Mục lục
Việt Kiều và Nhà nước VN: ‘Đã đến lúc cần chính sách mới hơn Nghị quyết 36’
BBT: Bài bàn về chính sách hòa giải dân tộc của đảng cầm quyền ở VN. Tác giả không biết có bao che hay không mà không nói rõ là bây giờ họ đã biến dạng thành một đảng độc tài toàn trị theo kiểu tư bản bồ bịch chả còn quan tâm mà còn hỗ trợ bọn tư bản đầu xỏ bóc lột nông dân và công nhân. Giới trung lưu nhất là ở ngoài nước khi được hưởng lợi từ những tình trạng này nên đặt câu hỏi có nên tiếp tay cho họ không?
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm, San Jose, Hoa Kỳ
19-10-2022
Hôm thứ Sáu 14 tháng 10 vừa qua, tại tư gia của tôi ở San Jose, California, có một buổi gặp gỡ giữa Uỷ ban người Việt ở nước ngoài đến từ Hà Nội và một số nhân sĩ Việt kiều, hầu hết là từ miền Nam. Trong suốt hơn hai giờ, cuộc trao đổi đều tương đối khá thẳng thắn và thực tiễn về các chính sách đối với Kiều bào.
Ông Ngô Trịnh Hà, Phó chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người VN ở nước ngoài, đã phát biểu trước nhóm khách tôi mời tới nhà. Nhưng khi nói về Nghị Quyết 36 năm 2004 của Bộ Chính Trị Đảng CSVN về chính sách đối với người Việt định cư ở nước ngoài thì buổi thảo luận trở nên sôi nổi gần như là một cuộc tranh luận.
Về phía Phái đoàn ngoại giao thì đánh giá Nghị quyết 36 là một thành công lớn, một bước ngoặc quan trọng trong chính sách của Đảng đối với Kiều bào trong tiến trình hòa giải dân tộc để cùng chung tay xây dựng đất nước, hướng về tương lai.
Phía nhân sĩ kiều bào thì cho đó là một thất bại từ cơ bản vì nó không giải hóa được hố sâu ngăn cách giữa người Việt tỵ nạn và thể chế chính trị Cộng sản Việt Nam. Chưa nói về bình diện vĩ mô, có người nói thẳng rằng hãy nhìn xem buổi gặp mặt hôm nay tại một nhà riêng với một số nhỏ chưa tới 10 người – thay vì là một buổi gặp gỡ công khai, có đông đảo các thành phần người Việt và giới truyền thông tham dự – thì đây là bằng chứng rõ nhất về sự thất bại của Nghị quyết 36.
Chưa sòng phẳng với quá khứ
Có ý kiến cho rằng chế độ chính trị CSVN đã thay đổi rất nhiều, từ bản chất cầm quyền đến trình độ nhân sự. Các chính sách thực tiển đối với Việt kiều cũng đã rất thông thoáng và tiến bộ nhiều mặt. Tuy nhiên, hố sâu ngăn cách giữa Đảng và kiều bào vẫn còn đó.
Tác nhân tạo ra hố sâu đó là một cách nhìn không thay đổi của Đảng CSVN. Nhưng cho dến nay, Đảng vẫn chưa nhận lấy trách nhiệm đó, ít nhất là về mặt đạo lý dân tộc. Ngôn ngữ Nghị quyết 36 không đề cập gì đến những sai lầm lớn lao và ác độc của Đảng sau 1975 đối với dân miền Nam, nhất là người dân Sài Gòn. Từ học tập cải tạo tàn ác, đến đánh tư sản, đánh Hoa kiều, chế độ lý lịch khắt khe, chính sách lùa dân thành thị lên các vùng kinh tế mới rừng thiêng nước độc, xua đuổi và cướp nhà cửa, tài sản, đưa hàng trăm ngàn dân vượt biển, vượt biên đường bộ, để bị cưỡng hiếp bởi hải tặc, chết khát, chết vì mìn bên Campuchia.
Đó là chỉ nêu lên vài nét chính. Chúng là những tội ác lịch sử mà tổ chức chính trị mang tên Đảng CSVN chưa lần trực diện với chúng, sòng phẳng với quá khứ sai lầm lớn lao đó. Phần đông khối Kiều bào Việt ở Hoa Kỳ vẫn còn mang thương tích lớn từ những chính sách bất nhân đó. Họ chưa tha thứ vì Đảng chưa chịu nhận trách nhiệm trước lịch sử, trước dân tộc, trước đại khối Kiều bào hải ngoại.
Từ trí tuệ nông dân…
Trong lúc thảo luận hôm ấy, một nhân sĩ đặt tên cho những chính sách sai lầm và kém cỏi là tác phẩm của trí tuệ nông dân. Mới nghe qua thì tên gọi nầy có vẻ như là một xúc phạm. Nhưng thực ra đó là một nhãn hiệu công bằng. Đảng CSVN hãnh diện là của giai cấp công nông – tức là của giới vô sản, bần cùng. Với trí tuệ và ý chí công nông, vô sản đó, họ đã làm nên lịch sử, một lịch sử bách chiến bách thắng – như ngôn ngữ lịch sử chính thống của Đảng vẫn ca ngợi. Và ai – kể cả người CS – cũng thấy rằng các tác phẩm từ trí tuệ nông dân đó cũng đã gây ra biết bao tai họa cho quốc gia, cho dân tộc.
Trí thức thiên tả thường huyền thoại hóa giai cấp bần cùng, quê mùa, vô sản. Đó là sự nhầm lẫn giữa lòng thương hại từ ý thức công lý đối với sự đánh giá khách quan về khả năng quyền lực, đạo đức ý chí chính trị khi nói về giai cấp nông dân. Ý chí chiến thắng của giới bần nông Việt Nam đã tạo nên một Điện Biên Phủ 1954 và Sài Gòn 1975, nhưng nó cũng đã mang đến Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, đấu tố giai cấp và đánh tư sản, kinh tế mới ở miền Nam sau 1975. Đó là thể loại tư duy của Mao Trạch Đông khi thấy Trung Hoa thu hoạch lúa mùa kém đã đổ lỗi cho chim sẻ và ra lệnh tiêu diệt hết loài chim nầy. Kết quả là châu chấu và côn trùng tàn phá mùa màng, tạo nên nạn đói năm 1958 – 1960 trong đó hơn 30 triệu dân Trung Quốc đã chết đói vì thiếu ăn.
Qua khúc quanh vươn thoát
Thế nhưng, nếu quan sát kỹ, chúng ta có thể thấy rằng bản thân Đảng CSVN đang vươn thoát khỏi những sai lầm chính sách của trí tuệ nông dân. Cùng lúc, ngôn ngữ và tinh thần của Nghị quyết 36 vẫn còn là một tác phẩm dung chứa tư duy của tầm mức trí tuệ nông dân đó. Trên bình diện chính trị, Nghị quyết vẫn thể hiện ý chí chiến thắng, định kiến một chiều, đánh giá không chính xác về tâm tư kiều bào gốc VNCH, coi họ chỉ là đối tượng nhằm chính phục chính trị và khuyến dụ kinh tế – thay vì nhằm chia sẻ và thông hiểu vết thương sâu thẳm mà Kiều bào đang còn chịu đựng. Đó là chưa nói đến ý tưởng xây dựng cộng đồng Kiều bào ở hải ngoại theo đề án của Đảng, dù là tích cực, nhưng thiếu thực tế và không cần thiết.
Theo ý kiến của riêng tôi, công bằng mà nói, tuy vậy, Nghị quyết 36 đã là một cách mạng về tư duy lớn của Đảng đối với chính sách về kiều bào. Từ cáo buộc phản quốc, bắt giam, đối với người vượt biên những năm sau 1975, nay Đảng đã chính thức công nhận Kiều bào là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc. Từ gởi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang quận Cam, California, gặp mặt Kiều bào, cho phép cựu Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ, Nhạc sĩ Phạm Duy… về sống ở nước nhà, cho đến chính sách miễn thị thực, công nhận song tịch, vấn đề mua bán bất động sản, Đảng CSVN đã chứng tỏ những thiện chí vượt bực.
Điều đó cho chúng ta thấy rằng Nghị quyết 36 mang hai bình diện song song với nhau: Đó là chính sách thực tiển đối với tinh thần chính trị. Cộng đồng Kiều bào, người Mỹ gốc Việt nay về nước làm ăn, nghỉ hưu, du lịch ngày càng đông. Hãy xem các chuyến bay trực tiếp của Vietnam Airlines từ California về Sài Gòn không còn chỗ ngồi thì sẽ thấy điều đó. Đảng CSVN đã thành công trên bình diện chinh phục kiều bào ít nhất là trong các mục tiêu thực dụng. Nhưng Đảng đã sai khi cho rằng đây là một chiến thắng chính trị.
Và cũng vì thế, đó là nguyên nhân sâu sắc cho một số lớn, nếu không nói là đa số kiều bào gốc VNCH, chưa chấp nhận thua cuộc trước chiến lược chính trị và nhân tâm đó của Đảng.
…tới logic thương tích của kiều bào
Khi tôi đăng lên trang Facebook về buối gặp mặt nói trên, tôi đã nhận được nhiều bình luận trái chiều.
“Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”, hay, “Cộng sản tự bản chất là không bao giờ thay đổi.”
Có một số bình luận hằn học hơn cùng với nhiều lời tán thành chuyện đối thoại, gặp gỡ như thế. Tôi thông cảm và chia sẻ với tất cả ý kiến trái chiều, và tôi không xóa bỏ lời bình luận nào. Những kết án thuần chất khẩu hiệu của thời VNCH là những biểu dấu của cái logic thương tích mà chúng ta phải công nhận và thông cảm.
Thôi thì hãy bình tâm mà “nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”: Từ cái thời đấu tố Cải cách Ruộng đất, văn kiện đầy ngôn ngữ giai cấp, ca ngợi tuyệt đối chủ nghĩa Mác Lê Nin, cho đến hôm nay, khi họ cố gắng làm hòa với Kiều bào, dù là cho mục tiêu chính trị, hay là khi họ gia nhập toàn diện vào cộng đồng kinh tế của thế giới văn minh, tiến bộ, hay là về bình diện đối nội với những thành đạt về ổn định chính trị, trật tự xã hội – dù bất công và ung thối – và phát triển kinh tế, đã tạo nên một giai tầng trung lưu, tư bản mới cho nhân dân.
Những ai về nước gần đây, đi vào vùng xa, làng thôn, dù nghèo khó vẫn còn đó, nhưng đời sống chung của quần chúng đã được nâng cao rất nhiều. Nay dân chúng không còn ăn để no, mà phải ngon; mặc không chỉ đủ ấm, mà phải đẹp. Chúng ta phải công bằng ghi cho Nhà nước VN điểm cộng.
Hệ thống cộng sản VN có thay đổi không?
Không những bản chất của chế độ đã thay đổi, mà ngay cả con người đảng viên cộng sản cũng đã thay đổi, đã tiến hóa rất xa. Vâng, cái gì cũng phải thay đổi, chuyển hóa theo thời gian. Chế độ và con người cộng sản VN đã và đang thay đổi. Lần nữa, ta phải bình tâm để công nhận điều đó.
Trong chuyến về nước tháng Tám vừa qua, tôi có dịp tiếp xúc với khá nhiều cán bộ cấp trung của chế độ. Hầu hết tuổi dưới 50 và tốt nghiệp từ các trường đại học uy tín Âu Mỹ. Trong đó có một số là sinh viên cũ của tôi ở San Jose City College. Trong các bữa ăn trưa hay tiếp xúc xã giao với các cán bộ cấp thứ trưởng và vụ trưởng ở Sài gòn và Hà Nội, tôi không thấy con người cộng sản nào ở họ, từ ngôn ngữ, nhân cách, phong thái.
Ngay cả vị sĩ quan an ninh cấp tá hay mời tôi cà phê cũng là một con người sâu sắc, mang dáng dấp văn minh, lịch sự – chứ không như mấy chục năm trước khi tôi mới về nước đã phải làm việc với các ông an ninh chính trị thô kệch và hách dịch. Hiện tượng nhị nguyên nhân cách nơi cán bộ, tức là con người thể chế đối với con người thực, nay là một chuyện đang giảm bớt rất nhanh.
Khi con người thay đổi, thể chế cũng thay đổi theo.
Hãy nhìn vào nhân sự Bộ Chính trị hiện nay. Ở cơ chế quyền lực cao nhất hiện nay ta thấy chỉ còn một người cộng sản duy nhất: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tôi cũng từng có lần gặp gỡ, quen biết một vài nhân vật trong Bộ Chính trị thì theo tôi họ không còn và không phải là người cộng sản. Họ chỉ coi chủ nghĩa Cộng sản như là một gia sản lịch sử cho mục tiêu công lý xã hội, một khung tham chiếu cho trật tự đẳng cấp – và dĩ nhiên, cho ý chí và quyền lợi, tham vọng chính trị. Nói gọn, Việt Nam nay không phải là một quốc gia cộng sản nữa.
Cần một Nghị quyết về kiều bào mới: Một lời tạ lỗi
Từ cái nhìn tích cực – và theo tôi là công bằng, vừa phải – ta phải đánh gía rằng, trên một bình diện nào đó, Nghị quyết 36 đã đưa Đảng CSVN đi đúng hướng trên hành trình hòa giải dân tộc thời hậu chiến. Nhưng chưa đủ và còn nhiều khuyết khiếm.(*)
Tôi đề nghị Bộ Chính trị hãy cho ra một Tân Nghị quyết về người Việt ở nước ngòai. Trong Nghị quyết mới này, Đảng hãy can đảm và sòng phẳng để công nhận những sai lầm chính sách đối với dân miền Nam sau 1975. Và có một lời tạ lỗi với họ, và đối với cả dân tộc chung.
Chỉ cần làm điều đó, thì đại khối kiều bào gốc miền Nam, vốn rộng lượng và dễ tha thứ, hy vọng sẽ quên bớt hận thù, để cùng với dân tộc Việt khắp thế giới hướng về tương lai, xây dựng quốc gia như tất cả chúng ta cùng mong mỏi.
______
(*) Buổi gặp gỡ nói trên chỉ bao gồm nhân sĩ gốc VNCH và miền Nam, gọi chung là dân tỵ nạn cũ. Dù không đề cập đến, nhưng tại Đông Âu, Pháp, Anh, không liên quan gì đến bà con cựu thuyền nhân hay gốc VNCH, Nghị quyết 36 nghe nói là cũng không có ảnh hưởng bao nhiêu. Một hai thế hệ người Việt sống, sinh ra, làm việc ở các nước châu Âu đã nghĩ khác hẳn nội dung Nghị quyết 36. Thực ra, giới trí thức gốc Việt phần lớn không thích các chính sách kiểu giai cấp của ĐCS VN, tuy họ không ra mặt chống. Có nhận xét cho rằng đó là lý do các phái đoàn của chính phủ VN khi qua các nơi đó chỉ hạn chế giao lưu thân được với các nhóm làm ăn buôn bán, đa phần là những người cần quan hệ ‘cửa sau” ở Hà Nội để hối mại quyền thế. Một số quan chức sang châu Âu còn gặp những nhóm làm ăn gần xã hội đen. Các sáng kiến Đại sứ quán Việt Nam ở EU và Anh Quốc lập “hội trí thức” thân hữu để điều khiển họ đều không thành công, theo tôi biết.
Đôi điều về bài viết của ông Nguyễn Hữu Liêm
Trước tiên, việc ông Nguyễn Hữu Liêm dùng chữ “Kiều bào”.
Ngay sau năm 1954 cộng sản Việt Nam thi hành lệnh của Mao Trạch Đông thực hiện chiến dịch Cải cách ruộng đất, đấu tố giết oan cả trăm ngàn người, họ có coi người miền Bắc là “đồng bào” hay không? Tiếp đến là tổ chức cuộc chiến tranh đẫm máu đánh chiếm miền Nam mà ông Hồ Chí Minh hô hào “Dù có đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng cương quyết giành cho được độc lập” giết thêm nhiều triệu người nữa ở cả hai miền đất nước, họ có coi là “đồng bào” hay không? Vì “kiều” là ở nước ngoài. “Bào” là cùng một bào thai, từ chữ “đồng bào” theo truyền thuyết Tiên Rồng, Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra 100 trứng nở 100 con.
Do đó người Việt sống ở nước ngoài là Việt kiều, còn “Kiều bào” là cách cộng sản tuyên truyền cho nội dung chính trị của Nghị quyết 36. Vì thế phát biểu của ông Ngô Trịnh Hà, Phó chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người nước ngoài, như nhận xét của ông Nguyễn Hữu Liêm, là “về phía phái đoàn ngoại giao thì đánh giá Nghị quyết 36 là một thành công lớn, một bước ngoặc quan trọng trong chính sách của Đảng đối với Kiều bào trong tiến trình hòa giải dân tộc để cùng chung tay xây dựng đất nước, hướng về tương lai.” [1]
Như vậy, thấy ngay trước mắt, là họ có một “thành công”. Đó là, chính ông Nguyễn Hữu Liêm xác nhận mình là “Kiều bào” tuyên truyền “hòa giải dân tộc để cùng chung tay xây dựng đất nước, hướng về tương lai” dưới sự lãnh đạo toàn diện của đảng CSVN!
Bây giờ thử đi vào vài điều theo từng phân đoạn của bài viết:
Chưa sòng phẳng với quá khứ
“Có ý kiến cho rằng chế độ chính trị CSVN đã thay đổi rất nhiều, từ bản chất cầm quyền đến trình độ nhân sự. Các chính sách thực tiển đối với Việt kiều cũng đã rất thông thoáng và tiến bộ nhiều mặt. Tuy nhiên, hố sâu ngăn cách giữa Đảng và Kiều bào vẫn còn đó.”
“Tác nhân tạo ra hố sâu đó là Đảng CSVN. Nhưng cho đến nay, Đảng vẫn chưa nhận lấy trách nhiệm đó, ít nhất là về mặt đạo lý dân tộc.”
Việc “CSVN đã thay đổi rất nhiều, từ bản chất cầm quyền đến trình độ nhân sự” sẽ nêu ra ở phần bên dưới. Còn nếu muốn “sòng phẳng với quá khứ” “về mặt đạo lý dân tộc” thì điều trước tiên đảng CSVN phải trả lại tất cả những gì họ đã cướp được của miền Nam sau 1975 cho chính chủ nhân.
Trí tuệ nông dân
“Trong lúc thảo luận hôm ấy, một nhân sĩ đặt tên cho những chính sách sai lầm và kém cỏi là tác phẩm của trí tuệ nông dân. Mới nghe qua thì tên gọi nầy có vẻ như là một xúc phạm. Nhưng thực ra đó là một nhãn hiệu công bằng. Đảng CSVN hãnh diện là của giai cấp công nông – tức là của giới vô sản, bần cùng. Với trí tuệ và ý chí công nông, vô sản đó, họ đã làm nên lịch sử, một lịch sử bách chiến bách thắng”
Đảng CSVN vẫn giương cao khẩu hiệu “Chủ nghĩa Mác – Lê Nin vô địch, bách chiến bách thắng!” “Thành tích vĩ đại” đó là biển máu. Biển máu của người Việt Nam và giai cấp công nông vô sản bần cùng do nhiều đời Tổng bí thư mà xuất thân của họ có người là “hoạn lợn”, với ông Lê Duẩn thì “ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước XHCN… ”, còn với ông Lê Đức Anh thì ra lệnh “không được nổ súng” nên quân nhân giữ đảo Gạc Ma trở thành bia thịt của quân xâm lăng Trung Quốc. Khi bị dư luận lên án dữ dội thì thêm vào chữ “trước”, trở thành “không được nổ súng TRƯỚC”! Như vậy thì biển máu của dân đâu có gì lạ?
Mà máu đã đổ thì nạn nhân rất khó quên. Đã thế, sau chiến thắng 1975 là cướp. Vì căn tính “bần cùng” thời bao cấp nẩy sinh mầm “đạo tặc” đã đi vào tiềm thức quan chức, nên có cơ hội là họ cướp. Cướp thành hệ thống. Tham nhũng là cướp tinh vi, điển hình như vụ án covid và “các chuyến bay giải cứu”!
“Bách chiến, bách thắng” như thế thì ô nhục chứ nói gì đến cảm hóa được lòng người, dẫu người miền Nam vốn nhân hậu.
Khúc quanh vươn thoát
Ông Nguyễn Hữu Liêm nhận xét: “Trên bình diện chính trị, Nghị quyết vẫn thể hiện ý chí chiến thắng, định kiến một chiều, đánh giá không chính xác về tâm tư kiều bào gốc VNCH, coi họ chỉ là đối tượng nhằm chinh phục chính trị và khuyến dụ kinh tế – thay vì nhằm chia sẻ và thông hiểu vết thương sâu thẳm mà Kiều bào đang còn chịu đựng. Đó là chưa nói đến ý tưởng xây dựng cộng đồng Kiều bào ở hải ngoại theo đề án của Đảng, dù là tích cực, nhưng thiếu thực tế và không cần thiết.”
Người miền Nam không cần sự “thương hại”. Kêu gọi CSVN “thông hiểu vết thương sâu thẳm mà Kiều bào đang chịu đựng” là hạ thấp nhân phẩm người miền Nam. Lịch sử rất công minh. Tội ác là tội ác. Không thể thực hiện tội ác rồi bày tỏ “thông hiểu vết thương sâu thẳm”. Biết như thế nên CSVN mới cố công tẩy xóa tội ác bằng cách “viết lại lịch sử”. Nhưng hình ảnh nhân hậu, nếp sống văn minh và trù phú của VNCH đang sống lại từng ngày trên cả nước, tự nó chỉ ra chính phạm là cộng sản.
Đến logic thương tích của Kiều bào
“Khi tôi đăng lên trang Facebook về buổi gặp mặt nói trên, tôi đã nhận được nhiều bình luận trái chiều. “Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm”, hay, “Cộng sản tự bản chất là không bao giờ thay đổi.”
“Những kết án thuần chất khẩu hiệu của thời VNCH là những biểu dấu của cái logic thương tích mà chúng ta phải công nhận và thông cảm.”
Những câu nhận xét về cộng sản, đã biến thành “câu cửa miệng”, vì nó chính xác, đúng với sự thật xảy ra. Thế nhưng ông Nguyễn Hữu Liêm cho đó là “Những kết án thuần chất khẩu hiệu của thời VNCH”? Nhìn lại những cái gọi là “chính sách trước sau như một”, “khoan hồng nhân đạo”, “kinh tế mới”, “đánh tư sản mại bản”, “giai cấp tiên phong công nông”, “đỉnh cao trí tuệ”… suốt gần nửa thế kỷ qua tự nó xác minh chứ đâu còn là “thuần chất khẩu hiệu” nữa?
CSVN có thay đổi không?
“Tức là không những bản chất của chế độ đã thay đổi, mà ngay cả con người CSVN cũng đã thay đổi, đã tiến hóa rất xa. Vâng, cái gì cũng phải thay đổi, chuyển hóa theo thời gian. Chế độ và con người CSVN đã và đang thay đổi. Lần nữa, ta phải bình tâm để công nhận điều đó.”
“… tôi có dịp tiếp xúc với khá nhiều cán bộ cấp trung của chế độ. Hầu hết tuổi dưới 50 và tốt nghiệp từ các trường đại học uy tín Âu Mỹ… tôi không thấy con người cộng sản nào ở họ, từ ngôn ngữ, nhân cách, phong thái. Ngay cả vị sĩ quan an ninh cấp tá hay mời tôi cà phê cũng là một con người sâu sắc, mang dáng dấp văn minh, lịch sự…”
“Nói gọn, VN nay không phải là một quốc gia cộng sản nữa.”
Dùng 3.000 cảnh sát cơ động để tiêu diệt MỘT đảng viên nông dân Lê Đình Kình và tuyên án tử hình con cháu ông vì họ chống cướp đất ở Đồng Tâm, tính sắt máu có thay đổi không? Ngày trước xử tử bà Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long, môt đại ân nhân của đảng, thì ngày nay oan khuất trời không dung, đất không tha đó có khác không? Gia đình bà Cấn Thị Thêu, nông dân Dương Nội, là một Jacquou [2] tiêu biểu của VN hiện tại, bị giam tù vì dám chống cướp đất có khác thời Cải cách ruộng đất không? Còn vô số dân oan như Thủ Thiêm, Văn Giang, Dương Nội, Vườn rau Lộc Hưng… kể sao cho hết?
Với thành phần cán bộ tuổi dưới 50 hiện tại, tốt nghiệp ở các nước Âu Mỹ, chính là diễn biến chính trị. Nhưng diễn biến đó không phải cộng sản thay đổi mà từng bước số người đó tìm cách biến tài sản tham nhũng trở thành hợp pháp theo kiểu thể chế dân chủ. Vì thế mới có chương trình tuyển chọn “hạt giống đỏ” đi du học do ngân sách nhà nước. Thế nhưng, một số trốn lại, một số về thì bỏ việc nhà nước ra làm bên ngoài, chấp nhận đền bù tiền gấp đôi.
Như thế cái mác “tốt nghiệp từ phương Tây” có nhiều mặt. Loại làm quan, như vừa nói, cũng có thể “giúp” phương Tây yên tâm khi nói “tôn trọng sự khác biệt thể chế chính trị”! Tránh được tai tiếng “vì kinh tế làm ngơ chuyện nhân quyền” để họ thực hiện chiến lược toàn cầu vì lợi ích của đất nước họ. Còn thành phần trẻ khác am hiểu thật sự về Dân chủ, Tự do thì họ không là đảng viên. Hoặc, là đảng viên đứng ngoài guồng máy, cố vấn để tìm cách cứu chế độ khỏi sụp đổ, như trường hợp Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẩn.
Cần một Nghị quyết Kiều bào mới: Một lời tạ lỗi
“ta phải đánh giá rằng, trên một bình diện nào đó, Nghị quyết 36 đã đưa Đảng CSVN đi đúng hướng trên hành trình hòa giải dân tộc thời hậu chiến. Nhưng nó chưa đủ và còn nhiều khuyết khiếm.”
“Một lời tạ lỗi” thì có biểu tượng “rút khăn ra lau nước mắt” của ông Hồ Chí Minh, sau Cải cách ruộng đất. Ngay sau đó là, tiến hành cuộc chiến huynh đệ tương tàn 20 năm, với câu nói “dù có đốt cháy cả dãy Trường sơn bằng mọi giá cũng phải chiếm cho bằng được miền Nam”! “Nghị quyết 36 còn nhiều khuyết khiếm” và “một lời tạ lỗi” như thế đã đủ chưa?
Tạm kết luận
Phải nói rõ rằng sau thảm kịch kinh hoàng huynh đệ tương tàn thì không một ai muốn gây thêm hận thù, chết chóc nữa! Nhưng, cứ ngây thơ tin những gì cộng sản nói (ví dụ tin là ông Nguyễn Hữu Liêm ngây thơ) thì người Việt Nam tiếp tục là nạn nhân. Vì cái gọi là “để cùng với người Việt khắp thế giới hướng về tương lai, xây dựng quốc gia” tức là chấp nhận cộng sản cai trị, trong lúc thế giới đã đào thải! Như thế thì người Việt Nam đâu có thông minh như tự hào (?) vì đi ngược lại tiến trình văn minh của nhân loại!
Nói chung, nội hàm bài viết của ông Nguyễn Hữu Liêm là “Việt Nam không phải là một quốc gia cộng sản nữa”. “Những ai về nước gần đây, đi vào vùng xa, làng thôn, dù nghèo khó vẫn còn đó, nhưng đời sống chung của quần chúng đã được nâng cao rất nhiều. Nay dân chúng không còn ăn để no, mà phải ngon; mặc không chỉ đủ ấm, mà phải đẹp. Chúng ta phải công bằng để cho CSVN điểm cộng.”
Như thế, với ông Nguyễn Hữu Liên thì CSVN đã thành công trong việc xây dựng đất nước?
Vâng! Nếu thế thì thử so sánh con số GDP / đầu người tại miền Nam năm 1960 với Việt Nam hiện tại.
– Vào năm 1960, là chỉ 5 năm sau khi khai sinh Đệ nhất VNCH từ một miền Nam bị cát cứ (tính theo USD) thì VNCH (223$) đứng sau các nước Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippines (257$). Cao hơn Hàn Quốc (155$), gấp đôi Thailand (101$), gấp 2,4 lần Trung Quốc (92$), gấp 2,7 lần Ấn Độ (84$), và gấp 3 lần Bắc Việt Nam (73$).
– Vào năm 2020, là 47 năm VN theo chế độ XHCN, ôm chân bọn “Tư bản bóc lột” để làm Kinh tế thị trường trong thời bình (tính theo USD) thì VN (2.786$) đứng sau các nước Singapore (59.798$), Hàn Quốc (31.489$), Brunei (27.466$), TQ (10.500$), Malaysia (10.402$), Thái (7.189$), Indonesia (4.140$), Philippines (3.299$), Ấn Độ (1.901$)
Với những con số như thế thì VN XHCN hiện tại tụt hậu rất, rất xa so với các nước trong vùng!
Những con số tự nó không biết tuyên truyền thì phải giải thích như thế nào?
Nhưng, chỉ chú trọng hoàn toàn về kinh tế, như con vật chỉ biết kiếm ăn, thì con người có còn đúng nghĩa là con Người? Nhân phẩm bị đánh mất từ đâu và từ bao giờ thưa Kiều bào Nguyễn Hữu Liêm?
(20/10/2022)
——–
[1] những dòng chữ nghiêng được trích dẫn từ bài viết của NHL
[2] https://www.imdb.com/title/tt0418758/
Nghị quyết 36 thành công hay thất bại? Nhân đọc bài của LS Nguyễn Hữu Liêm
Ông Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose, lâu nay “bị” xem là thân “cộng”, vừa viết một bài liên quan tới việc tiếp xúc giữa Hà Nội và người gốc Việt ở Mỹ. Trọng tâm của bài viết này, ông Liêm đưa ra những biện luận của mình để chứng minh rằng “nghị quyết 36” của Đảng Cộng sản Việt Nam (đảng CSVN) đã thất bại. Nghị quyết này được đưa ra để Đảng CSVN tiếp cận với người Việt ở hải ngoại, chủ yếu là nhóm tù chính trị (“cải tạo”), thuyền nhân.
Tôi nghĩ rằng “cộng” sẽ không hài lòng với bài viết này. Ông Liêm chỉ trích Đảng CSVN khá nặng. Ông nói rằng họ có “tư duy nông dân”, và nghị quyết 36 ấy được viết với tư duy đó.
Ông Liêm cũng đề nghị Đảng CSVN đưa ra một nghị quyết mới, thật lòng hơn, trong đó có việc nhận trách nhiệm về những tội lỗi lịch sử mà Đảng CSVN đã gây ra, như là cải cách ruộng đất, giam giữ tù chính trị, đánh tư sản miền Nam,…
Đây là bài thứ ba liên tục mà ông Liêm, theo chủ quan của tôi, đã làm phật lòng Hà Nội. Đầu tiên ông gọi ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng là “người cộng sản cuối cùng”, kế đó ông đả kích chủ nghĩa Marx, và bây giờ ông mắng Đảng CSVN là … nhà quê (nông dân).
Đối với bài viết đả kích Karl Marx, tôi không dám có ý kiến phản biện lại người chuyên nghiên cứu triết học như ông Liêm. Còn hai bài kia thì tôi không đồng ý, tôi cho rằng tính chất cộng sản của ông Trọng cũng chẳng hơn các đàn em của ông ấy đâu, và ông Trọng cũng chẳng hiểu Karl Marx hơn ông Liêm.
Còn chuyện ông mắng Đảng CSVN là nhà quê thì tôi đã viết trong bài “Những chiếc ghế gỗ và sự sang trọng cộng sản”, để nói rằng, người “cộng sản” Việt Nam hiện nay chẳng quê tí nào đâu, mà họ rất thích sự … sang trọng. Có thể ông Liêm đúng với hàm ý rằng “các nông dân Ba Đình” hiện nay không suy nghĩ được gì lớn lao, hay nói theo ngôn ngữ báo chí trong nước là “không có tầm nhìn”.
Nhưng ông mắng họ “nhà quê” là họ giận lắm đấy.
Thôi, sau khi phiếm lòng vòng các danh từ, khái niệm, cho vui, bây giờ tôi xin trở lại vấn đề đánh giá nghị quyết 36 của Hà Nội.
Tôi cho rằng, nói thành công như Đảng CSVN đánh giá thì cũng đúng, mà nói thất bại, như ông Liêm và các bạn ông, cũng đúng. Vấn đề nằm ở chỗ, ta đứng ở góc nào, yêu cầu của ta ra sao để mà đánh giá. Rõ ràng, yêu cầu của ông Liêm và Đảng CSVN không giống nhau.
Có thể Đảng CSVN cho rằng, họ đã mời được “các nhà truyền thông hải ngoại” … về nước, giao lưu, mà những người này cũng có hoạt động trong… “cộng đồng”, thành ra là … thành công!
Ông Liêm và các bạn thì mong muốn ý tưởng của các ông nên được Đảng CSVN xem xét để thúc đẩy sự thịnh vượng của Việt Nam, nên các ông xem nghị quyết 36 là thất bại.
Một việc nữa là ông Liêm và các bạn ông xếp mình vào nhóm người ra đi từ miền Nam Việt Nam, những người đã trưởng thành trước năm 1975, mà nhóm người này chưa bao giờ xem Đảng CSVN thật lòng với họ cả. Nghị quyết 36 rõ ràng thất bại với nhóm này, trừ một số nhà… “truyền thông hải ngoại”.
Nếu ta định lượng kết quả của nghị quyết 36, bằng số lượng người Việt hải ngoại về thăm nhà, số tiền họ gửi về giúp người thân, số lần biểu tình chống đối cũng như cường độ của các cuộc biểu tình bị giảm xuống… thì nghị quyết 36 thành công.
Tuy nhiên, những cuộc biểu tình và cường độ của nó giảm xuống, lại không phải do nghị quyết 36, mà do những người biểu tình già đi, ngọn lửa biểu tình không còn được con cháu họ coi trọng. Đó không phải là thành công của Đảng CSVN, mà là thất bại của cộng đồng người Việt chống cộng ở hải ngoại.
Sự thắng thế của Đảng CSVN tại hải ngoại, nếu có, không phải là họ có nhiều điều hay ho, mà là họ có… thời gian.
Theo đánh giá của một nhân vật lãnh đạo chính trị của người Việt hải ngoại (mà tôi xin giấu tên), thì số lượng người Việt ở Mỹ, đến Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình từ thập niên 1990 trở về sau (tức là sau khi Việt Nam mở cửa, không còn là “cộng sản” nữa), cộng với những người sinh ra ở Mỹ, hoặc sinh ra ở Việt Nam, nhưng lớn lên ở Mỹ, đã đông hơn những người từng là tù cải tạo, thuyền nhân.
Nhóm đến sau, hoặc lớn lên ở Mỹ này không còn “quyết tâm chống cộng” mạnh mẽ nữa.
Vào dịp Tết nguyên đán đầu năm 2022, một số nguồn tin khả tín nói rằng, Lãnh sự quán Việt Nam ở San Francisco đã xuống miền Nam California, tổ chức một buổi tiệc tân niên ngay tại khu Little Saigon, nơi được mệnh danh là “Thủ đô tinh thần của người Việt tị nạn Cộng Sản”, có đến 200 người tham dự. Vậy mà không có tờ báo Việt ngữ nào của “cộng đồng” đề cập đến.
Thế nhưng, nếu lấy con số 200 đó mà nói nghị quyết 36 thành công, thì không thỏa đáng. Tôi nghĩ rằng chí ít, nhà cầm quyền Hà Nội cũng mong thu được nhân tâm của những người như nhóm ông Nguyễn Hữu Liêm, hay thế hệ trẻ người Việt, không phải là du học sinh, chứ đâu chỉ thu phục nhóm người thích về Việt Nam chơi bời và đến dự tiệc của lãnh sự quán để ăn uống!
Nhóm người Việt trẻ tuổi lớn lên ở Mỹ chú ý đến nước Mỹ hơn Việt Nam. Họ quan tâm đến nền dân chủ Mỹ, và dĩ nhiên với tình trạng chính trị Việt Nam hiện nay thì họ quan tâm để làm gì? Có bao nhiêu chính trị gia trẻ tuổi người Mỹ gốc Việt, lớn lên ở Mỹ, có quan hệ với Hà Nội? Theo hiểu biết của tôi, con số đó gần bằng… zero.
Nói cho cùng thì cộng đồng người Việt hải ngoại và chính quyền Hà Nội hiện nay có thể chả quan tâm gì đến nhau cũng không sao cả, mạnh ai nấy sống. Người Việt hải ngoại có được cái may mắn chạy thoát khỏi “lũy tre làng ngàn năm văn vật”, cứ tiếp tục hưởng tinh thần dân chủ.
Trong một bài viết cho báo New York Times hôm nay, ông Ngãi Vị Vị, một nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc, hiện sống ở châu Âu, viết rằng: “Não trạng người Trung Quốc chưa bao giờ thực sự tự do… không có sự thay đổi cơ bản nào khả dĩ diễn ra. Người Trung Quốc bình thường chỉ việc tuân lệnh thôi”.
Ai có thể bảo tôi rằng, người Việt thì khác? Thế cho nên Đảng CSVN cần chi nghị quyết 36 để cãi chày cãi cối với ông Liêm như thế!
Trương Nhân Tuấn: Góp ý với TS Nguyễn Hữu Liêm.
TS Nguyễn Hữu Liêm, một loại Việt kiều
Thục-Quyên, BS Nha khoa
23-10-2022
Ngày 19-10-2022 trang Tiếng Dân có đăng lại một bài viết từ BBC của một người ký tên TS Nguyễn Hữu Liêm, gửi từ San José, Hoa kỳ, với tựa đề: Việt Kiều và Nhà nước VN: ‘Đã đến lúc cần chính sách mới hơn Nghị quyết 36. Cũng bài đó lại được đăng bởi tờ báo mạng Boxitvn dưới tựa đề: “Logic thương tích gặp trí tuệ nông dân: đánh giá nghị quyết 36 về người Việt ở nước ngoài” (1).
Không biết cái tựa nào là tựa tác giả chính thức đặt, chỉ biết bài đó thật sự của ông TS Nguyễn Hữu Liêm, vì trên Facebook TS Liêm thú vị với nó lắm để khoe khéo: “Triết gia hú còi mần thiên hạ tâm tư quá! Ôi Lỗi tại tui mọi nẽo!” (Xin phép nhắc ông TS: chữ đúng là “nẻo!”).
TS Liêm kể về một cuộc gặp gỡ hôm thứ Sáu, ngày 14/10 vừa qua, tại tư gia của ông ở San Jose, California, giữa “Uỷ ban người Việt ở nước ngoài đến từ Hà Nội và một số nhân sĩ Việt kiều, hầu hết từ miền Nam” gồm… chưa tới 10 người.
Đúng ra thì cách “hú còi” tại tư gia mình, với dưới chục người tham dự, dù có mặt của ông phó chủ tịch của cái mà TS Liêm gọi là “Uỷ ban người Việt ở nước ngoài đến từ Hà Nội” (?) thì cũng chỉ có giá trị của một cuộc phiếm luận hay đã thích gọi là hú còi thì cũng chỉ là hú còi trong thùng rỗng. Chuyện quá thường, đã xảy ra biết bao lần trong những năm qua, khi người đại diện nhà cầm quyền Việt Nam ra ngoại quốc để tuyên truyền vận động, thì chỉ có khả năng tiếp xúc với những người lẻ tẻ như TS Liêm, nếu không dựa vào các sứ quán VN mở tiệc tiếp tân linh đình, mua chuộc chính người của họ đến ăn uống vui chơi.
Do đó, sở dĩ có một số người lên tiếng phê bình những điều ông TS Liêm kể lại về cuộc gặp gỡ của ông và các bạn đồng sàng với vài người của cái “Ủy ban nhà nước về người VN ở nước ngoài” (TS Liêm nên tìm hiểu về chữ “nhà nước” trong cái tên của ủy ban này và dùng cho đúng) , thì không phải họ “tâm tư” vì ông, mà vì họ thấy cần phải đánh động về âm mưu hiện nay của nhà cầm quyền VN: Sau khi thanh toán và bắt bỏ tù gần hết những người dân trong nước đã không chấp nhận sự thối nát, đục khoét, hối lộ và đàn áp của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, thì nhà cầm quyền này đang tiến hành bước tiếp theo là vờ chấp nhận vài câu chê bai chỉ trích (luôn luôn đi đôi với những câu ve vuốt ngợi khen) của một loại Việt kiều sẵn sàng nhắm mắt trước những tệ trạng ngày càng giết chết mọi khả năng tự vệ của dân tộc trước hiểm họa Trung Quốc, để được chút hư danh, để được người đưa đón, được “nhà nước lắng nghe” và được cùng gia đình hưởng vài lợi lạc.
Ai cần một chính sách mới hơn là “nghị quyết 36” ?
Nghị quyết 36 là do Bộ Chính trị đảng CSVN ban hành ngày 26-3-2004, để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài (2). Đó chỉ là sự chỉ đạo của đảng CSVN cho cán bộ của họ cách thu hút được những người gốc Việt sống ở ngoài Việt Nam (và là công dân xứ khác), vì những người này không còn chịu sự chỉ huy của họ nên họ không thể đàn áp được. Nhưng những người này có thể làm lợi cho họ khi mang tiền về, khi quảng cáo cho họ về những cố gắng và tiến triển đảng Cộng sản mang tới cho dân Việt, để đánh đổi sự đi lại, tự do mua bán và hưởng lợi. Loại Việt kiều này chỉ nhận lợi chứ không phải chịu những bất công của xã hội, những bất lợi khi đất nước Việt Nam suy sụp, tan nát, vì lúc đó họ có thể nhỏ vài giọt nước mắt nhưng đồng thời đã nhanh chân chạy về quốc gia nơi họ hiện là công dân.
Trò này cũng chẳng có gì là mới mẻ cả. Đại đa số người dân Trung Hoa, kể cả trí thức, đã ký hợp đồng không lời với nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc kiểu “Chúng tôi không đưa ra bất kỳ nhận xét chỉ trích bất lợi nào, vậy các ông hãy để chúng tôi yên”. Dân Việt Nam trong nước giờ đây cũng đành sống theo cách đó: Im mồm để không ngồi tù đến bệnh hoạn mà chết.
Nhưng Việt Nam khác Trung Quốc. Việt Nam cần sự giúp đỡ, viện trợ của quốc tế. Ngoài cách bịt miệng dân, đảng CSVN cần một đội ngũ những người từng là người Việt, ra vào Việt Nam dễ dàng để có vẻ rất hiểu biết về tình hình VN. Những người này ngược với người dân trong nước, được khuyến khích lên tiếng nhiều, nhưng hoàn toàn phải tránh né, không nhắc về các vấn đề vi phạm Nhân quyền, nhà cầm quyền tham nhũng, tình trạng thiếu một nhà nước pháp trị v.v… ở VN, để nhà cầm quyền VN thoải mái nói láo, hầu nhận các sự viện trợ, giúp đỡ nhân đạo. Cái vòng luẩn quẩn là chính một phần nhỏ những trợ giúp khổng lồ của thế giới tự do mấy chục năm nay đã giúp vài vùng quê VN có điện, có nước, nên những trí thức kiểu TS Liêm vội “hú còi”, rằng “đời sống chung của quần chúng đã được nâng cao rất nhiều”.
TS Liêm học cao, đâu còn trong tuổi ngây thơ, lại vào ra Việt Nam dễ dàng, sao không nhận ra người dân miền Nam VN muôn đời có ruộng có đất, dù to dù nhỏ, của tổ tiên cha ông để lại, bây giờ được đảng CS biến họ thành “vô sản”, “dân oan”? Trong khi nhà báo Phạm chí Dũng nhìn thấy và báo động về sự nguy hiểm của mạng lưới hối lộ ở VN nên lên tiếng đòi Liên Minh Âu châu phải buộc điều kiện Nhân quyền và tính minh bạch vào Hiệp định thương mại tự do EVFTA, thì phải ngồi tù 15 năm? Đấy là lý do để ông TS “công bằng ghi cho Nhà nước VN điểm cộng”?
Ông Nguyễn Minh Triết sang quận Cam, California, trốn chui trốn nhủi vì bị biểu tình, đả đảo dữ dội của người gốc Việt, chỉ gặp được loại Kiều bào sẵn sàng đội ơn thiện chí vượt bực của đảng Cộng sản, như ông TS nói, để được miễn thị thực, được công nhận song tịch, mua bán bất động sản… Loại Kiều bào đó ông TS Liêm có lẽ quen nhiều, nên giờ đây cho rằng cần đề nghị với Bộ Chính trị VN ra một “tân nghị quyết”?
Dân Việt trước hết là những công dân Việt đang sống ở Việt Nam
Đa số những người Việt tỵ nạn chính trị ở Mỹ (và Âu châu) hiện là công dân của những nước có Tự do Dân chủ. Sự thành công của họ ở những vùng đất mới, cũng như sự sụp đổ của chủ nghĩa CS trên thế giới, càng cho thấy rằng, súng đạn khi xưa đã thua, nhưng lý tưởng tự do dân chủ của miền Nam Việt Nam đã thắng.
Những người Việt chạy tỵ nạn lúc ở tuổi trưởng thành, giờ đây sau 47 năm, đã là những bậc cao niên. Nhìn tình hình thế giới có thể thấy rõ ràng là Lẽ Phải đôi khi bị cái Ác đè bẹp, nên tình cảm ngự trị trong tâm trí họ chỉ còn là những xót xa, thương dân tộc, là nỗi buồn vì không bảo vệ được những đồng bào nghèo khổ, những người bạn trí thức can đảm đang bị đàn áp ở quê nhà.
Ông TS Liêm hay các bạn Việt kiều của ông muốn xin xỏ một cách đối xử nào khác của đảng CSVN, đó là việc của các ông, bà. Nhưng xin nhớ, các ông, bà chỉ là một loại Việt kiều mà thôi.
Còn đảng CSVN nếu có can đảm và sòng phẳng để công nhận những sai lầm chính sách thì hãy quì xuống xin lỗi người dân trong nước, tạ tội với tiền nhân đã bao ngàn năm hy sinh, giữ gìn bờ cõi, bằng cách thả hết những người con yêu nước đang trong vòng tù tội, để dân tộc Việt còn có một tương lai.
________
Chú thích:
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cd12z9pw073o
https://boxitvn.blogspot.com/2022/10/logic-thuong-tich-gap-tri-tue-nong-dan.html
Cảm nghĩ về bài viết “Việt Kiều và Nhà nước Việt Nam…” của TS Nguyễn Hữu Liêm
Nguyễn Tiến Cường
Tiếng Dân
21-10-2022
Tựa đề bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Hữu Liêm đăng trên BBC tiếng Việt và Tiếng Dân ngày 19-10-2022: “Việt Kiều và Nhà nước VN: ‘Đã đến lúc cần chính sách mới hơn Nghị quyết 36‘. Bài viết này chỉ là nhận định cá nhân về bài của ông Liêm, không bàn đến những biệt danh mà nhiều người tặng cho ông Nguyễn Hữu Liêm là Kẻ Đánh Giầy Bằng Lưỡi, hay Người Cầm Đèn Chạy Trước Ô-tô…
Trước khi vào chuyện chính, xin được nói sơ qua về ông Tiến sĩ Luật Nguyễn Hữu Liêm. Được biết, ông Liêm qua Mỹ từ cuối tháng 4-1975, theo lời ông tự nhận là đu càng máy bay trực thăng UH-1 bay ra biển, được hải quân Mỹ cứu. Rồi ông đi học lại, tốt nghiệp tiến sĩ Luật, tiến sĩ Triết, dạy triết học tại trường đại học SJSC (San José State University).
Nghe nói ông Liêm có văn phòng luật sư ở Mỹ nhưng văn phòng có hoạt động không thì chẳng rõ, chỉ biết ông thường xuyên có mặt ở Việt Nam. Ông là người duy nhất được chế độ CSVN cho tham dự các “phiên tòa Kangaroo” xử án những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị trong khi thân nhân của họ thì bị cấm. Ông được cho tham dự các phiên tòa là để viết những bài bình luận về các phiên tòa này theo hướng chế độ CSVN mong muốn. Năm 2004, luật sư Nguyễn Tâm đã có một số bài viết về ông Nguyễn Hữu Liêm, gọi ông Liêm là trí vận của CSVN (2).
Trở lại chuyện chính. Bài viết nói trên của ông Liêm khá dài – thuật lại cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn ngoại giao, đại diện chế độ CSVN và một số nhân sĩ Mỹ gốc Việt (đa số ở miền Nam) vào ngày 14-10-2022 tại nhà riêng của ông Liêm. Cả khách lẫn chủ tổng cộng chỉ khoảng 10 người. Cuộc gặp gỡ bỏ túi nhưng không kém phần sôi nổi, nảy lửa khi Nghị Quyết 36 trở thành vấn đề tranh cãi. Tôi chỉ trích dẫn một số việc trong bài của ông Liêm.
Ông viết: “Về phía Phái đoàn ngoại giao thì đánh giá Nghị quyết 36 là một thành công lớn, một bước ngoặc quan trọng trong chính sách của Đảng đối với Kiều bào trong tiến trình hòa giải dân tộc để cùng chung tay xây dựng đất nước, hướng về tương lai.
Phía nhân sĩ kiều bào thì cho đó là một thất bại từ cơ bản vì nó không giải hóa được hố sâu ngăn cách giữa người Việt tỵ nạn và thể chế chính trị Cộng sản Việt Nam. Chưa nói về bình diện vĩ mô, có người nói thẳng rằng hãy nhìn xem buổi gặp mặt hôm nay tại một nhà riêng với một số nhỏ chưa tới 10 người – thay vì là một buổi gặp gỡ công khai, có đông đảo các thành phần người Việt và giới truyền thông tham dự – thì đây là bằng chứng rõ nhất về sự thất bại của Nghị quyết 36”.
Ông Liêm cũng cho rằng, chế độ CSVN đã thay đổi rất nhiều, từ tác phong của anh sĩ quan công an mà ông Liêm hay được mời uống cà phê, đến phong thái các cán bộ trung, cao cấp hàng thứ trưởng, vụ trưởng mà ông có dịp tiếp xúc, ăn trưa chung, đều tỏ ra lịch lãm, có học… – hầu hết đều tốt nghiệp các trường đại học uy tín Âu Mỹ, một số còn là cựu sinh viên từng theo học ông – không còn thô kệch, hách dịch kém văn hóa như trước.
Sau chuyến đi Việt Nam tháng 8-2022, ông Liêm kết luận ngọt sớt rằng “Khi con người thay đổi thì thể chế cũng thay đổi theo”, Việt Nam ngày nay không còn chế độ cộng sản nữa, ông TBT Nguyễn Phú Trọng là người cộng sản cuối cùng trong bộ chính trị của chế độ CSVN. Thật ra, theo tôi thì ông Trọng cũng chẳng còn là cộng sản. Ông và đảng CSVN đã trở thành một đảng mafia độc tài, sắt máu, sử dụng công an, côn đồ như xã hội đen.
Tuy nhiên, dù sao nhận định của ông Liêm về cuộc gặp mặt cũng có phần khách quan, dùng chữ có phần vì ông đã (dám) nêu ra một phần sự thật trong các chính sách, đường lối của chế độ CSVN từ sau ngày 30-4-1975 đến nay. Mặc dù ca ngợi rằng đảng CSVN đã đi đúng hướng trên hành trình hòa giải dân tộc thời hậu chiến – nhưng chưa đủ và còn nhiều khuyết điểm – ông Liêm đã “can đảm” đưa ra lời kêu gọi CSVN nên có một nghị quyết mới về người Việt hải ngoại.
Ông kêu gọi: “Tôi đề nghị Bộ Chính trị hãy cho ra một Tân Nghị quyết về người Việt ở nước ngoài. Trong Nghị quyết mới này, Đảng hãy can đảm và sòng phẳng để công nhận những sai lầm chính sách đối với dân miền Nam sau 1975. Và có một lời tạ lỗi với họ, và đối với cả dân tộc chung.
Chỉ cần làm điều đó, thì đại khối kiều bào gốc miền Nam, vốn rộng lượng và dễ tha thứ, hy vọng sẽ quên bớt hận thù, để cùng với dân tộc Việt khắp thế giới hướng về tương lai, xây dựng quốc gia như tất cả chúng ta cùng mong mỏi”.
Hơn ai hết, ông Liêm hiểu rằng lời kêu gọi của ông chẳng ai (thèm) để ý, quan tâm tới. Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng gồm nhiều cựu đảng viên hạng gộc của đảng CS, từng viết hàng chục kiến nghị, tâm thư… gửi đảng còn chẳng thấy tăm hơi. Cắc ké như ông Liêm là cái đinh gì để đảng CSVN lắng nghe? Có lẽ ông kêu gọi cho có để đánh bóng cá nhân. Vậy thôi!
***
Cũng có thể ông Liêm chưa nhận ra, sở dĩ đảng CSVN vẫn để yên cho ông ra vào Việt Nam thoải mái, tham dự những phiên tòa Kangaroo, cho phép ông phê bình đảng trong một chừng mực nào đó, vì họ còn sử dụng được ông như một cái loa tuyên truyền cho chế độ, một cây cầu nối cho những con mồi hải ngoại ngây thơ.
Một ngày nào đó, khi thấy rằng ông Liêm đã đi quá lằn ranh giới hạn thì ông sẽ biết ngay người CSVN thay đổi ra sao. Họ có còn lịch sự, nhã nhặn, có văn hóa với ông nữa không?
______
Chú thích:
(1) https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cd12z9pw073o
(2) https://vietbao.com/a87286/ls-nguyen-huu-liem-len-tieng-ve-vu-hop-bao
Việt kiều và cán bộ VN: Cùng một dân tộc mà hai ngôn ngữ khác nhau
- Joaquin Nguyễn Hòa
- Gửi bài tới Diễn đàn BBC từ San Jose, California, Hoa Kỳ
Một trong những người đầu tiên tôi tìm đến sau khi trở về vùng Vịnh San Francisco là anh Nguyễn Hữu Liêm ở San Jose.
Dĩ nhiên một nhân vật hay gây tranh cãi thì rất đáng để những người có làm báo chút đỉnh như tôi quan tâm, nhưng điều thúc ép tôi chủ động làm quen là chuyện anh Liêm tự trào, lấy luôn hỗn danh giáo sư còi hụ để tự gọi mình.
Khoảng chục năm trước, khi nổ ra chuyện còi hụ, tôi cũng có đăng bài đả kích anh Liêm. Tôi thấy tự trào như vậy cũng hay, dễ sống.
Tôi đến nhà anh Liêm có hẹn trước, rồi khi đến cổng rào, tôi gọi điện lần nữa. Thế mà khi cánh cửa nhà mở ra, tôi cũng giật mình, anh Liêm đứng sau cánh cửa, giống như đang… đánh úp tôi vậy (không úp sao được cái thằng từng làm cho RFA!).
Nói vui vậy thôi chứ vào một nơi lạ ai chả hay giật mình, có khi sự giật mình ấy là cái tật (giật mình) của chính bản thân mình cũng nên.
Câu chuyện hôm ấy rất vui vẻ. Phần lớn thời gian chúng tôi nói về ông… Trump, hot boy lúc đó (2019), nhưng cũng có nói về Việt Nam. Tôi nhớ anh Liêm có nói về quan hệ giữa Hà Nội và người Việt hải ngoại như sau: “Nếu chiến tranh với Tàu xảy ra, sẽ là cuộc chiến điện tử, người Việt hải ngoại có thể giúp đỡ được nhiều lắm.”
Dĩ nhiên đó là một quan điểm về một vấn đề chưa xảy ra, và có thể nó cũng sẽ không xảy ra.
Đầu thu năm 2022, anh Liêm viết trên BBC về một cuộc gặp ở nhà anh, với quan chức Việt Nam phụ trách thúc đẩy quan hệ với cộng đồng hải ngoại. Không thấy báo chí chính thống trong nước bình luận gì, nhưng dư luận hải ngoại phản đối anh Liêm không ít.
Chuyện này làm tôi nhớ một cuộc gặp gỡ tương tự vào một sáng mùa hè năm 1996, trong một khu vườn lớn rất yên tĩnh, có hồ nước, ngoại ô thành phố Montreal, Canada.
Chủ nhà là một bác sĩ người Việt, cùng khoảng hơn 20 người bạn bè ông, gặp vị đại sứ Việt Nam cùng đoàn của bà (nếu tôi nhớ không lầm, thì đó là một phụ nữ) đến từ Ottawa. Trước khi những người của tòa đại sứ đến, trên chiếc bàn lớn ngoài vườn có mấy tờ tạp chí của nhóm Diễn Đàn ở Paris.
Một người nói nửa đùa nửa thật: “Thôi mình cất mấy tờ này đi, Ottawa (chỉ tòa đại sứ Việt Nam) không hài lòng đâu.” Tôi có đọc một bài, trong đó nói rằng tính cách không minh bạch của Đảng Cộng sản Việt Nam là do thói quen hoạt động bí mật trong một thời gian dài trước đó.
Cuộc nói chuyện với nhau diễn ra khoảng hơn một giờ. Đại khái khá giống những gì anh Liêm trình bày trong bài viết của anh trên BBC vào năm …2022. Tôi nhớ có một kỹ sư điện than phiền là ông sẵn sàng về Việt Nam dạy học không công, nhưng cũng rất khó thực hiện.
Sau đó tôi có kể lại cho một người bạn thân ở Việt Nam lời than phiền ấy. Anh bạn này lúc đó là trưởng bộ môn tại một đại học ở Sài Gòn. Anh cười nói với tôi là: chẳng ai cho ông ấy làm đâu.
Trong cuộc nói chuyện ở Montreal, tôi có cảm tưởng là hai bên nói bằng hai thứ ngôn ngữ khác nhau, dù cùng là tiếng Việt. Các tờ tạp chí Diễn Đàn vẫn nằm đó, nhưng chả có vị quan chức nào quan tâm.
Trước đó mấy ngày, cũng tại Montreal, tôi có tham dự một cuộc gặp mặt thân mật chỉ có vài người. Chủ nhà là vợ chồng anh L.C.P. một cựu sinh viên phản chiến. Khách hôm đó là ông Vũ Quang Việt, một người Việt tại hải ngoại có giúp đỡ chính phủ Việt Nam những vấn đề về chính sách trước và sau khi mở cửa vào năm 1986. Cuộc nói chuyện ấy, may mắn làm sao, chỉ bằng một ngôn ngữ mà thôi, rất dễ chịu trong một đêm hè Montreal oi bức.
Khoảng 10 năm sau, tôi được thuê làm thông ngôn cho một nhóm viên chức và giảng viên đại học tại Sài Gòn đi công tác tại Grenoble miền Nam nước Pháp. Thực ra, ông trưởng đoàn Phan Thanh Bình, học đến năm năm ở Grenoble, chắc chắn thạo tiếng Pháp hơn tôi, nhưng ông là trưởng đoàn, đâu có thời giờ để thông ngôn, cho nên người ta thêm tôi vào.
Ông Bình lúc đó dường như (?) là thứ trưởng Bộ giáo dục. Sau vài ngày khá lạnh lùng với người “khác hệ” như tôi, ông trở nên cởi mở hơn. Hóa ra chúng tôi lớn lên ở cùng một thị xã nhỏ, học cùng một thầy giáo. Cái khác là ông được đưa ra Bắc trong chiến tranh Việt Nam, gia đình nghe đâu là cách mạng gộc. Sau này tôi nghe nói là có nhiều người vận động để ông Bình làm bộ trưởng giáo dục, nhưng không thành công.
Trong đoàn còn có một nhân vật quyền lực lúc đó ở Sài Gòn là ông Phạm Chánh Trực (Năm Nghị), ông đi vận động các trường đại học Pháp, các công ty Pháp, vào làm việc trong khu công nghiệp đang được thành lập ở Thủ Đức. Ông Trực là một người kín đáo, nhưng hòa nhã, và rất thân thiện.
Tại Grenoble chúng tôi được một “Việt kiều”, đưa đón và chăm sóc rất chu đáo. Tôi không nhớ tên ông, nhưng đó là một người rất ít nói, hiền lành và nhiệt tình.
Nhưng nhân vật tôi để ý nhất lúc đó là ông Nguyễn Chánh Khê. Ông Khê tốt nghiệp ở Nhật, rồi sau này làm việc ở Mỹ. Ông có một số bằng sáng chế. Bố ông là một viên chức cao cấp của ngân hàng quốc gia thời Việt Nam Cộng hòa. Ông thuộc nhóm cựu sinh viên tại Nhật ủng hộ Hà Nội. Trong ngày 30/4/1975, ông bị nhóm chống Hà Nội đánh bị thương nhẹ ở Nhật. Ông Khê cũng có lên truyền thông Việt Nam một dạo, là người được chủ tịch nước trong thời gian đó đặc cách cấp hộ chiếu Việt Nam. Lúc ông đi Grenoble, ông có dạy một vài môn tại đại học Bách Khoa Sài Gòn.
Tôi nói chuyện nhiều với ông Khê trong những ngày tôi ở Grenoble, vì chúng tôi cùng có cái tật là thức rất sớm. Câu chuyện diễn ra bên bàn cà phê sáng ở khách sạn, nhìn ra các đỉnh núi của rặng Alp phủ tuyết quanh năm. Theo tôi thì dù với vẻ bên ngoài hơi lập dị, nhưng ông Khê khá cởi mở và hay chuyện. Ông hiểu rất rõ những chuyện mình đang làm, và làm với ai, họ như thế nào. Sau này tôi có hỏi ông T. H. ở Mỹ, nhưng cũng từng học ở Nhật, ông T.H. nói với tôi: “Anh Khê giỏi lắm đấy, nhưng ảnh thuộc phe bên kia.”
Như vậy kể từ lần đầu tiên tôi chứng kiến những cuộc nói chuyện vào năm 1996 đến câu chuyện của anh Liêm, đã gần 30 năm. Có những thay đổi, và có vẻ cũng có những cái không thay đổi. Trong những cái không thay đổi, thì ngôn ngữ là điểm dễ thấy nhất, mà ngôn ngữ sinh ra do hệ thống xã hội và chính trị. Các cựu sinh viên Việt Nam tại phương Tây, dù quan điểm chính trị thế nào, họ có một ngôn ngữ khác hẳn với bên trong nước. Thế cho nên khi chưa có thay đổi về xã hội chính trị, thì họ khó lòng mà làm việc được với nhau.
Nhưng cũng có những trường hợp từ hải ngoại về nước cũng có thể được gọi là thành công, như trường hợp ông Nguyễn Ngọc Trân chẳng hạn, từ Pháp về và làm việc khá lâu năm ở quốc hội. Có thể là ông Trân đã thay đổi để thích hợp với hòan cảnh mới, nhưng quan trọng nhất, ông Trân là một đảng viên cộng sản. Mà ngay cả trong trường hợp ông Trân, cũng có những cái rất khác với hệ thống trong nước. Tôi nhớ là cách đây độ 15 năm, vào một dịp bầu cử quốc hội, ông Trân không được ra ứng cử nữa. Ông nói với báo Thanh Niên rằng ông là đảng viên nên phải tuân theo kỷ luật đảng, đảng bảo ông không ra ứng cử thì ông phải tuân theo. Hành động này khác với những người lớn lên và được đào tạo trong nước, hay từ các quốc gia cộng sản cũ.
Chính anh Nguyễn Hữu Liêm cũng thấy sự khác biệt đó. Trong quyển tản văn Cám dỗ Việt Nam của mình, có nhận xét về người bạn của anh là Cao Ngọc Quỳnh, sống ở miền Nam California như sau: Đây dù là loại người đang phản đối lại chế độ cộng sản hiện nay, họ vẫn là linh hồn của những người đã và đang chiến thắng, từ lịch sử đến cuộc đời.
Ông Quỳnh lớn lên ở miền Bắc rồi sang Liên Xô và Đông Âu học, sau đó di cư qua Mỹ. Ông Quỳnh nói với anh Liêm rằng tại sao lại phải dính chặt với Việt Nam, chẳng phải là ở đó có cả triệu người đang lo cho nó sao!
Thế hệ các ông L.C.P., Vũ Quang Việt,… đều đã ngoài 70, thế hệ anh Liêm cũng bắt đầu về hưu.
Nhìn tới tương lai, dù tình hình thay đổi, tôi không dám chắc thế hệ người Việt hải ngoại lớn lên và học hành nhiều hơn ở phương Tây, con cháu họ, sẽ có bao giờ tìm thấy tiếng nói chung với Hà Nội hay không?
Việt Kiều là ai?
Yên Khê
Tiếng Dân
8-11-2022
Ngày 5-11-2022, BBC có đăng bài viết của tác giả Joaquin Nguyễn Hòa: Việt kiều và cán bộ VN: Cùng một dân tộc mà hai ngôn ngữ khác nhau. Bài viết kể lại những câu chuyện tiếp xúc giữa Hà Nội và một số người Việt hải ngoại mà tác giả chứng kiến.
Nếu tôi không lầm, thì ý ông Hòa muốn chứng minh một luận điểm là sự khác biệt về môi trường chính trị xã hội, đưa đến sự khác biệt về ngôn ngữ, tức là cách suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề. Vì thế, Hà Nội và nhóm “Việt kiều” trong câu chuyện của tác giả không thể có cùng chung tiếng nói với nhau.
Đây là một khái niệm khá thú vị. Tuy nhiên, tựa đề của ông Hòa đặt có vẻ không chính xác, khi ông dùng cụm từ “Việt kiều”.
Ai là “Việt kiều?”
Tôi thấy là nhóm người ông Hòa gặp vào năm 1996 ở Montreal, cũng như những nhân vật và những nhóm người mà ông đề cập suốt bài, đâu thể đại diện cho “Việt kiều” được!
Bỏ qua gốc gác của từ “Việt kiều” hiện vẫn còn gây tranh cãi, cứ mặc định rằng “Việt kiều” là người Việt sống bên ngoài Việt Nam. Trả lời câu hỏi họ là ai, có lẽ không đơn giản. Mà “họ là ai này” cũng thay đổi theo thời gian, năm 1996 khác hẳn năm 2022, và cả vị trí địa lý nữa, Đông Âu khác hẳn ở Úc.
Để dể hiểu, chúng ta hãy xem xét cộng đồng người Việt ở phương Tây, như Mỹ, Úc, Canada, Tây Âu, nơi mà nguồn gốc có vẻ đồng nhất. Có thể chia họ thành những đợt ra đi khác nhau. Đợt đầu họ rời Việt Nam ngay khi Sài Gòn sụp đổ, đợt 2 là các thuyền nhân và những người tù chính trị đi theo chương trình H.O. và đợt ba, kéo dài cho tới bây giờ, là những người thân nhân của hai đợt trước, rời Việt Nam bằng hồ sơ bảo lãnh, rồi sau đó nhiều người tiếp tục rời xa đất nước theo quan hệ gia đình, hôn nhân.
Vậy họ là ai? Chính kiến thế nào?
Độc giả có quan điểm chính trị “không đội trời chung với cộng sản” có thể sẽ cho rằng Việt kiều, hay người Việt hải ngoại, là một cộng đồng chống Cộng rất mạnh mẽ.
Các độc giả trong nước nghe theo báo chí chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam, sẽ bảo rằng “Việt kiều” là… khúc ruột ngàn dặm.
Tôi thấy cả hai đều không đúng. Với cái nhìn chủ quan của tôi, dựa trên những quan sát đó đây trong suốt một thời gian dài ở hải ngoại, tôi thấy Việt kiều có thể chia làm bốn nhóm như sau:
1/ Nhóm mà tác giả đề cập trên BBC, thân Hà Nội, rất ít, nhóm này đang tàn phai theo năm tháng.
2/ Nhóm rời khỏi Việt Nam sau ngày 30/4/1975, là nhóm thuyền nhân, cựu tù chính trị. Nhóm này chống Cộng dữ dội nhưng dường như ngày càng ít đi.
3/ Thế hệ thứ 1 rưỡi (sinh ra ở Việt Nam, ra nước ngoài từ nhỏ) và thế hệ thứ 2, là con cháu của cả hai nhóm kể trên. Một số đông gia nhập vào dòng chính của đời sống và chính trị, văn hóa, sở tại, ít quan tâm đến Việt Nam.
4/ Nhóm di cư theo hồ sơ bảo lãnh, ra ngoại quốc khi Việt Nam không còn mô hình xã hội kinh tế thuần cộng sản nữa. Nhóm này có thể không đông bằng nhóm thứ ba, nhưng theo chủ quan của tôi thì nhóm này là nhóm còn có nhiều quan hệ với Việt Nam hơn hết.
Tôi có thể lấy nhóm thứ tư này để phản biện bài của ông Nguyễn Hòa, rằng có một nhóm Việt kiều có cùng “ngôn ngữ” với trong nước và họ cũng rất đông, ngày càng đông cho đến khi dòng người rời Việt Nam giảm hẳn đi (nhưng có lẽ còn lâu!) Tuy rằng trong số họ cũng có một số ít rời bỏ Việt Nam vì bất đồng quan điểm, mong sống trong một xã hội dân chủ, nhưng số đó ít thôi, đa số họ không có viễn kiến chính trị.
Số tiền hàng tỷ Mỹ kim từ hải ngoại gửi về Việt Nam có phần lớn từ nhóm thứ tư này. Chúng ta thường bị thu hút bởi những vụ nổi đình nổi đám như Trần Trường, Trịnh Vĩnh Bình,… như là những thất bại của quan hệ kinh tế giữa Việt kiều và trong nước, nhưng số tiền Việt kiều gửi về Việt Nam bởi các đại gia như Trịnh Vĩnh Bình, hay những người thuộc nhóm 1 và 2 không thể bằng nhóm tứ tư.
Có hai lý do: Thứ nhất là họ còn nhiều quan hệ họ hàng ở Việt Nam. Thứ hai, rất đông người thuộc nhóm thứ tư sống trong nền kinh tế tiền mặt (cash economy) ở nước sở tại. Họ có thể trốn (né) thuế, giảm chi phí cuộc sống, cho nên họ có nhiều tiền dư để gửi về cho thân nhân đang sống ở quê nhà.
Cash economy của người Việt có thể thấy rõ ở những khu người Việt như Little Saigon (Nam California), phía Đông San Jose (Bắc California), Bellair (Houston, Texas), Fowler (Úc), khu Eden (Virginia), với hoạt động thương mại rất sầm uất, nhưng điều kiện hạ tầng, vệ sinh… lại kém vì không có nhiều thuế để chi trả.
Những người này đóng góp cho xã hội sở tại không nhiều, nhưng đôi khi họ nhận được trợ giúp từ nơi họ sinh sống rất nhiều. Một người bạn của tôi làm công việc cán sự xã hội (social worker) ở Houston, người này từng chỉ cho tôi mấy khách hàng đến xin trợ cấp thực phẩm, y tế … họ ăn mặc rất chải chuốt, đeo nhiều vòng vàng, đi xe rất đẹp. Những người này, nếu thấy chiếc xe Camry đời 2007 gãy càng sứt gọng của tôi, có lẽ họ sẽ nhìn bằng nửa con mắt.
Đây cũng là cộng đồng theo dõi các kênh truyền thông từ trong nước như VTV4, Truyền hình Vĩnh Long, VnExpress…
Đây thực sự là những “Việt kiều” có cùng ngôn ngữ với Hà Nội, không như ông Nguyễn Hòa trình bày trong bài viết nói trên. Chính quyền Hà Nội cũng không cần mất công tiếp xúc với họ, vì họ đã, đang và sẽ tiếp tục là nguồn ngoại tệ khổng lồ gửi về Việt Nam.