Ra tù năm 1976, sau chín năm, qua nhiều trại, tôi bỡ ngỡ, tôi ngu ngơ trước cuộc sống xô bồ.
Vắng người đàn ông trụ cột, gia đình tôi rơi xuống đáy vực nghèo khổ. Vợ tôi gày nhom, xanh rớt, mấy đứa con quần áo vá chằng vá đụp. Tôi làm hùng hục mọi việc đến tay, không dể ý đến cái gì khác.
Phải hai năm sau tôi mới gặp lại Trần Độ.
Tôi không có ý tìm anh. Là phó chính uỷ kiêm phó bí thư quân uỷ Quân Giải phóng Miền Nam, Trần Độ rất bận với công việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, viết quân sử vv… Bạn bè cho tôi biết như vậy.
Còn một khía cạnh tâm lý khác, ai có qua cầu mới hay. Đó là tôi không muốn gặp các quan chức. Không một tẹo nào.
Nhưng rồi Trần Độ tìm tôi. Trong bữa rượu hàn huyên đạm bạc có ba người. Ngoài hai chúng tôi còn có một chị cán bộ trẻ, phụ tá của anh.
Trần Độ biết tôi ở tù.
Anh nhìn tôi thương hại:
– Chín năm! Chắc chú có làm gì sai thì Đảng mới xử nặng đến thế chứ.
Tôi sững người.
Vậy ra anh chẳng biết gì về cái gọi là vụ án “nhóm xét lại chống đảng” mà tôi bị đính vào. Tôi dùng chữ “đính vào” như nói về một cái khuy áo, trong đó tôi là cái khuy dưới cùng, có cũng được, mất không sao.
Mà khốn nạn, có cái nhóm chó nào đâu cơ chứ! Chỉ có những cuộc luận bàn thế sự của mấy cán bộ hoạt động từ hồi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc còn trứng nước với lớp cán bộ trẻ tới sau. Ấy thế mà mấy thằng “lãnh tụ” quen thói nhìn đâu cũng thấy kẻ chống mình phát hoảng, vội vã làm một cuộc bắt bớ đại quy mô. Lê Duẩn, lãnh tụ tối cao tuyên bố: “Kẻ nào không theo ta là chống ta”. Lê Đức Thọ, đầu sai của Lê Duẩn, quăng lưới. Thế là các cán bộ lũ lượt vào tù. Cao nhất là uỷ viên trung ương, thấp nhất là tôi, cán sự 3. Lê Duẩn lúc nói “xử lý nội bộ”, lúc nói cho đi “tập trung cải tạo”.
Để tạo ra chính danh cho hành động của mình, anh Ba, anh Sáu (Ba Duẩn, Sáu Thọ tức Sáu Búa) và bộ hạ liền nghĩ ra cho nó một cái tên thật kêu là “Nhóm tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”. Tổng bí thư mất ghế Trường Chinh tuy đã bị gạt ra rìa,cũng nhào vô vỗ tay ké.
Bắt cán bộ đảng chưa đủ, Lê Duẩn cho tóm cả người ngoài đảng cho vào một rọ được gọi là “nhóm” đó.
Thế là tôi vào tù, Vũ Huy Cương vào tù, Bùi Ngọc Tấn vào tù, cũng một tội “xét lại”. Cả ba đều không phải đảng viên. Tôi dám cá là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ “xét đi” còn chưa thuộc, làm sao biết “xét lại” là cái gì.
Vào tù rồi tôi càng tin mình hiểu đúng – cán bộ công an cấp vụ cấp bộ làm cviệc hỏi cung, tên chữ là chấp pháp, cũng chẳng hề đọc Marx. Chủ nghĩa Mác trong họ chỉ gồm mớ kiến thức lẻ tẻ nhặt được từ mấy cuốn mác-xít nhập môn.
Tôi ngạc nhiên là phải.
Một vụ án lớn, nhiều cán bộ cao cấp bị khai trừ, bị bắt, bị bỏ tù, các cán bộ cao cấp và trung cấp đều được nghe “báo cáo số 1” “báo cáo số 2″… của Sáu Búa Lê Đức Thọ, sao tướng Trần Độ lại không biết?
Nghe anh nói thế, tôi nhìn anh trân trân – thì ra ông anh mà tôi kính trọng cũng mù loà như mọi quan chức khác. Với họ, nghị quyết của đảng có giá trị Kinh Thánh.
Chả cứ Trần Độ, tới tận năm 1988, tướng Trần Văn Trà cũng chẳng biết gì về vụ bắt bớ này.
– Hồi đó tôi đang lo đường vận chuyển vũ khí trên biển – Trần Văn Trà phân trần – Có, tôi có nhận được thông tin của Ban tổ chức Trung ương, nhưng tôi không chú ý. Chúng tôi đang bận tối tăm mặt mũi với việc của mình.
Chuyện trong Đảng chia ra nhiều cấp, nhiều đối tượng trong việc được nhận hoặc không được nhận thông tin, tôi biết lắm.
Nhưng đến mức những cán bộ cấp tướng mà cũng không được biết về vụ bắt bớ to lớn ấy thì thật lạ.
Trần Văn Trà là một tướng cấp tiến. Đó là hồi tờ “Truyền thống Kháng chiến” của “Câu lạc bộ Những Người Kháng Chiến Cũ” mới ra hai số đã bị cấm. Trần Văn Trà kêu tôi tới nhà anh ở đường Nguyễn Thị Minh Khai để bàn chuyện ra một tờ báo độc lập, tiếng nói khác với báo chính thống.
Tôi từ chối. Đó là việc làm vô ích. Tờ báo sẽ bị bóp chết từ trong trứng.
Khác với Trần Văn Trà, Trần Độ được tôi coi như người anh lớn, vì nhân cách, chứ không vì địa vị.
Đáp lại, tôi cười buồn:
– Em có nói gì bây giờ anh cũng sẽ nghĩ là em thanh minh. Tốt hơn hết, ta cạn với nhau chén rượu tái ngộ này, kèm theo một giao ước: “Anh sẽ xem xét sự việc bằng con mắt của mình, suy xét bằng cái đầu của mình, để rồi có kết luận”. Em chờ câu trả lời của anh trong một bữa rượu sau. Anh hứa chứ?
Anh gật đầu, cạn chén.
Trần Độ hơn tôi đúng 10 tuổi. Với anh, tôi là đàn em, không dám lắm lời.
Gần một năm sau mới có bữa rượu thứ hai.
Tôi nâng ly:
– Em lắng nghe câu trả lời của anh.
Trần Độ thở dài:
– Một lũ chó má! Không thể ngờ.
Và văng một câu chửi tục, lần đầu tôi nghe thấy từ miệng anh.
Trần Độ rồi còn nhận nhiều chức vụ mới – Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ của Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hoá, rồi Phó Chủ tịch Quốc Hội.
Đã tưởng sau cuộc gặp tôi, nghe tôi kể, anh đã biết tỏng cái đảng của anh nó thế nào, nhưng anh vẫn không từ chối bổng lộc của nó. Tôi không buồn nói chuyện với anh nữa. Tôi chán anh.
Trần Độ hoá ra không như tôi nghĩ.
Thiên hạ xì xào sự thăng quan tiến chức cho anh về dân sự thực chất là nhằm đưa anh ra khỏi quân đội.
Qua những câu nói bị nghe lén mà anh không biết, kèm theo những báo cáo mật được gửi lên, những người cầm trịch quốc gia cảm thấy anh đã xa rời họ, và họ khó chịu. Khó chịu rồi bực tức.
Những lời đồn về một Trần Độ ương bướng xúi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, tháo gỡ việc ngăn sông cấm chợ, toa rập với Nguyên Ngọc đưa ra bản “Đề dẫn” ngang ngạnh rõ ràng rời xa đường lối văn nghệ của Đảng vv…
Văn Cao chăm chú theo dõi thời cuộc, thở dài:
-Trần Độ thẳng quá, hỏng! Cao Biền dậy non. Phí!
Tôi đồng ý với Văn Cao.
Trần Độ được phong trung tướng cùng lúc với Lê Đức Anh, nhân vật sau này làm mưa làm gió trong chính trựờng. Nếu biết xuôi dòng anh có thể lên cao hơn nữa trong hệ thống quyền lực, hơn đứt Lê Đức Anh.
Trần Độ là người nghĩ gì nói nấy, không giữ gìn. Anh không biết lui tới, không biết náu mình chờ thời. Anh hành xử theo lương tâm, cứng đầu trong cuộc đấu tranh cho chân lý. Về mặt này anh giống Hoàng Minh Chính. Cả hai đều có tố chất người lính can trường. Nhưng không có tố chất người làm chính trị.
Không ai có thể ngăn Trần Độ. Những phát biểu của anh lúc này lúc khác, chỗ này chỗ nọ tiếp tục làm chối tai các “lãnh tụ”.
Mà có phải anh chỉ phê bình sơ sơ những khuyết điểm cục bộ đâu. Từ chỗ nhỏ nhẹ, anh dần nói to, nói trắng ra ý muốn thay thế thể chế hiện tại bằng chế độ dân chủ với tam quyền phân lập…
Người khác nói thế đã khó nghe, đàng này lại là người cộng sản từ khi chính quyền còn trứng nước, đang giữ chức vụ cao. Những phát biểu như thế có ảnh hưởng lớn tới quần chúng đảng viên, chưa nói gì tới người ngoài đảng.
Một anh bạn công an cấp cao khuyên tôi:
– Cậu chớ dây với Trần Độ. Nguy hiểm đấy.
Những bài viết của anh, không được đăng báo, nhưng được chuyền tay rộng rãi. Anh nhanh chóng trở thành “tên phản động”.
Thời thế đã khác – người ta không thể bỏ tù anh tức khắc. Người ta chỉ có thể dùng đủ mọi cách hạ uy tín của anh.
Còn nhớ năm 1997 tôi ở thành phố Strassbourg cùng với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện. Một hôm, Trần Độ gửi cho tôi bài anh vừa viết, bảo tôi xem lại trước khi anh công bố. Tôi đưa Thiện cùng đọc. Thiện đọc xong, nói anh không hài lòng một số câu chữ trong đó.
Tôi bảo Thiện cứ nói thẳng ý kiến của mình khi nói chuyện với Trần Độ. Thiện bốp chát:
– Không hiểu sao đến nay anh vẫn còn có thể dùng những từ “giải phóng”, “Mỹ-Nguỵ”. Nó không đúng, không chỉnh, người đọc sẽ khó chịu lắm đấy.
Trần Độ cười hề hề:
– Do thói quen ấy mà, cậu sửa lại hộ mình.
Tôi ngạc nhiên khi đọc ở đâu đó có người viết Trần Độ quan cách, hách dịch. Tôi không hề thấy tính cách ấy ở anh. Rất có thể người nào đó bị anh khinh, không thèm trò chuyện, đã nghĩ thế. Là người trực tính, Trần Độ không biết giấu đi thái độ của mình trong giao thiệp, và chỉ có thế.
Năm 2001, trong một cuộc điện đàm với Trần Độ khi tôi đang ở Frankfurt, có mặt một chú em rất hâm mộ bác Độ. Chú nằng nặc đòi tôi cho chú nói với bác Độ vài câu:
– Bác ơi, cái đảng của bác sao kỳ quá, ai đời chống tham nhũng mà lại chống từ cấp cơ sở? Quét nhà thì người ta phải quét từ tầng trên xuống tầng dưới chứ! Ai lại đi làm chuyện ngược đời – quét từ dưới lên trên?.
TrầnĐộ cười to:
-Hay, chú nói hay lắm. Chỉ sai một chút thôi: cái đảng ấy không phải của tôi. Nó là của một lũ vừa ngu vừa rồ. Này, chú tên gì nhỉ?”
– Dạ, cháu tên Cóc, Nguyễn Văn Cóc. Dễ nhớ lắm, bác ạ. Ở Đức này chỉ có mình cháu có cái tên xấu xí ấy thôi.
Anh Độ lại cười:
– Xấu gì mà xấu, cậu ông Giời nói đúng lắm, cái đảng ấy toàn làm chuyện lộn ngược thôi!.
Việc Trần Độ bị khai trừ Đảng năm 1999 mọi người đều biết.
Đảng cộng sản vốn không thích vạch áo cho người xem lưng đã kiên nhẫn với Trần Độ lắm rồi, nhịn Trần Độ nhiều lắm rồi. Lẽ ra, không bắt anh bỏ tù thì đảng cũng phải khai trừ anh từ lâu.
Anh cười, anh nói anh bị đảng của anh khai trừ là may. Như thế, anh được thừa nhận không phải là người nằm trong “vũng bùn mà cái đảng ấy đang đằm mình một cách ngạo nghễ”.
Khai trừ anh, đảng cộng sản thêm một lần không thèm giấu giếm cái hẹp hòi truyền thống – không chịu nghe lời nói ngược.
Hành hạ anh cho tới khi chết, cấm người đi đưa tang không được dùng chữ “Vô cùng thương tiếc”, đảng cộng sản càng cho thiên hạ thấy nó tiểu nhân tới mức nào.
Đảng của anh căm ghét anh, đuổi anh ra khỏi hàng ngũ.
Bù lại, anh được nhân dân đón vào lòng.
Anh được rất nhiều, mà không mất gì. Nói cách khác, cái người ta cho là mất chẳng là cái quái gì đối với anh.
Khi lâm bệnh, anh không dùng một viên thuốc nào của nhà nước. Có hai người rất sốt sắng lo cho anh có thuốc đủ dùng là Tưởng Năng Tiến và Đinh Quang Anh Thái. Khi anh qua đời, những bọc thuốc cuối cùng vẫn còn ở trên đường. Trần Độ không bao giờ quên nhắn tôi gửi lời cảm ơn hai người bạn thiết anh không biết mặt.
Được tin anh mất, tôi không khóc. Nước mắt chảy vào tim.
Tôi hiểu rằng mất mát này lớn hơn rất nhiều mất mát cho riêng tôi, đứa em yêu mến và kính trọng anh.
Mất mát này là của cả dân tộc đang nhọc nhằn đi tìm quyền sống, quyền làm người.
Trong bức thư chót Trần Độ gửi cho tôi trước khi mất, anh dặn: “Giai đoạn chuẩn bị cho sự chuyển đổi chế độ có thể kéo dài. Việc hàng ngày của ta, không được quên, là nâng cao dân trí. Dân trí càng được nâng cao bao nhiêu thì sự chuyển đổi sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. Thời cơ đến, việc mới thành. Chuẩn bị tốt thì thành tốt”.
Thời cơ mà ta chờ đợi sẽ đến, bao giờ cũng bất ngờ, lịch sử vốn thế, nhưng nó sẽ đến, tất yếu sẽ đến, bởi nó là quy luật của muôn đời.
Như nó đã từng xảy ra cùng với sự kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai bất ngờ đưa lại nền độc lập cho các nước thuộc địa.
Như nó đã đến với sự sụp đổ không thể nào đoán trước của cường quốc Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Nó sẽ đến, như Trần Độ mong ước. Như chúng ta cùng mong ước với anh.
Ở thế giới bên kia, hẳn anh sẽ mỉm cười.
Vũ Thư Hiên