Seite auswählen

Việt Nam năm thứ 15 liên tiếp bị đề nghị đưa vào "quốc gia cần quan tâm đặc biệt"Những người mặc đồ bảo hộ y tế khống chế người dân trong đám tang của người sáng lập đạo Dương Văn Mình tháng 12/2021

 Người dân cung cấp cho RFA

Chính quyền Việt Nam năm thứ mười lăm liên tiếp bị Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) đề nghị chính phủ Mỹ đưa nước này vào danh sách “các quốc gia cần quan tâm đặc biệt” (CPC) về tự do tôn giáo. 

Quốc gia độc đảng này cho đến nay vẫn duy trì các rào cản pháp lý nhằm cản trở việc hình thành các tổ chức tôn giáo, và thực hiện các hành vi đàn áp người theo niềm tin tôn giáo mà chính quyền không cho phép.

Báo cáo mới nhất được công bố hôm 7 tháng 2 về tình hình ở Việt Nam của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, một đơn vị tham vấn độc lập của lưỡng đảng chuyên giám sát tự do tôn giáo trên toàn thể giới.

Theo bản báo cáo này, trong năm 2021, mặc dù đã có những tiến bộ đáng chú ý so với pháp lệnh tôn giáo trước đây, nhưng Luật tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực đầu năm 2018 vẫn còn hạn chế về bản chất và còn vướng mắc bởi việc áp dụng không đồng đều và thiếu nhất quán trong cả nước.

Sự đàn áp của Chính phủ tiếp tục là một thực tế khắc nghiệt đối mặt với các nhóm tôn giáo độc lập chưa đăng ký, với nhiều người trong số họ bị coi là tôn giáo “kỳ lạ, sai lầm hoặc dị giáo”.

Ba vấn đề nổi cộm liên quan đến tự do tôn giáo ở Việt Nam được nêu ra trong báo cáo này gồm:

Việc nhà nước đặt ra các điều kiện ngặt nghèo về mặt pháp lý để cản trở các hội nhóm tôn giáo được hình thành, mà điển hình là Luật Tôn giáo Tín ngưỡng năm 2018, thứ hai là các chiến dịch đàn áp nhắm đến các hội nhóm tôn giáo độc lập, và thứ ba là bỏ tù các tín đồ, chức sắc tôn giáo hoặc những người hoạt động về quyền tự do tôn giáo.

Trả lời phỏng vấn của Đài Á châu Tự do, ông Nguyễn Kim Lân, Chánh trị sự của cộng đồng theo đạo Cao Đài năm 1926 tại tỉnh Vĩnh Long cho biết nhận định về bản báo cáo trên:

Đúng là như vậy, tôi rất là đồng tình (với bản báo cáo). Nói tóm lại là những sinh hoạt của chúng tôi bây giờ không được nhìn nhận, Nhà nước vui thì làm thinh còn không vui thì hạn chế, đàn áp. Chứ còn không có một cái căn bản gì hết, mà chỉ giống như sống ngoài vòng pháp luật vậy thôi.

chua-lien-tri.jpeg

 

Hòa Thượng Thích Không Tánh bên tàn tích của chùa Liên Trì bị chính quyền cưỡng chế năm 2016

 

Không được công nhận bởi pháp luật vẫn là cái cớ thường được sử dụng bởi chính quyền mỗi khi nhắm đến một cộng đồng tôn giáo nào đó. Tuy nhiên, được công nhận bởi pháp luật cũng không đồng nghĩa với việc được tự do hoạt động. Ông Nguyễn Kim Lân nói thêm:

Khi mà mình không đăng ký thì mình có thể làm theo ý của mình, Nhà nước mà không đồng ý thì đàn áp. Còn nếu mình đăng ký thì có những cái Nhà nước cho hay không thì Nhà nước (kiểm-PV) duyệt. Nếu mình chịu đăng ký mà (có những chuyện-PV) Nhà nước không đồng ý nhưng mình vẫn làm thì Nhà nước họ đánh mình đó.

Về vấn đề các tổ chức tôn giáo độc lập bị gây khó dễ khi hoạt động, ông Lê Quang Hiển, Chánh thư ký Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo Thuần tuý xác nhận là có thật, ông cho hay:

Nhà nước này, đối với những tôn giáo độc lập không theo nhà cầm quyền, tức là không theo Mặt trận Tổ quốc, thì sẽ bị hạn chế về quyền tự do tôn giáo, ví dụ như làm lễ, đi đứng, thậm chí có khi bị phong toả không cho ra khỏi nhà để đi đến những điểm lễ của đạo mình.

Cũng theo vị chức sắc của Phật giáo Hoà Hảo này thì các hoạt động tôn giáo của đạo thường bị chính quyền ngăn cản theo hai cách, một là phong toả nơi diễn ra hoạt động tôn giáo và hai là canh me, ngăn chặn không cho tín đồ của đạo rời khỏi nhà mỗi khi có dịp lễ của tôn giáo.

Hình thức đàn áp nghiêm trọng nhất mà Nhà nước thực hiện đối với các tín đồ của những niềm tin, tôn giáo không được công nhận, theo báo báo của Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ là việc bỏ tù những người chống lại ý chí của Nhà nước.

Một trong những cộng đồng tôn giáo chịu hình thức đàn áp này một cách nặng nề nhất, là những người theo đạo Tin Lành ở khu vực Tây Nguyên.

Cô H Biap Krong, người có hơn mười năm kinh nghiệm theo dõi tình hình tự do tôn giáo của các cộng đồng ở Tây Nguyên cho RFA biết thêm về vấn đề này:

Số người Tây Nguyên bị bắt từ năm 2000 cho tới bây giờ thì cũng hơn cả 500 người bị bắt đi tù vì cái tội đấu tranh tự do tôn giáo. Đa số họ, là những cái người lãnh đạo trong hội thánh, hoặc là những tín đồ phụ tá của các lãnh đạo hội thánh, hoặc là tín đồ sốt sắng trong các việc phục vụ Chúa trong các nhà thờ.

Cô cũng cho biết người Êđê và người Gia Rai là hai sắc dân chịu đàn áp nặng nề nhất trong số các sắc dân sinh sống ở khu vực Tây Nguyên. Những tội danh mà chính quyền thường sử dụng để truy tố những người này là hai tội “phá hoại đại đoàn kết dân tộc”, và “âm mưu lật đổ chính quyền”, mà theo cô H Biap là có tính chất “mơ hồ”.

Trong thời gian gần đây Báo Công an Nhân dân cũng cho đăng tải nhiều bài viết công kích nhắm đến Hội thánh Tin lành Đấng Christ, một chi phái của đạo Tin Lành hoạt động ở khu vực Tây Nguyên nhưng không được Nhà nước công nhận.

Những người thuộc nhóm tôn giáo này bị đàn áp phải kể đến mục sư A Đảo, người bị kết án năm năm tù hồi năm 2017, hay mục sư A Ga người đã phải chạy sang Thái Lan xin tị nạn.

Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) là một tổ chức độc lập thuộc chính phủ liên bang, được thành lập năm 1998 với mục đích theo dõi tình hình tự do tôn giáo trên thế giới.

Một trong các khuyến nghị của tổ chức này với Chính phủ Mỹ là cử các phái đoàn tập trung vào tự do tôn giáo và các quyền con người liên quan đến Việt Nam, và đặc biệt yêu cầu thăm các khu vực bị ảnh hưởng bởi các hạn chế tự do tôn giáo và các tù nhân lương tâm chẳng hạn như ông Nguyễn Bắc Truyển.

Việt Nam được đưa ra khỏi danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo hồi năm 2006, tuy nhiên kể từ đó chính phủ độc đảng liên tục bị cơ quan của Mỹ khuyến nghị đưa trở lại vào danh sách này vì các vi phạm không ngừng.

 

 Báo cáo về Tự do tôn giáo ở VN 2021 của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ: đề nghị chính phủ Mỹ đưa VN vào danh sách CPC

 

9.2.2022

Anh Ba Sàm

 

Religious Freedom in Vietnam in 2021 by Mingzhi Chen, Policy Analyst- February 2022

Giới thiệu

Năm 2021, tình trạng vi phạm tự do tôn giáo vẫn tiếp diễn ở Việt Nam. Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng thể về những vi phạm này và nêu bật những nỗ lực trong chính sách của Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy nhân quyền, bao gồm cả tự do tôn giáo, ở Việt Nam.

Mặc dù đã có những cải tiến đáng chú ý so với pháp lệnh tôn giáo trước đây, nhưng Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018 (Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2018) vẫn còn hạn chế về bản chất và còn vướng mắc bởi việc áp dụng không đồng đều và thiếu nhất quán trong cả nước.

Tình trạng đàn áp của chính quyền tiếp tục là một thực tế khắc nghiệt đối với các nhóm tôn giáo độc lập chưa đăng ký, với nhiều người trong số họ bị coi là tôn giáo “kỳ lạ, sai lầm hoặc dị giáo”.

Cuối cùng, các nhà chức trách tiếp tục bắt các tín đồ và những người ủng hộ tự do tôn giáo phải ngồi tù dài hạn, trong đó một số người cho biết sức khỏe ngày càng xấu đi do liên tục bị sỉ nhục và ngược đãi trong tù.

Khái quát

Khung pháp lý và bối cảnh tôn giáo của Việt Nam

Hiến pháp Việt Nam quy định rằng công dân “có thể theo hoặc không theo một tôn giáo nào”  “các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp cũng quy định việc tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, nó cho phép chính quyền hạn chế các quyền con người, bao gồm quyền tự do tôn giáo, vì lý do “quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng”.

Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018 của Việt Nam có các quy định tương tự cho phép hạn chế quyền tự do tôn giáo.

Việt Nam là một quốc gia đa dạng về tôn giáo với nhân khẩu học về tôn giáo rất khác nhau, theo các nghiên cứu và báo cáo. Các tập tục tôn giáo có sự hiện diện đáng kể trong nước bao gồm Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Công giáo và Tin lành.

Cuối năm 2020, Chính phủ đã chính thức công nhận tổng số 16 tôn giáo và 43 tổ chức tôn giáo. Tuy nhiên, nhiều nhóm từ chối đăng ký vì sợ bị đàn áp hoặc lo ngại về sự độc lập của họ, tình hình này trong một số trường hợp đã khiến các nhóm tôn giáo độc lập và những tổ chức tôn giáo được nhà nước bảo trợ cạnh tranh để đại diện cho tôn giáo của họ.  

Chỉ định CPC cho Việt Nam

Kể từ khi Hoa Kỳ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào năm 1995, quan hệ hai nước ngày càng phát triển trên cơ sở hợp tác và toàn diện, về nhiều lĩnh vực bao gồm thương mại, an ninh, giáo dục và y tế công cộng. Tuy nhiên, các hồ sơ về tự do tôn giáo và nhân quyền của Việt Nam đã ngăn cản hai nước tạo dựng một mối quan hệ tốt đẹp hơn.

Sự can dự chủ yếu của Hoa Kỳ với Việt Nam về các vi phạm tự do tôn giáo đã khiến Bộ Ngoại giao chỉ định nước này là “quốc gia cần quan tâm đặc biệt” (CPC), vào năm 2004 và 2005.

Cuối cùng, Bộ Ngoại giao đã bãi bỏ chỉ định CPC đối với Việt Nam vào năm 2006 sau một một loạt các cuộc đàm phán ngoại giao với Việt Nam dẫn đến một thỏa thuận ràng buộc được chính thức hóa.

Cho đến nay, đây vẫn là trường hợp duy nhất được biết đến về một thỏa thuận ràng buộc mà chính phủ Hoa Kỳ đã đạt được với chính phủ nước ngoài theo Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 1998 (IRFA), đã được sửa đổi.

Nội dung của thỏa thuận ràng buộc giữa Hoa Kỳ và Việt Nam không bao giờ được tiết lộ công khai. Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) đã lưu ý trong một đánh giá năm 2017 rằng việc chỉ định CPC đối với Việt Nam và việc sử dụng chiến lược thỏa thuận ràng buộc đã tạo ra những cải thiện hữu hình về điều kiện tự do tôn giáo ở nước này, mặc dù những điều kiện đó không lâu dài.

Vào thời điểm đó, USCIRF đã mô tả tình hình tự do tôn giáo của Việt Nam là một trong những “sự cải thiện vừa phải đi đôi với tình trạng kiểm soát đàn áp của chính phủ”, với những vi phạm có hệ thống, đang diễn ra và liên tục nghiêm trọng trong cả thập kỷ kể từ khi Việt Nam được loại khỏi danh sách CPC của Bộ Ngoại giao.

Vì lý do này, USCIRF kêu gọi sự tham gia bền bỉ của Hoa Kỳ đối với tự do tôn giáo ở Việt Nam để đảm bảo có sự tiến bộ vừa sâu rộng vừa bền vững.

Gần đây hơn, USCIRF đã tiếp tục bày tỏ những quan ngại tương tự — bao gồm cả trong Báo cáo thường niên năm 2021 — về các vi phạm tự do tôn giáo của Việt Nam và liên tục khuyến nghị nên chỉ định quốc gia này vào danh sách CPC.

Vi phạm quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam

Việc thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2018

Các cơ quan chính phủ đã tiếp tục sử dụng Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018 — bao gồm các yêu cầu đăng ký phức tạp và các điều khoản mơ hồ về an ninh quốc gia — để tích cực hạn chế tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Luật, như được viết ra và thực thi, trái với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế và vi phạm một cách có hệ thống quyền tự do tôn giáo, đặc biệt là đối với các nhóm tôn giáo độc lập.

Mặc dù có một số cải tiến đáng chú ý — chẳng hạn như giảm thời gian chờ đợi khi các tổ chức tôn giáo đăng ký với chính phủ và cấp tư cách pháp nhân cho các tổ chức tôn giáo đã đăng ký — so với pháp lệnh năm 2004, Luật năm 2018 đặt ra các yêu cầu phức tạp và nặng nề đối với các nhóm tôn giáo đăng ký với chính phủ.

Ví dụ, luật pháp yêu cầu các nhóm tôn giáo phải đăng ký với chính phủ để được hoạt động tôn giáo, tụ họp tôn giáo và được chính thức công nhận. Mỗi bước này đòi hỏi một quy trình đăng ký riêng biệt, yêu cầu các nhóm phải gửi thông tin rộng rãi về các tổ chức và hoạt động tôn giáo của họ cho chính quyền. Hơn nữa, một nhóm đang tìm kiếm sự công nhận chính thức phải hoạt động hợp pháp ít nhất 5 năm trước khi nộp đơn đăng ký thành tổ chức tôn giáo.

Như đã lưu ý trong Bản cập nhật quốc gia Việt Nam năm 2019 của USCIRF, các nhóm tôn giáo đã gặp phải vấn đề về đăng ký do việc áp dụng luật không đồng đều và thiếu nhất quán của chính quyền địa phương.

Năm ngoái, USCIRF đã nhận được báo cáo về việc chính quyền địa phương từ chối yêu cầu đăng ký hoạt động tôn giáo của các nhóm tôn giáo độc lập. Các nhà chức trách được cho là đã yêu cầu một số tín đồ từ bỏ hoặc rời bỏ nhóm của họ và thay vào đó tham gia các tổ chức tôn giáo được nhà nước phê duyệt. Trong một trường hợp, các công an địa phương đã thẩm vấn và đe dọa một thành viên của một nhóm Tin lành độc lập, cùng với áp mức án tù dài hạn, qua việc nhà thờ của ông ta bị yêu cầu đăng ký hoạt động tôn giáo với chính quyền.

Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc (LHQ) về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã tuyên bố dứt khoát rằng việc đăng ký “không nên bắt buộc” và “không nên là điều kiện tiên quyết để [thực hành] tôn giáo của một người, chỉ để có được tư cách pháp nhân và các quyền lợi liên quan.”

USCIRF từ lâu đã khuyến nghị rằng không nên bắt buộc đăng ký các nhóm tôn giáo; và đã thúc giục chính phủ Hoa Kỳ khuyến khích chính phủ Việt Nam sửa đổi Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018, bao gồm cả việc đăng ký tùy chọn và không sử dụng nó như một công cụ nặng nề để kiểm soát các nhóm tôn giáo và hoạt động của họ.

Đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập

Chính quyền Việt Nam tiếp tục tích cực sách nhiễu, hoặc nói cách khác là khủng bố, các cộng đồng tôn giáo độc lập chưa đăng ký, bao gồm cả người dân tộc Hmong và người Thượng theo đạo Thiên chúa, Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo Thống nhất, tín đồ Cao Đài, Công giáo, cũng như các tín đồ khác của tôn giáo mới, các phong trào như đạo Hà Mòn, Pháp Luân Công, Đường Văn Minh, Hội thánh của Đức Chúa Trời Hiệp hội Truyền giáo Thế giới, và các phong trào khác.

Chính phủ Việt Nam đã xác định nhiều nhóm tôn giáo độc lập này là tôn giáo “sai lầm”, “kỳ lạ” hoặc “dị giáo”. Tính đến tháng 4 năm 2021, Ủy ban Tôn giáo Chính phủ (GCRA) đã liệt kê 85 nhóm là “tôn giáo kỳ lạ”. Các nhà chức trách thường xuyên làm gián đoạn các dịch vụ tôn giáo, việc đào tạo và nghi lễ và sách nhiễu, đe dọa, giam giữ và bỏ tù các tín đồ và nhà hoạt động tôn giáo thuộc các nhóm này.

Hơn nữa, các nhà chức trách chính phủ thường viện lý do an ninh để cấm các nhóm độc lập này, khiến một số – chẳng hạn như đạo Hà Mòn – được cho là phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.

USCIRF tiếp tục quan tâm đến tình trạng của các cộng đồng Cơ đốc giáo dân tộc thiểu số ở miền Trung và Tây Nguyên xa xôi của Việt Nam.

Vào năm 2021, chính quyền địa phương được cho là đã sách nhiễu, giam giữ và đe dọa các thành viên của các nhóm Tin lành người Thượng chưa đăng ký, bao gồm cả việc buộc họ từ bỏ đức tin nơi công cộng.

Như đã báo cáo trong Báo cáo thường niên năm 2020 và 2021 của USCIRF, hàng nghìn tín đồ Cơ đốc giáo người Hmong và người Thượng vẫn vô quốc tịch vì chính quyền địa phương từ chối cấp cho họ chứng minh thư và giấy tờ đăng ký hộ khẩu, trong nhiều trường hợp để trả đũa những người Cơ đốc giáo không chịu từ bỏ đức tin của mình.

Vào năm 2020, USCIRF đã được khích lệ trước nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc tái định cư các hộ gia đình Cơ đốc giáo người Hmong không quốc tịch tại Tiểu khu 179, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. USCIRF cũng bày tỏ sự lạc quan thận trọng rằng tiến bộ trong phân khu 179 có thể là một mô hình để cải thiện hoàn cảnh của người thiểu số theo đạo Thiên chúa ở các vùng dân tộc thiểu số khác.

Vào tháng 5 năm 2021, trong một diễn biến tích cực, chính quyền tỉnh Lâm Đồng đã công bố quyết định cấp chứng minh nhân dân cho tất cả người dân thuộc Tiểu khu 179 và Tiểu khu 181 lân cận, đồng thời chính quyền địa phương cho phép các thành viên của các cộng đồng này tham gia bầu cử, công nhận họ là cư dân địa phương.

Tù nhân lương tâm tôn giáo

USCIRF từ lâu đã bày tỏ quan ngại về điều kiện của các tù nhân lương tâm tôn giáo ở Việt Nam. Năm nay, nhiều tín đồ và những người ủng hộ tự do tôn giáo vẫn ở trong tù, chịu án dài hạn. Các tù nhân này bao gồm Phật tử Hòa Hảo Nguyễn Bắc Truyển (bị kết án 11 năm); Mục sư Cơ đốc giáo người Thượng Y Yich (bị kết án 12 năm); người sáng lập nhóm tôn giáo Ân Đàn Đại Đạo, Phan Văn Thu (bị kết án tù chung thân); và nhiều người khác được cho là đã bị sỉ nhục hoặc bị ngược đãi trong tù và tình trạng sức khỏe xấu đi.

Cụ thể, USCIRF đã liên tục vận động để trả tự do cho Nguyễn Bắc Truyển – một người ủng hộ tự do tôn giáo nổi tiếng, được bảo trợ theo dự án Tù nhân Lương tâm (RPOC) của USCIRF – ông vẫn bị tù vào năm 2021. Có thông tin cho biết Truyển sức khỏe kém. Vào tháng 11 năm 2020, ông đã tuyệt thực để phản đối điều kiện sống trong tù và tình trạng thiếu chăm sóc y tế.

Chính sách của Hoa Kỳ

Chính quyền Biden đã nhấn mạnh rằng nhân quyền – bao gồm tự do tôn giáo và tín ngưỡng cơ bản – là một phần không thể thiếu trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, bao gồm cả chính sách đối với Việt Nam. Trong chuyến thăm vào tháng 7 năm 2021, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin bày tỏ quan ngại về hồ sơ nhân quyền của Việt Nam. Trước chuyến công du của Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris tới Việt Nam vào tháng 8 năm 2021, các thành viên Quốc hội và các chính trị gia ở các nước cũng như các nhóm xã hội dân sự đã kêu gọi Phó Tổng thống nêu lên vụ việc của Nguyễn Bắc Truyển và kêu gọi chính phủ Việt Nam thả ông ngay lập tức và vô điều kiện. Phó Tổng thống Harris sau đó cho biết, tại một cuộc họp báo ở Hà Nội, rằng bà đã nêu các vấn đề ​​với những người đồng cấp Việt Nam về vi phạm nhân quyền và yêu cầu thả những người bất đồng chính kiến.

Sau đó, ứng cử viên đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Knapper cũng bày tỏ quan ngại tương tự trong phiên điều trần xác nhận trước Thượng viện và nói rằng quan hệ song phương chỉ có thể đạt được tiềm năng cao nhất nếu Việt Nam đạt được tiến bộ đáng kể về nhân quyền.

Với quan hệ Việt – Mỹ đang có xu hướng tích cực và Hoa Kỳ đang cân nhắc khả năng nâng cấp quan hệ song phương từ “Đối tác toàn diện” lên “Đối tác chiến lược”, chính phủ Hoa Kỳ cần đảm bảo rằng các cân nhắc về địa-chính trị, kinh tế và an ninh sẽ không được đặt nặng hơn vấn đề tự do tôn giáo và các quyền con người có liên quan khác trong mối quan hệ đang phát triển.

Kết luận

USCIRF ghi nhận những nỗ lực của cả chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam trong việc cải thiện các điều kiện tự do tôn giáo ở Việt Nam. Kể từ khi ký kết hiệp định ràng buộc giữa hai nước vào năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã tạo thêm không gian cho nhiều cá nhân và cộng đồng tôn giáo thực hiện hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của mình một cách tự do, công khai và không sợ hãi. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những điểm rắc rối đáng kể, bao gồm việc chính phủ thực hiện Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo năm 2018, đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập và đối xử với các tù nhân lương tâm tôn giáo.

Ngày nay, tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn là một trong những cải thiện khiêm tốn cùng với sự kiểm soát đàn áp của chính phủ. Vì lý do này, USCIRF kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục hợp tác với chính phủ Việt Nam để thúc đẩy tiến bộ có ý nghĩa, sâu rộng và bền vững.