Seite auswählen

„ĐCSTH đã vạch ra một kế hoạch vào năm 1955, dựa trên một mục tiêu rõ ràng là 100 năm sau, vào năm 2049, trở thành cường quốc số 1 trên thế giới, thay thế các nước châu Âu và tất nhiên là Hoa Kỳ.“

Andrés Vacca

Ảnh: Vành đai và Con đường, phiên bản mới của Con đường Tơ lụa vào ngày 30 tháng 9 năm 2021.(CRUX / Ảnh chụp màn hình Youtube)

Cái gọi là Con đường Tơ lụa, bắt nguồn từ khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, là một mạng lưới các tuyến đường thương mại được tổ chức xung quanh ngành kinh doanh tơ lụa của Trung cộng, kéo dài khắp lục địa châu Á, nối Trung cộng với Mông Cổ, tiểu lục địa Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Châu Âu và Châu Phi.

Trong nhiều thế kỷ, tuyến đường này đã trở thành cây cầu kết nối hai thế giới hoàn toàn không được biết đến với nhau lúc bấy giờ, ngày nay được gọi là Đông và Tây.

Trên đường đi, các thương gia, linh mục, nhà khoa học, nhà ngoại giao, binh lính và nhà thám hiểm đã mang theo lụa và các mặt hàng như đồ sứ, đồ sắt hoặc trà, đến phương Tây, hợp nhất các nền văn hóa và bắt đầu một mạng lưới thương mại trao đổi hàng hóa.

Nhưng ngoài giao dịch thương mại, tuyến đường này còn đại diện cho một con đường phổ biến ý tưởng và kiến thức trong các lĩnh vực văn hóa và khoa học.

Lần đầu tiên, phương Tây đã tiếp cận được với nền văn hóa hàng ngàn năm Trung Hoa, vốn đã nuôi dưỡng sự phát triển của kỹ thuật và kiến thức đa dạng, cuối cùng dẫn đến những tiến bộ quan trọng làm thay đổi dòng chảy của châu Âu và sau này là toàn bộ thế giới.

 

Dâu tằm tơ Trung Hoa: Nguồn gốc sản xuất tơ lụa

Tơ là một loại sợi tự nhiên được tạo ra bởi nhiều loài sâu khác nhau dệt kén bên trong, chúng trải qua quá trình biến hóa và trở thành bướm.

Việc sản xuất tơ lụa bắt đầu ở Trung Hoa ít nhất 3000 năm trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, vợ của Hiên Viên Hoàng Đế, Luy Tổ, ngồi dưới bóng cây dâu tằm thưởng thức trà thảo mộc. Đột nhiên, một kén tằm rơi vào đồ uống của nàng.

Hoàng hậu kéo chiếc kén ra khỏi bát của mình và phát hiện ra nó đang bắt đầu bung ra, và sợi tơ dường như không có hồi kết. Luy Tổ ngay lập tức nghĩ rằng sợi chỉ có thể được sử dụng để làm ra loại vải tuyệt vời. Kể từ đó, Luy Tổ được gọi là “Tiên Tằm”. Trong các lễ hội cổ để tôn vinh bà, các bàn thờ trong đền thường được trang trí bằng kén tằm.

Trong nhiều cuộc khai quật ở các khu vực khác nhau của Trung cộng, kén tằm đã được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ có niên đại từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên.

Các chữ khắc được phát hiện trên mai và xương rùa chứa các hình ảnh và chữ tượng hình biểu thị các khái niệm “con tằm”, “dâu tằm”, “tơ lụa” và “dệt lụa”.

Đến thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, sản xuất lụa rộng rãi hơn nhiều ở các tỉnh khác nhau của Trung Hoa.

Các ghi chép chỉ ra rằng, ban đầu, loại vải này chỉ có thể được sử dụng bởi các thành viên trong gia đình hoàng gia. Tuy nhiên, do sự phát triển của công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất tơ lụa, những sản phẩm may mặc tinh tế đã trở nên dễ dàng tiếp cận với triều đình và sau này là những người dân thường.

Theo thời gian, chất liệu cao quý này cũng được sử dụng cho các mặt hàng khác như dây cung, dây nhạc cụ và giấy.

Lụa đã trở nên nổi bật trong xã hội Trung Hoa cổ đại đến mức nó trở thành vật trao đổi phổ biến tương đương, dùng cho cả việc thanh toán thuế và tiền lương.

Những tiến bộ trong nghệ thuật sản xuất tơ lụa, được gọi là nghề nuôi tằm, đã tinh xảo đến mức chất lượng của sản phẩm và màu sắc của nó đã thu hút sự chú ý của du khách và thương nhân. Cuối cùng, vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, nó đã lần đầu tiên vượt qua biên giới Trung Hoa và dần dần được biết đến ở các nước láng giềng.

Sau đó, nó băng qua Hàn Quốc và Nhật Bản cho đến khi cuối cùng đến được châu Âu, tạo ra cái được gọi là Con đường Tơ lụa qua nhiều thế kỷ. Hàng nghìn thương nhân trên các đoàn lữ hành và tàu thuỷ đã băng qua các dãy núi và sa mạc của Con đường Tơ lụa với những hàng hóa có giá trị.

Việc buôn bán tơ lụa phát triển rộng rãi ở châu Á và châu Âu, nhưng sự tập trung sản xuất vẫn tiếp tục ở Trung cộng. Không phải là không có ai cố gắng sao chép và phát triển nó, mà chỉ đơn giản là người Trung Hoa đã cố gắng giữ bí mật sản xuất của họ trong nhiều thế kỷ. Bất kỳ nỗ lực buôn lậu bướm, sâu bướm hoặc trứng nào đều có thể bị trừng phạt bằng cái chết.

 

Con đường tơ lụa: Chuyển giao văn hóa và tri thức

Rất ít vật liệu có tác động kinh tế, kỹ thuật, chức năng, văn hóa và biểu tượng đáng kể như lụa, từ cờ đến mái hiên, thảm trang trí, đồ nội thất, váy cưới, trang phục truyền thống và những thứ khác.

Nhưng nó cũng là một di sản đa diện, sống động bao gồm nhiều thứ hơn là bản thân vật liệu dệt: các nhà thiết kế, thợ dệt, họa sĩ, thương gia và người mua xuất hiện xung quanh nó.

Năm 1877, khái niệm “Con đường tơ lụa” xuất hiện, một cái tên do nhà địa lý người Đức Ferdinand Freiherr von Richthofen tạo ra trong cuốn sách “Trung Hoa” của ông, xuất bản tại thành phố Berlin. Ông xác định một mạng lưới các con đường phục vụ cho việc xuất khẩu lụa và các sản phẩm khác chạy qua Âu-Á từ đông sang tây.

Nó mô tả cách mà tuyến đường lịch sử đóng vai trò là cầu nối của các nền văn hóa ngoài việc buôn bán tơ lụa. Sự trao đổi phong tục và tri thức đã làm giàu cho tất cả các dân tộc biết tận dụng cơ hội này.

Cho đến lúc đó, Đông và Tây là một ẩn số đối với nhau. Nhưng một chương mới của lịch sử thế giới đã được mở ra thông qua những con đường và tuyến đường biển mới này.

Đó là một thời kỳ gần như giả tưởng, trong đó, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc tiếp theo, những cánh cửa đã được mở ra cho một thế giới không xa lắm mà chưa được biết đến. Trong thời đại phiêu lưu này, hàng ngàn nhà du hành nổi tiếng, chẳng hạn như Marco Polo và Ibn Battuta, đã chu du khắp trái đất, ghi lại những câu chuyện về chiến tích của họ được truyền lại cho đến ngày nay.

 

Ẩm thực và thuần phong mỹ tục

“Con đường tơ lụa” là tên gọi chính xác bởi vì lụa là mặt hàng quan trọng nhất trong thương mại và là thứ mở đường cho rất nhiều thứ khác. Tuy nhiên, tuyến đường cũng cho phép trao đổi ý tưởng, tôn giáo, văn hóa và cách sống có ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các khu vực mà nó đi qua.

Nghệ thuật ẩm thực Trung Hoa ngập tràn triết lý và niềm tin vào thần thánh. Kết quả là, nấu ăn, nghệ thuật, thủ công và công việc không chỉ là những hoạt động đơn giản; tín ngưỡng truyền thống khẳng định rằng mọi thứ trong xã hội loài người đều là biểu hiện của Đạo hay Con đường.

Lão Tử, người sáng lập ra Đạo giáo, đã viết: “Người thuận theo Đất. Đất thuận theo Trời. Trời thuận theo Đạo. Đạo thuận theo tự nhiên”.

Theo những hướng dẫn này, người Trung Hoa cổ đại đã biến bất kỳ công việc nấu nướng nào trở thành một nghệ thuật thực sự. Bất kỳ hoạt động nào do đàn ông hay phụ nữ thực hiện đều phải có phẩm chất vị tha, thiên phú tốt và kết quả hoàn mỹ.

Nấu ăn cũng không ngoại lệ, đó là lý do tại sao thực phẩm họ sản xuất vào thời điểm đó thu hút sự chú ý của du khách.

Một trong những món ăn truyền thống được công nhận nhất của Ý, mì ống, một phần của nền ẩm thực thế giới ngày nay, là kết quả của một trong những chuyến đi của nhà du lịch Ý nổi tiếng Marco Polo.

Theo truyền thuyết, Marco Polo trở về nhà từ Trung Hoa, mô tả món mì mà ông đã thấy ở Phương Đông, và những câu chuyện của ông đã tạo nên một trong những truyền thống ẩm thực được tôn sùng nhất của đất nước này.

Năm 2002, các nhà khảo cổ học làm việc tại vùng Lajia, Trung cộng đã phát hiện ra một chiếc bát bằng đất sét chứa sợi mì 4.000 năm tuổi trong tình trạng hoàn hảo. Không giống như mì Ý truyền thống được làm từ lúa mì, chúng được làm từ hạt kê.

Việc sử dụng gạo, rất phổ biến ở Trung cộng và phần còn lại của Phương Đông, cũng trở nên phổ biến nhờ những du khách đã vận chuyển nó đến Trung Đông, Châu Âu và Châu Mỹ. Cuối cùng, cho đến ngày nay, nó là một trong những món ăn chính của các nước Mỹ Latinh.

Ngày nay, trà, một trong những đồ uống lâu đời nhất và được tiêu thụ nhiều nhất trên toàn cầu, đã được phát hiện ở Trung Hoa cách đây khoảng bốn nghìn năm. Nó đã đến được các quốc gia khác nhau du nhập nó như là di sản của riêng họ thông qua con đường tơ lụa. Ví dụ là trường hợp của Vương quốc Anh, sau đó đã phổ biến việc sử dụng trà ở các thuộc địa của mình, khiến trà đến được những vùng đất khắc nghiệt nhất trên thế giới.

 

Phương Tây bắt đầu sản xuất lụa

Mãi đến thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, những tấm lụa đầu tiên mới được nhập khẩu từ Viễn Đông đến Đế chế La Mã. Đế chế Byzantine đã thiết lập nền sản xuất lụa công nghiệp bản địa đầu tiên vào thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên và thống trị sản xuất lụa ở châu Âu cho đến tận thế kỷ 12.

Theo báo cáo của UNESCO, bất chấp sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Hoa, du khách Syria đến Bắc Phi và bán đảo Iberia vẫn tự mình truyền lại kiến thức thu được về nghệ thuật sản xuất lụa quý giá.

Do đó, Al-Andalus là lãnh thổ đầu tiên trên lục địa Châu Âu xác định việc nuôi tằm tập trung.

Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt lụa nơi đây gắn liền với một tổ chức phức tạp, nơi các quy trình sản xuất được tiêu chuẩn hóa và quy định hóa, tạo ra một sản phẩm có uy tín lớn ở cả thị trường phương Tây và phương Đông.

Các vị vua tín ngưỡng Thiên Chúa đã tận dụng di sản từ người Hồi giáo liên quan đến kỹ thuật sản xuất lụa và khuyến khích sự phát triển của một ngành công nghiệp địa phương nổi bật dựa trên lụa.

Về phần mình, các thế lực hàng hải như Venice, Genoa, Pisa và Amalfi đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao công nghệ cho lĩnh vực này. Ngoài ra, họ đã thêm vào những thiết kế trang trí nổi bật của mình, do đó đã phát triển ngành công nghiệp dệt may nổi tiếng của Ý, đang phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.

 

Sự xuất hiện của ĐCSTH đã thay đổi mọi thứ

Phương Tây bắt đầu sản xuất tơ lụa, nhưng điều đó không có nghĩa là Con đường Tơ lụa tan rã. Ngược lại, nhiều thế kỷ phát triển thương mại cho phép các mối liên hệ duy trì thống nhất mặc dù Trung cộng sẽ không còn là trung tâm sản xuất của nguyên liệu thô quý giá được sử dụng trong ngành dệt may đang phát triển mạnh.

Quan hệ thương mại tiếp tục thăng trầm do xung đột chiến tranh ở châu Âu và châu Á từ năm 1700 đến năm 1900. Nhưng mọi thứ hoàn toàn thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản ở Trung Hoa.

Quan hệ sản xuất đã thay đổi hoàn toàn ở Trung cộng kể từ thời điểm đó, chủ yếu là do Đảng Cộng sản Trung Hoa (ĐCSTH) tập trung phá hủy phần lớn văn hóa truyền thống, bao gồm cả kiến thức thu được qua nhiều thập kỷ trong vô số lĩnh vực sản xuất then chốt dọc theo Con đường Tơ lụa.

Đồng thời, ĐCSTH đã đẩy đất nước vào tình trạng nghèo đói sâu sắc chưa từng thấy, và khu vực này trở nên không hấp dẫn để phát triển kinh doanh. Hơn nữa, với bản chất ma quỷ tà ác, nó đã biến một xã hội đầy những giá trị tốt đẹp thành một xã hội tham nhũng tràn lan và thiếu đạo đức chung.

Trong những năm qua, ĐCSTH đã cố gắng hiện đại hóa nền kinh tế của mình với cái giá phải trả là đàn áp nhân dân, đàn áp các quyền tự do và khiến công dân của mình bị bóc lột tàn bạo.

Trong thế kỷ 21, các cường quốc tư bản bắt đầu bị thu hút bởi khả năng sản xuất ở Trung cộng vì chi phí lao động thấp và các quy định về lao động bằng không. Điều này cho phép Trung cộng tái gia nhập thị trường thế giới và có khả năng xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản, mưu đồ thực sự của ĐCSTH.

ĐCSTH đã vạch ra một kế hoạch vào năm 1955, dựa trên một mục tiêu rõ ràng là 100 năm sau, vào năm 2049, trở thành cường quốc số 1 trên thế giới, thay thế các nước châu Âu và tất nhiên là Hoa Kỳ.

Đoạn cuối cùng của hành trình đặt ra mục tiêu xây dựng một lộ trình tăng trưởng có thể thúc đẩy nó hướng tới mục tiêu cuối cùng: Con đường Tơ lụa mới.

Năm 2013, lãnh đạo ĐCSTH Tập Cận Bình tuyên bố khởi động Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) như một dự án mang lại sự thịnh vượng cho cả Trung cộng và tất cả các quốc gia tham dự thông qua các khoản đầu tư hàng triệu đô la vào cơ sở hạ tầng, xây dựng đường sắt, cảng, thành phố, nhà máy điện, đập, đường, v.v.

 

Con đường tơ lụa mới, một mục tiêu đế quốc chủ nghĩa hơn là thương mại

Một trong những đề xuất đầy tham vọng nhất đối với nền kinh tế Trung cộng là siêu dự án cơ sở hạ tầng mở rộng của Sáng kiến vành đai và con đường – BRI. Tuy nhiên, ngày nay, tiến độ của sáng kiến cuối cùng đã bị ảnh hưởng bởi tất cả các biện pháp tồi tệ mà chế độ Trung cộng thực hiện và những hậu quả tai tiếng của nó.

Kể từ khi khởi động đề xuất Sáng kiến vành đai và con đường –  BRI, một dự án nhằm mở rộng quan hệ kinh tế thông qua các hành lang thương mại mới nối Trung cộng với châu Á, châu Phi, châu Mỹ, Trung Đông và châu Âu, nó đã chìm đắm trong các vấn đề gây tranh cãi. Không ít trong số đó là nguy cơ các quốc gia liên quan lún sâu vào nợ nần.

Trong 68 quốc gia mà chính quyền Trung cộng đang đầu tư, có 23 quốc gia đã chứng kiến nền kinh tế của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi siêu dự án kể từ năm 2013, theo một báo cáo của Trung tâm Phát triển Toàn cầu có trụ sở tại Washington D.C.

Giữa những lời chỉ trích, các quốc gia khác nhau trong khu vực châu Á và những bên liên quan khác đã lên tiếng bất mãn, thông báo về những tác động nghiêm trọng đối với các quốc gia tham gia dự án, đóng vai trò quyết định trong việc làm chậm tiến độ phát triển của dự án.

Như nhà báo Wade Shepard của tạp chí Forbes đã chỉ ra, gần bảy năm trong siêu dự án, sự chậm trễ, sụp đổ tài chính và bùng phát các cuộc biểu tình xã hội lớn đã dẫn đến triển vọng ngày càng không chắc chắn về kết quả của dự án.

Những người chỉ trích cho rằng khi các công ty Trung cộng thâm nhập vào các thị trường mới nổi, các chính sách không phù hợp và thực tiễn kinh doanh kém đã biến Sáng kiến vành đai và con đường – BRI thành một lối mòn bất cập toàn cầu, không thể hoàn thành mục tiêu tạo ra một loại hình thương mại thịnh vượng mới có lợi cho tất cả các nước tham gia.

Đồng thời, bằng chứng về những sai lầm nghiêm trọng về nhân quyền của ĐCSTH đang gia tăng. Cuộc đàn áp dân tộc thiểu số và tôn giáo cũng như những người bất đồng chính kiến, trại lao động, mất tích và cưỡng bức mổ lấy nội tạng từ các tù nhân lương tâm đã làm xấu đi mối quan hệ ngoại giao với các cường quốc trên thế giới.

 

Các điểm quan trọng của Sáng kiến vành đai và con đường (BRI) là gì?

Theo các tiêu chuẩn phương Tây, một trong những chủ đề bị chỉ trích nhiều nhất về cách ĐCSTH phát triển các sáng kiến của mình trong BRI, là sự thiếu minh bạch trong các thỏa thuận mà nó ký với những quốc gia mà nó có ý định kinh doanh.

Các doanh nghiệp nhà nước của Trung cộng thực hiện hơn 90% các dự án cơ sở hạ tầng BRI có sự tham gia của Trung cộng. Chế độ này được cho là sở hữu bảy trong số mười công ty xây dựng lớn nhất trên toàn cầu. Chỉ một số dự án được trao cho các công ty địa phương và luôn có sự hợp tác và/hoặc giám sát của Trung cộng.

Hàm ý là Trung cộng đưa công nhân của họ có mặt khắp thế giới, những người sau đó sẽ chuyển thu nhập của họ về Trung cộng mà không đóng góp cho thị trường địa phương.

Johanttan Hillman thuộc Trung tâm Chiến lược Nghiên cứu Quốc tế chỉ ra rằng nhiều công ty trong số này “đã bị Ngân hàng Thế giới và các ngân hàng phát triển đa phương khác truy quét vì gian lận và tham nhũng, từ việc tăng chi phí lên cao đến việc lại quả”.

Các nhà cầm quyền địa phương, thường đến từ các quốc gia mới nổi có tỷ lệ tham nhũng cao, trở nên được ưa chuộng khi tuyên bố xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng thiết yếu. Tuy nhiên, hầu hết chúng không bao giờ được hoàn thành, và toàn bộ quá trình được giao cho ĐCSTH.

Một yếu tố khác không kém phần quan trọng là vấn đề vốn vay. Các quốc gia hưởng lợi từ các quỹ này nói chung là các quốc gia nghèo đã mắc nợ các tổ chức cho vay quốc tế truyền thống, bị trừng phạt bởi nhiều thập kỷ chính phủ tham nhũng sử dụng công quỹ để làm giàu cho bản thân.

Các khoản vay này từ Trung cộng thường có lãi suất rất cao và được ký kết trong các thỏa thuận không minh bạch, trong một số trường hợp, thậm chí ảnh hưởng đến tài nguyên thiên nhiên của đất nước.

 

Động cơ thực sự đằng sau BRI

Các cáo buộc khác chỉ ra rằng có những lợi ích thực sự tiêu cực đằng sau BRI, điều này làm lu mờ những kết quả kinh tế tồi tệ đơn giản mà nó tạo ra cho các nước tham gia.

Như Viện Chính sách Xã hội Châu Á đã chỉ ra, một trong những trọng tâm chính của Bắc Kinh là xây dựng các căn cứ quân sự ở các nước tham gia, có mục đích sử dụng thương mại song song như một chiếc mặt nạ để không khơi dậy sự nghi ngờ.

Do đó, nhiều khoản đầu tư được phát triển xung quanh BRI có các tính năng tuân theo mô hình tình báo quân sự của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung cộng.

Ví dụ, một cảng thương mại đơn giản được xây dựng trong BRI có thể được tích hợp với các khu công nghiệp và các ngành công nghiệp hỗ trợ như dịch vụ đóng tàu và bổ sung nhằm nâng cao khả năng hỗ trợ tàu hải quân Trung cộng của cảng.

Nói cách khác, trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự, ĐCSTH sẽ có khả năng cung cấp quân đội tại bất kỳ điểm nào trong số này bên ngoài căn cứ địa của mình.

Một điểm quan trọng khác đối với các thỏa thuận BRI chỉ ra rằng ý định thực sự của ĐCSTH đằng sau các khoản vay không thể trả được là chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của các nước sở tại.

“Để đảm bảo năng lượng và tài nguyên thiên nhiên mà đất nước đang thiếu với số lượng đủ lớn và tối đa hóa lợi tức đầu tư bằng Đô la và Euro thặng dư, các chủ nợ nhà nước Trung cộng đã nhanh chóng mở rộng việc cung cấp các khoản vay bằng ngoại tệ cho các nước giàu tài nguyên đang ở mức tham nhũng cao,” một báo cáo AidData cho biết.

Theo báo cáo, ĐCSTH thiết lập một thủ tục phức tạp. Ví dụ, phát hành một khoản vay để xây dựng cơ sở hạ tầng ở nước sở tại đồng thời thiết lập một thỏa thuận để lấy tài nguyên thiên nhiên.

 

Lời kết

Nhiều thế kỷ qua, sáng kiến ban đầu của Con đường Tơ lụa được đánh dấu bằng các giá trị đạo đức và trí tuệ cổ xưa của Trung Hoa truyền thống. Sau đó, các nước tham gia được hưởng lợi từ những lợi thế sản xuất của các nước láng giềng trong khi chia sẻ kiến thức và bí quyết để theo đuổi thương mại công bằng và đôi bên cùng có lợi.

ĐCSTH, như đã làm với rất nhiều thứ khác, đã tìm cách phá hủy một sáng kiến có giá trị mà trong nhiều thế kỷ đã cho phép làm phong phú thêm tất cả các nền văn hóa tham gia. Thay vào đó, nó biến các mối quan hệ trao đổi thành một đầu tàu áp đảo, với lợi ích duy nhất là mở rộng quyền lực và trao quyền cho Đảng bằng các giá trị toàn cầu hóa vốn chỉ mang lại lợi ích cho một số ít. Trong khi đó, nó dẫn đại đa số nước tham gia không chỉ đến sự nghèo đói về kinh tế mà còn là cả sự khốn cùng lớn nhất do thiếu các giá trị và chính nghĩa.

Mặc dù kết quả kinh tế của các nước tham gia BRI không được tốt, nhưng sự tham ô, tham lam, tham nhũng của nhiều người đã khiến dự án tiếp tục phát triển.

Xung đột chiến tranh hiện tại có thể đánh dấu một kịch bản địa chính trị thế giới mới, tùy thuộc vào cách sắp xếp các mối quan hệ quyền lực, có thể cho phép bản chất thực sự của ĐCSTH được bộc lộ, phơi bày những thiệt hại mà nó đang gây ra cho toàn thế giới.

Andrés Vacca,  The BL

Thuỳ Linh biên dịch

Đại Kỷ Nguyên