Mục lục
Thảo luận về Hoà giải Dân tộc với ông Nguyễn Đình Bin
Đỗ Kim Thêm
Tiếng Dân
9-5-2022
Nhân ngày 30/4/2022, tác giả Nguyễn Đình Binh có phổ biến bài viết “Hàn gắn vết thương huynh đệ tương tàn vẫn còn rỉ máu!” trên trang Tiếng Dân và các trang báo mạng khác.
Là một nhân vật quan trọng trong Đảng CSVN và cũng một là nhà ngoại giao có nhiều thành tích đóng góp trong lĩnh vực hoà giải dân tộc, tác giả đã có nhiều tâm huyết và can đảm khi đưa ra các giải pháp mới để giải quyết vấn đề. Qua bài viết này, tác giả đã gây được sự quan tâm đặc biệt của các độc giả khắp nơi.
Nhân dịp này, tôi xin mạn phép được đóng góp vài suy nghĩ khiêm tốn để thảo luận. Tôi cũng hy vọng sẽ đón nhận thêm các suy nghĩ hoà ái của các độc giả quan tâm đến chủ đề này.
Về hình thức, để tiện việc theo dõi, tôi trích đăng lại nguyên tác của tác giả, các đoạn in nghiêng và tô đậm, theo sau là ý kiến của tôi. Về nội dung, các ý kiến trình bày không phải là những khám phá mới, mà tư liệu đã có từ lâu trên các trang báo mạng. Tôi chỉ tổng hợp lại thành các chuyên đề, mà không chú thích các chi tiết hay liệt kê các tài liệu tham khảo.
1.- “Chính sử và công luận đều đã nhất trí là CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC VĨ ĐẠI!”
Chính sử mà tác giả đề cập là những gì do Nghị quyết của Đảng, Ban Lịch Sử Đảng, Viện Sử học Hà Nội và báo chí miền Bắc viết ra, tất cả nhất loạt phản ảnh quan điểm của phe thắng cụộc, không thể khác hơn.
Ngày nay, sách vở viết về chiến thắng 30/4/1975 của phe thua cuộc và ngoại cuộc tràn ngập không tài nào đọc hết, nên các vấn đề không thể thảo luận chi tiết ở đây.
Công luận mà tác giả nói đến là đồng bào miền Bắc trước 1975; họ được Đảng tuyên truyền phải thương yêu miền Nam ruột thịt bị Mỹ Ngụy “kềm kẹp”. Sau này, khi có dịp sống trong Nam hay tiếp xúc với phe thua cuộc, nên họ cũng đã thay đổi triệt để quan điểm.
Còn công luận miền Nam thì có phần đa dạng hơn. Nhờ lịch sử truyền khẩu và không cần đến sách vở của Đảng, họ còn nhớ rất rõ tội ác của Cộng sản, mà vụ thảm sát Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật giáo Hoà Hảo tại Đốc Vàng năm 1947 là thí dụ điển hình. Trong khi đó, Ban Tôn giáo chính phủ vẫn né tránh khi cho rằng: “Bối cảnh xã hội phức tạp của không khí chiến tranh thế giới lần thứ hai đã ảnh hưởng đến cá nhân ông Huỳnh Phú Sổ và ảnh hưởng đến sự phát triển của PGHH”.
Cũng tương tự như vậy, ngày 29/12/2017, trong cuộc Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, các nhà nghiên cứu của Đảng CSVN cũng chỉ tuyên dương chiến thắng mà không đề cập tới các tổn thất nhân mạng và vụ thảm sát 5000 đồng bào vô tội.
Theo công luận, đây là hai vết nhơ trước lương tâm và lịch sử, vì hành vi của đảng CSVN hiếu chiến và vô nhân đạo.
Nhưng tựu chung, ngày nay, cả phe thua cuộc và công luận không bao giờ có chuyện “đều đã nhất trí” như tác giả kết luận, mà ngược lại, theo họ, cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vệ quốc, mà cũng chẳng vĩ đại.
Do đó, kết luận của tác giả là chủ quan, một chiều của phe thắng cuộc. Tác giả nên có can đảm nhìn vào sự thật của lịch sử trong một nhãn quan mới, vì hiện nay có vô số nguồn tài liệu được liên tục giải mật, sẽ giúp hiểu rõ sự tình hơn.
2.- “Nguyên nhân thứ nhất là do đại họa ngoại xâm. Cũng giống như đối với nhiều dân tộc khác, ngoại bang đến thống trị, rồi xâm lược liên tiếp nước ta, suốt hơn một thế kỷ liền, đã làm cho dân tộc ta bị đẩy vào thảm cảnh đó, theo cả nghĩa đen đối với rất nhiều gia đình. Bởi vì, chiến lược cổ điển của các thế lực thực dân, đế quốc, bành trướng đi xâm lược và thống trị nước khác luôn là “chia để trị”, “dùng người bản địa đánh người bản địa”.
Tác giả nêu lên hai đại hoạ ngoại xâm và nhập hai làm một mà không phân biệt được hai kẻ xâm lược Pháp và Mỹ có những chính sách khác nhau.
Trong bối cảnh xung đột của chiến tranh Đông Dương, có một thuận lợi cho Việt Nam lúc bấy giờ là thu hồi được chủ quyền độc lập vào ngày 8 tháng 3 năm 1949 theo Hiệp Định Elysée. Điểm đặc biệt là Việt Nam có thống nhất và độc lập, nhưng bất lợi là nằm trong Liên Hiệp Pháp. Sau đó, ngày 23 tháng 4 năm 1949, Quốc hội Nam Kỳ đã giải tán chế độ Nam Kỳ tự trị và sát nhập Nam Phần vào lãnh thổ Việt Nam. Do đó, Việt Nam đã được thống nhất trong năm 1949 về ngoại giao và chính trị.
Đối với việc chống Pháp, vấn đề cần được đặt lại là, tại sao Việt Nam không tận dụng lợi thế pháp lý này, đấu tranh quân sự có phải là một giải pháp tối ưu duy nhất hay nghị trường và ngoại giao cũng là điều kiện khả thi không.
Nhưng thực trạng tại Việt Nam là không thể phức tạp hơn Ấn Độ khi phải đương đầu với thực dân Anh. Thay vì đấu tranh bất bạo động như Ấn Độ, Việt Minh đã chọn giải pháp “bạo lực cách mạng” và giành độc quyền kháng chiến. Đó là điểm bi thương nhất cho lịch sử Việt Nam cận đại.
Còn trong quan điểm chiến lược chung, vai trò của “Đế quốc Mỹ” là vấn đề khác hẳn. Ngay từ đầu, Mỹ để cho Pháp toàn quyền quyết định về vấn đề Đông Dương. Tổng thống Roosevelt không muốn can dự vào Việt Nam vì không cho là mối bận tâm của Mỹ. Nỗ lực chính của Mỹ trong lúc này là giúp tái thiết châu Âu và củng cố vị thế cho Pháp.
Về sau, trong thời Tổng thống Truman và khuôn khổ Chiến tranh Lạnh, tình thế thay đổi triệt để, chính sách Mỹ khác đi.
Trong lúc chiến tranh chống Mỹ lên cao độ, nhất là sau năm 1966, kể từ thời Tổng thống Johnson, tình hình lại càng khác nếu so với trước đó (1954 -1963).
Khi 500.000 quân Mỹ bắt đầu đóng quân ở miền Nam và không quân Mỹ ném bom miền Bắc, thì Bắc Việt có lý do để lập luận là Hoa Kỳ xâm lăng. Kết quả là, các tuyên truyền hô hào “chống Mỹ cứu nước” thu phục được nhân tâm tại nông thôn miền Nam, cũng như các trí thức thân Cộng tại các thành phố và phe cánh tả ở phương Tây.
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào chứng minh là Mỹ có tham vọng xâm chiếm lãnh thổ và có chính sách chia để trị ở miền Nam giống như Pháp.
Tác giả có đề cập đến hai đại hoạ ngoại xâm mà không thảo luận đến nội xâm, đó là động cơ duy nhất của Bắc Việt, một đại hoạ cho miền Nam.
Khi so với các nước cùng cảnh ngộ như Đông Đức và Bắc Hàn, một vấn đề nền tảng mà tác giả nên đặt ra là:
Tại sao Đông Đức không tiến hành đấu tranh giải phóng Tây Đức và Bắc Hàn giải phóng Nam Hàn, cũng đang bị “Đế quốc Mỹ kềm kẹp“? Tại sao phong trào Cộng sản Quốc tế không ủng hộ cho hai nước Đông Đức và Bắc Hàn đấu tranh giải phóng? Tại sao chiến lược đấu tranh của ba nước Đông Đức, Bắc Hàn và Việt Nam lại khác nhau khi cùng theo đuổi một ý thức hệ cộng sản?
Về chi tiết này, có quá nhiều lý do để trình bày, nhưng điểm cuối cùng quan trọng nhất trong thực tế là Hà Nội đã vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài lên nhân dân miền Nam từ năm 1975.
Nếu không có nội xâm, thì ai là người vượt Trường Sơn đi cứu nước và đánh Mỹ thay cho Trung Quốc và Liên Xô bằng xương máu của người Việt cuối cùng?
Đó là một “lý tưởng cao cả” mà Bắc Việt nhân danh Cộng sản Quốc tế theo đuổi, nhưng làm tốn hao xương máu của người dân Việt, nhưng không bao giờ phản tỉnh mà còn tiếp tục hãnh diện cho đến ngày nay.
3.- “Đó là một thắng lợi vĩ đại, một mốc son chói lọi trong lịch sử, không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả thế giới hiện đại; là niềm tự hào của cả dân tộc ta. Lần đầu tiên, và cho đến nay vẫn là lần duy nhất trên thế giới, siêu cường quốc hùng mạnh, giàu có nhất hành tinh đã thất bại thảm hại trong một cuộc chiến tranh quy mô chưa từng thấy khi can thiệp, xâm lược một nước nghèo, nhỏ bé hơn! Chính nghĩa đã thắng phi nghĩa!”
Chiến thắng có vĩ đại hay không, còn tùy vào cách nhận định, mà yếu tố là thiệt hại nhân mạng cần được thảo luận.
Mỹ và Quân lực VNCH, vì nhiều lý do chiến lược khác nhau, tự động bỏ chạy trong khi tổng kết lại thì phe thắng cuộc tổn thất nhiều hơn. Theo các con số tổng kết, phe thắng cuộc mất đi khoảng 1,1 triệu binh sĩ, 300.000 mất tích và 600.000 bị thương trong khi phe thua cuộc có 330.000 người nằm xuống.
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa có một trường hợp “di tản chiến thuật” nào tương tự đã xảy ra và cũng chưa có một sử gia nào xem tình trạng bất thường này là chiến thắng vĩ đại.
Chuyện Mỹ tháo chạy ra khỏi Việt Nam cũng không phải là duy nhất, mà Iraq và Afghanistan là các thí dụ thời sự về sau.
4.- “Đánh giá bản chất 30 năm chiến tranh chống thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ (1946-1975) và ý nghĩa lịch sử của ngày 30/4/1975”
Nhận định trong sách vở của phe thắng cuộc về hai chủ đề này là sai lạc nghiêm trọng, mà hai lý giải sau đây là chủ yếu:
Một là, do độc tôn Đảng quyền trong học thuật, Đảng đã không đào tạo được những nhà sử học chân chính, có tầm vóc quốc gia và quốc tế. Đảng tiếp tục giành độc quyền tuyên truyền thành tích và ban phát chân lý lịch sử. Do đó, Việt Nam không có chính sử và ngụy sử tiếp tục không thay đổi nội dung.
Hai là, sau này dù có tiến bộ hơn là không còn miệt thị “ngụy quân và ngụy quyền”, nhưng sách sử của Đảng vẫn không theo một khảo hướng khách quan để đánh giá về bản chất chiến tranh và thành tích của hai phe.
Bằng chứng hiển nhiên là sách sử của Đảng khinh thường QLVNCH là lính đánh thuê và chính quyền miền Nam là tay sai cho Mỹ, trong khi lại ca ngợi QĐNDVN và MTGPMN là đấu tranh cách mạng và hy sinh xương máu thay cho Liên Xô và Trung Quốc.
Cụ thể nhất là 500.000 lính Mỹ hiện diện ở miền Nam thì sách sử của Đảng cho là xâm lược, trong khi 300.000 lính Trung Quốc đồn trú tại miền Bắc thì tìm mọi cách để giấu kín tung tích.
Hơn 1,1 triệu binh sĩ miền Bắc hy sinh thì sách sử của Đảng vô cùng hãnh diện cho chiến thắng, trong khi 330 ngàn binh sĩ miền Nam nằm xuống thì thoá mạ là đánh thuê.
Điểm chủ yếu mà sách sử của Đảng không nhận ra là, xương máu của người dân và binh sĩ hai miền đều quý giá như nhau và là nạn nhân trong bối cảnh xung đột của Chiến tranh Lạnh.
Gần đây nhất là sự hy sinh của 74 chiến sĩ Hải Quân QLVNCH năm 1974 để bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa, nhất định họ không là “lính Ngụy” đánh thuê cho Mỹ, mà là hy sinh anh dũng cho sự toàn vẹn lãnh thổ. Đó là một sự thật lịch sử.
Do đó, người dân Việt, nói chung, không có lý do để vui mừng và tự hào về các ngày lịch sử ấy là vẻ vang vĩ đại.
5.- “Bên thua cuộc duy nhất là các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược nói trên; là phi nghĩa; là chiến tranh! Còn giữa con cháu các Vua Hùng với nhau, không có bên thắng, bên thua, mà với tư cách người Việt tất cả đều thắng!”
Sự thật là, chiến thắng của CSVN làm cho toàn dân Việt Nam phải trả một cái giá là khoảng hai triệu người chết và 300.000 người mất tích.
Lập luận “người Việt tất cả đều thắng” đã thu phục được lòng người hai miền ngay sau ngày 30/4/1975. “Mọi người thành tâm đều có chỗ đứng trong lòng dân tộc” là lời kêu gọi của Uỷ ban Quân quản TPHCM làm cho mọi người nức lòng tin theo.
Sau đó, ngày vui qua mau và sự thật đau thương lại đến. Các chiến dịch đánh tư sản mại bản, đi kinh tế mới, học tập cải tạo và thuyền nhân… không phải là việc đối xử tốt đẹp “giữa con cháu các Vua Hùng với nhau”, mà phe thua cuộc thành nạn nhân của chế độ mới và niềm tin nơi phe thắng cuộc không còn nữa.
Ngày nay, sự thật đã phơi bày: Đảng CSVN thắng cuộc và dân tộc Việt Nam thua cuộc. Trớ trêu nhất là Mỹ thua cuộc trong chiến tranh và thắng cuộc trong thời bình.
6.- “Những sự thật lịch sử lớn nhất trong sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng CSVN, như thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, với chiến thắng ‘Điện Biên Phủ chấn động địa cầu’…”
Nhìn lại thắng lợi Cách mạng tháng Tám kỹ hơn, tác giả sẽ thấy có một sự thật khác, vì diễn biến xảy ra không theo đúng như sách sử của Đảng ca ngợi.
Biên niên sử còn ghi chép rõ là ngày 11/3/1945, Bảo Đại tuyên bố Việt Nam giành độc lập, đó là ngày chính thức chế độ thực dân Pháp cáo chung và đến trước ngày 19/8/1945 và ngày 2/9/1945.
Do đó, Hồ Chí Minh không có căn bản pháp lý hay lịch sử nào để khai sinh độc lập cho Việt Nam, vì cướp quyền của chính phủ Trần Trọng Kim trong sự thoả hiệp công khai với Nhật. Nếu tác giả có theo dõi, thì đây chỉ là một cuộc xáo trộn nội chính.
“Điện Biên Phủ chấn động địa cầu” là một lối diễn đạt cường điệu và thiếu cở sở thực tế. Nếu không có Trung Quốc trực tiếp chiến đấu và viện trợ súng đạn, chiến thắng Điện Biện Phủ không thể xảy ra, có nghĩa là, Điện Biên Phủ là một phần chiến thắng của Trung Cộng.
Sử liệu của Trung Quốc về sau đã hé lộ: Quân đội Trung Quốc có mặt tại Bắc Việt ngay từ đầu cuộc chiến chống Pháp. Sau tháng 4 năm 1950, Vi Quốc Thanh cùng Trần Canh chỉ huy Nhóm Cố vấn quân sự với 281 sĩ quan tham gia. Hỗ trợ quân sự cho Bắc Việt thay đổi từ 3 sư đoàn năm 1950 lên đến 7 sư đoàn năm 1952. Số người Trung Quốc làm việc tại Bắc Việt là khoảng 15.000 người.
Tóm lại, các thành tích của Cách mạng tháng Tám và Điện Biên Phủ đã bị bóp méo và tác giả cần nghiêm túc đặt lại ý nghĩa, thay vì tự hào.
7.- “Những người lâu nay coi là thuộc ‘bên thắng cuộc’ phải chủ động đi bước trước, phải mở lòng, dang rộng hai tay chào đón, ôm hôn những người anh em của mình ở hải ngoại”.
Là người dùng tiền để chiêu dụ cựu Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ về nước, tác giả nên tự hỏi là phe thắng cuộc có tự đặt mình trong hoàn cảnh của phe thua cuộc không, hay phe thua cuộc có nên tin tưởng vào thành tâm hoà giải của phe thắng cuộc được không. Hai thí dụ sau đây chứng minh ngược lại.
Một là, việc lập đài tưởng niệm, trùng tu mộ phần cho những thuyền nhân yên nghỉ nơi các đảo ở Mã Lai và Nam Dương; sơn tặng cho họ một lá cờ VNCH cũng bị các nhà ngoại giao CSVN tìm cách gây áp lực với chính quyền các nước, không cho phép thực hiện. Không biết tác giả có tham gia vụ việc này không, nhưng thân nhân của người quá cố cũng đành âm thầm khép lại quá khứ theo sự cấm đoán này.
Hai là, chuyện cầu siêu do Thiền sư Nhất Hạnh đứng ra tổ chức. Thiền sư muốn cầu nguyện cho tất cả mọi nạn nhân trong chiến tranh, trong đó có các binh sĩ Mỹ, binh sĩ VNCH và tù nhân bị cải tạo và thuyền nhân vượt biên.
Ngược lại, Hoà thượng Thích Trí Quảng, dựa theo sự phản đối của Đảng, đã yêu cầu là nên dành riêng cho những “liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ”.
Người chết trong chiến tranh hay trên biển khơi còn bị phân biệt đối xử như vậy, thì chuyện “phải mở lòng, dang rộng hai tay chào đón, ôm hôn những người anh em của mình ở hải ngoại” là hoang tưởng.
Do đó, lời của ông Kỳ vẫn còn đúng: “… tư duy của họ vẫn mãi bị ám ảnh bởi những chuyện hận thù, chủ nghĩa hay phe phái… muốn hòa hợp thì rất không nên nói nhiều mà phải làm”.
8.- “Trong đó, then chốt nhất, quyết định nhất là phải xây dựng lại Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng thực sự của dân, do dân, vì dân; thực sự trong sạch, vững mạnh; thực sự xứng đáng là Đảng tiên phong lãnh đạo toàn dân tộc trong thời đại mới”.
Vấn đề mà tác giả cần đặt ra là Đảng CSVN xây dựng lại đất nước trên cơ sở lý thuyết nào và ai sẽ thực thi.
Cho đến nay, chủ trương của Đảng không thay đổi: Xây dựng một nhà nước chuyên chính của liên minh công nông và tầng lớp trí thức, quản lý và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Pháp chế XHCN là một công cụ mà Đảng dùng để lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối nhà nước và tam quyền phân lập chỉ là phối hợp và phân công trong nội bộ.
Thực tế thì bộ máy của Đảng chỉ lo nâng cao vai trò của tư bản thân tộc và tạo thành nhóm lợi ích chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế.
Điều hiển nhiên là các lý thuyết của đảng CSVN hiện nay vẫn còn bế tắc và cần phải được bổ sung.
Nếu muốn cải cách XHCN trong bối cảnh mới, có nghĩa là không nên hô hào độc tôn đảng quyền, bạo lực sắt máu và bảo vệ thân tộc. Ngược lại, Đảng phải nêu cao tinh thần tôn trọng dân chủ, bình đẳng, luật pháp và đem phúc lợi cho toàn dân, đó chính là một mô hình mà các nước Bắc Âu đã áp dụng thành công.
Còn việc thực thi chính sách mới, nếu còn tiếp tục chủ trương “Đảng tiên phong lãnh đạo toàn dân tộc trong thời đại mới”, thì nhìn vào hiện tại, tác giả có thể suy đoán tương lai đất nước. Có hai trở lực chính:
Một là, do giáo dục tụt hậu mà hơn năm triệu Đảng viên, đa số là thiếu hiểu biết, lại còn mang thêm căn tính dối trá, bạo lực và kiêu ngạo. Đa số này không giúp cho Đảng có thể đáp ứng với các thách thức mới.
Hai là, phần thiểu số “Đảng viên nhưng mà tốt” không thể tạo ra các chuyển biến tích cực, nên trong tương lai, toàn dân cũng sẽ phải tiếp tục chịu đại bại.
Về lâu dài, bảo vệ đất nước và con người là các cải cách vô cùng cần thiết và dân chủ hoá là xu thế không thể tránh khỏi. Việt Nam phải du nhập hiến pháp dân chủ, tam quyền phân lập, tôn trọng pháp luật, không phải là để lo cho sự tồn vong của chế độ mà là cho đất nước và toàn dân.
Do đó, đây là công việc chung của 100 triệu dân, không phải của riêng năm triệu Đảng viên. Chỉ khi nào tất cả đồng thanh viết lại một trang sử mới cho nước Việt, thì khi đó mới có sự hoà giải.
__________
Bài liên quan: Vietnam War: Understanding, Not Celebrating — Người Việt đừng quên ý nghĩa của ngày 30/4/1975 và chiến tranh Việt Nam — Lý Thuyết Đạo Đức Cho Hoà Giải Chính Trị – Colleen Murphy
Hàn gắn vết thương huynh đệ tương tàn vẫn còn rỉ máu!
Nguyễn Đình Bin
30-4-2022
LGT: Chúng tôi nhận được bài viết của ông Nguyễn Đình Bin từ một thân hữu gửi tới, bàn về “hòa giải hòa hợp” nhân dịp 30-4. Ông Nguyễn Đình Bin từng giữ chức thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, ông từng là Đại sứ Việt Nam tại Nicaragua kiêm nhiệm Ecuador và Đại sứ Việt Nam tại Pháp kiêm nhiệm Bồ Đào Nha. Bài viết sau đây thể hiện quan điểm của ông Đình Bin, cựu Ủy viên BCH Trung ương Đảng Cộng sản.
Hàn gắn vết thương huynh đệ tương tàn vẫn còn rỉ máu! Thực hiện hòa giải, hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc!
Hôm nay, 30 tháng 4, một ngày kỷ niệm cho đến nay mỗi lần đến thì “CÓ HÀNG TRIỆU NGƯỜI VUI MÀ CŨNG CÓ HÀNG TRIỆU NGƯỜI BUỒN ”, như cố Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói. Vì sao lại như vậy?
Là con dân Việt, chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, cùng nhau suy ngẫm, tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Tôi cho rằng: cần phấn đấu đạt được nhận thức đồng thuận và thực hiện những việc cơ bản sau đây:
1) Đánh giá bản chất 30 năm chiến tranh chống thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ (1946-1975)
Chính sử và công luận đều đã nhất trí là CUỘC CHIẾN TRANH VỆ QUỐC VĨ ĐẠI! Song, tôi nghĩ đồng thời cũng là CUỘC CHIẾN HUYNH ĐỆ TƯƠNG TÀN! Tại sao lại như vậy?
Có hai nguyên nhân đã làm cho dân tộc ta rơi vào cuộc nội chiến này.
Nguyên nhân thứ nhất là do đại họa ngoại xâm. Cũng giống như đối với nhiều dân tộc khác, ngoại bang đến thống trị, rồi xâm lược liên tiếp nước ta, suốt hơn một thế kỷ liền, đã làm cho dân tộc ta bị đẩy vào thảm cảnh đó, theo cả nghĩa đen đối với rất nhiều gia đình. Bởi vì, chiến lược cổ điển của các thế lực thực dân, đế quốc, bành trướng đi xâm lược và thống trị nước khác luôn là “chia để trị”, “dùng người bản địa đánh người bản địa”, mà Mỹ còn nói toạc móng heo là “Việt Nam hóa chiến tranh”, tức rút quân Mỹ về nước, chỉ dùng người Việt đánh người Việt, với vũ khí, viện trợ và cố vấn Mỹ, giống như “chiến tranh đặc biệt” trong giai đoạn đầu. Cho nên, lồng vào cuộc chiến tranh ái quốc của dân tộc ta chống ngoại xâm là cuộc nội chiến.
Nguyên nhân thứ hai là thật bất hạnh, đất nước ta đồng thời lại đã trở thành chiến trường ác liệt của cuộc đối đầu trực tiếp, quyết liệt giữa hai hệ tư tưởng trên thế giới – cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa – trong giai đoạn lịch sử ấy. Tức là người Việt chúng ta đã bị chia thành hai bên trực tiếp đánh nhau, một bên vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, bên kia chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Hai nguyên nhân này hòa quyện vào nhau đã làm cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn càng thêm khốc liệt.
Thực tiễn lịch sử đau thương này đã diễn ra như thế nào, mấy thế hệ người Việt đã phải trực tiếp nếm trải! Và, thật đau buồn, dù gần nửa thế kỷ đã trôi qua rồi mà các di chứng để lại vẫn còn nhức nhối!
2) Đánh giá ý nghĩa lịch sử của ngày 30-4-1975
Gần nửa thế kỷ trôi qua là thời gian quá đủ để nhìn nhận đúng ý nghĩa trọng đại của ngày lịch sử này:
Đó là một thắng lợi vĩ đại, một mốc son chói lọi trong lịch sử, không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả thế giới hiện đại; là niềm tự hào của cả dân tộc ta. Lần đầu tiên, và cho đến nay vẫn là lần duy nhất trên thế giới, siêu cường quốc hùng mạnh, giàu có nhất hành tinh đã thất bại thảm hại trong một cuộc chiến tranh quy mô chưa từng thấy khi can thiệp, xâm lược một nước nghèo, nhỏ bé hơn! Chính nghĩa đã thắng phi nghĩa! Độc lập, Chủ quyền, Quyền dân tộc tự quyết đã thắng ngoại bang can thiệp, áp đặt, xâm lược trắng trợn, bạo tàn!
Đó là ngày chấm dứt vĩnh viễn trên một thế kỷ đau thương, đất nước và dân tộc ta là nạn nhân của ách thống trị và chiến tranh xâm lược của ngoại bang. Tổ quốc đã hoàn toàn độc lập. Nguyên nhân thứ nhất tạo ra cuộc chiến nồi da nấu thịt đã bị xóa bỏ!
Đó là ngày thống nhất Tổ quốc, sau hơn hai thập kỷ bị chia ly xé lòng!
Đó cũng là ngày kết thúc cuộc chiến huynh đệ tương tàn!
Trong cuộc xung đột lịch sử kép này, chỉ có bên thắng cuộc duy nhất là dân tộc Việt Nam; là đại nghĩa “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”; là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam; là hòa bình.
Bên thua cuộc duy nhất là các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược nói trên; là phi nghĩa; là chiến tranh!
Còn, giữa con cháu các Vua Hùng với nhau, không có bên thắng, bên thua, mà với tư cách người Việt tất cả đều thắng!
Vậy, lẽ nào, là người Việt Nam lại không vui mừng và tự hào về ngày lịch sử vẻ vang ấy của cả dân tộc, dù mỗi người, mỗi gia đình đều có những nỗi đau, mất mát riêng?
3) Phải khép lại quá khứ đau thương để cùng nhau xây dựng tương lai tươi sáng!
Bởi vì: Những gì đã qua đều là quá khứ, không thể thay đổi, không thể làm lại, phải tôn trọng! Nhân vô thập toàn! Con người suy nghĩ, hành động khác nhau, đúng, sai là lẽ thường tình.
Gần nửa thế kỷ chúng ta đã để mất. Quyết không thể để mất mát thêm. Không thể để cho vết thương dân tộc này tiếp tục rỉ máu nữa! Không có con đường nào khác là phải xuất phát từ thực tế hiện tại!
Tổ quốc và dân tộc đang khẩn thiết đòi hỏi:
a- Về phía Đảng CSVN, những người đang gánh vác trọng trách lãnh đạo đất nước:
Sau khi chiến tranh chấm dứt, nguyên nhân thứ nhất gây ra cuộc nội chiến đã được loại bỏ. Với truyền thống khoan dung, hòa hiếu và thực hiện đổi mới về đối ngoại, nước ta đã bình thường hóa quan hệ và kết bạn, trở thành đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện với tất cả các nước đã đến thống trị và xâm lược nước ta.
Còn nguyên nhân thứ hai thì sao? Với sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cục diện thế giới đã sang trang. Mâu thuẫn chủ yếu, nổi trội nhất đang chi phối mạnh nhất quan hệ quốc tế ngày nay và tác động trực tiếp đến nước ta đâu còn là cuộc đối đầu giữa hai hệ tư tưởng Đông – Tây, cộng sản chủ nghĩa – tư bản chủ nghĩa nữa, mà là mâu thuẫn giữa Mỹ, siêu cường số 1, tuy đã suy yếu tương đối, nhưng vẫn là, và trong một tương lai có thể nhìn thấy, sẽ vẫn là số 1 thế giới và nhất định không từ bỏ vị thế này. Với Trung Quốc, siêu cường đã đạt được ngôi vị thứ 2, đang ra sức tiến lên chiếm vị trí thống soái toàn cầu, mà siêu cường này thực chất đã và đang chỉ dùng chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội như một chiêu bài, một bình phong và một công cụ để che đậy và thực hiện tham vọng bành trướng, bá quyền thâm căn cố đế của họ mà thôi.
Mặt khác, sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu cũng như cải cách mở cửa của Trung Quốc từ năm 1978 và đổi mới về kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đã chứng minh hùng hồn là mô hình kinh tế XHCN theo quan điểm Mác – Lênin đã thực sự lỗi thời, đã bị lịch sử đào thải. Trong khi đó, tất cả các quốc gia phát triển nhất, giàu có nhất, văn minh nhất trên thế giới mà nước ta đang ra sức phát triển quan hệ hợp tác, tranh thủ vốn đầu tư, khoa học, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý, chẳng có một nước nào theo con đường Mác – Lênin và CNXH cả. (Còn sự phát triển kỳ diệu về kinh tế của Trung Quốc, từ khi cải cách, mở cửa, thì đâu có phải là thành quả của chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH, mà là của kinh tế thị trường TBCN Trung Quốc đã học tập và vận dụng; và, lợi dụng quy chế được ưu đãi dành cho nước đang phát triển, Trung Quốc đã tranh thủ được tối đa các lợi ích của toàn cầu hóa, cũng như các thành tựu của thế giới TBCN về vốn, khoa học, công nghệ và kinh nghiệm quản lý).
Hơn nữa, từ hơn ba thập kỷ nay, ngoài đổi mới cơ bản về kinh tế, Đảng CSVN cũng đã đổi mới cơ bản về đối ngoại. Nước ta đã thực hiện đa dạng, đa phương hóa quan hệ, làm bạn và đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt lập trường tư tưởng, chế độ chính trị; bình thường hóa và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác toàn diện với tất cả các nước đã từng đô hộ, xâm lược nước ta, như đã nói trên. Tức là, trên thực tế, Đảng đã từ bỏ các quan điểm Mác- Lênin, XHCN trên hai lĩnh vực kinh tế và đối ngoại rồi. Cũng chính nhờ vậy mà đất nước mới thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và thu được những thành tựu rất quan trọng, có ý nghĩa lịch sử về đối nội và đối ngoại như hiện nay.
Như vậy, cơ sở tạo ra nguyên nhân thứ hai đã không còn tồn tại!
Thế mà, dù đã có nghị quyết về đổi mới toàn diện và đồng bộ, Đảng CSVN vẫn chưa thực hiện đổi mới thật sự về chính trị, vẫn kiên trì níu giữ mô hình quản lý đất nước cũ – hệ thống chính trị hiện hành – theo quan điểm Mác – Lênin, XHCN, thực chất là Đảng trị, độc quyền, không dân chủ, đã quá lẻ loi, lạc lõng, lỗi thời trên thế giới.
Đây chính là điều đã và đang ngăn cản dân tộc ta hàn gắn vết thương nội chiến, thực hiện hòa giải, hòa hợp, đại đoàn kết. Đồng thời, đây cũng chính là cội nguồn đẻ ra đặc quyền, đặc lợi, các nhóm lợi ích vị kỷ, nạn tham nhũng và các quốc nạn khác đã và đang hoành hành, phá hoại Đảng và đất nước; là nguyên nhân làm cho kinh tế thị trường ở nước ta bị méo mó, không phát huy được đầy đủ các mặt ưu việt, ngược lại tạo điều kiện cho các mặt tiêu cực tác oai, tác quái.
Mặt khác, đây cũng chính là hàng rào đang ngăn cản đất nước ta thực sự độc lập, tự chủ, hòa nhịp bước với tuyệt đại đa số các quốc gia đang phấn đấu xây dựng một thế giới thực sự hòa bình, tự do, dân chủ, phồn vinh, văn minh, bền vững.
Vậy thì, Đảng CSVN phải loại bỏ cội nguồn đã và đang tạo ra ba hậu họa nói trên. Tức là Đảng phải thực hiện đổi mới chính trị thật sự và triệt để. Cụ thể là, cũng như năm 1986, Đảng đã chiến thắng chính mình, dũng cảm từ bỏ quan điểm xây dựng kinh tế XHCN theo quan điểm Mác – Lênin đã lỗi thời, để chấp chấp nhận và vận dụng vào nước ta thành tựu chung của nhân loại cho đến nay về phát triển kinh tế là kinh tế thị trường, mà trước đó Đảng kiên quyết chống lại. Giờ đây, Đảng cũng phải dũng cảm từ bỏ mô hình quản trị quốc gia – hệ thống chính trị – hiện hành theo quan điểm Mác – Lênin đang cản trở sự phát triển của đất nước, để vận dụng mô hình phổ cập mà tuyệt đại đa số các nước trên thế giới đang áp dụng.
Đây là thành tựu của loài người trên phạm trù này, phải sau mấy thế kỷ đấu tranh quyết liệt, với biết bao máu, mồ hôi và nước mắt, mới đạt được, vẫn không ngừng được đổi mới, hoàn thiện theo quy luật phát triển khách quan, và đã mang lại những thành quả tốt đẹp về các mặt, điển hình là tại các nước Bắc Âu, các thành quả mà chính nước ta đã và đang phải tranh thủ, nghiên cứu và học tập.
Mô hình này mới là nhà nước pháp quyền thực sự, một bộ máy quản trị quốc gia bảo đảm thực hiện và phát huy được dân chủ thực sự trong toàn xã hội, tức là quyền và trách nhiệm thực sự làm chủ đất nước của nhân dân, là thực hiện đúng tư tưởng Hồ Chí Minh “lấy dân làm gốc”, để bảo đảm khơi dậy và phát huy được sức mạnh đại đoàn kết tổng hợp của toàn thể dân tộc, như một bài học chính Đảng đã đúc kết. Mô hình này cũng chính là cái lồng kiểm soát quyền lực tốt nhất cho đến nay đã được chứng minh trên thế giới.
Để thực hiện cuộc đổi mới chính trị thật sự và triệt để này, trước mắt, cần triển khai mấy việc chủ yếu sau đây:
– Trung ương Đảng ban hành sớm nhất có thể Nghị quyết đặc biệt về đổi mới chính trị toàn diện và triệt để theo tinh thần nói trên.
– Đồng thời, Trung ương Đảng và Quốc hội ra Tuyên bố đặc biệt về hòa giải và hòa hợp dân tộc theo tinh thần khép lại quá khứ đau thương, tất cả vì tương lai tươi sáng của đất nước, của dân tộc.
Để thể hiện rõ quyết sách mới này của Đảng về “đổi mới chính trị toàn diện và triệt để” và “hòa giải, hòa hợp dân tộc” thật sự, lấy lại niềm tin của đồng bào trong và ngoài nước, tạo đà và khí thế mới hàn gắn vết thương nội chiến, thực hiện hòa giải, hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc, cũng như các nhiệm vụ đổi mới trọng đại khác đang đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, tranh thủ tốt nhất sự đồng tình, ủng hộ của thế giới, cần làm ngay 5 việc cụ thể sau đây:
– Một là: Khẩn trương chuẩn bị và tổ chức các “Hội nghị Diên Hồng” rộng mở, tập hợp tất cả chuyên gia, trí thức tâm huyết và tài năng ở trong và ngoài nước, chỉ để bàn và đề xuất những sáng kiến, những giải pháp, những việc cần và có thể làm, nhằm khơi dậy, tập hợp và phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tâm, trí, tài, lực của hơn 100 triệu đồng bào ở trong và ngoài nước, nắm bắt được các cơ hội trong bối cảnh tình hình thế giới mới, để đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bứt phá vươn lên, vượt qua các khó khăn, thách thức, nguy cơ hiện nay, bước vào một kỷ nguyên mới phát triển nhanh chóng, toàn diện, hùng cường, bền vững, sớm đuổi kịp các nước tiên tiến. Tuyệt đối không tranh cãi về quá khứ, không phê phán, công kích bất cứ ai, bất cứ điều gì.
Bởi vì: Những sự thật lịch sử lớn nhất trong sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng CSVN, như thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, với chiến thắng “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống thuộc địa trên toàn cầu, rồi chiến thắng oanh liệt chống xâm lược Mỹ, siêu cường giầu mạnh nhất thế giới, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành biểu tượng của ý chí độc lập, tự do, của chủ nghĩa anh hùng, lương tri của nhân loại v.v… là niềm tự hào của toàn thể dân tộc ta, đã được công luận ngợi ca và ghi nhận trong lịch sử thế giới hiện đại, thì nhất định không ai có thể bóp méo, xuyên tạc, phủ nhận được.
Những gì còn bất đồng (cũng là lẽ tự nhiên) … thì để lại cho các thế hệ tương lai, không dính dáng gì với quá khứ, vào thời điểm thích hợp, phán xét thật khoa học, khách quan, chỉ nhằm rút ra những bài học cần thiết cho dân tộc.
Mặt khác, các ý kiến phản biện đúng đắn chỉ giúp cho Đảng và Nhà nước hoàn thiện đường lối, chính sách. Còn đường lối, chính sách mà đúng đắn thì lo sợ gì. Những ý kiến phản biện sai trái chỉ càng làm sáng tỏ hơn tính đúng đắn đó, giống như hòn ngọc chỉ càng thêm ngời sáng giữa những cục đá, viên sỏi.
– Hai là: Trả lại tự do cho những người đang bị giam giữ chỉ vì bất đồng chính kiến, phê phán các chủ trương, chính sách cũng như lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; thực sự tôn trọng tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí như đã được quy định tại hiến pháp và khẳng định rõ ràng trong các văn kiện chính thức, trong các phát biểu lâu nay của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; khuyến khích phản biện xây dựng, đóng góp ý kiến theo tinh thần đã nói trên.
– Ba là: Truy phong Liệt sĩ và khen thưởng xứng đáng các sĩ quan, binh lính, viên chức của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc trong trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa, tháng 1 năm 1974. Đó là những người con đích thực của dân tộc Việt Nam. Thực hiện đầy đủ chính sách người có công hiện hành đối với họ và thân nhân, cũng như tất cả sĩ quan, binh lính, viên chức khác của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đồng bào miền Nam đã có công tham gia phục vụ cuộc chiến đấu lịch sử này. Xây dựng Tượng đài xứng đáng về sự kiện lịch sử này.
Làm việc này còn để khẳng định dứt khoát chủ quyền không thể tranh cãi của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa, rất cần thiết trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay.
– Bốn là: Chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và thân nhân.
– Năm là: Xây dựng một Tượng đài xứng đáng, đặt tại Thủ đô Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh, để tưởng niệm tất cả con dân Việt đã ngã xuống trong các cuộc chiến tranh đã diễn ra trên đất nước ta hơn một thế kỷ qua. Lòng Mẹ Việt mênh mông hơn biển cả, lồng lộng hơn trời cao, tràn ngập yêu thương, bao dung, độ lượng, vị tha, luôn hy sinh tất cả cho các con, vì các con… Con dù có hư quấy hay lầm đường, lạc lối vẫn là con của Mẹ. Con nào mất đi lòng Mẹ cũng đau như cắt, vì đều do Mẹ rứt ruột đẻ ra; đều là máu, là thịt của Mẹ. Ngày giỗ con nào Mẹ cũng thắp nén nhang cầu cho con được an nghỉ vĩnh hằng! Và, như tôi đã bầy tỏ ở phần trên, tất cả các con Lạc cháu Hồng đã ngã xuống trong các cuộc chiến này, dù ở bên này hay bên kia, cũng như cả dân tộc ta, đều là nạn nhân của những thế lực ngoại bang đã đến thống trị và xâm lược nước ta và của cuộc xung đột trực tiếp giữa hai hệ tư tưởng Đông – Tây.
Các việc làm nói trên sẽ lay động mọi trái tim Việt, khơi dậy và thổi bùng nhiệt huyết yêu nước, tình nghĩa đồng bào, kết nối mọi con cháu các Vua Hùng, ở trong cũng như ngoài nước thành một khối, đồng lòng sát cánh cùng nhau chung sức đạp bằng mọi chông gai, trở ngại, đưa non sông gấm vóc bật dậy, đuổi kịp và sánh vai tiến bước cùng các quốc gia giàu mạnh, tiên tiến trên thế giới, bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời thiêng liêng của Tổ quốc, đã và đang bị Trung Quốc vi phạm, xâm lấn nghiêm trọng.
b- Về phía tất cả con Lạc cháu Hồng:
Nếu thực sự có lòng yêu nước, thương nòi, thì chúng ta phải cùng nhau vứt bỏ mọi hận thù, thành kiến, định kiến, cố chấp, cực đoan, mặc cảm, nghi kỵ, ngộ nhận, hiểu lầm …! Phải dẹp bỏ mọi bất đồng, chấm dứt đả kích, lên án, bài xích, đay nghiến, trách móc, đổ lỗi cho nhau, đang hàng ngày, hàng giờ ngoáy vào vết thương chung, sau gần nửa thế kỷ, vẫn còn tiếp tục rỉ máu, hủy hoại sức mạnh của dân tộc ta!
Phải cảm thông, bỏ qua, tha thứ cho nhau tất cả! Phải tôn trọng, thương yêu nhau… Cùng nhau khép lại quá khứ đau thương, hàn gắn lại tình nghĩa máu mủ, đồng bào, để sát cánh bên nhau dưới mẫu số chung: Bảo vệ và phát huy thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nay đã hòa bình, thống nhất, tổ ấm chung của tất cả mọi người, thật sự độc lập, tự chủ, giàu mạnh, tự do, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các quốc gia tiên tiến trên thế giới, nói gọn là tương lai tươi sáng, rực rỡ cho Tổ Quốc – Dân tộc Việt Nam ta, cho các thế hệ mai sau, trong đó có chính mình, gia đình mình, con cháu mình, trước các nguy cơ hiện hữu, cục diện thế giới đang biến đổi khôn lường. Mỹ – Trung cạnh tranh nhau rất quyết liệt, tác động trực tiếp đến nước ta; đặc biệt là thực trạng đất nước vẫn đang tụt hậu; đạo đức xã hội chưa bao giờ lại băng hoại như hiện nay; tài nguyên, môi trường thiên nhiên của đất nước bị xâu xé, khai thác bừa bãi, cạn kiệt, hủy hoại ngày càng nghiêm trọng; lãnh thổ và chủ quyền quốc gia đã và đang bị Trung Quốc xâm hại ngày càng nghiêm trọng ở Biển Đông; không gian sinh tồn chính đáng của dân tộc đang bị thách thức; độc lập, tự chủ, an ninh của đất nước cũng đang bị đe dọa về nhiều mặt.
Đồng bào ở trong nước, nhất là các bậc lão thành cách mạng, các thương, bệnh binh, cựu chiến binh, gia đình liệt sỹ…, những người lâu nay coi là thuộc “bên thắng cuộc” phải chủ động đi bước trước, phải mở lòng, dang rộng hai tay chào đón, ôm hôn những người anh em của mình ở hải ngoại.
Còn đồng bào ở hải ngoại, những ai vẫn còn hận thù, nuối tiếc, cố chấp, mặc cảm, nghi kỵ…thì phải rũ bỏ đi tất cả, để đón nhận vòng tay của những người anh em trong nước!
Các thế hệ tiền bối của chúng ta đã bao lần hành xử như vậy trong bối cảnh tương tự, và để lại cho các thế hệ hậu sinh những lời răn vô giá:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương;
Người trong một nước phải thương nhau cùng!”
“Bầu ơi thương lấy bí cùng;
Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn.”
“Khôn ngoan đối đáp người ngoài;
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau!”
“Một cây làm chẳng nên non;
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao!”
Hồ Chí Minh cũng đã dạy:
“Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết!
Thành công, Thành công, Đại thành công!”
Đương nhiên, cuộc đổi mới chính trị thật sự và triệt để này đòi hỏi phải được tiếp tục triển khai đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; trong đó, then chốt nhất, quyết định nhất là phải xây dựng lại Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng thực sự của dân, do dân, vì dân; thực sự trong sạch, vững mạnh; thực sự xứng đáng là Đảng tiên phong lãnh đạo toàn dân tộc trong thời đại mới.
Song, tôi tin tưởng rằng, chỉ cần thực hiện được các việc cơ bản nói trên thì mỗi dịp kỷ niệm ngày 30 tháng 4, cũng như các ngày lịch sử vẻ vang khác của đất nước, chắc chắn tất cả mọi con dân Việt sẽ đều vui, chẳng còn một ai buồn nữa.