Mục lục
50 năm ‘đại lộ kinh hoàng’, 1972 – 2022 – ký sự ‘đi nhặt xác đồng bào quảng trị trên đại lộ kinh hoàng’
2.05.2022
Lời giới thiệu:
Ngày 30 tháng 3, 2022 năm nay đánh dấu tròn 50 năm ngày mở đầu chiến cuộc Quảng Trị khi khoảng 200,000 quân chính qui Cộng sản Bắc Việt cùng cả ngàn xe tăng lần đầu chính thức vượt Vùng Phi Quân Sự tràn qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm Quảng Trị, xé nát Hiệp định Geneva 1954 và chấm dứt cuộc chiến bấy lâu vẫn dựa vào du kích Việt Cộng mà phần lớn đã bị tiêu diệt sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968. Cuộc chiến này sử Mỹ ghi là Cuộc Tấn Công Mùa Phục Sinh (Easter Offensive), người Miền Nam quen gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa (theo tựa một cuốn bút ký chiến trường của nhà văn Phan Nhật Nam). Chiến cuộc Quảng Trị kéo dài bẩy tháng, tới mãi ngày 22 tháng 10, 1972 mới chấm dứt sau khi quân Cộng Hoà tái chiếm Quảng Trị. Tuy nhiên, Cộng sản Bắc Việt cũng nhờ đó củng cố chỗ đứng của họ trong cuộc hội đàm lúc đó đang diễn ra tại Paris, với một Hoa Kỳ nôn nóng chấm dứt cuộc chiến sau khi đã bắt tay đuợc với Trung Cộng, và một Việt Nam Cộng Hoà chịu nhiều thiệt thòi.
Trong thời gian này, vào đầu tháng Năm, 1972, khoảng gần 2,000 đồng bào đã bị thiệt mạng trên đường chạy khỏi Quảng Trị khi quân Cộng sản tấn công. Họ chết phần lớn vì pháo kích của Cộng quân rót xuống từ rặng Trường Sơn, xác nằm rải rác trên một quãng đường dài 5.274 mét trên Quốc lộ 1, từ cầu Bến Đá tới cầu Trường Phước thuộc Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Vì giao tranh còn tiếp diễn, xác các nạn nhân này đành chịu cảnh phơi bầy cùng nắng mưa gió và cả những trận mưa pháo trong nhiều tháng trời. Đúng ra con số nạn nhân chiến cuộc chắc nhiều hơn, nhưng nêu ra con số trên là dựa vào tổng số xác đã nhặt được, đích xác là 1,841 thi hài thường dân, do anh Nguyễn Kinh Châu, người điều khiển chương trình “hốt xác”, và các thân hữu Huế đã bốc được trong suốt “bẩy tháng giữa những xác người” vào mùa hè năm 1972. Cũng anh Châu và một nhóm thân hữu ở Huế đã khởi xuớng chương trình hốt xác này, bằng những quyên góp khiêm tốn tại địa phương, cho tới khi nhật báo Sóng Thần đứng ra phát động chiến dịch “Chết Một Nấm Mồ” để đẩy mạnh công tác nhân đạo này. Vào đầu mùa hè 1972, tôi được ban chủ biên cử ra Trung quan sát tình hình, mà kết quả là bài bút ký dài khoảng 9,000 chữ bên dưới, đăng thành nhiều kỳ, ghi lại vội vã những gì mắt thấy tai nghe.
Vào năm 2009, khi đi tìm tài liệu để thực hiện bộ phim về chiến cuộc Quảng Trị 1972, nhà văn Giao Chỉ Vũ Văn Lộc có lẽ lần đầu nghe đến tên “Đại Lộ Kinh Hoàng” và chương trình hốt xác nạn nhân chiến cuộc đó nhật báo Sóng Thần phát động. Ông tìm gặp tôi, đồng thời liên lạc với Ngy Thanh để tìm hiểu thêm. Kết quả là tài liệu đầu tiên do các nhân chứng đóng góp, coi như chính thống, về khúc đường oan nghiệt này: “Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 – Hốt xác đồng bào tử nạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng”, do bốn người viết, gồm nhà văn Giao Chỉ (phỏng vấn một nhân chứng đã có mặt song may mắn sống sót trong giòng người chạy giặc này), Ngy Thanh (người đầu tiên đặt chân tới quãng đường này), Trùng Dương (có mặt trong đợt hốt xác đầu), và Nguyễn Kinh Châu (người tiếp tục công tác hốt xác và chôn cất các nạn nhân chiến cuộc nhiều tháng sau đó). Bài này đã được tạp chí Thời Báo ở Houston đăng tải trên số báo ngày 20 tháng 11, 2009, trang 54-109. Bản thảo bài do bốn người viết đã được cập nhật gần đây, hiện lưu trữ tại đây.
Sau loạt bài do bốn người viết trên, câu chuyện về “Đại Lộ Kinh Hoàng” từ vài năm nay không thiếu người đã kể lại qua các bài viết hoặc phim ảnh. Có người đã cất công về tận Quảng Trị để tìm dấu vết quãng đường đau thương này. Không kém quan trọng là công trình biên khảo của Tiến sĩ Vân Nguyễn-Marshall thuộc Đại học Trent, Canada. Bà đã soạn một bài có tính cách học thuật rất công phu về công cuộc hốt xác trên: “Appeasing the Spirits Along the ‘Highway of Horror’: Civic Life in Wartime Republic of Vietnam,” tạm dịch là “Xoa dịu các oan hồn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’: Đời sống người dân Việt Nam Cộng Hoà thời chiến,” hiện có tại đây. Độc giả tiếng Việt có thể tìm hiểu về các sinh hoạt đằng sau hậu trường liên quan tới công tác được mệnh danh là “Sống Một Mái Nhà – Thác Một Nấm Mồ” qua bài tường thuật chi tiết của Trịnh Bình An tại đây.
Cách nay vài năm, ký giả Ngy Thanh đã, nhân chuyến ghé thư viện Đại học Cornell để nghiên cứu cho cuốn sách về biến cố Quảng Trị và quãng đường nay mang tên không chính thức là “Đại Lộ Kinh Hoàng” này, đã tiện thể chụp lại bài bút ký từ microfilm Sóng Thần hiện lưu trữ tại đây, sau đó đã bỏ thì giờ đánh máy lại và chia sẻ với tôi. Toàn bộ báo Sóng Thần hiện có tại Kho Chứa Sách Xưa, do công lao của Ngy Thanh và Võ Phi Hùng đã bỏ thì giờ chụp lại toàn bộ các số báo.
Để dễ dàng cho việc đọc, tôi sắp xếp bài bút ký lại, tuyệt đối giữ y nguyên như bản in báo, không hiệu đính dù sai văn phạm hay bất nhất trong văn phong, và có thể sai sót trong vài nhận xét. Có những chữ quá mờ trên bản chụp từ phim, Ngy Thanh bỏ trong […]. Tựa của bài và những tựa nhỏ (subhead) là do ban biên tập ST đặt.
Nhân tưởng niệm 50 năm chiến cuộc Mùa Hè Đỏ Lửa, xin đăng lại bài bút ký về chuyến theo đoàn hốt xác nạn nhân chiến cuộc Quảng Trị, như một nén hương kính cẩn tưởng niệm những người đã không may bỏ mạng trong cuộc “bỏ phiếu bằng chân” đối với chủ nghĩa Cộng sản. Đồng thời giới thiệu các tài liệu gốc về một thảm cảnh chiến tranh đã khơi động tình nghĩa đồng bào đùm bọc nhau trong cơn khốn khó của người dân Miền Nam.
Trùng Dương
Đầu Xuân 2022
NHẬT BÁO SÓNG THẦN VÀ CÁC THÂN HỮU VỚI CHƯƠNG TRÌNH
ĐI NHẶT XÁC ĐỒNG BÀO Q.TRỊ TRÊN ĐƯỜNG “KINH HOÀNG”
• Bút ký TRÙNG DƯƠNG
DỌC THEO Q.LỘ KHOẢNG 2000 XÁC RỮA THỐI ĐANG CHỜ ĐƯỢC CHÔN CẤT
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA CÔNG CUỘC “NHẶT XÁC”: C.QUÂN PHÁO KÍCH TƠI BỜI.
Tái ngộ Huế của 6-72
Phần vụ tại Quảng Ngãi tạm xong, mặc dù những lưu luyến do cảm tình của nhóm anh em ST ở đó tôi vội vã về Đà Nẵng bằng đường bộ để sáng sớm hôm sau bám theo chuyến trực thăng đồ tiếp tế khởi hành đi Huế để có mặt trong một chương trình do nhóm anh em Sóng Thần tại đấy thực hiện: nhặt xác đồng bào chiến nạn nằm rải rác dọc theo QL1 từ giữa Mỹ Chánh và Quảng Trị nơi mà NgyThanh đã mệnh danh là Đại Lộ Kinh Hoàng, khoảng bắt đầu Con Đường Buồn Thiu.
Đây là lần thứ 2 kể từ khi biến cố 4-72 bắt đầu, tôi ra Trung.
Mặc dù thành phố Huế mỗi ngày, không phân biệt sáng chiều tối, đều lãnh những trái pháo kích của Cộng quân đều đều, sinh hoạt vẫn nhộn nhịp, khác hẳn với thời gian cách đó 1 tháng. 70% số đồng bào Huế di tản đã rời Đà Nẵng trở về thành phố. Không nghe còn nhiều lần những câu hỏi “liệu Huế có mất?” mặc dù điều này vẫn còn ám ảnh những người ưu tư về thời cuộc và các vấn đề chính trị, mặc dù có một số đồng bào đã trở về Huế lại vội vã ra đi khi “mùa” pháo kích bắt đầu cách đó khoảng 1 tuần.
Một ngày nghỉ săn tin cho chương trình “nhặt xác”
Gặp những anh em ST/Huế trước số 90 Chi Lăng, tôi được anh Nguyễn Kinh Châu cho biết hôm nay anh em ST nghỉ săn tin một ngày cho chương trình “nhặt xác”. Dĩ nhiên điều này trên một khía cạnh nào đó làm nhóm anh em trẻ có hơi… buồn một chút. Số là các anh em trẻ này mỗi ngày chia nhau đi theo các cánh quân tiến chiếm Quảng Trị với 1 lời thách thức xem ai sẽ là người tiến tới gần Quảng Trị hơn cả. Họ chẳng những thách thức với nhau mà còn ganh đua với các phóng viên báo Việt khác và ngoại quốc nữa. Tuy thế, lệnh của anh văn phòng trưởng đã đưa ra, và cũng ý thức chương trình đó là cần thiết, họ tạm xếp tính hiếu thắng lại.
Bên ly cà phê tại một quán cóc bên tả ngạn, anh Châu cho tôi xem sấp hình chụp những cảnh trạng trên Đại lộ Kinh Hoàng trước khi được dọn dẹp lấy chỗ quân xa di chuyển: xe cộ đủ loại – xe hàng, xe vận tải, xe GMC, xe Jeep, thiết vận xa vv… cháy đen nằm thành ụ trên Quốc lộ 1 thành 3,4,5 hàng chứng tỏ một cuộc rút lui vô trật tự không thể tưởng tượng cách đây 2 tháng cộng vào do những cuộc thanh toán thật gọn gàng của cộng quân. Đó là những bức ảnh toàn cảnh của Đại lộ Kinh Hoàng. Chi tiết mới là cả một cơn ác mộng chưa từng xảy ra trong bất cứ 1 phim chiến tranh nào mà tôi đã được xem:
Xác người chỉ còn xương khô có cái còn ít da bọc màu xám ngắt và ít thịt bầy nhầy và áo quần tơi tả sau 2 tháng phơi trước nắng mưa và gió, thường dân có, lính có, già có, trẻ có, đàn ông có, đàn bà có với đủ kiểu nằm, ngồi, đứng.
Anh Châu cho biết hiện có khoảng 2000 xác nằm rải rác từ cầu Trường Phước trở ra. Đó là chỉ mới kể tới những xác nằm dọc theo hai bên quốc lộ.
Không ai nghĩ tới việc chôn cất cho họ kể từ khi quãng đường này được khai thông cách đây một tuần.
Quân đội bận đánh giặc, chính quyền bù đầu với việc cứu trợ nạn nhân chiến cuộc, và cũng từ 1 tuần nay, dân chúng lo âu vì nạn pháo kích. Cũng có thể họ có nghĩ tới việc chôn cất những người dân Quảng Trị chạy nạn xấu số nọ, nhưng vấn đề là phải có một đoàn thể nào đó đứng ra khởi xướng.
Và anh Châu với tư cách là đại diện Nhật báo ST tại Huế, từ một tuần nay, kể từ ngày anh vượt qua cây cầu nổi Mỹ Chánh theo chân quân đội VNCH đặt chân lên Đại lộ kinh hoàng đã âm thầm xúc tiến việc trên với 1 số thân hữu.
Phải nhặt xác họ, bằng bất cứ giá nào
– Phải nhặt xác họ bằng bất cứ giá nào. Đó là bổn phận của những người còn lại.
Bằng 1 giọng trầm tĩnh pha xót xa, anh Châu nói với tôi như thế. Anh nói ít, nhưng tôi ngờ là mình thấy và hiểu được cả những điều anh không nói ra: mối ray rứt khắc khoải kể từ ngày đặt chân lên Đại lộ kinh hoàng.
– Và cần phải làm sớm vì để lâu mưa xuống công việc sẽ khó khăn hơn, chưa kể sẽ không tìm ra xác các em nhỏ xương còn nhỏ bị cát và nước vùi sâu xuống lòng đất làm cho tan đi.
Là một người sinh trưởng tại QT và vừa thoát khỏi sự kềm tỏa của Cộng Sản, Đoàn Kế Tường, tác giả hồi ký “Địa ngục Hải Lăng” một người trẻ và tình cảm và có lẽ vì tình cảm nên hay đòi hỏi sự tuyệt đối đã tỏ ra lo ngại cho chương trình “nhặt xác” này vì anh ta quan niệm “đã nhặt thì phải nhặt cho bằng hết” mà “nhặt xác” thì chắc không thể thực hiện được giữa lúc Cộng quân còn pháo kích dài dài trên đoạn đường này. Đây là chưa kể có nơi cả trăm mạng chết vì B40 khi nhào xuống một vũng nước cách quốc lộ 1 cs về phía biển mà chính mắt Tường chứng kiến khi cùng chạy với họ và suýt trở thành nạn nhân nếu không vì “đến chậm”.
Một chương trình nặng nề
Với trên dưới 2000 người tính sơ sơ dọc theo quốc lộ, với những cơn mưa pháo kích hàng ngày của Cộng quân dù rất ít khi trúng quốc lộ với những trái bom bi còn sót lại ẩn dưới những lùm cỏ khô hay vùi hờ dưới cát sẽ phát nổ khi bị đụng phải với hai bàn tay trắng và một nhóm anh em vốn bận rộn với việc săn tin khá nguy hiểm với không đầy 60.000đ quyên lai rai trong nhóm thân hữu, anh Châu sẽ xoay sở ra sao, tôi thực không hiểu, nếu không nói là thành thực e ngại.
Sau khi điều đình mượn xe của Thiếu tá PB Đỗ Văn Mai xong, chúng tôi tới nhà một người em gái của anh Châu ở đường Thuận An.
Tại đây tôi được chứng kiến những hình ảnh thật đẹp của tình người, không phải của người sống với người sống vốn là chuyện thường tình, mà là của người sống đối với người chết khiến tôi hơi ngỡ ngàng vì từ hồi nào tới giờ tôi vốn bận tâm tới cuộc sống và coi thế giới bên kia cùng với những kẻ đã thuộc về nó là cái gì vượt ngoài sự hiểu biết và quan tâm của mình.
Hết đào xác nạn nhân biến cố Mậu Thân tới việc đi nhặt xác nạn nhân biến cố 4/72
Họ là 2 thiếu phụ trên dưới 30.
Một người có chồng bị giết hồi xảy ra biến cố Mậu Thân và đó là nguồn động lực khiến nàng và người cháu gái của chồng gia nhập ban tổ chức việc đào xác nạn nhân biến cố QT. Nàng còn trẻ và tôi xúc động bởi vẻ trẻ trung với một nét gì đó tinh khiết nơi nàng. Tuy nhiên, tích cực phải kể tới người cháu gái lớn hơn nàng vài tuổi.
Kinh nghiệm của những chuyến đi đào xác trước đây đã giúp họ khá nhiều trong dịp này để có thể tiếp tay với nhóm ST; họ biết những gì phải sắp sẵn mà chính anh Châu cũng không ngờ tới. Này đây những túi ni lông để đựng hài cốt người chết, này dây ni lông loại chắc chắn để cột, này kéo, băng sát trùng, vở bút để ghi chép những chi tiết đặc biệt của mỗi xác chết theo số thứ tự 1, 2, 3, lại có cả một xấp giấy vuông màu đỏ ghi số 1, 2, 3, 4… để đính vào mỗi xác. Họ khoe chúng tôi 1 cuộn giây ni lông do nhà sách Gia Long trên phố tặng khi họ vào hỏi mua và nói về chương trình nhặt xác đồng bào Quảng Trị xấu số. Họ cũng cho biết đã kêu mấy người phu trước đây đã tiếp tay với họ trong chuyến đào xác nạn nhân biến cố Mậu Thân.
– Hồi đó họ làm không công. Nhưng bây giờ vì đang vụ mùa, từ chối không đành tâm, họ đề nghị xin ít thù lao để bù vào những thiệt hại.
Thực ra, nguyên do là sau vụ đào xác nạn nhân biến cố Mậu Thân, Bộ Xã Hội có trả tiền cho Ban Tổ chức trung bình mỗi xác 1.000đ và dường như cuộc chia chác tới nay vẫn chưa xong. Có lẽ đó cũng là 1 nguyên nhân khiến nhóm phu được mời lần này đòi được trả công. Giọng anh Châu vẫn không có vẻ gì là bị xáo trộn hay bực dọc:
– Sao không nói cho họ biết là mình làm việc này hoàn toàn có tính cách nhân đạo, không có ai trả tiền hết mà còn phải đi quyên tiền để làm.
– Nói đó, nhưng họ bảo kẹt vụ mùa. Và họ cũng sợ pháo kích.
Sau khi thỏa thuận giá cả 1500đ cho mỗi người, và dường như để trả lời cho vẻ ngỡ ngàng của tôi trước bàn luận của họ, câu chuyện hướng sang chuyện đào xác nạn nhân biến cố Mậu Thân.
Những giai thoại xung quanh vụ đào xác nạn nhân biến cố Mậu Thân
Tôi thực tình không tin lắm, hay nói đúng hơn, không có ý kiến gì về hiện tượng người chết hiện về báo cái này cái nọ và cũng chẳng mấy khi bận tâm về những chuyện tương tự. Tuy nhiên, vẫn xin tường thuật lại những điều đã được nghe kể trong lúc ngồi đợi giờ lên đường đến Đại lộ Kinh hoàng tiếp tay với anh em ST/Huế trong chương trình nhặt xác đồng bào Quảng Trị xấu số. Những giai thoại do chính những người phu đào xác kể lại.
Họ đều là những người đã ngoài 50 và sinh hoạt của những người làm nghề đám vẫn ít nhiều còn xa lạ và dị kỳ đối với tôi, cũng như sự chết vẫn là cái gì xa lạ và khó hiểu đến dị kỳ với mỗi một người sống.
Hồi xảy ra biến cố Mậu Thân với vụ VC tàn sát tập thể đồng bào Huế vô tội, nhiều hố chôn người tập thể đã được phát giác và khai quật lên sau đó. Công việc này do dân chúng Thừa Thiên đứng ra làm rồi về sau dường như có sự nhúng tay ăn có của một số đảng phái địa phương khiến công việc trở nên có phần phức tạp phiền hà.
– Hồi đó tụi tôi cứ làm 1 tuần thì nghỉ 1 tuần và cứ thế có cả trên 1 tháng trời. Vậy mà cũng có nhiều xác không được phát giác để rồi chính người chết hiện về chỉ chỗ cho mà đào.
Những vụ người chết hiện về chỉ chỗ xác mình bị vùi dĩ nhiên không nhiều. Người phu già kể tiếp:
– Một đêm nọ, tui đang ngủ có 2 bóng người con gái vô nhà khẩn khoản tui lấy 2 chị em họ lên. Tui hỏi họ nằm mô thì họ bảo cách chỗ bác đào bữa trước 2 thước. Hôm sau tui nghe lời tới đào lên, quả nhiên bắt gặp 2 xác con gái còn thẻ căn cước trong túi rõ ra là 2 chị em ruột.
Còn nhiều giai thoại nữa, như giai thoại người chồng về báo cho mẹ và vợ ngay giữa bữa ăn tối cho biết cái đầu lâu mà họ chôn chung với xác của anh ta không phải của anh và chỉ chỗ cho mẹ và vợ anh đi lấy cái đầu thực sự của anh, như giai thoại về những người chết về xin tìm giùm khúc xương còn thiếu.
– Hồi đó làm việc có sự tham dự của nhiều người vui lắm… Có bà bỏ nhiều buổi chợ đi gánh xác về…
Tôi ngó anh Châu. Như hiểu được câu tôi muốn hỏi, anh Châu chậm rãi nói:
– Lần ni mà mình thông báo thì cũng có lắm người tham dự. Nhưng kẹt nỗi khúc đường chỗ đó chỉ có báo chí vô được thôi vì lý do an ninh.
Bây giờ thì tôi bắt đầu nhìn thấy rõ tầm vóc to lớn của chương trình hốt xác. Bày tỏ mối lo ngại đó với anh Châu, anh cho biết dù gì cũng phải làm.
– Hy vọng khi mình khởi sự, chính quyền và các đoàn thể tôn giáo sẽ tiếp tay gánh vác bớt cho mình…
Những gai góc của chương trình nhặt xác
Chiếc xe Jeep anh Đỗ Văn Mai hứa cho mượn đi đưa đám 2 cha con người nọ bị pháo kích chết từ sáng đã không trở về đúng hẹn. Chương trình đành dời lại tới hôm sau. Nhóm anh em phóng viên trẻ thở dài tiếc rẻ cho 1 ngày ở không vô tích sự. Tôi theo Đoàn Kế Tường và NgyThanh về căn nhà ở Chi Lăng ngủ trưa cho lại sức trong khi anh Châu với Trần Tường Trình leo xe Honda ra quận Phong Điền xin quận trưởng PĐ yểm trợ phương tiện và cho mượn chỗ để xác cùng là xin một miếng đất để chôn những xác đó hầu sau này thân nhân của họ trở về tìm cho dễ. Mặt khác, anh Châu cũng gửi mấy người phu đi theo xe của một nhóm phóng viên ngoại quốc ra Đại Lộ Kinh Hoàng thăm thú tình hình.
Những trái pháo kích của Cộng quân vẫn tiếp tục giót xuống 2 bên quốc lộ khoảng Đại Lộ Kinh Hoàng khiến mấy người phu lo sợ. Anh Vân phóng viên của UPI phải trấn an họ bằng câu nói dối:
– Hôm nay tụi nó pháo thì ngày mai sẽ thôi không pháo nữa. Mấy bác yên chí đi.
Anh Châu trở về với 1 kết quả tương đối khả quan cộng với 1 ưu tư có lẽ không ngoài tính cách phức tạp của vấn đề. Buổi chiều hôm đó, tôi theo anh đi mời người mai ra nhận diện những xác không còn giấy tờ gì và đặt hòm để liệm xác v.v…
Số tiền chi phí tính sơ sơ lên tới 2 triệu.
Trên đường trở về chùa Phước Hải nơi tôi sẽ nghỉ đêm với gia đình anh Châu, anh Châu tâm sự với tôi và có lẽ là lần đầu từ khi nghe anh nói về chương trình nhặt xác tôi thấy anh hơi mệt mỏi, cái mệt mỏi của một người trầm tĩnh và ít khi chịu lùi bước bó tay chịu trận, cái mệt mỏi có giá trị của một bước nghỉ chân để tập trung nghị lực mang nhiều tính cách tự thách thức và thách thức hoàn cảnh thay vì buông xuôi trong mòn mỏi.
– Lẽ ra chương trình này phải được sửa soạn cả tháng trời, lần này tôi muốn thử xem với sự sửa soạn của một tuần lễ liệu kết quả sẽ đạt được bao nhiêu phần trăm.
Trên đường tới Đại Lộ Kinh Hoàng
Sau bữa uống trà buổi sáng bên hồ nước nhỏ trong chùa Phước Hải với thầy Đức Tâm về, sau khi phân công công vệc cho anh em phóng viên, anh Châu chỉ giữ lại có Đoàn Kế Tường gốc người QT để cùng chúng tôi tham dự chương trình nhặt xác trên đại lộ kinh hoàng.
Khi ghé quận Phong Điền để xem xét ngôi trường mà ông Quận trưởng có nhã ý cho mượn để đặt hòm trước khi tổ chức cuộc mai táng, chúng tôi nhận được lá thư của 1 nhân vật tại Huế cho biết người nhận diện “bị đau từ mấy hôm nay” nên không tới tiếp tay với chúng tôi được. Thực ra, đó chỉ là một lý do phụ.
Người mà chúng tôi nhờ vả nằm trong một đảng phái địa phương. Có những uẩn khúc mà tôi không tiện nói ra trong bài nầy về sinh hoạt của các đảng phái chính trị địa phương ngay cả khi họ đứng trước những công tác hoàn toàn có tính cách xã hội và nhân đạo.
Ông quận trưởng Phong Điền cho mượn ngôi trường làm nơi đặt hòm
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình về phía Đại Lộ Kinh Hoàng sau khi nhận được lời hứa sẽ có 1 xe GMC ra lấy xác về Phong Điền vào lúc 12 giờ trưa.
Dọc đường, 1 cụ già râu tóc bạc phơ đón xe lại xin tháp tùng ra tìm xác con bỏ mình trên đoạn đường kinh hoàng, có lẽ trên đời này cái cảnh bi đát nhất vẫn là cảnh người già đi tìm xác con để mai táng. Vẫn biết là nước thường chảy xuôi. Song tôi vẫn nghĩ thế hệ người già ở VN hiện nay bi đát hơn bất cứ cảnh trạng nào của bất cứ người già nào, cái thế hệ mệnh danh là “thế hệ bị bỏ rơi, bị quên lãng” trên thế giới. Ở đây là sự bị bỏ rơi hoàn toàn trọn vẹn với tất cả những chua xót đau đớn của tuyệt vọng. Chúng tôi phải từ chối cụ già vì xe ngoài 3 chúng tôi ra còn có 6 người phu nữa nên không còn chỗ, hứa sẽ đem cụ theo trong chuyến trở về Huế chở hòm ra PĐ vào lúc 10g.
Len lỏi trong khu phố ngập bụi và đổ nát của Mỹ Chánh với đôi ba người đàn bà bới tìm trong đống tro tàn giương đôi mắt vô hồn khi xe chúng tôi đi qua, vượt qua cây cầu nổi bắc ngang sông Mỹ Chánh, chúng tôi đi 1 đổi nữa thì Đoàn Kế Tường cho tôi biết:
– Mình bắt đầu bước vào khúc đường đó rồi chị.
Từ xa, giữa vùng cát trắng cỏ úa lưa thưa, bóng dáng của những chiếc xe bị nạn phết thành những tảng đen trên bức tranh của đất trời mênh mông. Tôi tưởng như nghe thấy văng vẳng từ đâu đó 1 khúc nhạc bi thương đang từ từ chỗi lên… chỗi lên… cùng với hình ảnh của xe cộ cháy đen, áo quần vật dụng của dân chạy loạn rải rác khắp nơi phơi móc lẫn lộn với những xác người đã rữa nát khô queo hiện rõ dần trước tầm mắt cùng với tốc độ xe được giảm dần…
Tôi phải diễn tả ra sao cảnh ngộ đang bày ra trước mắt?
Những người phu già mỗi người đốt một nén nhang khấn vái trước khi hốt cốt
Tôi có thể nói rằng ngay cả một đạo diễn QT [quốc tế] lừng danh nhất cũng không thể nào dàn nổi một cảnh chiến tranh đầy đủ và [trọn] vẹn hơn cái cảnh ngộ tôi đang được chứng kiến. Tôi hiểu vì sao anh Châu cứ thúc tôi phải có mặt tại Huế bằng mọi giá để sửa soạn thâu trước một mớ hình ảnh cho một phim chiến tranh mà nhóm phim do một nhóm anh em văn nghệ và tôi chủ trương sẽ làm. Nhưng tôi đành bó tay vì sức vóc có hạn và vì những xúc động còn quá mới mẻ tinh khôi để cho phép tôi làm được cái gì ngoài việc mở mắt thật lớn mở mọi giác quan thật rộng để thâu lấy tất cả những kinh nghiệm của thời đại tôi…
Sau khi liên lạc với một đơn vị Dù trách nhiệm khoảng đường này để thông báo việc làm của chúng tôi, chúng tôi đổ đám phu và vật dụng cần thiết xuống đầu đường dẫn vào đại lộ kinh hoàng.
Những thủ tục lễ nghi đơn giản nhất đã diễn ra ngay sau đó. Hai trong số 6 người phu già mỗi người lấy 1 nén nhang đốt lên, rồi chia nhau mỗi người ở 1 bên quốc lộ vái 4 phương 8 hướng niệm hồn người chết cho phép họ hốt hài cốt về mai táng cho trọn vẹn tình nghĩa con người đối với nhau. Giữa đất trời mang mang với cái bối cảnh bi thương cùng tận đó, dù không có ý kiến và chẳng quan tâm tới sinh hoạt của thế giới bên kia, tôi cũng không khỏi xúc động đến độ muốn khóc…
Đoàn người bắt đầu bắt tay vào việc. Ba xác chết được moi móc vun quén lại bỏ vào 3 bọc ni lông sau khi anh Du, 1 đàn em của anh Mai ghi mọi chi tiết cần thiết vào một cuốn vở học trò có đánh số thứ tự hẳn hoi. Công việc không đơn giản vì có xác đã bị cát vùi sâu xuống đất và vì kinh nghiệm những người phu quyết không để sót lại dù 1 đốt xương dù nhỏ nhất của kẻ quá cố.
Nhìn họ làm công việc nhặt xác một cách thận trọng nhường ấy, tôi không khỏi ví họ với những nghệ sĩ chân chính đã không làm thì thôi mà làm thì phải làm cho tới chốn.
Người đàn bà áo trắng chấp chới giữa quãng đồng không mông quạnh.
Để tôi có cái nhìn toàn diện về khúc đường Kinh Hoàng, anh Châu và Tường đưa tôi lên tận ngả ba đi Hải Lăng.
Đây quả là cuộc diễn hành bi thảm lần đầu tiên trong đời tôi được tham dự.
Anh Châu chợt đập vào vai tôi và chỉ về phía tay mặt. Giữa cảnh đồng không mông quạnh đầy cỏ cháy và vật dụng của dân chạy loạn, bóng một người đàn bà mặc áo trắng chấp chới như một cánh bướm ma quái đi tìm xác người thân. Tôi tưởng như nhìn thấy rõ ràng khuôn mặt tuyệt vọng của người đàn bà và khúc hát của Trịnh Công Sơn như vang vang đâu đó: “Mẹ già lên núi tìm xương con mình”… Tôi tự hỏi người đàn bà đã làm cách nào vào lọt khoảng đường cấm dân sự trừ báo chí này?
Xe dừng lại bên một toán lính đứng vây quanh một xác đã rữa nát, những khúc xương ngập một nửa xuống mặt cát ẩm, bộ đồ lính còn nguyên nhưng có lẽ nếu đụng tới lớp vải sẽ mủn vữa ra, đầu xác chết gối lên một vật gì đó như một khúc cây. Xác chết nằm ngửa, hai tay hai chân dang ra trong một thế nằm thoải mái, thanh thản.
Dường như anh ta đã bị thương và một thời gian sau đó mới chết. Tôi có cảm tưởng thế khi nhìn thế nằm như nghỉ ngơi, dưỡng sức của anh ta. Toán lính đang sửa soạn đưa anh ta về chôn cất. Bên cạnh đó, một chiếc băng ca đã đặt sẵn.
Dùng mũ sắt làm búa đóng cọc đánh dấu chỗ chôn xác con
Xe đi một quãng nữa giữa những xác xe cộ ngổn ngang và xác người, chúng tôi gặp 1 người đàn ông đang dùng 1 cái mũ sắt làm búa đóng cây cọc sắt trên mộ phần của 1 người thân. Đoàn Kế Tường nhận ra người tài xế xe lam ở tỉnh nhà nên vẫy lại hỏi thăm. Nét đau khổ đã biến khuôn mặt sạm đen nhếch nhác mồ hôi thành bất động. Cái bất động của một pho tượng có hồn khí.
– Xác ai vậy anh?
– Con tui. Ba đứa chết cả ba. Một đứa chết bom hồi chạy loạn. Đứa ni tui mới tìm ra, chôn tạm đó chờ khi mô yên về cải táng lại. Còn đứa nữa bị thương đem về tới Đà Nẵng cũng chết luôn.
– Làm sao anh ra được đây?
– Tui đi nhờ xe của nhà báo. Chút trở lui cho tui quá giang về Huế nhé.
Chúng tôi gật, trả người đàn ông đau khổ về với phần mộ đơn sơ của đứa con bất hạnh.
Dọc đường, nhiều nấm mộ được chôn cất vội vàng với những cách làm dấu đủ loại. Điều đó chứng tỏ đã có nhiều người đánh dấu mộ bằng cách này hoặc cách khác để đi tìm xác người thân chôn cất vội vàng rồi lại trở vô Huế hoặc Đà nẵng chờ yên bình hơn để về cải táng.
Địch pháo như mưa lên đầu đoàn người đi hốt xác khiến một bác phu… đào ngũ
Có nhiều tiếng nổ mà kinh nghiệm cho biết không phải của ta bắn đi. Chúng tôi vội vã trở lại vị trí nhặt xác để trấn an mấy người phu hốt xác.
Khi xe về tới nơi, chúng tôi đụng với một toán quân Dù đang từ căn cứ cách quốc lộ khoảng 1cs về phía núi rút ra quốc lộ. Pháo Cộng đuổi theo tới tấp làm 2 binh sĩ bị thương. Đoàn phu hốt xác ngưng tay, vẻ kinh hoàng lộ ra trên nét mặt.
Anh Châu chụp lên đầu tôi cái nón sắt nặng như cùm làm đầu tôi muốn gục xuống và hối tôi rời xe chạy về bên kia quốc lộ. Viên chỉ huy toán lính Dù yêu cầu chúng tôi tiến vào phía trong quốc lộ và tìm chỗ nấp tránh pháo.
Pháo mỗi lúc một rơi mau. Tường nắm tay kéo tôi vào 1 hố cát. Không may đó là hố cát chứa đạn. Chúng tôi bèn rút sang một cái hố bom B52 ở cách đó vài thước. Hại thay trong lòng hố bom lại nằm sẵn 1 trái bom bi. Chúng tôi ngồi ở thành dốc của hố với 5 người phu còn lại sau khi người phu thứ sáu vì quá sợ hãi đã xách nón ra giữa quốc lộ chặn 1 cái xe Jeep vừa chạy qua tế như tế sao để xin quá giang về Huế. Thế là có một kẻ đã đào ngũ. Những câu chuyện đùa cợt được anh Châu đem ra kể để trấn an nỗi sợ của nhũng người phu còn lại. Một vài miểng pháo rơi xuống xung quanh có lúc chỉ cách lưng tôi có 1 thước.
Khi pháo đã ngớt, chúng tôi kéo vào phía trong độ chục thước nấp sau một mô cát và chờ đợi.
Có người thúc, về Huế cho rồi.
Tường nói gần như nạt:
– Tôi có kinh nghiệm chiến trường nhiều. Ra khỏi chỗ nấp lúc này là lãnh đủ cho coi.
Bữa ăn trưa thanh đạm gồm bánh mì chả và nước lọc được giải quyết nhanh chóng tại chỗ.
Khoảng 1g sau, chúng tôi mon men đi lại gần quốc lộ nơi toán quân dù đang ngồi nghỉ. Vừa ra tới nơi, pháo lại bắt đầu mặc dù trước đó B52 đã làm một vòng bên trên vị trí đặt ổ pháo của chúng và hỏi thăm tận tình. Tiếng gọi máy tới tấp của viên sĩ quan truyền tin cho thấy tình hình có thể còn lâu mới bình thường lại. Chúng tôi thu xếp đồ đạc về Huế với vỏn vẹn vài xác thu lượm được.
Buổi sáng hôm nay, đoàn người nhặt xác phải nghỉ một ngày vì tối hôm trước trời mưa, đám phu ngại khí độc bốc lên có thể bị phung. Một tin vui cho chúng tôi là các bà bán hàng tại chợ Đông Ba sẵn sàng đóng góp tiền bạc cho chương trình nhặt xác này.
Tôi cũng rời Huế hôm đó vì có tin từ Saigon gọi về để ra toà ký cả chục bản kháng án những vụ báo tịch thu.
Tôi viết những giòng này để nói lên tình của người sống đối với người chết, để nói lên niềm đau thương của người dân miền địa đầu hết gặp thiên tai bão lụt lại gặp chiến tranh bom đạn, để nói lên sức chịu đựng vô bờ của người dân Việt.
Trong sự khổ đau nào cũng chứa sẵn một nụ hoa sẽ nở và mùi hương kỳ diệu. Tôi tin tưởng mãnh liệt như thế trên đường trở về Saigon…
Niềm câm lặng của những người chết
Liền sau khi thu xếp một số công việc ở Saigon xong, tôi bay ra Huế lại sau khi tạt qua Quảng Ngãi và Đà Nẵng. Cùng đi với tôi từ Quảng Ngãi có anh bạn thi sĩ Phan Nhự Thức – 1 người hoạt động khá tích cực cho QN Nghĩa Thục.
Có một sức lôi cuốn mãnh liệt đối với tôi đến không thể không trở lại Huế, nơi mà những người anh em của tôi đang làm cái việc chẳng ai buồn làm, nếu không nói là “dở hơi” như 1 vị đại biểu khả kính nào đó đã tuyên bố 1 cách hết sức… nhân đạo là: “lo cho người sống còn chưa xong huống hồ là…” như 1 cách để trấn an lương tâm! Tôi cũng không quên câu anh Phạm Văn Lương nói với tôi lúc tôi ghé qua Đà Nẵng: “Hãy nhìn việc nhặt xác dưới khía cạnh tình cảm. Và người sống đã có nhiều người lo và họ nói lên được nguyện vọng của họ trong khi người chết thì câm lặng. Hơn nữa, dù họ chết rồi nhưng họ vẫn là người VN và người VN thì vốn quan niệm sống thì có thể sao cũng được nhưng chết phải có một nấm mồ.”
Vì sự lầm lẫn kỹ thuật, 2 trường hợp thân nhân người chết nhận lộn xác
Vừa thấy tôi, anh Châu đã trách:
– Trong Saigon sắp chữ sao mà để lộn số tùm lum. Có ông nọ dò theo báo tới nhận cái hòm số 10 thay vì số 4 rồi phủ phục xuống khóc như mưa gió trước cái hòm đó, tới chừng mở nắp ra thì không phải xác thân nhân mình.
Một quan niệm hết sức dân tộc: “Sống mái nhà, thác nấm mồ”
Mọi người phì cười. Tôi bảo anh Thức:
– QNNT còn đang đi xin thấy mồ đi mà còn bày đặt đóng góp!
Tuy vậy, mọi người vẫn có vẻ cảm động trước đề nghị của anh Thức.
Quả thực đã có lúc tôi tự trách sao với 3 ngày ở Saigon dù bận rộn nhưng đã không tích cực lưu ý anh em Saigon phát động chiến dịch “Đắp Nấm Mồ Yên Nghỉ” đúng hơn.
Mới đặt chân tới Huế mà sao tôi nôn nóng về ngay Saigon để trình bày tất cả cái khó khăn về mặt tài chính của anh em ST Huế bên cạnh những khó khăn khác mà họ đã được biết.
Có nhẽ, phải thành thật mà nói rằng, trừ những người đã được chứng kiến tận mắt cảnh đồng bào Quảng Trị đã chết thảm ra sao trên bước đường chạy loạn, chứng kiến không phải bằng đôi mắt báo chí có tính cách chuyên nghiệp, mà bằng đôi mắt của kẻ mang nặng tình tự dân tộc, còn đối với đa số công việc “nhặt xác” ít nhiều là chuyện “nghe xong bỏ đấy”. Vả lại, làm sao trách tha nhân thờ ơ được khi chưa có một khơi dậy thích đáng!
Tôi cũng cảm thấy nóng ruột trong lòng thành phố Huế cổ kính rất trầm lặng với đôi ba lần trong ngày bị đánh thức bởi hàng loạt pháo kích của CQ.
Tái ngộ “Đại lộ kinh hoàng”
Sáng hôm sau sau bữa cơm hến, món ăn đặc biệt Huế, chúng tôi gồm 6 người cùng 6 người phu đáp chiếc xe Dodge mượn được của Quân Nhu lên đường rời Huế đi về phía Đại lộ kinh hoàng để tiếp tục công cuộc nhặt xác. Trời mưa nhỏ.
ĐK Tường dặn tôi:
– Lát nữa chị đừng xuống bãi nữa nghe. Trời mưa thế này nguy hiểm lắm…
Tôi cười thay câu trả lời.
Chúng tôi ghé lại quận Phong Điền vào ngôi trường mượn đỡ để để xác đồng bào Quảng Trị xấu số.
Trong một phòng học chứa trên 30 áo quan lớn nhỏ và cả trăm bọc nylon hài cốt.
Phía trước hàng rào kẽm gai xiêu của trường có treo 1 cái băng đờ rôn trắng kẻ chữ đỏ với dòng chữ vì vội vàng nên có 1 sơ xuất lớn về phương diện ý nghĩa của danh từ và anh em thường đem ra nói đùa với nhau những khi quá mệt nhọc.
Sở dĩ không thể kẻ lại cái băng đờ rôn khác cũng chỉ vì thiếu tiền. Đành cứ tủm tỉm cười một mình mỗi khi đọc hàng chữ: “Chương trình nhận diện và chôn cất đồng bào chiến nạn Quảng Trị do nhật báo ST và thân hữu thực hiện.”
Chiếc Dodge tiến thẳng vào sân trường. Mùi nồng nặc từ trong các lớp học xông ra. Chúng tôi phải hút thuốc để trấn át mùi hôi. Nơi hành lang dãy vào phòng học đối diện với cổng trường: một bàn thờ đã được bày sẵn có lẽ là do thầy Đức Tâm thực hiện. Trong một phòng học, khoảng trên 30 cái áo quan thô sơ lớn nhỏ đủ cả, phòng kế bên là cả trăm bọc nylon chứa hài cốt đồng bào được xếp trên những chiếc bàn học chờ vô hòm. Trong khi NgyThanh hết đi quanh quanh giữa những chiếc bàn trên đặt các hài cốt lại ra hành lang kẻ những dòng chữ chỉ dẫn thân nhân người chết lên tường, tôi và ĐK Tường đứng ở hành lang nhìn người đàn ông tay cầm cây nến tay cầm nén nhang vừa đi theo sau một cái quan tài vừa được khiêng từ trong phòng ra lên 1 chiếc GMC vừa khóc hu hu. Người chết là một quân nhân.
Chiếc GMC rời khỏi trường học tiến ra phố quận đổ nát hoang tàn. Tôi tự hỏi 1 cách lẩn thẩn và chua xót một mai, khi bình yên rồi, những em nhỏ trở lại trường ngồi nơi những chiếc bàn đã 1 thời dùng để đặt những hài cốt nọ, các em sẽ nghĩ gì sẽ cảm thấy sao nếu có ai bảo cho các em biết điều đó?
Trong sân trường, anh Châu vừa tiếp xúc với những đồng bào đến nhờ anh tìm hộ tên này tên nọ, vừa trao đổi câu chuyện với mấy sĩ quan Quân nhu lo về Chung Sự. Họ cử một toán lính và 1 GMC đi theo phái đoàn chúng tôi để chở xác về Phong Điền.
Đoàn người rời quận Phong Điền lên đường, bỏ lại phía sau những khuôn mặt khổ đau chất phác của những người bỏ cả công ăn việc làm để đi tìm xác thân nhân. Mỗi ngày họ đón đọc báo ST để dò tìm thân nhân nơi danh sách thi hài nạn nhân chiến cuộc. Họ đặt hết hy vọng vào những chuyến đi nhặt xác của anh em ST/Huế. Người chết thì quá nhiều và rải rác khắp nơi.
Từ Quảng Trị đến cầu Trường Phước qua Hải Lăng trong khi khả năng, hoàn cảnh của anh em ST Huế thường không vượt quá 1cs cách QL1! Căn cứ vào những lời thuật lại về cách nằm chết và vị trí của các nạn nhân của anh em và những người phu, có thể nói là những người chết trên Đại lộ kinh hoàng thường không chỉ chết một lần và được chết tức khắc hoặc chết lần chết mòn chết khô chết héo sau khi bị thương hoặc chết ngay song sau đó lãnh thêm ít bom hay pháo.
Những người lính QC [Quân Cảnh] đã quen mặt phái đoàn hốt xác nên không còn chặn lại xét hỏi hay gạn lọc những người không phận sự mặc dù ngoài mấy người phu hốt xác, xe chúng tôi vẫn chở thêm 1 đôi thiếu niên vừa đi theo để tìm xác thân nhân vừa tiếp tay anh em ST ghi những chi tiết về các xác chết.
Trời mưa lất phất khi đoàn xe dừng lại trong con phố đổ nát của Mỹ Chánh chờ bơm phao cầu nổi.
Qua khỏi cầu Mỹ Chánh, tới cầu Trường Phước bước vào Đại Lộ Kinh Hoàng đã gần như trở thành hoài niệm vì xác xe đã được kéo đi gần hết cùng với những xác người được anh em ST Huế hốt mang về Phong Điền, trên đường chỉ còn lại những mảnh áo quần và vật dụng của dân chạy loạn đang bị gió thổi cát khoả lấp dần. Chúng tôi qua khỏi Cầu Dài và đoàn người hốt xác bắt đầu túa xuống hai bên đường đi đào và hốt xác đồng bào dưới những tiếng đạn pháo kích xẹt qua bên trên đầu.
Thoắt cái, khoảng 1 tiếng sau, gần 10 xác chết được bọc trong bao nylon cột lại kỹ càng xếp dài ở một mé quốc lộ. Để tránh làm mục tiêu cho cộng quân pháo từ phía Đông Hà ra, anh Châu lưu ý mọi người đừng đứng dính chùm một chỗ trên quốc lộ. Một người phu đem lại cho Tường tấm thẻ kiểm tra tìm thấy trên một xác chết thiếu nữ mất chân, có tiếng 1 trong 2 thiếu niên đi theo chúng tôi kêu lên giọng như khóc:
– Đây là bà Chị tôi!
Nói rồi anh ta mếu máo chạy tới bên một bọc ny lông bên đường. Một chiếc xe Jeep dừng lại và 2, 3 sĩ quan cấp tá bước xuống, mũ sắt áo giáp nai nịt kỹ lưỡng.
Đồng bào lết vào trong miếu với hy vọng thần linh che chở để rồi chết ở đó
Anh Châu giới thiệu chúng tôi với nhau và tôi được biết viên Tr. tá ở bên Quân Nhu coi về Chung Sự. Chiếc áo giáp che khuất bảng tên của ông. Ông ta vừa từ phía La Vang về và cho chúng tôi biết có khoảng 5, 6 xác chết nằm trong chiếc miếu ven đường. Có lẽ những người này đã bị thương và giữa cảnh bãi cát mênh mông và dưới cơn mưa bom đạn, họ đã lết vào trong miếu với 1 hy vong mong manh được thần linh che chở cho tai qua nạn khỏi để rồi chết rục trong đó. Ông nói như thể việc hốt xác như là… của độc quyền anh em ST Huế, kể cả xác quân nhân. Gió thổi mạnh đôi khi át cả tiếng départ của pháo cộng và cũng đôi khi làm chúng tôi tưởng lầm là tiếng départ của pháo cộng. Anh Châu hối phu làm mau cho xong đoạn đường này để rời xa cây cầu vốn là một trong những mục tiêu của pháo cộng.
Viên Tr. tá Chung Sự nói với tôi:
– Bà không sợ những xác chết này hay sao? Nhà tôi mà thấy là bả xỉu liền.
Tôi “dạ” một cách vu vơ và cười. Tôi có nhiều cái khác để sợ hơn là sợ những người đã không còn có thể nói lên nguyện vọng thiết yếu cuối cùng của 1 đời người rằng: “Chúng tôi cần một nầm mồ để yên nghỉ giấc ngàn thu”. Tôi thực không hiểu mấy ông bên Chung Sự làm sao có thể chỉ đi tìm xác quân nhân giữa đống xác của bao nhiêu người bất hạnh khác, trong đó có cả trẻ con? Nhưng dường như họ cũng chỉ cho chúng tôi mượn phương tiện chuyên chở duy nhất và phó mặc luôn cả phần vụ lượm xác quân nhân cho đám phu chúng tôi mướn, mướn bằng số tiền cầm xe Honda của anh Châu.
Viên Tr. tá nói gì đó và tôi hỏi lại.
– À vâng… Việc này bên Chung Sự làm một mình không xuể cũng như một mình ST chúng tôi làm không xuể. Tôi đồng ý với Trung tá là phải có sự hợp tác…
Anh Châu tới bên chúng tôi dù đôi mắt vẫn trông chừng đám phu để họ không lượm đồ cũng như để họ không bỏ sót dù một mẩu xương nhỏ của người chết. Tôi nghe tiếng viên Trung tá nói giữa tiếng départ của pháo cộng từ trong phía Đông Hà bay chéo qua quốc lộ lẫn trong tiếng rít của gió.
– Chiều nay anh cho phép mấy người bên tôi qua trường nhận mấy xác quân nhân về?
– Dạ được, Trung tá…
Xong, ông quay qua tôi nói hân hạnh được quen biết rồi cùng các sĩ quan tháp tùng lên xe và người tài xế mở hết tốc lực lao xuống con dốc dẫn tới cây cầu nổi bắc thế Cầu Dài đã bị giật sập để về Huế.
Anh em ST quay về với công tác của mình. Trời vẫn lất phất mưa. Từ Cầu Dài lên tới La Vang chỉ có nhóm anh em chúng tôi và những người phu. Thỉnh thoảng một chiếc xe nhà binh xả hết tốc lực chạy trên đường về phía QT hoặc từ QT về Huế tạo cho bầu không khí một vẻ căng thẳng ngột ngạt. Pháo cộng vẫn thỉnh thoảng rít trên đầu. Anh Châu nhìn theo hướng pháo rồi nói:
– Khéo không lát nữa không có cầu mà về
Một trái pháo rơi trúng nơi có lẽ là chỗ đặt thuốc nạp ở khoảng cầu Trường Phước làm một cột lửa bùng lên và không có tiếng nổ tiếp theo.
Chúng tôi gặm bánh mì phía sau một mô đất thấp và kết thúc bữa ăn trưa mau chóng sau đó. Chiếc GMC của Chung Sự không còn đi theo chúng tôi nữa. Không biết họ còn nằm ở Cầu Dài không hay đã dông về Phong Điền.
Sau khi thu nhặt những xác trong và xung quanh ngôi miếu nhỏ cách nhà thờ La Vang hơn cs, NgyThanh được chỉ thị lái chiếc Dodge về Cầu Dài gọi chiếc GMC lên. 15 phút sau Thanh trở lại cho biết họ đã chở những xác nhặt được ở Cầu Dài về Ph Điền. Anh Châu lộ dáng bực dọc, gọi mọi người lên đường về. Thế là với 1 chiếc Dodge chúng tôi cả thảy trên 20 mạng, 1 nửa sống, 1 nửa chết chồng chất lên nhau đi về Phong Điền. Lúc đó đã 3g chiều. Trời vẫn mưa lất phất và có mầu chì khiến khó mà phân biệt thời gian nếu không nhìn đồng hồ.
Hình ảnh người cha già Việt Nam: Hết đi tìm con tại các quân y viện lại đi tìm xác con trên Đại lộ Kinh Hoàng
Với non 200 xác do anh em ST Huế nhặt được tính đến ngày 15-7-72 có tới non 50 xác quân nhân. Dầu sao thì với sự tiếp tay về chôn cất của ban Chung Sự quân đội chúng tôi cũng bớt được phần nào gánh nặng. Chúng tôi xin ghi nhận điều này dù rằng đó là bổn phận của ban Chung Sự.
Vừa về tới trường tiểu học Phong Điền anh Châu đã bị bao vây bởi đám đồng bào đợi sẵn ở đó. Những câu hỏi vừa ngớ ngẩn vừa bi thảm:
– Ông có thấy xác con tôi không?
– Ông có nhặt được xác chồng tôi không?
Họ tranh nhau dò trong cuốn vở nhận diện. Rồi thỉnh thoảng có tiếng kêu lên:
– Nè, thằng con tui nè! Đúng nó rồi chớ còn ai nữa!
Rồi họ tách ra chạy tới bên chiếc Dodge ngó chằm chặp vào từng bao ny lông đang được chuyển xuống đưa vào lớp học.
Sau khi khuyên đồng bào lại trụ sở của uỷ ban đặt ở 20 Đống Đa Huế để dò trong bảng danh sách đặt tại đó mỗi ngày để biết chắc rồi hẵng ra Phong Điền cho đỡ mất thì giờ, anh Châu ra quán nước trước cổng trường ngồi uống nước với chúng tôi. Tôi nói với anh:
– Sao anh không nhờ Hồng Thập Tự hay Hướng Đạo cho người tới tiếp tay với anh, ít là trong việc tiếp xúc và giải thích cho đồng bào? Cả ngày ở ngoài bãi, về đây lại phải tiếp xúc, giải thích này nọ, sức vóc nào chịu nổi?
Anh đáp:
– Cả 2 nơi đó hầu như chẳng còn ai. Và tôi có dặn đồng bào cứ đến 20 Đống Đa Huế xem danh sách trước, có tên thân nhân thì hẵng ra nhận xác
Nói cho cùng thì đa số những xác nằm trong trường tiểu học Phong Điền đều vô thừa nhận. Vì vậy, anh Châu dự trù sẽ làm lễ mai táng tập thể khi nào có đủ hòm. Khi nào có đủ hòm có nghĩa là khi nào có tiền.
Vừa lúc đó, một người đàn ông nhà quê luống tuổi tới bên chúng tôi rụt rè hỏi:
– Mấy anh có thấy xác con tôi đâu không?
Đoàn Kế Tường đưa ông ta cuốn vở nhận diện để ông ta dò. Nét thất vọng lộ rõ trên khuôn mặt sạm đen. Sau khi ông già dò hết cuốn vở, ông ta trả lại cuốn vở nhầu nát nói như than với đứa con không biết sống chết nơi nao:
– Thiệt khổ cho tui. Hồi hắn còn sống đi lính thì tui đi tìm hắn ở các quân y viện, nay đồ chừng hắn đã chết trong đợt rút lui khỏi Q Trị, tui đi tìm xác hắn. Cả tháng nay rồi.
Tường ngước nhìn ông già:
– Thằng đó đi lính gì vậy bác?
– Hắn lính sư đoàn 3.
– Tôi cũng ở SĐ 3, có thể biết hắn. Hắn tên chi đó bác?
– Lê Lý.
– Thằng đó chạy với tôi. Tôi biết nó mà.
Mắt người cha sáng lên:
– Anh biết nó?
– Thì nó chạy cùng với tôi. Tới Hải Lăng thì tôi không thấy nó nữa. Nếu nó chết thì chết ở mạn đó. Tụi tôi chưa tới hốt xác ở đó vì lý do an ninh.
Giọng Tường nhanh và bình thản như nói tới một chuyện hết sức bình thường. Trong nhóm anh em ST đồng tuổi 24, Tường bị coi là “sữa” nhất vì mập nhất, nhưng lại nhiều [?] nhất. Và có lẽ vì sống nhiều, trong đó có lần bị VC bắt giam tưởng bỏ mạng trong khi rút lui khỏi Quảng Trị, nên anh ta có vẻ chai dạn lì lợm. Tôi tưởng như Tường là hiện thân của tuổi trẻ VN bị già trước tuổi quá nhiều.
Người cha cám ơn – chẳng biết là cám ơn cái gì? Vì Tường đã cho biết con ông nằm chết ở đâu chăng? – rồi lúp xúp đi ra khỏi quán, cái cổ như rút vào giữa hai bờ vai gầy…
Thêm một ngày nghỉ vì hết tiền
Hôm đó là thứ 7, ngày 15/7, mọi người xem ra đều mệt mỏi, muốn có 1 ngày nghỉ. Anh Châu cười buồn:
– Không nghỉ cũng phải nghỉ vì 2 lẽ: cần tổ chức văn phòng ở 20 Đống Đa Huế để tiếp xúc đồng bào và… vì hết tiền.
Tôi cảm thấy ngột ngạt khó chịu khi sau bữa cơm tối, anh Châu bảo nếu cần anh sẽ bán rẻ miếng đất của anh trị giá 1.000.000đ để công tác được hoàn tất.
Đêm hôm đó tôi nuôi ý định về Đà Nẵng ngày hôm sau để cầu cứu anh Phạm Văn Lương trong khi chờ đợi chiến dịch quyên góp được phát động từ Trung ương. Vì không tin là mình thành công trong chuyến về Đà Nẵng nên tôi không dám thông báo mục đích của chuyến đi với anh Châu mặc dù sự ngạc nhiên nơi anh khi nghe tôi đòi rời Huế sớm hơn dự định.
Đi Đà Nẵng xin viện trợ: Một kết quả bất ngờ và cảm động
Cùng đi với tôi về Đà Nẵng có Đoàn Kế Tường.
Vừa nghe chúng tôi trình bày khó khăn của Huế, mặc dù đang nhức đầu đến nỗi phải bỏ cả cơm tối, sau khi nốc 4 viên APC, anh Lương lấy xe chở chúng tôi đến gặp vợ chồng ông Lượng, một thương gia người Quảng Bình di cư vào Đà Nẵng hồi 54 để nhận số tiền 20.000đ mà bà Hiền gọi là đợt đóng góp đầu tiên của Hội Phước Thiện Bảo Sanh ĐN mà bà làm đại diện. Kế đó anh Lương đưa chúng tôi tới gặp dược sĩ Nhân để thảo luận một kế hoạch quyên góp tiền mua áo quan cho những đồng bào Quảng Trị xấu số.
Liền đó, mặc dù giờ giới nghiêm bắt đầu, chúng tôi làm một cuốn sổ đi quyên tiền. Tôi biên vội một lời kêu gọi và cùng với anh Lương ký tên rồi kéo cả một phái đoàn đi gõ cửa của các thân hữu của hai anh Lương và Nhân. Tối hôm đó chúng tôi quyên được sơ sơ gần 100 ngàn. Kế Tường lộ vẻ vui khi nghĩ ngày mai về Huế với 1 món tiền để nhóm anh em ngoài đó “cầm hơi”.
Rồi cả ngày hôm sau anh dược sĩ Nhân với sự tiếp tay của ông Ng. Gia Thuỵ, 1 thương gia có tiếng ở Đà Nẵng và cũng là người đã đứng ra tổ chức cứu trợ cho đồng bào hồi cư trước 1954 ở Hà nội, cùng với Đoàn Kế Tường đi quyên được khoảng 200.000đ.
Buổi tối vừa ở bệnh viện về, anh Lương chép lại lời kêu gọi vào một cuốn sổ khác và đi quyên thêm bỏ cả cơm tối trước cái nhìn thầm lặng và chịu đựng của chị Lương bên mâm cơm.
Kết quả thật phấn khởi: số tiền quyên được lên tới 300 ngàn!
Tôi bỗng cảm thấy phấn khởi, vì nếu cứ cái đà này, có lẽ chúng tôi không phải nhờ tới chính quyền vốn quá nhiều… rùa trong hệ thống hành chánh.
Người dân Việt, trên một khía cạnh nào đó, chưa phải là đã chai sạn thản nhiên đến lạnh lùng sau mấy chục năm sống trong khói lửa, thiên tai triền miên [như] nhiều người quen nghĩ như thế.
Tôi vẫn thực sự không hiểu tại sao, với 1 đất nước chiến tranh và thiên tai triền miên, như nước ta mà vấn đề cứu trợ chỉ có tính cách tạm bợ do các sự đóng góp tuỳ tâm thay vì có một quỹ riêng biệt và 1 chính sách thuộc loại quốc sách hẳn hoi?
Một độc giả ST: ST đang làm một cái việc tích đức cho mai hậu
Tôi trở về Saigon giữa bầu không khí xúc động của toà soạn khi nhận được những hưởng ứng đóng góp của độc giả ST sau khi chiến dịch “Đắp một nấm mồ yên nghỉ cho đồng bào nạn nhân chết trên đại lộ kinh hoàng” được phát động. Một trong những câu chuyện cảm động nhất là câu chuyện về 1 người đàn bà không biết chữ, đi bộ từ Chợ Lớn xin góp 1000đ chỉ vì nghe có người nói về chiến dịch trên của ST.
Chúng ta không cô đơn, tôi muốn kêu to lên như thế với anh em ST ở Huế. Và tôi cũng muốn lặp lại với anh em lời của 1 người bạn, rằng: “Các anh chị đang làm những việc tích đức”.
Nếu quả thật việc làm hiện nay của chúng tôi đưa đến kết quả đó thật, chúng tôi xin dành cái đức ấy cho thế hệ tôi và những thế hệ tới nữa, để họ không phải sống trong 1 thời đại kinh hoàng như thời đại chúng tôi hầu có thể nghĩ tới việc dựng xây thay vì chỉ làm được việc hàn gắn vá víu tuy cần thiết nhưng thật nhỏ nhoi trong hiện tại giữa một đất nước bị vây bủa bởi ngàn vạn vấn đề lớn. [Hết]
Kết thúc bài “Bẩy tháng giữa những xác người” trong loạt bài bốn tác giả viết về “Đại Lộ Kinh Hoàng” xuất bản trên Thời Báo ngày 20 tháng 11, 2009, anh Nguyễn Kinh Châu viết: “Sau khi thu nhặt hết xác trên hai bãi cát dọc hai bên đoạn quốc lộ mang tên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’ và mai táng xong, anh em ST còn giữ lại nửa triệu, tức một phần sáu tổng số tiền lạc quyên được từ độc giả hảo tâm, chúng tôi đã dùng số tiền nầy dựng một bức tượng Đức Địa Tạng rất lớn ngay chỗ có nhiều xác chết nhất, lập một đền thờ oan hồn, và tổ chức một lễ cúng do anh Lý Đại Nguyên từ Saigon đại diện tòa soạn ra chủ tọa. Đền thờ nầy vẫn còn cho đến ngày nay [2009].” Hình trên là Đài Đức Địa Tạng, vị Bồ tát có quyền năng giải thoát cho các oan hồn.
———-
Đường nối tới các trang mạng đề cập tới trong Lời giới thiệu:
Kho Chứa Sách Xưa, http://ndclnh-mytho-usa.org/Nhat Bao Song Than.htm
“Quảng Trị Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 – Hốt xác đồng bào tử nạn trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’”, của bốn tác giả, gồm Giao Chỉ Vũ Văn Lộc, Ngy Thanh,Trùng Dương và Nguyễn Kinh Châu, xuất bản trên tạp chí Thời Báo (Houston, 2009), và được cập nhật gần đây, https://1drv.ms/b/s!Au8GiorPs6PLiYNLFMVms8az9CSOYw
“Trên Đại Lộ Kinh Hoàng”, Nguyễn Thanh Khiết, https://www.youtube.com/watch?v=3OSg3PlAqwQ
“Appeasing the Spirits Along the ‘Highway of Horror’: Civic Life in Wartime Republic of Vietnam”, Vân Nguyễn-Marshall, Ph.D.,
https://doi.org/10.1080/07292473.2018.1469107
“Đại Lộ Kinh Hoàng – Tình Người Không Vơi”, Trịnh Bình An,
https://nghiathuc.com/2016/12/09/dai-lo-kinh-hoang-tinh-nguoi-khong-voi-trinh-binh-an-2/
Cha đẻ của ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’
Sau khi đánh được thành, phá được địch và chiếm được đất, mặc dù chưa thắng được lòng dân, nhưng vào năm 1999, Bộ Quốc Phòng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đã xuất bản cuốn “55 năm Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” trong đó, ở phần đề cập đến chiến dịch tiến công Trị Thiên vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị từ 30 tháng 3 đến 27 tháng 6, 1972, Viện Lịch Sử Quân Sự chỉ viết ngắn gọn ở trang 324, với 219 chữ:
“Tư lệnh: Thiếu Tướng Lê Trọng Tấn. Chính ủy: Thiếu Tướng Lê Quang Đạo. Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (366, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.
Từ 30 tháng 3 đến 5 tháng 4, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9. Từ 10 tháng 4 đến 2 tháng 5, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.Từ 3 tháng 5 đến 27 tháng 6, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.
Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27,000 tên dịch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1,870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).”
Quay lại khúc phim hãi hùng
Tác phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại Lộ Kinh Hoàng,” là cuốn “Phóng Viên Chiến Trường” của 2 tác giả Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương vừa trình làng lần đầu hôm 15 tháng 5, 2016 tại Houston. Là phóng viên chiến trường vào sinh ra tử, kinh nghiệm trận mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) (cùng với Thiếu Tá Đinh Công Chất và Thiếu Tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện chính phủ và nhân dân miền Nam bay trên chiếc C-130 ra Hà Nội vào đầu năm 1973, trong tư cách Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 bên [Four-Party Joint Military Commission; ghi chú của NgyThanh], để giám sát thủ tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại lộ Kinh hoàng,” ký giả Dương Phục viết:
“Cuộc di tản hàng chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt đoạn đường dài trên quốc lộ 1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu dễ nhắm của bom đạn Việt Cộng.
Không điều gì gây phản tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt quang gánh, bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến thắng. Cộng Sản điên cuồng trước chuyện dân chúng bỏ đi nên không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói quen chỉ biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người dân, họ đã dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu kéo người dân Quảng Trị ở lại…
… Hành động bỏ phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng Sản ở bất cứ cửa ngõ thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do đó đã không ngần ngại xả đạn pháo kích thẳng vào đoàn người di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần cầu Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản, còn lại đa số là người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ em và thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các quân y viện.
… Khi Thủy và tôi đến được khu vực này, xác người đã nằm phơi sương dãi nắng gần hai tháng trời. Mùi tử khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn như sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông người có thể chết gục cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân đều bị hàng ngàn mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân. Một viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm nầy tung bay mọi phía với tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền Nam. Loại vũ khí nầy đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong cùng động tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.
Chưa bao giờ trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng chết một nơi như vậy… Trái tim tôi quặn thắt trong lòng và Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe. Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con trong lòng, đứa nhỏ vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con nằm bất động bên bờ đường quốc lộ như hai hình nộm xám đen của một sân khấu quái đản.
Nếu không tận mắt chứng kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng như thế nào. Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và quần áo tung tóe phủ kín mặt đường. Xe hơi, gắn máy, xe đạp, kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi, tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi xe cộ, từ quân xa, xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng khắp trên các thành xe.
Có những đoạn không còn một chỗ nào trống cho nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy, vừa gạt nước mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân trên mỗi khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm gậy chống và nhẹ gạt các mảnh quần áo còng queo sang một bên, để biết chắc là mình đã không giẫm lên các xác người khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.
Đa số xác người đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương khô lép kẹp đen sậm như những hình nộm ma quái trong các loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa ra khi gậy của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên đường đi. Có cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn li ti khắp thành xe. Mọi hành khách dường như đều tử thương tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị trí trên băng ghế.
Trách nhiệm về cuộc thảm sát
Trước khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, dẫn đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị vào ngày đầu tháng 5, 1972, dư luận và báo chí Sài Gòn có khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn xấu số này, và trút hết trách nhiệm, kể cả về nhiều ngàn thường dân bị giết trên đường tản cư, cho ông ấy.
Những ngày sau khi mất Quảng Trị, toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân ùa vào Đà Nẵng, Sài Gòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến đấu khủng hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu vãn các tỉnh miền Trung không thể tựa vào các sư đoàn trừ bị thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các liên đoàn Biệt Động Quân – vì thực sự các quân số này đang vướng tay ở các chiến trường khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh quân đội VNCH chỉ còn một thế cờ chót trước khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc cuối cùng. Thật may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4 tháng 5, 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, đang là tư lệnh Quân Đoàn 4 ở miền đồng bằng sông Cửu Long, nhận lệnh bay ra Đà Nẵng nhận chức tư lệnh Quân Đoàn 1, thay tướng Hoàng Xuân Lãm.
Tướng Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được tình hình, và còn chỉ huy tái chiếm được cổ thành Đinh Công Tráng, và tất cả lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi lầm lì im lặng. Mãi đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời gian được ban quân sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ mời, năm 1980 ông mới viết quyển “The Easter Offensive of 1972,” sau đó được Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972” ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã qua đời.
Chính Tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai trò của Tướng Giai trong các diễn tiến mất Quảng Trị, dẫn đến dân chết thảm trên ĐLKH. Trong cuốn sách kể trên, tác giả viết:
“… Tướng Lãm đã không quan tâm đến những khó khăn mà tướng Giai gặp phải. Thái độ của ông hoàn toàn lạc quan… Thái độ lạc quan của tướng Lãm lại được thể hiện rõ nét qua biến cố ngày 9 tháng 4… Ở thời điểm nầy, trách nhiệm và quyền hạn của Tướng Giai đã vượt xa hơn vị trí của một vị tư lệnh sư đoàn. Ông đã chỉ huy 2 trung đoàn BB Cơ hữu (TrĐ 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3 LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh và những lực lượng diện địa của tỉnh Q. Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm khoảng 23 tiểu đoàn và những lực lượng diện địa… Nhưng có một điều cần lưu ý ở đây là tướng Lãm không tự cảm thấy vội vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới quyền của ông ở tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của Quân Đoàn 1. Ông chỉ nghe thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua các bản báo cáo và ban hành những chỉ thị, những huấn lịnh cho ban tham mưu của ông. Tự bản thân ông không bao giờ đi thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà các đơn vị trưởng phải đối mặt…
… Căn cứ Ái Tử, phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về mặt chiến thuật. Trong suốt tháng 4, đây là điểm mà pháo địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức độ dữ dội. Cho nên Tư Lệnh Sư Đoàn 3 đã quyết định dời bộ tham mưu về phía Nam của con sông Thạch Hãn, trong cỗ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi ý kiến của vị cố vấn sư đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế hoạch nầy, họ sẽ tìm cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta cũng không thông báo kế hoạch nầy cho vị tư lệnh Quân Đoàn 1. Đơn giản là ông ta muốn cẩn thận, muốn đặt mọi việc trước một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức giận cho Tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng cách càng lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra dẫn đến sự thất thủ của thành phố Quảng Trị…
… Trong vòng 4 giờ sau đó [ngày 1 tháng 5, 1972, ghi chú của NgyThanh] những phòng tuyến của quân đội miền Nam đã đổ vỡ hoàn toàn… Sau cùng khi biết được những gì đã xảy ra, Tướng Giai đã cùng ban tham mưu lên 3 chiếc M113 trong cố gắng bắt kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực thăng Mỹ đã đến để di tản những toán cố vấn và những nhân viên người Việt Nam của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn người phía trước nhưng thất bại. Quốc lộ 1 đầy cứng những người dân chạy loạn và những toán quân ô hợp và mọi loại xe cộ, quân đội và dân sự. Tất cả hốt hoảng tìm đường về Huế dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo địch. Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại cỗ thành và sau đó ông ta và ban tham mưu được trực thăng Mỹ bốc đi…
Trên quốc lộ 1, cả một dòng thác người chạy loạn, dân sự và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã diễn ra một cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những chiếc xe đủ các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội và dân sự đầy cứng cả con đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo binh địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến xế trưa hôm sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn người vô tội đã được tìm thấy trên đoạn đường dài của quốc lộ 1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là “Đại Lộ Kinh Hoàng.” Sự khích động và sự thảm thương của cảnh nầy, cũng giống như cuộc tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 đã ám ảnh người dân phía bắc của Vùng 1 Chiến thuật một khoảng thời gian lâu dài.”
Người Mỹ biết gì về cuộc thảm sát?
Đào bới núi sách báo viết về chiến tranh Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ Quảng Trị chạy về Huế vào ngày 1 tháng 5, 1972, chúng tôi may mắn bắt gặp được tấm ảnh duy nhất do Thiếu Tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng kiến và thu vào ống kính. Trong ảnh đăng kèm bài này, độc giả thấy máy ảnh được đặt ở góc tây bắc của cầu Bến Đá, ống kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ đoàn 369TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm QT vào tháng 7 và tháng 8, 1972.
Ảnh lấy từ trang 195 trong cuốn “The Easter Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của tác giả Gerald Turley được nhà xuất bản Presidio in vào năm 1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong tư cách cố vấn trưởng của SĐ3BB tường thuật:
“Lúc 12 giờ trưa [ngày 1 tháng 5, ghi chú của NgyThanh] Tướng Giai tuyên bố tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù bất cứ tình huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa chạy vào thành cỗ. Tức khắc, Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao cấp của ông trèo vào, hoặc ngồi bên trên các xe ấy để mở màn nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động nầy bỗng dưng làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ trực thăng đến di tản một cách vô vọng. Dave Brookbank và Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để lên kế hoạch chia nhau tử thủ cỗ thành. Đến 2 giờ, hai chiếc thiết vận xa chở Giai và đoàn tùy tùng quay lại cỗ thành. Hóa ra khi vừa ra khỏi thành phố mới chỉ được lối 1.5 km, xe của họ bị đối phương phác giác và tấn công. Đường thoát bị khóa, họ chỉ còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin trực thăng để di tản ban tham mưu của mình… Bên trong cỗ thành, việc chuẩn bị di tản tiếp tục với tốc độ chớp nhoáng trong khi các cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều càng tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3 giờ 20, máy phát điện nổ. Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp không, nhưng các cố vấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng súng nhỏ ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực cũ ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4 giờ 30, chuyến trực thăng đầu tiên sà xuống. Ông Giai và các sĩ quan thân cận nhảy vội lên. 4 giờ 32, máy bay rướn lên, chở theo 37 hành khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba phút, đã mang đi 47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người còn lại, với Đại Tá Murdock và Thiếu Tá Golden, là 2 người sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30 giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả mọi người đã được cứu thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị cô lập và bỏ ngõ…
Trước đó, giữa sáng 29 tháng 4, hai đại úy George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới bộ chỉ huy Lữ đoàn 369TQLC để bốc thiếu tá Sheridan. Philips nói, “Chúa Mẹ ơi, ông có thấy gì ngoài quốc lộ không? Cả mấy ngàn người dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau lưng. Ngoài đó, nhìn vào phía Nam hay ngược ra Bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.”
Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng hồ. Khoảng giữa trưa 29 tháng 4, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu ào ào nhả đạn vào đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn băng qua các vị trí bố phòng của TQLC. Đột nhiên, lúc 9 giờ đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng sau, đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại Tá mũ xanh Phạm Văn Chung không lâu sau đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là bởi Bắc quân đã thành công trong việc cắt đứt quốc lộ 1 ở phía Nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được cây cầu qua sông Nhung [cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn giữ. Và như thế, nhiều bộ phận của Sư Đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng tuyến Mỹ chánh độ 8 km về phía Bắc.”
Phóng viên Arnold Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua đại lộ kinh hoàng, trông thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì: Chiến bại ở Việt Nam và Cambodia):
“Ở phần mở màn của trận phản công, binh sĩ nhảy dù VNCH đã chứng kiến một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công voa gồm vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác do bị kẹt lại ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập [cầu Bến Đá, ghi chú của NgyThanh] để rồi bị tiêu diệt trên hành trình trốn chạy khỏi tỉnh. Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc thành từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như không đứt lìa dọc cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hương bắc một vài ngày sau khi lính nhảy dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe trong 3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới hết cái đuôi của sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các thanh đỡ mui trông giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò thì bên hông lăm dăm các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong hoặc gãy gọng từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe hơi cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ trống như các hố mắt trên đầu lâu con người.”
Phần riêng Thiếu Tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà ông quan sát cảnh tượng vô bờ bến của tấn thảm kịch và sự tàn phá: “Đoàn người chạy giặc kéo dài hàng giờ và tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến một hình ảnh tệ hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc, vì lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa các họng đại pháo trút đạn xuống đầu đoàn người. Hàng trăm người bị giết và bị thương, nhưng cái khối lúc nhúc người ấy tiếp tục ùn về phía Nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm bắn của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người chấm tọa độ và chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa phần là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”
Vòng tròn khép kín
44 năm trước, trong tuần lễ này, quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước bốc mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: Tháng 7 năm nay, cuốn nhật ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải, nguyên là một đại tá của Quân Đội Nhân Dân, được tái bản.
Sáng 1 tháng 7, 1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu Bến Đá nằm ở phía Bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các nhân chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu vắng lặng, không có lính nhảy dù phòng ngự trong các hố cá nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là phía VNCH đã đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rủ nhau bò qua chiếc cầu sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống nước, nhưng vẫn có thể bò qua được, nếu may mắn trên thành cầu không bị cài mìn hay lựu đạn.
Với một chút liều lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ dàng. Ngay đầu cầu phía bên kia của quốc lộ, là một bãi mìn dày đặc, do công binh VNCH cài một cách công khai, ngụ ý đe dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu từ bãi mìn hướng ra phía bắc, là dãy xe nhà binh, xe dân sự, xe đạp, xe gắn máy và la liệt xác người như trong tấm hình duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những sử gia nghiên cứu về sau.
Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu tấm hình không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một tấm thứ nhì do Thiếu Tá Cố Vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ chụp, tất cả các hình ảnh “đại lộ kinh hoàng” còn lại đều được chụp sau khi công binh chiến đấu của Trung Tá Trần Đức Vạn đã bắt xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi qua sông, cào một dải khá rộng giữa lòng đường làm tuyến tiếp viện binh sĩ, súng đạn và thực phẩm cho tiền quân. Nhờ có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không phải bò qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính tình trạng nguyên vẹn của cảnh tượng mà tôi đặt tên là “đại lộ kinh hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn Sóng Thần từ bưu điện Huế trong đêm 1 tháng 7, 1972.
Nhưng Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi xảy ra cảnh tượng kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng rợn này trước chúng tôi chính là vị sĩ quan chỉ huy Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 38 Pháo Binh Bông Lau của miền Bắc, người ra lệnh từ đài quan sát ở cao điểm 132, và chịu trách nhiệm trên từng viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm “giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ Ngụy.”
***
Trong cuốn Mùa Hè Cháy, tác giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm đại tá, đã chỉ viết đúng một câu ngắn: “Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”
Là một trong hai nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian ấy cái tên “đại lộ kinh hoàng,” tôi thấy cái vòng tròn bao quanh cánh đồng chết giữa 2 cây cầu Bến Đá và Trường Phước nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là tôi, và cha đẻ của tác phẩm vấy máu chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như đối diện với các oan hồn đã bị thảm sát.
Khi ngồi trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất của miền Nam, chỉ xin phép thưa với Thiếu Tá Pháo Binh Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị.
Thứ nhất, hố bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến thức của một Binh Nhất miền Nam có thể rất hạn hẹp, hay lầm lẫn; đề nghị thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, trung đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho khẩu đội trưởng Nhúng, Trọng và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22 tháng 4, 1972 mà không cần chờ chính phủ ban hành nghị định số 31/2013/NĐ-CP, ngày 1 tháng 6, 2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp Lệnh Ưu Đãi người có công với cách mạng] – rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ nhất.
Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải thò ra ánh sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan vào nhau từ vệ đường bên nầy sang bên kia, bề ngang còn lớn hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh của Vạn Lý Trường Thành, hà tất từ quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy đại lộ kinh hoàng. Hay là ông đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin chưa chuẩn xác về những nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là dân thường?
Tôi xin kể một mẩu tin ngắn để mua vui cho người hùng Bông Lau: mới đây thôi ngày 31 tháng 5, 2016, tại giao lộ Briardale và Brook Canyon trong thành phố Charlotte, bang Bắc Carolina, một chị tài xế, để tránh khỏi cán một con mèo trên đường, đã làm chiếc xe buýt chở học sinh của chị lạc tay lái, húc văng một xe hơi đang đổ bên đường, rồi lao vào một căn nhà, gây thương tích cho 14 học sinh và bản thân chị. Chuyện này nhỏ như chuyện xe cán chó chó cán xe bên mình, chẳng ai buồn nhớ lại sau khi đọc cái tin, vì tránh không sát hại thú vật đã trở thành nếp sống văn minh của con người.
Thành thử, đoạn văn mà nhà văn đại tá dùng để kết án “Mỹ ngụy thâm độc” dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để phi tang, tôi không nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó vạch trần cho người đọc thấy được một nỗ lực lấp liếm, tráo trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiến cần thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số lỗi văn phạm, lỗi cú pháp và cách hành văn tối nghĩa như mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa trích dẫn, vì chỉ vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ đại.
Thưa Đại Tá Quý Hải:
Chiến tranh lùi lại sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương đã trở thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm mang tính chính sử, chứ không là ngụy sử. Nếu những trách nhiệm mà Tướng Thân Trọng Một gây cho người dân Huế có thân nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu tiên cần né tránh, thì chắc chắn việc đại tá ra lệnh và xử bắn, làm chết ít ra 1,841 người mà chính tay chúng tôi lượm được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải đưa đại tá ra trước vành móng ngựa của Tòa An Hình Sự Quốc Tế ở Hà Lan, để trả lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài người. Mặc dù Thiếu Tá Robert Sheridan viết: “Tất cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ hôm ấy,” nhưng là người Việt Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ lòng kính trọng của mình dành cho tập thể Quân Đội Nhân Dân, trong đó có đại tá – với điều kiện đại tá nhận lời mời gọi kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng niệm các nạn nhân đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với sự hối tiếc chân thành, và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại Lộ Kinh Hoàng,” tôi cho rằng Đại Tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.
NgyThanh
1 tháng 7, 2016
Năm 72 Ở Quảng Trị
Ghi Chú: Bài này viết năm 1990 phổ biến khắp nơi. Bỗng có một cựu pháo thủ Bắc quân thuộc đoàn pháo Bông Lau gửi email cho tôi báo tin rằng không phải pháo Bông Lau bắn trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi hỏi lại, nếu Bông Lau không bắn thì pháo nào. Không thấy trả lời. Sách của Dương Phục và Thanh Thủy mới phát hành có đoạn tả về Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi gửi các bạn đọc lại chuyện cũ.
Đi tìm tài liệu Thời kỳ trước 1975, khi tôi có dịp phụ trách về binh thư tại bộ Tổng Tham Mưu, thường qua bên Phòng Nhì hoặc Trung ương tình báo tìm đọc các sách báo của miền Bắc. Đọc và ghi chép lại, thêm 1 chút nhận xét, nhưng không phê phán. Đôi khi phải tóm lược lại để trình lên hay phổ biến nội bộ nhưng tuyệt đối không viết thêm những lời tuyên truyền hay lên án.
Ngày nay trên đướng đi tìm tài liệu cho trận Quảng Trị, chúng tôi giữ các nguyên tắc đó.
Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thập niên 70.
Để chuẩn bị cho trận mùa hè 72, Hà Nội bắt lính từ năm 1970. Sau khi vét hết nông dân, qua năm 1971 tổng động viên toàn bộ nhân lực thành thị. Các học sinh và sinh viên trên 18 tuổi chuẩn bị nhập ngũ hết.
Cũng trong thời gian này, Nga và Tàu hoàn toàn đồng ý viện trợ cho Hà Nội đánh Mỹ. Trong lúc Hoa kỳ rút quân, bên ta Việt Nam hóa chiến tranh thì Nga Sô viện trợ tối đa cho miền Bắc qua Trung Cộng.
Ngay sau trận mùa hè 72, Phan nhật Nam viết cuốn “Mùa hè đỏ lửa” thì 33 năm sau Hà Nội mới cho ra đời 2 cuốn sách viết về Quảng Trị. Đại tá pháo binh quân đội nhân dân ra đời cuốn “Mùa Hè Cháy” ghi lại con đường nhận pháo Nga Sô từ biên giới Tàu đem về Hà Nội đưa vào đến Quảng Bình, rồi qua Quảng Trị trong trận mùa hè. Với số lượng pháo đủ loại và hỏa tiễn, 5 sư đoàn Bắc quân đã được yểm trợ tối đa để tấn công miền Nam trực tiếp qua Bến Hải.
Tất cả đều ghi rõ trong tác phẩm “Mùa Hè Cháy” và chính từ tác phẩm này tôi có thể đối chiếu với tài liệu còn lưu giữ để có được những trang sử gần chính xác về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vào năm 2005 một tác phẩm khác tựa đề “Một Thời Hoa Lửa” đã ra đời, cũng nói về đề tài Quảng Trị. Bài viết này sẽ ghi lại rất nhiều chi tiết từ Hoa Lửa do các tác giả miền Bắc sáng tác.
“Mãi mãi tuổi 20” Bên lề tài liệu chính kể trên, tập hồi ký được Hà Nội nhắc nhở đến nhiều nhất là: “Mãi mãi tuổi 20,” hồi ký của 1 thanh niên tên Nguyễn văn Thạc. Anh là Sinh Viên đại học Tổng hợp Hà Nội. Đi lính binh nhì truyền tin ngày 6-9-1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, chưa đầy 20 tuổi và chưa đủ 1 năm lính.
Anh bị pháo cắt ngang đùi trái, mất máu nhiều quá nên đã chết. Chôn ngay tại mặt trận Quảng trị. Thạc để lại cuốn nhật ký 260 trang, viết trang cuối vào ngày 27-7-1972. Ba ngày sau tử trận. Tháng 5-1973 tức là gần 1 năm sau, gia đình chưa có tin tức của đơn vị, nhưng được đồng đội về báo tin. Sau tháng 4-1975 gia đình không có phương tiện đi tìm xác. Phải chờ đến cuối năm 1976 mới có điều kiện đi tìm. Cải táng từ quận Triệu Phong về huyện Từ Liêm, gần Hà nội vào dịp tết 1977.
Tôi đã đọc 2 lần 260 trang sách nhưng không tìm được những dữ kiện về trận Quảng Trị. Hồi ký ghi lại 10 tháng trong quân ngũ của 1 thanh niên miền Bắc, nhưng mới vào trận đã bị thương rồi chết.
Nội dung là lời lẽ chân thành đơn giản nhưng không có tình tiết hấp dẫn. Tác phẩm này được giới trẻ tìm đọc vì đã nhắc đi nhắc lại đến tình yêu tuổi học trò với cô bạn học Như Anh. Cô này hiện nay là di dân sống tại Đức quốc. Vì tác phẩm nặng về tình yêu và thiếu quyết tâm nên đã không được phổ biến suốt 33 năm. Phải chờ đợi đến thế kỷ thứ 20, nhạc vàng miền Nam chinh phục hoàn toàn nền văn hóa vô sản thì hồi ký tình yêu của Nguyễn văn Thạc mới được phổ biến và quảng bá mạnh mẽ.
“Một Thời Hoa Lửa” Đây là tên 1 tác phẩm, đồng thời cũng là tên 1 chương trình do đài truyền hình Việt Nam tại Hà Nội và công ty viễn thông quân đội nhân dân phối hợp tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 2005. Ban tổ chức mời tất cả bộ đội đã tham dự trận Quảng Trị trên 1.000 người về lại Thành Cổ để dự 1 chương trình văn nghệ. Cùng 1 lúc họ tập hợp lối 5.000 sinh viên Hà Nội tại sân trường đại học Khoa học, Xã hội, Nhân văn cùng tham dự. Báo Nhân dân đã ghi lại là vào ngày 6 tháng 9 năm 1971 tại 30 sân trường đại học và cao đẳng, tổng cộng 10.000 sinh viên lên đường nhập ngũ.
Như vậy là 34 năm trước đảng cộng sản đã động viên hầu hết các sinh viên miền Bắc để tấn công miền Nam. Có nhiều trường đại học sau đó đóng cửa, các giáo sư cũng vô lính với học trò. Hầu hết có được 4 tháng huấn luyện và đầu năm 1972 tất cả lên đường vào Nam tham dự vào 3 mặt trận. An lộc, Kontum, và Quảng trị. 70% bộ đội hy sinh hoặc bị thương. Trận Mậu Thâm 68 Việt Cộng hy sinh toàn bộ các đơn vị thuộc Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội tập kết.
Qua đến trận Mùa hè 72 đảng cộng sản Việt Nam hy sinh khối nhân lực trí thức tương lai của miền Bắc. Người có quyết định sắt máu đó là Lê Duẩn.
81 ngày lịch sử Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/3/1972 trung đoàn pháo Bông Lau khai hỏa trận địa pháo vào căn cứ Carroll, Ái tử và Mai Lộc. Ngày 2/4/1972 căn cứ Carroll thất thủ. Sau đó Ái Tử, Mai Lộc rồi Quảng Trị đều rút quân. Một tháng sau, ngày 1 tháng 5-1972 Bắc quân chiếm đóng toàn thể tỉnh Quảng Trị từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh. Xác người và di sản chiến tranh vẫn còn trên quốc lộ số 1 đã trở thành đại lộ kinh hoàng.
Hội nghị hòa đàm Paris bước vào năm thứ 4. Hoa kỳ đơn phương rút quân. Khối cộng sản Nga Sô và Trung Cộng đổ chiến cụ và tiếp viện tối đa vào miền Bắc.
Mở đầu cho giai đoạn thử thách Việt Nam hóa chiến tranh, quân lực Việt Nam Cộng Hòa hành quân Lam Sơn 72, Nam quân vượt sông Mỹ Chánh ngày 28 tháng 6-1972 và kết thúc việc chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9-1972. Sau 81 ngày tại một chiến trường khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam.
Báo chí miền Bắc gọi là Cuộc đụng đầu của lịch sử. Hơn 30 năm qua và cho đến ngày nay, Hà Nội luôn luôn nhắc đến chiến tích đã cầm cự được 81 ngày.
Tại viện bảo tàng lịch sử Cổ Thành hiện nay có bảng tưởng niệm với 81 tờ lịch ghi dấu 81 ngày trong cuộc chiến mùa hè 72. Thêm vào đó có 11 tấm phù điêu tiểu sử 11 chiến binh đã có mặt trong Cổ Thành và còn sống đến ngày nay. Mỗi người đều ghi lại cuộc đời sinh viên, nhập ngũ, chiến đấu và trở về. Đó là phù điêu gọi là Dương bản. Còn Âm bản là mộ bia tưởng niệm chung trên 10.000 bộ đội đã hy sinh.
Trong đêm văn nghệ Hoa Lửa 31/10/2005 họ đã dùng 81 nhạc công trong ban hòa tấu để nhắc lại ý nghĩa của 81 ngày lịch sử.
Cổ Thành gian khổ
Cũng theo tài liệu của miền Bắc, tuyển tập Hoa Lửa ghi lại bút ký, bài viết và lời phát biểu của gần 100 nhân vật về trận mùa hè 72. Sách xuất bản năm 2005 ngôn ngữ Hà Nội đã khác biệt với tài liệu tuyên truyền phổ biến trước và sau 1975. Không còn những lời miệt thị miền Nam. Họ gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, trung tướng Ngô quang Trưởng. Đồng thời qua tài liệu với nội dung mở rộng đã có đề cập đến số tổn thất, thương vong khủng khiếp, nỗi sợ hãi, việc đào ngũ của chiến binh.
Đặc biệt có những chỗ ghi rõ tuổi tân binh có nhiều em dưới 18 tuổi. Các chú lính mới chưa được huấn luyện và cán bộ quân sự đã dạy bắn hay ném lựu đạn lúc còn ở dưới hầm trong Cổ Thành. Họ lùa tất cả đám lính mới qua sông rồi sẽ huấn luyện sau.
Cuộc sống của hàng ngàn bộ đội dưới hầm là một thế giới cực kỳ gian khổ. Các hầm đều ngập nước. Không đủ nước uống. Không đủ ăn. Điều kiện vệ sinh hết sức khốn nạn. Người sống ở chung với thương binh và người chết. Trên 20% thương vong khi vượt sông Thạch Hãn. Sau đây là 1 đoạn nguyên văn của cán bộ quân sự viết lại: “Trong 81 ngày đêm đó, trung bình hàng đêm có 1 đại đội tăng cường hơn 100 người vượt sông và cũng từng đó con người đã ra đi không trở về. Máu thịt hòa vào nước sông trôi ra cửa Việt.”
Một chiến binh khác viết về những ngày sau cùng: Đêm 13/9/1972 Hồ Tú Bảo là sinh viên đại học toán, làm trinh sát cho sư đoàn 325 được lệnh qua sông vào tiếp viện. Suốt 2 ngày 13 và 14 tháng 9 không vượt được sông Thạch Hãn, Ngày 15 tháng 9-72 chuẩn bị vượt sông nhưng bến đáp cả 2 bờ Bắc Nam không còn nửa. Trong thành vẫn có súng nổ. Đến ngày 16/9/72 thì Cổ Thành Quảng Trị đã hoàn toàn im tiếng. Chỉ còn những ngọn khói bốc lên.
Đơn vị được lệnh rút về và hiện nay anh lính trinh sát sư đoàn 325 trở thành giáo sư tin học tại đại học Hà nội.
Cờ bay trên Thành Cổ Phía Việt Nam Cộng Hòa rất hiểu rõ ý nghĩa của việc tái chiếm Cổ Thành để dành thắng lợi trên bàn hội nghị. Phía Hà nội cũng ghi nhận đây là điểm quan trọng nhất. Hòa đàm Paris dự trù tái nhóm ngày 13 tháng 7-1972. Tài liệu của miền Bắc ghi lại rằng: “Tướng Ngô quang Trưởng đôn đốc nhẩy dù phải chiếm bằng được nhà thờ Tri Bưu ngày 12 và sau đó chỉ còn 500 thước đến Cổ Thành thì phải cắm cờ vào ngày 13/7/72. Kết quả quân Dù của VNCH chiếm được Tri Bưu nhưng quân ủy trung ương Hà Nội ra lệnh trung đoàn 48 và 2 tiểu đoàn địa phương, trung đoàn 95 của sư đoàn 325 phải sẵn sàng để chống vụ cắm cờ bằng mọi giá.
Một trang báo dài của đại tá Nguyễn hải Như, tham mưu trưởng trung đòan Thạch Hãn đã mô tả về trận quân Dù đánh xong Tri Bưu nhưng thất bại trong việc treo cờ Cổ Thành ngày 13/7/72. Sau trận đánh đẫm máu mà lính mũ đỏ hy sinh rất nhiều.
Tài liệu của cộng sản cũng ghi rõ cách đánh rất dũng mãnh của cả 2 binh đoàn nhẩy dù và thủy quân lục chiến trong trận Cổ Thành.
Bên Việt Nam Cộng Hòa có lợi thế thay quân. Đánh rồi ra nghỉ. Đưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa. Trong khi phía miền Bắc không có điều kiện thuận tiện vì thay quân là phải qua sông và thương vong trên sông Thạch Hãn rất cao.
Sau cuộc chiến. Cũng từ tài liệu của miền Bắc ghi lại, trên toàn thể Việt Nam, Quảng Trị là nơi có 2 nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất. Nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Quảng Trị. Phần lớn chiến binh cộng sản tử trận được gom lại chôn tại Quảng Trị. Một số lớn còn thất lạc.
Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa khi qua Mỹ được hỏi về di hài lính Mỹ cũng đã tiết lộ thêm về các mộ phần của bộ đội tại miền Nam do bên ta chôn cất. Phía Hoa Kỳ có chuyển tin tức này cho Hà nội. Tuy nhiên về việc tìm kiếm mộ phần của phía Việt Nam Cộng Hòa trước 75 bao gồm thêm di hài tù tập trung “cải tạo“ hiện vẫn chưa được chính quyền Hà Nội lưu tâm.
Gần 35 năm sau tháng 4-1975 dân Việt tỵ nạn đã có cả triệu lần trở về cùng với hàng tỷ mỹ kim gửi quà hàng năm, nhưng vết thương chính trị vẫn còn là gánh nặng nên chưa giải tỏa được con đường vào chốn tâm linh.
Ông Nguyễn đặc Thành, một HO can đảm đang đặt vấn đề cải táng di hài tù chính trị. Hồ sơ qua tòa đại sứ Hoa Kỳ gửi cho Hà Nội vẫn chưa được chính phủ cộng sản cứu xét.
Thuần túy trên lãnh vực tâm linh, nghĩa tử nghĩa tận, chỉ có chính quyền Hà Nội mới có thẩm quyền và trách nhiệm tối thiểu đối với di hài chiến sĩ miền Nam.
Với danh nghĩa người Mỹ gốc Việt, với sự cộng tác mạnh mẽ của tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam, việc tìm kiếm tảo mộ di hài chiến binh miền Nam đưa về nguyên quán hay chôn tại Nghĩa trang Biên Hòa với sự bảo quản tối thiểu, không có gì khó khăn.
Hà Nội đã bước vào kỷ nguyên mới, phải ý thức được những điều phải làm trong trách nhiệm với lịch sử dân tộc, theo trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại.
Để kết luận câu chuyện về Quảng Trị, chúng tôi xin kể hầu quý vị 1 câu chuyện.
Năm 1992, hai mươi năm sau mùa hè 72, Hội VMA (Vietnam Memorial Association) gồm các cựu chiến binh Hoa Kỳ muốn hàn gắn thương đau của Việt Nam hậu chiến. VMA dự trù xây trường học tại các nơi hẻo lánh cả 2 miền Nam Bắc. Ban quản trị họp để tìm 1 địa điểm đầu tiên. 8 ông bà Hoa Kỳ bàn về các địa điểm. Ý kiến khác biệt, Cô Kiều Chinh là người Việt duy nhất, đồng sáng lập viên của VMA đã đề nghị ngôi trường đầu tiên sẽ xây tại Quảng Trị. Nơi mang vết thương lớn nhất của chiến tranh Việt Nam. Nơi chia cắt 2 miền suốt 21 năm. Toàn thể VMA đều đồng ý chọn đất cho ngôi trường tại Đông Hà coi như món quà của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn cộng sản gửi lại quê hương.
Bức thông điệp đẹp đẽ biết dường nào. Năm 1954, cha của cô bị Việt cộng bỏ tù không bản án và chết trong tù. Thêm một ngôi trường được xây cất tại làng Mọc, quê hương của ông Nguyễn Cửu, thân phụ của cô Nguyễn thị Chinh, tên thật của tài tử Kiều Chinh. Cô ra đi lúc còn nhỏ 1954 và từ đó không bao giờ thấy được mặt cha.
Trong phim “Người tình không chân dung” có đoạn Kiều Chinh quay tại nghĩa trang Biên Hòa cũng vào năm 1972. Một ngày nào đó, cô sẽ lên thăm lại nghĩa trang quân đội miền Nam, nơi có rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị mùa hè 72. Không thiếu bất cứ 1 quân binh chủng nào, không thiếu bất cứ màu cờ sắc áo nào. Kể cả lính Dù chết dưới chiến hào với cờ vàng pha máu và lính thủy quân lục chiến hy sinh trong thành nội 10 ngày sau cùng, chưa thấy được lá cờ bay trên trời xanh của Cổ Thành Quảng Trị.
Phía bên kia Bến Hải một thời, có câu chuyện của họ. Bây giờ đến lượt chúng ta phải kể lại câu chuyện của mình. Nếu anh không nói, ai nói. Bây giờ không nói, bao giờ.
Vì vậy sau khi nghe chuyện bên kia, chúng ta hãy nói chuyện bên này.
Rồi mai đây, vào năm 2025, nửa thế kỷ sau cuộc chiến, sử Việt sẽ ghi rằng chiến tranh Việt Nam đã làm chết 2 triệu dân trên khắp các miền đất nước. Riêng tại Quảng Trị, mùa hè năm 1972 cuộc chiến dằng xé điên cuồng đã giết chết 50 ngàn thanh niên của cả hai miền Nam Bắc. Lịch sử sẽ không cần ghi phần tổn thất hay thắng bại của các đơn vị.
Sau này những đóa hoa tưởng niệm thả xuống dòng Thạch Hãn hay con sông Bến Hải sẽ cùng trôi ra biển Đông. Thể hiện tấm lòng của thế hệ tương lai gửi chung cho tất cả linh hồn các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến tương tàn cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam.
NGƯỜI NHÂN CHỨNG QUA ĐÊM
TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG
Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên quốc lộ số 1. Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa.” Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan nhật Nam.
Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy“ của đại tá pháo binh “Quân đội Nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành Đại lộ Kinh Hoàng.
Chúng tôi vẩn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.
Anh phóng viên của bộ Thông Tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Đại lộ Kinh Hoàng thật hay. Câu chuyện dừng tại đó.
Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn.
Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Đại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 72 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu.
Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.”
Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay 68 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 72 và trận 75.
Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.
Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Đà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.
Đến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợ có bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bẩy, tám tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ Bac của sông Thạch Hãn.
Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Đa số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Đạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Đủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.
Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Đêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Đại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi. Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại 1 cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Đi đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Đó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Đoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.
Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 3 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia đình cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.
Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng: Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu. Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu. Năm nay cháu cũng 24 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.
“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Đứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”
“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I. Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA.
Bờ sông Mỹ Chánh và cây cầu mới năm 2009. Mùa hè năm 1972, Nam quân và thường dân đã chạy qua “Đại lộ Kinh hoàng” để rút về phía Nam sông này.
Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”
Đó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Đại lộ kinh hoàng.” “Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Hà Mai Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”
Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra. Số là vào mùa hè năm 72 đó, có anh phóng viên trẻ tuổi bút hiệu Ngy Thanh cũng ra chiến trường Quảng Trị. Anh đã bỏ ra cả 1 ngày dài trên đoạn đường oan nghiệt. Chụp hình các xe cháy, các xác chết và có được 1 bộ hình hết sức đặc biệt. Khi về lại Saigon viết loạt bài phóng sự, anh có đặt tên là Đại lộ Kinh Hoàng. Câu chuyện làm xúc động độc giả tại thủ đô. Chủ nhiệm là chị Trùng Dương bèn cùng anh chị em quyên góp tiền bạc ra Trung tổ chức nhặt xác và chôn cất. Câu chuyên ngày đó có lẽ ai cũng biết, nhưng ngày nay ai cũng quên hết cả rồi. Hành động của báo chí và đồng bào tự nguyện đứng lên lo việc chung sự cho nạn nhân của đại lộ kinh hoàng là 1 câu chuyện ý nghĩa nhất trong phần nhân bản của trận Quảng Trị mùa hè 72.
Hai tháng sau đêm kinh hoàng của ông Phan văn Châu, quân miền Nam vượt sông Mỹ Chánh, phản công tái chiếm Quảng Trị. Người phóng viên chiến trường trở lại quốc lộ số 1. Sau đây là phần trích lại bài phóng sự đăng báo Sóng Thần năm 1972 của Ngy Thanh.
“Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng, không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến. Những mũi dùi tấn công của Nhảy dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên qua sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có 2 cầu. Cầu xe hơi trên QL 1 bị phá. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gãy gục, đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V. Khu đất đầu cầu do QLVNCH trấn giữ trước đó đã được đặt nhiều mìn chống chiến xa. Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẫn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gãy qua bên bờ Bắc, lách giữa đám mìn chống chiến xa để quay lại QL 1. Trước mặt chúng tôi, ngay trên bề mặt quốc lộ là xác xe. Chiếc ngược, chiếc ngang, phần lớn giở mui, không biết vì lý do gì. Nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy, nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông. Chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở, và thấy xác thương binh chết nằm, chết ngồi trong đó. Mùi tử khí đã thành mùi thối, thay vì mùi nồng của xác người như khi mới chết ít hơn 2 tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát 2 bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía Đông, là khu vực có người tiếp cứu trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát này, chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân, cảnh sát và thường dân. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bắn chết khi đang chạy tới để thoát hiểm”. (Ngy Thanh)
Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của 1 đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa 1 chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở đại lộ kinh hoàng vẫn là 1 hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.
Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của 1 nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của quân đội Nhân dân, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tác phẩm “Mùa hè cháy” xuất bản năm 2005 tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122 pháo 130, pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên quốc lộ số 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy.
Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.
Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.
Định mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sữa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.
Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây…
Giao Chỉ, San Jose
Vì sao Thành cổ Quảng Trị là nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa Việt Nam và Mỹ 50 năm trước?
BBT: Phía Cộng sản nói gì?
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị diễn ra trong một thời điểm nhạy cảm, đó là đàm phán Paris đang diễn ra. Lúc này, mọi thành bại trên chiến trường đều trực tiếp tác động tới vị thế của từng bên.
Cuộc tiến công giải phóng Quảng Trị và sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị năm 1972 là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, mở đường cho đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa Anh hùng cách mạng, đồng thời thể hiện tinh thần và ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhìn lại sự kiện này, Thiếu tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Cương Quyết, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng cho rằng, Thành cổ Quảng Trị lại là nơi đọ sức quyết liệt nhất trong chiến dịch này.
Thưa Thiếu tướng Vũ Cương Quyết, sau hơn một tháng chiến đấu thì Chiến dịch Trị Thiên giải phóng Quảng Trị của chúng ta đã giành được thắng lợi. Quảng Trị trở thành tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng. Vì sao mà Mỹ – ngụy lại dồn mọi nỗ lực, ra sức để tái chiếm Quảng Trị?
– Như chúng ta đã biết, tỉnh Quảng Trị có vị trí hết sức đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quảng Trị là mảnh đất địa đầu, nơi ngăn chia hai miền Nam – Bắc, chia cắt đất nước ta từ sau Hiệp định Genève. Trong cuộc tiến công chiến lược Xuân – Hè năm 1972 thì Quảng Trị là tỉnh đầu tiên được giải phóng hoàn toàn. Với thắng lợi này thì chúng ta đã buộc Mỹ – ngụy phải chấp nhận những điều khoản do chúng ta đề xuất trên bàn đàm phán Paris.
Thứ hai, Quảng Trị, trong đó có thành cổ Quảng Trị là mục tiêu tượng trưng mà Mỹ – ngụy ra sức tái chiếm chính là nhằm giành được lợi thế ở Hội nghị Paris. Chúng hy vọng, nếu giành được thắng lợi trong cuộc tái chiếm này sẽ có ý nghĩa tuyên truyền rất lớn, kích động binh lính, lừa bịp dư luận quốc tế về chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Mặt khác, Mỹ – ngụy mở cuộc tái chiếm này cũng là nhằm để cứu vớt, lấy lại danh dự sau khi hứng chịu hàng loạt những thất bại trong Chiến dịch Xuân Hè của ta. Bên cạnh đó, năm 1972, cũng là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, vì lẽ đó, Ních- Xơn muốn giành được chiến thắng để có được lợi thế trong cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra vài tháng sau đó. Đó là những lý do mà Mỹ – ngụy đã tập trung mọi nỗ lực cố gắng và mọi khả năng để tái chiếm Quảng Trị. Tuy nhiên, như chúng ta thấy, cuộc tái chiếm này đã không thành công.
Phải chăng cũng chính vì vị trí đặc biệt, lại diễn ra trong thời điểm hết sức nhạy cảm và mang tính quyết định như vậy nên Thành Cổ Quảng Trị đã trở thành nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch trong Chiến dịch này?
– Đúng vậy, Thành cổ Quảng Trị lại là nơi đọ sức quyết liệt nhất trong chiến dịch này. Như trên tôi đã nói về ý đồ của Mỹ khi mở cuộc tiến công tái chiếm Quảng Trị. Trong khi đó, chúng ta thấy, Thành cổ Quảng Trị là một chốt chặn quan trọng nhất phục vụ cho ý định phản công chiến lược của ta. Việc giữ được thị xã và Thành cổ Quảng Trị sẽ tạo điều kiện để ta chuyển vào phòng ngự được thuận lợi, thực hiện mục tiêu chiến lược đã xác định.
Thứ hai, cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị diễn ra trong một thời điểm nhạy cảm, đó là hội nghị đàm phán Paris đang diễn ra. Lúc này, mọi thành bại trên chiến trường đều trực tiếp tác động tới vị thế của từng bên trong Hội nghị Paris. Vì vậy, địch nỗ lực tái chiếm bằng được còn ta thì quyết tâm cao nhất để giữ cho được vị trí đặc biệt quan trọng này. Vì thế mà Thành cổ Quảng Trị là nơi đọ sức quyết liệt nhất, là đỉnh cao về tính quyết liệt nhất trong chiến dịch này.
Theo ông, vì sao thắng lợi của chúng ta trong chiến dịch giải phóng Quảng Trị và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ đã trở thành vấn đề chính trị trung tâm làm lung lay nước Mỹ?
– Đây cũng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị trong nước và quốc tế nhận định. Tôi cho rằng, thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Xuân- Hè 1972 giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và cuộc chiến đấu phòng ngự 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ như một động lực bùng nổ, tiếp sức cho phong trào chống chiến tranh ở Việt Nam dâng cao chưa từng có ngay trong lòng nước Mỹ. Nhân dân trên đất Mỹ đã biểu tình, phản kháng đòi Mỹ rút nhanh, rút hết quân Mỹ về nước, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương.
Chúng ta giải phóng Quảng Trị và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ đã chứng minh cho ý chí Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, điều này đã trực tiếp đẩy Mỹ đến thất bại hoàn toàn trên chiến trường, cũng như trên bàn đàm phán của Hội nghị Paris. Vì thế, mà đúng như đồng chí vừa nêu vấn đề: Cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ đã trở thành vấn đề chính trị trung tâm làm lung lay cả nước Mỹ?
Thưa Thiếu tướng, cuộc chiến đấu không cân sức ở Thành cổ Quảng Trị để lại cho chúng ta bài học gì trong việc giáo dục truyền thống và lòng yêu nước cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ trong tình hình hiện nay?
– Vâng, cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã có nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bàn luận ở các thể loại và góc độ khác nhau. Ở phạm vi kế thừa, phát triển những giá trị lịch sử đó vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải xây dựng được lòng tự hào dân tộc, xây dựng được niềm tin, ý chí kiên cường, đoàn kết, dũng cảm cho mọi thành phần lực lượng, ở các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là lực lượng vũ trang trong mọi điều kiện, môi trường, hoàn cảnh. Vì chúng ta thấy, trong Chiến dịch bảo vệ Thành cổ, Mỹ – ngụy đã sử dụng số lượng bom đạn có sức hủy diệt tương đương với 7 quả bom nguyên tử năm 1945, chúng cũng huy động những lực lượng, vũ khí mạnh nhất trong cuộc tái chiếm này.
Có thể nói, mỗi một mét vuông, tấc đấc trong thành cổ Quảng Trị đều thấm đẫm máu xương của đồng bào, chiến sĩ. Trong gian khó, ác liệt như thế nhưng chúng ta vẫn giữ vững bản lĩnh, niềm tin và ý chí chiến đấu, dù phải hy sinh đến người cuối cùng cũng không rời trận địa. Tôi cho rằng, điều này cần tiếp tục được giáo dục, được truyền thụ, được nhắc đến trong bối cảnh hiện nay và mai sau.
Dân Trí