúc ấy HQ16 không trở lại đón bạn đồng đôi? Ít phút sau, tôi lại nghĩ nếu HQ16 quay lại vớt bọn tôi, có thể tàu Trung quốc quay lại gặp HQ16, lại bắn nhau, 1 sao cự lại 2, tình trạng còn thê thảm hơn chúng tôi nữa, nghĩ vậy nên tôi không còn hờn giận HQ16 nữa – Chúc HQ16 may mắn vào đến bờ!!!

Gần tối, trên phao lại có 2 người về cùng biển cả, bây giờ nước ngập dưới bụng, gió nổi lên, sóng to nhiều khi phủ cả đầu, tôi ở vào trạng thái ban ngày, phần cơ thể trên mặt nước thì nóng, phần cơ thể dưới mặt nước thì lạnh, ban đêm, phần trên mặt nước thì lạnh vì gió, phần dưới mặt nước thì lạnh vì nước – làm sao chống lại được cái lạnh đây?

Tôi nghĩ từ ngày thứ 3 là tôi bắt đầu hôn mê vì lạnh, tay chân không còn nhúc nhích được và cũng không còn cảm giác, mặc cho sóng nước đẩy đưa.

Có lẽ bây giờ là nửa đêm ngày thứ 4, tôi nhìn thấy một vùng sáng lớn ở cuối chân trời, tôi nghĩ có thể đó là dàn khoan dầu, một thành phố ở ven bờ biển hoặc một tàu đang đang đi tìm kiếm chúng tôi, cũng may là dòng nước lại trôi về phía ánh sáng, trong đầu tôi cũng loé lên một chút hy vọng nhỏ nhoi.

Không biết bao lâu, phao của tôi trôi tới gần vùng ánh sáng, tôi nhận ra đó là một chiếc tàu lớn đang đậu và trên tàu có rất nhiều đèn sáng chói, đang chớp tắt, chớp tắt như mời gọi chúng tôi, tôi biết họ đang làm hiệu cho chúng tôi nhưng chân tay tôi không còn cử động được, miệng môi sưng to, đau rát và cũng không đụng đậy được, làm sao làm hiệu cho họ biết mình ở đây ? Trên phao còn thêm 2 người nữa, tình trạng cũng như tôi, cả 3 chỉ ngôi im chờ phép lạ, có lẽ đạo ai thì âm thầm cầu theo ý mình, 3 chúng tôi thậm chí cũng không làm một dấu hiệu gì cho nhau được.

Bất chợt tôi nghe tiếng ‘Bo-Bo’ rất gần rồi từ từ im bặt, chỉ còn gió và sóng rì rào, tôi nghĩ vì có thể vì quá ước mong nên có cảm giác như vậy. Một lúc lâu sau lại nghe thấy như vậy, rất gần rồi lại mất hút – tôi nghĩ chắc chắn có ‘bo-bo’ đi kiếm chúng tôi, phía xa xa, tàu lớn vẫn đợi, đèn vẫn chớp.

Thật bất ngờ, tôi nghe tiếng máy “bo-bo” sát bên cạnh rồi ánh đèn pin rọi ngay vào phao của tôi, rồi mũi bo-bo kề ngay vào phao, có 2 người nhảy xuống biển, họ cởi áo phao và giúp đưa 3 chúng tôi nên bo-bo, tôi biết cả 3 chúng tôi đã được cứu sống…Tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời, tạ ơn Phật, tạ ơn những người thủy thủ giàu lòng nhân ái, đầy can đảm và kiên nhẫn tìm kiếm chúng tôi trong đêm đen mịt mù, tạ ơn thuyền trưởng đã hy sinh thời gian và tổ chức công cuộc tìm kiếm.

Tôi bị thương nặng nên không thể dìu lên tàu được, họ để tôi nằm trên sàn bo-bo, cho y tá mang theo cáng cứu thương xuống, anh y tá xem xét vết thương rồi cắt bỏ hết áo quần của tôi, anh ra hiệu cho tôi biết chân trái tôi bị gãy, tay phải gãy và vai phải bị bể, miễng đạn còn ghim ở xương vai, anh lấy bông gòn đậy vết thương rồi cùng một thủy thủ khác lấy mền bó chặt người và chân tay tôi vào máng cứu thương và trục lên boong tàu lớn…

Khi lên nằm trên boong tàu, một thủy thủ trước khi khiêng tôi vào phòng, nhìn tôi mĩn cười và giơ ra 3 ngón tay, tôi đoán là đã cứu được 3 người nhưng sau này tôi được biết phao của tôi được vớt là phao thứ ba, có 3 người trên phao … Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau, họ vớt được phao thứ 4 là phao cuối cùng.

Trên tàu không có bác sĩ, chỉ có một y tá nên họ cứ để tôi nằm im. Trong thời gian ở trên tàu này, Thủy thủ đoàn và vợ của ông Thuyền trưởng săn sóc chúng tôi rất tận tình, suốt đêm, cứ khoảng 15-20 phút, họ lại hé miệng chúng tôi ra và đổ vào miệng mỗi chúng tôi một chút sửa vì môi miệng ai cũng bị sưng to vì nóng, khát.

Đêm ở trên tàu, chúng tôi lại bị chết thêm một người nữa, có lẽ quá kiệt sức – cả thảy HQ10 còn sống sót 20 người.

Đến chiều ngày hôm sau, chúng tôi được chuyển qua tàu của HQ/VN rồi được đưa về Căn cứ Hải quân Đà Nẵng.

Nằm trên băng-ca được khiêng từ tàu xuống xe cứu thương để ra bệnh viện Duy Tân, tôi nghe nhiều tiếng ồn ào và được biết có một phái đoàn học sinh sinh viên vào cầu tàu chào đón chúng tôi về từ Hoàng Sa.

Nằm trên băng ca, tôi cũng nghe nhiều câu “Hoan hô anh hùng Hoàng Sa”, lòng cũng thấy nao nao.

Ôi tình dân và lính nồng nàn quá.

 

Tại bệnh viện Duy Tân – Đà Nẵng, các bác sĩ sau khi khám, chụp hình đều quyết định phải tháo khớp xương tay phải từ xương vai vì thịt chổ vết thương đã thối rữa hết. Tôi hết hồn và xin các bác sĩ cố chửa hoặc là tôi chết, nhất định không làm một phế nhân, tuổi tôi còn quá trẻ để làm anh cụt tay.

Với thời gian chửa trị cùng các động tác thể dục trị liệu, gần một năm sau, tôi lại tiếp tục phục vụ đất nước như ước mơ của bao người trẻ tuổi.

CHUYỆN BÊN LỀ HOÀNG SA

1- Trên chiếc phi cơ C130 chở những người bị thương ở Hoàng Sa, từ Đà Nẵng về SàiGòn, một thủy thủ cho tôi biết tên chiếc tàu vớt chúng tôi là Scopionella, tàu chở dầu của Hòa Lan. Khi chuyển chúng tôi qua tàu của HQVN, họ có tặng cho những người được vớt 2 thùng mền, 2 thùng khăn.

2- Ngày đầu tiên về đến Bệnh viện Bạch Đằng – SàiGòn, phái đoàn CTCT/HQ đến thăm đầu tiên, an ủi, khích lệ, đồng thời cũng vì để tuyên truyền, anh em đừng nói những gì ngược lại với những điều đã được báo chí truyền thanh và truyền hình đã loan tải.

3- Có một sĩ quan trong phái đoàn CTCT/HQ hỏi tôi:

– Trung Úy có thấy mấy chiếc tàu của Trung Quốc bị chìm hay bị cháy không?
– Tôi chỉ biết và thấy 2 tàu Trung Quốc bắn nhau với HQ10 thôi, tôi thấy cả hai cùng có khói bốc lên khá nhiều nhưng chính mắt thì không thấy có chiếc nào bị chìm cả.
– Lúc đánh nhau ở Hoàng Sa, có máy bay của Trung Quốc yểm trợ HQ/TQ không?
– Chỉ có ngày đầu, có 2 chiếc phản lực bay rất cao, vòng 2 vòng rồi về, từ đó không thấy có máy bay nào nữa cả.
– Có thấy HQ10 bị chìm hay bị tàu của Trung Quốc kéo đi không?
– Trước khi trời sụp tối hôm xảy ra trận chiến, HQ10 cũng lững lờ trôi phía sau chúng tôi, tàu bị nghiêng và có khói bốc lên. Qua đêm, đến sáng hôm sau thì không thấy HQ10 đâu nữa.
– Tàu Trung Quốc có dùng hỏa tiển bắn nhau với HQ10 không?
– Không, tôi nghĩ tàu HQ/TQ không có khả năng trang bị hỏa tiển.
– Ai ra lệnh bắn và bên nào bắn trước?
– Khi hai chiến hạm Trung Quốc tiến quá gần HQ10, Hạm trưởng đã ra lệnh nổ súng và HQ10 bắn trước.

4- Chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh tặng cho mỗi quân nhân dự trận Hoàng Sa một Hải Dũng Bội Tinh và được đặc cách lên một cấp, tôi nghe TV, báo chí có nói nhiều lần, bạn bè tôi đến thăm ở bệnh viện cũng chúc mừng, nhưng thực tế, bản thân tôi không được gì cả, cho đến nay tôi vẫn không hiểu tại sao? Những anh em khác có không?…

HQ/TrU Hà Đăng Ngân

_____________________________________________

Lời Phụ giải

Tôi được biết Trung úy Ngân vào khoảng đầu năm 1975 khi anh từ Trung Tâm Thặng Số thuyên chuyển về BTL/HQ/P3 (Phòng Hành Quân-HQ Trung Tá Vũ Nhân là Trưởng phòng).

Trong vài lần nói chuyện, Trung Úy Ngân có kể là anh đã ở trên HQ10 lúc xảy ra trận chiến Hoàng Sa, đã bị thương và đã ở trên cùng bè với Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Vào thời điểm lúc bấy giờ, tôi đã không hỏi thêm anh nhiều vì có bao giờ tôi nghĩ đến ngày phải bỏ quê hương, phải giả từ hải nghiệp!!!

Khoảng tháng 2-2005, tôi đọc email của cháu Nguyễn Thị Thanh Thảo (trưởng nữ của cố HQ Thiếu tá Nguyễn Thành Trí) có kèm theo bức thư của một chiến sĩ nặc danh thuộc HQ10 (theo suy luận của tôi thì có lẽ người này là Hạ sĩ Trọng pháo Trần Ngọc Sơn), bức thư này có tên những người xuống chiếc bè cuối cùng với Hạm phó Trí, trong đó có 2 SQ là HQ Trung úy Phạm Văn Thi, khóa 20/SQHQ/NT (viết lầm là Phạm Văn Ngữ) và HQ Trung úy Hà Đăng Ngân, khóa 8 OCS (viết lầm là Phạm Đăng Ngân).

Xem xong email, tôi có ý nghĩ liên lạc với anh để hỏi thêm vài chi tiết về HQ10, đồng thời khuyến khích anh viết ra những gì anh còn nhớ về HQ10 và trận hải chiến Hoàng Sa.

Sau nhiều lần liên lạc để kiểm chứng lại với anh về một số chi tiết, tôi đã được sự đồng ý của anh để phổ biến tài liệu này.

Xin trân trọng gởi lời cám ơn chân thành đến HQ Trung úy Hà Đăng Ngân đã cung cấp một tài liệu rất có giá trị về lịch sử.

Thềm Sơn Hà (Đệ nhị Hải sư)

 

Hồ Hải (HQ5)

Trưa ngày 17 tháng 01 năm 1974, HQ5 cặp cầu quân cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Hạm trưởng HQ Trung tá Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ/V1DH họp, chiều tối ông về thì sau đó không lâu, thấy HQ Đại tá Hà Văn Ngạc và gần 02 trung đội Hải kích/Người Nhái cùng lên tàu. Tối đó lệnh hành quân được phổ biến giới hạn, ngắn gọn: chiến hạm tham dự hành quân mang tên Trần Hưng Đạo 47 ra lấy lại Hoàng Sa nơi có quân Trung cộng (TC) lén lên cấm cờ một vài đảo nhỏ và đã đổ quân lên chiếm đóng đảo Quang Hòa (Ducan) thuộc nhóm đảo Nguyệt Thiềm gần 2 tuần trước. Quan niệm hành quân: “Cứng rắn, dứt khoát yêu cầu TC phải rút ra khỏi đảo, tránh dùng biện pháp quân sự, trừ trường hợp bất khả kháng.” Tôi là SQ trưởng ngành Vô tuyến – Điện tử thuộc Khối Hành Quân, cũng sẽ là SQ truyền tin bên cạnh Đại tá Ngạc, nên được nghe biết lệnh này. Đại tá Ngạc trên HQ5 để chỉ huy nên HQ5 là Soái hạm.

HQ5 ra đến Hoàng Sa, nhập vùng hành quân khoảng 3 giờ chiều ngày 18 tháng 01. Cùng đi với HQ5 còn có HQ10. HQ10 đang hỏng 01 máy chánh, chỉ còn 01 máy nên đi chậm, tối đó mới đến. Tại vùng Hoàng Sa, HQ4 và HQ16 đã có mặt trước đó.

Sau khi nắm tình hình do HQ 4 và HQ 16 báo cáo, Đại tá Ngạc chỉ thị HQ5 tiến gần về đảo Quang Hòa để quan sát. Ngay lập tức hai tàu TC loại Kronstad tiến nhanh đến ngăn cản, tàu mang số 274, chận ngay trước mũi cách HQ5 chưa đến 10 mét. Hai bên trao đổi quang hiệu, bên nào cũng yêu cầu đối phương rời khỏi vùng đảo này vì thuộc quyền sở hữu của mình. Tất nhiên là không bên nào chịu đi. Tình hình lúc đó rất căng thẳng bởi thái độ hung hãn, khiêu khích của quân TC có thể đụng độ bất cứ lúc nào. Vài tên lính TC cởi nút áo, chỉ vào ngực, ý muốn nói: bắn đi, dám không? 

Không quan sát được rõ trên đảo để ước tính quân số/phòng thủ của địch, hai bên chỉ quan sát được hỏa lực trang bị trên tàu của đối phương. Đại tá Ngạc báo cáo tình hình về BTL/HQ/V1DH (Đà Nẳng) và BTL/HQ/SGN. Sẩm tối, ông cho tàu lui về gần đảo Pattle, đây là đảo quan trọng nhất tuy không phải là đảo lớn nhất, tên tiếng Việt là Hoàng Sa. Đảo Quang Hòa và đảo này là 2 trong 7 đảo thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Trăng Khuyết) của quần đảo Hoàng Sa (Paracel), nhóm thứ hai là An Vĩnh cũng có 7 đảo nhỏ nằm xa về phía đông, bắc. Đảo Pattle trước kia có một tiểu đoàn TQLC trấn giữ sau rút xuống còn một trung đội Địa phương quân. Có đài khí tượng, hải đăng, miếu Bà, cầu tàu và bia chủ quyền.

Tại đây, trong đêm 18 rạng 19, Đại tá Ngạc ở trong phòng truyền tin rất nhiều giờ để liên lạc về Đà Nẳng, Saigon và các chiến hạm đang tham dự hành quân để thảo luận nhiều lần. Bên cạnh Đại tá Ngạc, những việc như điều chỉnh máy, thay đổi tần số, liên lạc với giới chức ông muốn gặp, cho ông biết ngay ai vừa gọi ông? (vì tất cả đều dùng danh hiệu truyền tin) mã hóa, mã dịch đều do chính tôi phụ trách vì tôi cũng là SQ Mật mã. Một vài sự kiện cần biết trước khi đi vào trận đánh.

1/ Đại tá Ngạc phân chia 4 chiến hạm thành hai Phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn I: HQ4 và HQ5 trách nhiệm phía tây-nam đảo Quang Hòa, nơi có hai tàu Kronstad 271 và 274 của TC án ngữ. Và Phân đoàn II: HQ16 + HQ10 ở phía bắc đảo, nơi có hai tàu 389 và 396 của TC canh giữ.  TC còn có 2 tàu nữa mang số 402 và 407, một loại tàu đánh cá có vũ trang. HQ16 và HQ4 phát hiện hai tàu này trước khi HQ5 ra vùng. Tuy nhiên 2 tàu này đã ở vòng ngoài chứ không trực tiếp tham chiến. Có thể vì ta khai pháo bất ngờ ngoài dự tính của chúng hoặc có thể 2 tàu này chỉ là tàu tiếp tế, giả dạng tàu đánh cá để lén chuyển quân, lương thực, không có đại pháo thích hợp cho một cuộc hải chiến?

2/ Các tàu nói trên của TC có trang bị đại bác 100 ly (sau này có tài liệu nói 88 ly) và 37 ly.  Khả năng tiếp ứng của TC thì tại Hải Nam có 02 tàu ngầm, có 4-6 tàu Komar trang bị hỏa tiễn stik và Mig 19 và 21. Đây là tin tức (địch tình) và sự lượng định trao đổi giữa Đại tá Ngạc và Sai Gon trong đêm 18/01. Về phía ta, đã tăng cường thêm 4 chiến hạm đang trên đường đi gồm HQ1, HQ6, HQ11 và HQ17. Về Không Quân thì phòng hành quân BTL/HQ đã liên lạc xin yểm trợ, chưa biết kết quả. Cho đến khi kết thúc trận chiến, 4 chiến hạm tăng cường chưa ra đến vùng và Không Quân không có tham chiến; tôi cũng không bắt được liên lạc trên tần số “không yểm” lần nào.

3/ HQ16 chuyển qua cho HQ5 một nhóm Công binh, họ từ trong đảo Pattle ra gồm có 01 cố vấn Mỹ, 01 thiếu tá Công Binh, và 3-4 quân nhân khác. Nhóm này theo HQ16 ra đảo Pattle từ mấy hôm trước để nghiên cứu dự án thiết lập đường bay trên đảo. HQ 5 chuyển qua lại cho HQ16 gần một trung đội Hải Kích, tôi không nhớ chính xác con số nhưng chắc không quá 30 người.

Toán Công Binh này ở trên HQ5 trao đổi với Hạm trưởng, Hạm phó, Đại tá Ngạc và vài SQ khác trong phòng ăn SQ, lúc đó tôi cũng có mặt để cho toán này mượn thêm một máy truyền tin PRC-25. Khoảng hơn 1 giờ sau thì họ trở vô lại đảo Pattle bằng xuồng của HQ5.

Khoảng giữa đêm, HQ5 trở lại đảo Quang Hòa và gần sáng toán Hải Kích dùng xuồng cao su để vào đổ bộ lên đảo. Trưởng toán này là Trung úy Đơn và một SQ khác là Trung úy Cảnh.

Toán Hải Kích rời tàu vào đảo, Đại tá Ngạc chỉ thị khẩu lệnh trực tiếp, giử im lặng vô tuyến nên trong phòng truyền tin tôi không hay biết nhưng khi đụng độ trên đảo, toán Hải kích báo cáo quân TC đã phòng thủ kiên cố, dàn quân nổ súng ngăn cản nên không thể nào tiến vào được, xin chỉ thị Đại tá Ngạc thì tôi mới nghe được trên máy PRC-25. Lúc đó đã mờ sáng. Cuộc đụng độ nhỏ trên đảo đã gây cho Trung úy Đơn, Hạ sĩ Long tử thương và 02 Hải kích khác bị thương.

Bên phía HQ4 có chở theo 01 trung đội Hải Kích, mấy hôm trước đã lên vài đảo nhổ bỏ cờ, bia chủ quyền của quân TC lén cấm xong rút đi, có thể vì đảo nhỏ không thể đóng quân lâu được, khó phòng thủ. Và, HQ16 có 01 toán Hải kích từ HQ5 giao qua đêm trước, họ đổ bộ ra sao, báo cáo với Đại tá Ngạc qua máy trên đài chỉ huy, không có tôi ở đó nên không biết rõ chi tiết vì nhiệm sở tác chiến của tôi từ đêm 18 đến hết trận đánh là ở phòng Vô tuyến, nằm bên vách hữu hạm. 

Đại tá Ngạc cho lệnh rút hết toán Hải Kích vừa chạm súng với quân TC về lại HQ5. Số quân nhân chết và bị thương mang về được ngoại trừ HS Đỗ Văn Long không tiến vào lấy xác được. Toán Hải kích rút hết về tàu khoảng 8-9 giờ sáng ngày 19 tháng 01.

Đại tá Ngạc báo cáo tình hình, thảo luận với Đà Nẳng và Sai Gon trên hệ thống siêu tần số.

Lúc 10:20 phút sáng, Đại tá Ngạc đang trong phòng truyền tin, tôi đứng bên cạnh, lệnh từ Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại:

– Anh nghe tôi được bao nhiêu?

Đại tá Ngạc đáp:

-3/5

– Tốt. Anh nghe rõ đây, quyết định tối hậu và sau cùng: Tác xạ ngay vào đảo và chiến hạm địch. Khi khai hỏa bấm combinet (ống liên hợp) cho tôi nghe tiếng nổ của đại bác.

Tôi thoáng thấy mặt Đại tá Ngạc đanh lại, nhíu mày và trả lời:

– Nhận rõ 5/5, thi hành.

Ông quay sang tôi:

– Máy (truyền tin) trên đài chỉ huy sẳn sàng?

Tôi đáp:

-Thưa, máy đã được remote (viễn khiển) hết lên đó rồi.

Ông rời phòng truyền tin đi ngay lên đài chỉ huy.

Hệ thống truyền tin trên HQ5 dùng liên lạc trong trận chiến:

-Hệ thống siêu tần số, ưu điểm là mạnh dùng liên lạc tầm xa với các đơn vị như Trung Tâm Hành Quân BTL/HQ Sai Gon, BTL/ Hạm Đội, các BTL/HQ Vùng Duyên Hải và các chiến hạm tuần dương, Không Quân, BTL Vùng chiến thuật. Khuyết điểm là các vùng xa có khi gặp thời tiết xấu, bị nhiễu âm, giao thoa với các tần số khác. Nhiệm sở tác chiến tôi phụ trách hệ thống này.

-Hệ thống liên lạc sóng ngắn, tầm gần trong vòng 50 km (các máy PRC-25 và VRC-46 Bộ Binh thường dùng). Hai loại máy này liên lạc tốt, đều có đặt trên đài chỉ huy, phòng hành quân và phòng truyền tin. Trong vùng hành quân ở Hoàng Sa xa bờ, chỉ có 4 chiến hạm của ta, không có đài khác trong “hợp đài” nên Đại tá Ngạc đã dùng để liên lạc chỉ huy trận chiến. Thượng sĩ phụ tá truyền tin của tôi phụ trách hệ thống này nhưng chỉ được nghe/ghi vào nhật ký truyền tin các trao đổi của cấp chỉ huy, thay đổi tần số dự trữ khi cần /có yêu cầu, không được lên tiếng nếu không có lệnh.

Đúng 10:24 phút, ngày 19 tháng 01 năm 1974, tức là 4 phút sau từ lúc Đại tá Ngạc nhận lệnh, rời phòng truyền tin, lên đài chỉ huy quan sát rõ vị trí của ta và địch, ông đã ra lệnh các chiến hạm đồng loạt nổ súng.

Khi ta khai pháo thì ngay lập tức TC bắn trả lại dữ dội vì hai bên đã ở vị trí nhiệm sở tác chiến, ghìm nhau từ đêm hôm trước, một kèm một.

Tổng quát trong 30 phút giao chiến, ghi nhận được qua báo cáo trên hệ thống truyền tin: (tổng kết tổn thất đã được phổ biến trên nhiều tài liệu trước đây nên không lập lại.)

– Ngay từ 10 phút đầu, HQ 10 báo cáo (cho Đại tá Ngạc trên đài chỉ huy): đài chỉ huy (HQ10) bị trúng đạn, Hạm trưởng bị thương nặng, tiếp theo là Hạm phó bị thương, hầm máy bị trúng đạn, SQ Cơ khí chết, số binh sĩ chết … Hạm trưởng đã chết… cháy nhiều nơi không chữa lửa kịp, nước vô nhiều, tàu không vận chuyển được v.v..  nhiệm sở đào thoát (thuật ngữ của Hải Quân/Hàng hải Thương thuyền đào thoát có nghĩa là thủy thủ đoàn được lệnh rời tàu khi tàu sắp chìm, không có nghĩa là đào thoát trước địch quân khi giao tranh.)

– HQ4: cũng chỉ trong vòng 10 phút đầu báo cáo 01 trong 2 đại bác 76 ly 2 bị trở ngại, Đại tá Ngạc phải cho lệnh lui ra xa đề sửa. Hơn 5 phút sau báo cáo súng đã sửa xong, khai hỏa lại. Vài phút sau lại báo cáo súng trở ngại, đã có 01 SQ và 01 HSQ chết. Đại tá Ngạc cho lui ra sửa nữa.

  HQ16 phía tây bắc đảo, báo đã bắn trúng tàu 396 của TC cháy, sắp chìm. HQ16 bị trúng đạn, hỏng 01 máy chánh, nước vô nhiều, tàu nghiêng 15-20 độ, vận chuyển khó khăn. Phút thứ 20-25)

– HQ5: Tôi trên HQ5 nên ghi nhận chi tiết hơn. Đại bác 127 ly bị trúng đạn nổ ngay trong pháo tháp cũng trong vòng 10 -15 phút đầu giao tranh quyết liệt. SQ trưởng khẩu chết, hệ thống bắn điện hỏng phải quay tay nên sau đó bắn rất chậm. Vài phút sau, nhân viên truyền tin (nhiệm sở trên đài chỉ huy) báo tôi biết qua điện thoại nội bộ: mình bắn trúng “thằng” 271 của nó cháy, sắp chìm đang lết vào đảo. 01 trái đạn 100 ly trúng phòng Viễn ấn tự, điện tắt, 3 máy Viễn ấn hỏng. Hai khẩu “40 ly đôi” sau lái 01 bị trúng đạn bể hộp cơ bẩm, chỉ còn một.

Kho Điện tử bị trúng đạn cháy, phải huy động tối đa nhân viên chữa cháy vì kho chứa đạn 127 ly dự trữ ở sát cạnh đó, sợ nóng nổ nên phải chuyển hết đạn gấp lên tầng trên.

Phút thứ 20 phòng truyền tin bị thêm 01 trái 100 ly, một vài máy hỏng do trúng mảnh đạn, các máy phát của hệ thống siêu tần số bị mất công suất do hộp anten trên sân thượng bị trúng đạn bể. 10 phút sau cùng HQ5 chỉ liên lạc được với các chiến hạm tham dự bằng các máy PRC-25 và VRC-46 tầm gần như đã nói trên vì các máy này không dùng chung anten của hệ thống siêu tần số thiết trí trên trụ cột tàu.

Lúc khoảng 11 giờ, tức sau gần 30 phút giao tranh, nghe tàu mình bắn chậm và cũng bị trúng đạn ít hơn, tôi và một Trung sĩ Điện tử (Thượng sĩ phụ tá ngành Điện tử của tôi đã bị tử thương trước đó) chạy nhanh lên sửa lại anten. Lên đến sân thượng tôi chỉ còn thấy 01 chiến hạm TC, xa khoảng 2-3 miles (3-5 km), trên không còn những cụm khói mờ đục chưa tan hẳn, tàu tôi đang quay mũi về hướng đó, hai bên bắn nhau có vẻ như cầm chừng, bắn đuổi chứ không quyết liệt như lúc đầu.

Vì lo sửa gấp hộp anten để có máy cho Đại tá Ngạc và Đà Nẳng, Sai Gon liên lạc nhau nên tôi đã không quan tâm đến việc như tàu tôi lúc đó đang ở gần đảo nào? Quanh đó còn có tàu nào khác của ta và địch không?  v.v…

11:30 phút khi tôi sửa xong anten xuống lại phòng truyền tin để chỉnh lại các máy đã mất công suất thì được nhân viên tôi cho biết, qua HQ16 (hoặc HQ4 tôi không nhớ rõ) chuyển tiếp, Đà Nẳng và Saigon đã nắm được tình hình tổng quát, Đại tá Ngạc nhận được lệnh lui ra khỏi vòng chiến để cấp bách sửa chữa và chờ lệnh.

Theo nhật ký truyền tin, hai bên ngưng hẳn tiếng súng lúc 11 giờ 05 phút. Nghĩa là trận đánh vừa đúng 30 phút.

 Máy liên lạc tầm xa hoạt động lại nhưng còn yếu và lúc đó trời sắp mưa, thời tiết xấu. Đại tá Ngạc liên lạc về Đà Nẳng và Saigon rất khó khăn. Công điện “thượng khẩn”/ “mật” báo cáo tình hình chiến trường, hỏa lực, thiệt hại vật chất, tử thương, bị thương v.v… chuyển đi rất khó, nhờ đài bạn trung gian chuyển tiếp, sau đó phải chuyển trực tiếp lại vì bản mã mà sai vài chữ (mẫu tự) là không dịch ra bạch văn đúng nghĩa được.

Gần 3 chiều thì chúng tôi được lệnh cho về Đà Nẳng để chuyển tử thi và những chiến binh bị thương lên bờ, ưu tiên sửa chữa cấp tốc những hư hỏng.

Về đến bến Tiên Sa, chúng tôi thấy HQ16 đang có mặt ở đó. Sáng hôm sau thấy có Trung tướng Ngô Quang Trưởng, TL Vùng I chiến thuật đến thăm. Chúng tôi nghe HQ16 bị 01 trái đạn 127 ly bắn trúng thì biết ngay là của HQ5 vì tại chiến trường chỉ có HQ5 và HQ16 có 127 ly. May mà viên đạn không nổ nên chỉ phá vỏ tàu một lỗ to hơn miệng bát (tô), nước vô chỉ một phòng đó thôi vì các phòng ngăn đều có cửa kín nước. Nếu viên đạn nổ, phá thủng và mảnh đạn cắt nhiều vách ngăn nước khác thì là tai họa lớn rồi.

Như trên tôi đã trình bày, đội hình tác chiến, HQ5 phía tây nam đảo Quang Hòa, HQ16 phía tây bắc. Khi đánh nhau biển sóng 2, cao khoảng 1-1.5 mét nhưng khi 3 đại bác nổ cùng lúc, tàu giật mạnh và chao đão, sóng cạnh tàu có thể cao 2-3 mét. Dĩ nhiên phía tàu địch cũng vậy. Viên đạn bắn trượt tàu TC bay sang trúng HQ16 bên phía tây-bắc không có gì khó hiểu. Trong chiến tranh, pháo binh, phi cơ bắn nhằm mục tiêu, trúng phe ta không phải là chuyện chưa từng xảy ra.

HQ5 về đến Đà Nẳng tối 29 Tết âm lịch, cặp cầu Tiên Sa, chuyển thương binh, tử sĩ xuống,   sửa chữa, tiếp liệu … được hai hôm thì có lệnh quay ra lại gần vùng hành quân để tìm vớt nhóm thủy thủ đoàn HQ10 đã rời tàu hôm trước nay vẫn chưa biết được tin tức. Ra vùng tìm một ngày một đêm không gặp được ai hoặc dấu vết nào, HQ5 nhận lệnh trực chỉ Trường Sa để tham gia cuộc hành quân Trần Hưng Đạo 48 cùng với các chiến hạm HQ17, HQ7 và HQ 405, chỉ huy trưởng hành quân là HQ Đại tá Nguyễn Văn May. Có thể Trường Sa cũng đang bị TC hay Bắc Việt thừa cơ hội này muốn chiếm lấy?

Thời gian từ đầu năm 1973, sau hiệp định Paris, Hải Quân tăng cường tuần tiểu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhiều hơn thời gian trước đó. Các tàu lớn như tuần dương hạm, khu trục hạm, hộ tống hạm …thường xuyên thay nhau hành quân, tuần tiểu, túc trực canh giữ.

Trận Hoàng Sa không phải là một trận chiến lớn nếu xét về lực lượng tham chiến và tổn thất của đôi bên so với hàng trăm ngàn trận đánh của quân đội VNCH trong suốt 20 năm chiến tranh. Trận chiến được người dân VN quan tâm, nhắc nhở đến bởi đó là trận hải chiến mấy trăm năm mới có một lần, địch quân lại là kẻ thù phương bắc, từ bao thế kỷ lúc nào cũng âm mưu xâm chiếm nước ta. Trận Hoàng Sa được nhắc đến, vinh danh, tưởng niệm nhiều hơn kể từ sau biến cố ngày 14 tháng 3 năm 1988 ở Gạc Ma, Trường Sa. Tôi không nói đó là trận chiến vì 64 chiến sĩ HQ của csVN nhận lệnh của bộ trưởng quốc phòng Lê Đức Anh không được bắn lại. Họ làm bia thịt cho quân TC tự do tác xạ. Họ chết trong oan ức, tủi nhục! Nhà nước csVN không hề lên án Tàu cộng và cũng không làm lễ tưởng niệm chiến sĩ của họ. Từ đó, TC ngang ngược lấn chiếm hải phận Việt Nam, ngư dân Việt Nam bị tàu TC bắt giữ, tich thu, đánh đập, bắt nộp tiền chuộc v.v… nhưng nhà nước cs VN lúc thì “tàu lạ”, lúc thì “quan ngại sâu sắc”! Hơn một thập niên qua, những sự kiện như Formosa, người Tàu vào Việt Nam cư ngụ, kinh doanh khắp nước, chuyện đặc khu 99 năm v.v…  Người dân yêu nước phản đối thì bị nhà nước cho công an, côn đồ thẳng tay đàn áp, trù dập, tù tội. Điều mà dưới thời VNCH chưa bao giờ nghe thấy. Chính hành động nhu nhược với kẻ thù nhưng ác với dân mình của nhà nước csVN đã làm cho người dân trong và ngoài nước ngày càng tưởng niệm, vinh danh, tri ân các chiến sĩ Hải Quân VNCH đã hy sinh trong trận chiến Hoàng Sa năm xưa như một biểu tượng của tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải.

Trận hải chiến Hoàng Sa, người chết, đã hy sinh đời mình cho đất nước, đã nằm yên trong lòng biển Mẹ Việt Nam. Họ đã là những anh hùng.

Người sống, thuật lại trận chiến, lẽ ra chỉ nên thuật lại những gì thuộc nhiệm sở của mình và những điều mình biết chắc là đúng nhưng đáng tiếc và đáng trách vì có người đã không tự chế, lấn sang các lãnh vực khác, nhiệm sở khác, chủ quan suy diễn theo ý mình nên đã có những điều bất nhất gây tranh cãi. Hậu quả đã bị kẻ xấu xuyên tạc, mỉa mai; báo lề đảng và những cánh tay nối dài, ma đầu chính trị đã dựa vào đó mà khai thác, đánh phá.

 

Kết: Tàu cộng so với Việt Nam, họ là nước lớn, mạnh hơn nhiều lãnh vực, đặc biệt là về quân sự. Trận Hoàng Sa năm 1974 ta không đánh đuổi được chúng, đã mất Hoàng Sa từ đó đến nay. Điều quan trọng cần phải được ghi nhận là: vị nguyên thủ quốc gia VNCH đã đích thân chỉ thị phải đánh đuổi TC ra khỏi đảo. Vị Tư lệnh Vùng I Duyên Hải đã ra lệnh cho Chỉ huy trưởng hành quân nổ súng vào chiến hạm và quân TC trên đảo và, Hải Quân VNCH đã thi hành đúng phương châm: Danh Dự – Tổ Quốc – Trách Nhiệm.

Thắng/thua một trận chiến (battle) là chuyện bình thường trong mọi cuộc chiến (war). Trận đánh Hoàng Sa là một hành động khẳng định với người dân Việt Nam và thế giới biết rằng Hoàng Sa là của Việt Nam, một chứng liệu cần được ghi vào hải sử, quân sử, lịch sử để các thế hệ sau tiếp tục tranh đấu giành lại.