Seite auswählen

Nhân bài viết của T.S. Nguyễn Hữu Liêm, xem thử những người khác viết gì trên mạng về vấn đề này.

 

Hòa giải dân tộc

VOA


Hòa giải dân tộc

Lâu nay, trong lãnh vực chính trị, một trong những chữ chúng ta, nhất là những người đang sống ở hải ngoại, thường nghe nhiều nhất là chữ “hoà giải”. Đó cũng là một trong những chữ gây tranh cãi nhiều nhất. Một số người đồng ý. Nhưng một số người khác lại chống đối kịch liệt. Không có kết quả điều tra nào cụ thể, nhưng tôi tin là con số những người chống đối cao hơn hẳn. Cứ nhìn vào các cuộc biểu tình đây đó hay trên báo chí và diễn đàn trên internet thì thấy ngay.

Nhưng tại sao người ta lại chống đối một điều dễ ngỡ là tốt đẹp như thế?

Trước hết, cần lưu ý: không phải chỉ có người Việt chúng ta mới nói đến chuyện hoà giải. Trên thế giới, trong mấy thập niên vừa qua, người ta cũng bàn nhiều đến vấn đề hoà giải. Lý do rất dễ hiểu: không có thời đại nào trong lịch sử, nhân loại lại bị chia rẽ một cách dữ dội và đối xử với nhau một cách độc ác như trong thế kỷ 20 vừa qua. Đệ nhất thế chiến. Đệ nhị thế chiến. Chiến tranh lạnh. Chủ nghĩa apartheid. Chủ nghĩa cộng sản. Xung đột sắc tộc. Hàng trăm triệu người bị giết chết. Hàng mấy trăm triệu người bị thương tật. Vết thương dai dẳng. Thù hận chồng chất. Đối diện với thực trạng ấy, hầu như ai cũng thấy hoà giải là một điều cần thiết. Không thể xây dựng một xã hội hoà bình và giàu mạnh và không thể an tâm hướng tới tương lai khi thương tích trong tâm hồn hàng triệu nạn nhân hay con cháu nạn nhân chưa được lành lặn, khi cảm giác nghi kỵ và thù hằn chưa được xoá bỏ. Bởi vậy, từ khoảng đầu thập niên 1990 đến nay, giới lãnh đạo nhiều quốc gia ráo riết đẩy mạnh quá trình hoà giải. Hoà giải giữa các quốc gia từng có thời thù nghịch và tàn sát nhau như giữa Nhật Bản và Trung Hoa, giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, giữa Indonesia và East Timor, giữa Đức và một số quốc gia Bắc Âu. Hoà giải trong nội bộ từng nước như giữa người Mỹ và người gốc Phi châu từng bị bán hoặc đày sang châu Mỹ làm nộ lệ thế kỷ trước, giữa người Úc và thổ dân, người Tân Tây Lan và người Maori, giữa người Nam Phi và người da trắng từng thống trị và đàn áp họ, v.v…

Nếu hoà giải là xu hướng chính của thời đại, tại sao nhiều người Việt ở hải ngoại lại chống đối chuyện hoà giải?

Lý do đầu tiên, theo tôi, là vì vết thương của người Việt Nam còn quá mới. Chiến tranh kết thúc mới 35 năm. Các trại cải tạo mới đóng cửa cách đây chưa tới 20 năm. Những người trải qua những kinh nghiệm thảm khốc trong chiến tranh cũng như những kinh nghiệm cay đắng trong các trại cải tạo, và tiếp theo, kinh nghiệm hãi hùng trong vượt biên vẫn còn sống và nhiều người vẫn còn tham gia tích cực vào các sinh hoạt chính trị, dù ở thế yếu, xa lắc ngoài đất nước.

Tuy nhiên, đây không phải là lý do không thể vượt qua được. Nỗi đau bị kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi còn mới hơn nhiều. Mâu thuẫn giữa Indonesia và East Timor lại càng mới hơn nữa. Vậy mà ở các nước ấy, quá trình hoà giải được tiến hành khá tốt đẹp.

Bởi vậy, theo tôi, lý do thứ hai này quan trọng hơn: chúng ta thiếu sự tin cậy đối với nhau.

Nói đến tin cậy là nói đến góc nhìn từ phía các nạn nhân. Một trong những chấn thương lớn nhất của các nạn nhân là sự đổ vỡ niềm tin đối với chính quyền. Không phải ngẫu nhiên mà câu nói “Đừng tin những gì cộng sản nói; hãy nhìn những gì cộng sản làm” lại trở thành cực kỳ phổ biến sau năm 1975. Như một thứ danh ngôn. Không chừng đó là câu nói để đời duy nhất của ông Nguyễn Văn Thiệu trong suốt 8 năm làm Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà (1967-1975). Không thể nói đến hoà giải khi niềm tin ấy chưa phục hồi. Nhưng niềm tin chỉ có thể phục hồi từ công lý. Bởi vậy, ở đâu quá trình hoà giải cũng đều bắt đầu bằng sự thừa nhận sự thực. Nước Đức không thể hoà giải với người Do Thái hay nhiều quốc gia khác từng bị chiếm đóng ở châu Âu nếu cứ khăng khăng phủ nhận các tội ác của Nazi, đặc biệt, sự tồn tại của Holocaust. Nhật Bản không thể hoà giải với nhiều quốc gia Á châu, nổi bật nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc, nếu không thừa nhận những tội ác chiến tranh của họ ở thập niên 1940.

Chính vì thế, quá trình hoà giải thường bắt đầu bằng một lời xin lỗi chính thức. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong sinh hoạt chính trị thế giới thời hậu-Chiến tranh lạnh là việc công khai hoá niềm ân hận đối với những lỗi lầm trong quá khứ. Năm 1990, Tổng thống Mỹ George Bush đã xin lỗi 120 ngàn người Mỹ gốc Nhật bị giam cầm trong thời Đệ nhị thế chiến. Cũng năm 1990, Mikhail Gorbachev bày tỏ sự ân hận sâu sắc trước việc Stalin giết chết 15 ngàn viên chức người Ba Lan tại Katyn Forest vào năm 1940. Đức giáo hoàng John Paul đệ nhị xin lỗi về việc Giáo hội Công giáo đã thất bại trong việc cứu giúp người Do Thái khỏi thảm hoạ Holocaust. Nữ hoàng Elizabeth II của Anh công khai xin lỗi việc nước Anh tàn sát người Maori ở Tân Tây Lan trước đây. Thủ tướng Anh Tony Blair xin lỗi về trách nhiệm của Anh trong nạn đói ở Ireland vào thế kỷ 19. Năm 1998, Tổng thống Bill Clinton xin lỗi người châu Phi về vai trò của Mỹ trong việc buôn bán nô lệ thế kỷ trước. Ở Nhật, năm 1993, Thủ tướng Morihiro Hosokawa bày tỏ sự ân hận và xin lỗi về những tội ác mà nước Nhật đã gây nên thời Đệ nhị thế chiến. Năm 1995, Thủ tướng Tomiichi Murayama lại xin lỗi lần nữa. Năm 1998, trong dịp gặp gỡ với Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung, Thủ tướng Keizo Obuchi lại xin lỗi lần nữa, nhắm chủ yếu vào những nạn nhân người Hàn Quốc. (1) Riêng ở Úc, đầu năm 2009, Thủ tướng Kevin Rudd đã chính thức xin lỗi người thổ dân tại Úc về những chính sách sai lầm của người da trắng trong quá khứ.

Những lời xin lỗi công khai và chính thức như thế chứng tỏ sự thành tâm và thiện chí của các chính phủ nhằm hàn gắn những rạn nứt trong xã hội và giữa các quốc gia để mọi người có thể thanh thản xếp chuyện quá khứ lại hầu hướng tới tương lai, một tương lai hoà thuận và hợp tác. Đó là yếu tố đầu tiên cần có để tạo nên sự tin cậy.

Ở các nước, mọi lời xin lỗi đều đi liền với sự đền bù. Trong hoàn cảnh Việt Nam, tôi không nghĩ sự đền bù là cần thiết, nhất là đối với những người Việt hiện đang sống ở hải ngoại. Thành thực mà nói, họ đã được đền bù. Không phải Việt Nam đền bù. Mà là quốc tế đền bù khi cứu vớt họ từ trên các chiếc thuyền vượt biển mỏng manh hoặc khi chấp nhận cho họ định cư ở các quốc gia tự do, từ đó, bản thân họ và con cháu họ được hưởng một cuộc sống an lành và no ấm, được hưởng các điều kiện giáo dục và an sinh xã hội thuộc loại hoàn hảo nhất thế giới. Họ không cần đền bù. Nhưng họ cần một lời xin lỗi, hoặc ít nhất, một sự nhìn nhận sai lầm từ chính phủ, như một điều kiện đầu tiên xác lập lại niềm tin cậy đã bị đánh mất.

Nhìn nhận sự thực, trong đó có việc nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ, chỉ là bước đầu. Một sự tin cậy thực sự chỉ có thể được hình thành qua hành động. Và bằng những chính sách cụ thể. Nhiều người nêu lên yêu sách giải tán đảng Cộng sản hoặc xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp liên quan đến việc độc quyền lãnh đạo đất nước của đảng Cộng sản. Tôi cho những yêu sách như thế là lý tưởng nhưng rất ít có tính khả thi. Không bao giờ có chuyện một đảng cầm quyền tự động giải tán hay từ bỏ quyền lực khi chưa bị đẩy vào thế ở đường cùng cả. Mà trong tình hình chính trị quốc nội cũng như quốc tế hiện nay, có lẽ còn lâu đảng Cộng sản mới bị đẩy vào cái thế đường cùng ấy. Bởi vậy, thực tế hơn, chúng ta chỉ đặt ra một yêu sách: vì đất nước. Vấn đề đảng nào cầm quyền không quan trọng bằng vấn đề lý tưởng xây dựng một đất nước thực sự giàu mạnh, tự do và bình đẳng. Cơ sở để nhìn nhận và đánh giá lý tưởng ấy là các chính sách.

Nhưng vấn đề là: hiện nay đảng Cộng sản có thực sự vì đất nước hay không? Có rất nhiều bằng chứng cho thấy là không. Ít nhất, với họ, đất nước không quan trọng bằng quyền lợi của chính họ. Có ai đó tóm tắt cái thế tiến thoái lưỡng nan của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay một cách rất tài tình: “Theo Trung Quốc thì mất nước; theo Mỹ thì mất Đảng”. Theo ghi nhận của nhiều người, dường như đảng Cộng sản đang chọn: thà mất nước còn hơn mất Đảng.

Tuy nhiên, điều này đã được nhiều người phân tích, tôi không muốn nhắc lại. Tôi chỉ xin nhấn mạnh một điểm: ít nhất với cộng đồng người Việt ở hải ngoại, chính quyền Việt Nam hoàn toàn không quan tâm đến lý tưởng xây dựng đất nước. Ý định hoà giải với cộng đồng người Việt chỉ xuất phát từ mưu đồ biến cộng đồng thành công cụ của họ, nhằm phục vụ cho lợi ích của chính họ mà thôi. Có thể thấy rõ điều này qua bức thư Thứ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn gửi Dân biểu Mỹ Cao Quang Ánh ngày 31 tháng 3 vừa qua. Trong thư, ông Nguyễn Thanh Sơn viết:

“Chúng tôi tin tưởng rằng với thiện chí của Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, với vị trí và uy tín của Ngài trong Chính quyền Mỹ cũng như trong cộng đồng người Việt sở tại… với những gì Ngài đã tận mắt chứng kiến và thực sự cảm nhận qua chuyến về Việt Nam vừa rồi, tôi huy [sic] vọng Ngài sẽ cùng hợp tác với chúng tôi để chúng ta có những cuộc trao đổi cởi mở, thẳng thắn nhằm đem lại lợi ích thiết thực góp phần xây dựng cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ nói riêng và trên thế giới nói chung thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại thực sự đoàn kết vì Quê hương đất nước ruột thịt của mình.” (2)

Xin hãy lưu ý đến mệnh đề cuối: “nhằm đem lại lợi ích thiết thực nhằm xây dựng cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ nói riêng và trên thế giới nói chung…”

Mục tiêu của hoà giải, như thế, chỉ nhằm “xây dựng cộng đồng người Việt Nam” ở hải ngoại. “Xây dựng” theo chiều hướng nào? Theo chiều hướng “đoàn kết” với chính quyền trong nước! Nghĩa là, nói cách khác, để biến thành công cụ của chính quyền!

Vậy mà cũng gọi là “hoà giải” sao?

À, tự nhiên sực nhớ chuyện năm 2005 chính quyền Việt Nam đã vận động chính quyền Indonesia và Malaysia đập bỏ tấm bia tưởng nhớ những người bị chết trên đường vượt biển ở đảo Galang và đảo Bidong, nơi dừng chân của cả hàng trăm ngàn người tị nạn Việt Nam trước khi được định cư ở một quốc gia thứ ba nào đó.

Chỉ có hai tấm bia nhỏ nhoi ở hai hòn đảo heo hút như vậy mà họ cũng không chịu nổi. Thì nói đến chuyện hoà giải làm gì cho mệt.

Chú thích:

1. Xem “Reconciliation in the Asia-Pacific” do Yoichi Funabashi biên tập, United States Institutes of Peace Press xuất bản tại Washington, D.C. năm 2003, tr. 4-5.
2. Xem toàn văn bức thư trên ở http://josephcao.house.gov/UploadedFiles/Nguyen_Thanh_Son_request.pdf và thư trả lời của ông Cao Quang Ánh ở http://josephcao.house.gov/UploadedFiles/Letter_to_Deputy_Minister_Nguyen_Thanh_Son.pdf

Làm sao để hòa giải dân tộc?

 

Hoàng Ngọc-Tuấn viết từ Sydney
2013.11.12

034_2348559-305.jpgGiới trẻ Mỹ gốc Việt. Ảnh minh họa.

AFP photo

Gõ từ “hòa giải” lên Google, tôi thấy kết quả đầu tiên là bài giải thích về từ này trên trang Wikipedia tiếng Việt. Trong bài ấy có một đoạn nói đến vấn đề “hòa giải dân tộc” của Việt Nam. Đoạn ấy như sau:

“… ở Việt Nam hiện nay vấn đề hòa giải dân tộc cũng được đặt ra và tốn nhiều giấy mực của báo chí trong thời gian gần đây. Với một lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng nhiều, và Việt kiều ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong việc làm cầu nối để hàng hóa nội địa vươn tới hải ngoại và ngược lại, Nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc để huy động sức mạnh và sự đóng góp của lực lượng “Việt kiều yêu nước”. Tuy vậy, tiến trình hòa giải dân tộc ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do còn nhiều bất đồng trong cách suy nghĩ và các vấn đề lịch sử để lại.”

Đọc đoạn ấy, tôi cảm thấy khá nực cười! Nếu nhóm viết Wikipedia tiếng Việt diễn tả đúng sự thật thì hoá ra, đối với Nhà nước Cộng Sản Việt Nam, vấn đề “hòa giải dân tộc” chỉ xoay quanh chuyện quan hệ với “Việt kiều” với mục đích kiếm “kiều hối” ngày càng nhiều và tìm cầu nối “để hàng hóa nội địa vươn tới hải ngoại và ngược lại”!

Cũng trong bài ấy, ở chú thích số 12, có ghi: “Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết từng phát biểu rằng nhà nước phải chìa tay ra trước để đón nhận, đồng thời một bộ phận người Việt ở nước ngoài vẫn còn mặc cảm cũng phải chủ động hòa nhập.”

Lại càng nực cười hơn nữa! “Nhà nước phải chìa tay ra trước để đón nhận”! Đón nhận cái gì? Đón nhận “kiều hối” chăng? Và “một bộ phận người Việt ở nước ngoài vẫn còn mặc cảm cũng phải chủ động hòa nhập”! Mặc cảm về việc gì? Về việc chưa chuyển “kiều hối” về Việt Nam nhiều đủ hay chăng? Và “phải chủ động hòa nhập” bằng cách nào? Bằng cách ra sức chuyển thêm nhiều “kiều hối” nữa và ra sức “làm cầu nối để hàng hóa nội địa vươn tới hải ngoại và ngược lại” hay chăng?

Chưa bao giờ tôi thấy ở nước nào mà lại có cái loại “hòa giải dân tộc” theo kiểu con buôn kỳ quái đến thế.

Quan sát các nước đã từng thực hiện hòa giải dân tộc, ta có thể thấy trước hết họ thiết lập một Truth Commission (Uỷ Ban Sự Thật). Uỷ Ban này có nhiệm vụ điều tra và công bố tất cả những sự sai lầm và tội ác của một chính quyền trong quá khứ. Sau đó, những kẻ đã hành xử sai lầm hay đã gây tội ác phải được đem ra xét xử trước công lý. Tuỳ theo mức độ của sự sai lầm và tội ác, những kẻ ấy sẽ được tha thứ hay phải chịu những hình phạt của luật pháp. Nếu những sự sai lầm và những tội ác ấy đã diễn ra trong một quá khứ rất xa, và tất cả những kẻ gây tội ác ấy đều đã chết, thì chính quyền đương nhiệm phải thay mặt cho quốc gia để công khai xin lỗi tất cả các nạn nhân (hay thân nhân của họ, nếu họ đã qua đời). Sau đó, tuỳ theo mức độ thiệt hại của từng trường hợp, tất cả các nạn nhân (hay thân nhân của họ) đều được bồi thường xứng đáng. Từ 1974 đến nay, có hơn 30 Uỷ Ban Sự Thật đã được thành lập ở hơn 30 quốc gia và đã đạt được những kết quả đáng kể.

Vấn đề “hòa giải dân tộc” của Việt Nam thì không chỉ là vấn đề bắt tay xí xoá giữa Nhà nước Cộng Sản Việt Nam với “Việt kiều”. Lại càng không phải là vấn đề “hòa giải” giữa người Việt trong nước và người Việt ở nước ngoài, hay giữa người Việt miền Nam và người Việt miền Bắc.

Vấn đề “hòa giải dân tộc” của Việt Nam phải là một vấn đề cần được giải quyết minh bạch và thoả đáng giữa Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Nghĩa là, để có được một cuộc hòa giải thực sự, trước hết phải có một Uỷ Ban Sự Thật (độc lập với Nhà Nước) đứng ra điều tra và công bố tất cả những sự sai lầm và tội ác của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam đối với nhân dân Việt Nam từ trước đến nay. Tiếp đến, phải có một cuộc xét xử công minh và nghiêm khắc. Sau đó, phải có sự xin lỗi công khai và sự bồi thường xứng đáng.

Tất nhiên, dưới chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam hiện nay, tiến trình này không thể thực hiện được. Và chừng nào tiến trình này chưa thực hiện được, thì chưa thể có sự “hòa giải dân tộc”.

Thậm chí, ngay cả khi chế độ Cộng Sản đã sụp đổ, tiến trình hòa giải dân tộc vẫn còn có thể gặp rất nhiều khó khăn. Nếu những người cựu Cộng Sản vẫn còn chiếm một bộ phận lớn trong bộ máy chính quyền mới, thì họ có thể tìm cách cản trở việc thành lập một Ủy Ban Sự Thật, và nếu một Ủy Ban Sự Thật được thành lập, thì họ có thể sẽ tìm cách xoá bỏ những bằng chứng và trì hoãn việc bạch hoá sự thật trước công lý.

Kể từ 1989, sau khi chế độ Cộng Sản ở các nước Đông Âu sụp đổ, và từ 1991, sau khi chế độ Cộng Sản ở Liên bang Xô-Viết sụp đổ, cho đến nay, chỉ có 5 Ủy Ban Sự Thật được thành lập ở Đức, Romania, Estonia, Lithuania và Latvia; còn ở Tiệp chỉ có The Office of the Documentation and the Investigation of the Crimes of Communism (Văn phòng thu thập tài liệu và điều tra các tội ác của Cộng Sản) thuộc bộ cảnh sát, chuyên điều tra những tội ác đã bị chế độ Cộng Sản Tiệp che giấu từ năm 1949 đến 1989.
Người Việt hải ngoại biểu tình trước tòa Bạch Ốc nhân dịp Chủ tịch VN Trương Tấn Sang thăm Hoa Kỳ. RFA photo

 

 

Người Việt hải ngoại biểu tình trước tòa Bạch Ốc nhân dịp Chủ tịch VN Trương Tấn Sang thăm Hoa Kỳ. RFA photo

Kết quả của các tổ chức này như thế nào thì chúng ta vẫn phải chờ để xem. Trong tiểu luận “Truth Commissions in Post-Communism: The Overlooked Solution?” (trong tập san The Poen Political Science Journal, 2009, 2, 1-13), Lavinia Stan đã có phân tích nhiều trường hợp các chính quyền hậu cộng sản cố tình tránh né việc thành lập các Uỷ Ban Sự Thật. Trong cuốn chuyên luận Transitional Justice in Post-Communist Romania: The Politics of Memory (New York: Cambridge University Press, 2013), Lavinia Stan cũng có tường thuật khá chi tiết về những thủ đoạn của chính quyền Romania đương thời trong việc trì hoãn công lý.

Tuy nhiên, dù có cố tình trì hoãn việc bạch hoá các sai lầm và tội ác trước ánh sáng công lý, cuối cùng thì người ta vẫn không thể chôn vùi sự thật mãi mãi. Một ngày nào đó, sự thật sẽ được phục hồi.

Trong bài “Hòa giải dân tộc”, Nguyễn Hưng Quốc đã kể lại một số cuộc hòa giải được thực hiện trong khoảng hai thập kỷ vừa qua trong phạm vi quốc gia và quốc tế như sau: “… Chính vì thế, quá trình hòa giải thường bắt đầu bằng một lời xin lỗi chính thức. Một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong sinh hoạt chính trị thế giới thời hậu-Chiến tranh lạnh là việc công khai hoá niềm ân hận đối với những lỗi lầm trong quá khứ. Năm 1990, Tổng thống Mỹ George Bush đã xin lỗi 120 ngàn người Mỹ gốc Nhật bị giam cầm trong thời Đệ nhị thế chiến. Cũng năm 1990, Mikhail Gorbachev bày tỏ sự ân hận sâu sắc trước việc Stalin giết chết 15 ngàn viên chức người Ba Lan tại Katyn Forest vào năm 1940. Đức giáo hòang John Paul đệ nhị xin lỗi về việc Giáo hội Công giáo đã thất bại trong việc cứu giúp người Do Thái khỏi thảm hoạ Holocaust. Nữ hòang Elizabeth II của Anh công khai xin lỗi việc nước Anh tàn sát người Maori ở Tân Tây Lan trước đây. Thủ tướng Anh Tony Blair xin lỗi về trách nhiệm của Anh trong nạn đói ở Ireland vào thế kỷ 19. Năm 1998, Tổng thống Bill Clinton xin lỗi người châu Phi về vai trò của Mỹ trong việc buôn bán nô lệ thế kỷ trước. Ở Nhật, năm 1993, Thủ tướng Morihiro Hosokawa bày tỏ sự ân hận và xin lỗi về những tội ác mà nước Nhật đã gây nên thời Đệ nhị thế chiến. Năm 1995, Thủ tướng Tomiichi Murayama lại xin lỗi lần nữa. Năm 1998, trong dịp gặp gỡ với Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae Jung, Thủ tướng Keizo Obuchi lại xin lỗi lần nữa, nhắm chủ yếu vào những nạn nhân người Hàn Quốc. Riêng ở Úc, đầu năm 2009, Thủ tướng Kevin Rudd đã chính thức xin lỗi người thổ dân tại Úc về những chính sách sai lầm của người da trắng trong quá khứ. Những lời xin lỗi công khai và chính thức như thế chứng tỏ sự thành tâm và thiện chí của các chính phủ nhằm hàn gắn những rạn nứt trong xã hội và giữa các quốc gia để mọi người có thể thanh thản xếp chuyện quá khứ lại hầu hướng tới tương lai, một tương lai hòa thuận và hợp tác. Đó là yếu tố đầu tiên cần có để tạo nên sự tin cậy. Ở các nước, mọi lời xin lỗi đều đi liền với sự đền bù…”

Nói tóm lại, nước Việt Nam không thể đạt được “hòa giải dân tộc” theo cách của con buôn nhằm tăng “lượng kiều hối” và “buôn bán hàng hóa ra hải ngoại và ngược lại”. Cũng không thể có loại “hòa giải dân tộc” theo kiểu “Việt kiều yêu nước” chạy theo vuốt đuôi chính quyền để tìm cơ hội làm ăn. Cũng không thể có loại “hòa giải dân tộc” theo kiểu “giao lưu văn nghệ” giữa các văn nghệ sĩ Việt Nam trong nước và ngoài nước chạy ra chạy vào múa hát, đọc thơ, bắt tay nhau, cụng ly với nhau…

Không. Tất cả những trò đó không thể nào xoá được những đau thương, những oan ức của hàng triệu nạn nhân dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam. Tiến trình hòa giải dân tộc của Việt Nam phải bắt đầu bằng một Uỷ Ban Sự Thật để giải quyết minh bạch và thoả đáng những món nợ bằng máu và nước mắt mà Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam đã gây ra cho nhân dân Việt Nam từ trước đến nay.

Hoàng Ngọc-Tuấn (Sydney, Australia)

Hòa giải và hòa hợp dân tộc: CSVN không thể chỉ kêu gọi suông

 

Nguyễn Tường Thụy
2019.05.06

000_Hkg10175948_960.jpgHình minh họa. Một buổi biểu diễn nhân kỷ niệm 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh hôm 30/4/2015  AFP

Không có chuyện tránh từ “giải phóng”

Hoạt động cuối cùng của đợt “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” là màn bắn pháo hoa tại 3 điểm ở Sài Gòn vào lúc 9 giờ tối ngày 30/4/2019 với mô tả “mãn nhãn”, “thắp sáng bầu trời tp HCM”.

Cụm từ “kỷ niệm 44 năm ngày giải phóng miền Nam” tràn ngập trên các trang báo mạng. Nếu gõ câu “kỷ niệm 44 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” vào google có thể tìm thấy ít nhất khoảng 160 tin bài. Chỉ có trang “Nhân dân” của đảng CSVN thêm chữ “hoàn toàn” – giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Dùng chữ “hoàn toàn”, hẳn họ quên mất rằng, ở thời điểm 30/4/1975, quần đảo Hoàng Sa thuộc miền Nam quản lý đã mất vào tay Trung quốc từ hơn 1 năm trước đó, mà những người lãnh đạo của Việt Nam dân chủ cộng hòa khi đó vẫn cứ tin là TQ “giải phóng và giữ hộ”

Còn nếu bỏ mấy chữ “giải phóng miền Nam” đi, gõ cụm từ “kỷ niệm 44 năm thống nhất đất nước” vào công cụ tìm kiếm thì chỉ thấy vài tin, nhưng là nói về màn bắn pháo hoa.

Như vậy, không có chuyện chính quyền Việt Nam tránh nói từ “giải phóng” trong dịp kỷ niệm 30/4 năm nay như một bài viết của RFA đã đặt dấu hỏi.

Đừng khoét thêm vào nỗi đau tháng Tư

Việc tuyên truyền, khuếch trương chiến thắng của bên thắng cuộc chỉ khoét sâu thêm vào nỗi đau của bên thua cuộc.

Phân tích kỹ thì bên thua cuộc không chỉ là miền Nam mà bao gồm tất cả những người phải chịu tổn thất trong chiến tranh. Với khái niệm này, bên thua cuộc còn bao gồm hàng triệu người lính miền Bắc và dân thường đã ngã xuống trong nỗi đau đớn của gia đình họ. Bên thua cuộc còn bao gồm những người kỳ vọng vào một đất nước thống nhất cường thịnh nhưng lòng tin ấy đã đổ vỡ

Tóm lại, bên thua cuộc là nhân dân VN, còn bên thắng cuộc là những người phát động chiến tranh, giành thắng lợi và hưởng lợi từ chiến thắng ấy.

Nghĩ cho cùng

Mọi cuộc chiến tranh

Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…

(Đá ơi – Thơ Nguyễn Duy)

 

Hình minh họa. Hình chụp hôm 30/4/1975 cho thấy chiếc xe tăng của quân đội Bắc Việt phá cổng vào Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.  

 

Hình minh họa. Hình chụp hôm 30/4/1975 cho thấy chiếc xe tăng của quân đội Bắc Việt phá cổng vào Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.

AFP

 44 năm đã quá đủ thời gian để nhìn nhận lại cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Người ta ngày càng rõ hơn các vấn đề như bản chất của cuộc chiến tranh, tại sao phe cộng sản thắng? Đất nước thống nhất đem lại cho nhân dân những gì? Có ý kiến đặt ngược vấn đề “ai giải phóng ai?”. Đây là một góc nhìn mới và nghiêm túc.

Có lẽ trong hiện thực xã hội mục ruỗng và bế tắc hiện nay, trước tương lai mù mịt của đất nước, phe thắng cuộc không còn gì hơn là bấu víu vào quá khứ mà người ta gọi là ăn mày dĩ vãng. Oái oăm thay, quá khứ ấy càng vén lên, càng đánh thức nó dậy thì càng bất lợi cho họ. Họ phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Chỉ cần đặt ra mấy câu hỏi mà ai cũng trả lời được là sẽ rõ vấn đề:

– Bên nào đem quân vượt vĩ tuyến 17 vào miền Nam?

– Gọi là chống Mỹ xâm lược, tại sao khi quân đội Mỹ chưa tham chiến hoặc sau khi họ rút quân, chiến tranh vẫn tiếp diễn?

– Tại sao miền Nam cần phải giải phóng và giải phóng khỏi cái gì?

– Tỉ lệ tử sĩ trong chiến tranh (tạm lấy số liệu của wikipedia) giữa CSVN & đồng minh / VNCH / Mỹ & đồng minh là 13,2/4,7/1 nói lên điều gì? Có phải đấy là cách để làm nên chiến thắng của phe cộng sản?

v.v…

 

Hình minh họa. Hai người phụ nữ khóc những người thân của mình ở Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa hôm 29/4/1975 

 

Hình minh họa. Hai người phụ nữ khóc những người thân của mình ở Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa hôm 29/4/1975

AFP

Việc khuếch trương chiến thắng, sỉ nhục bên bại trận là môt sai lầm mà bên thắng cuộc cố tình không nhận ra do bản chất kiêu ngạo của họ. Nó không có tác dụng gì trong việc nâng cao tầm vóc cho họ mà chỉ làm tổn thương cho phía bên kia, duy trì và khoét sâu sự hận thù. Trong khi luôn miệng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc thì 44 năm qua, cứ vào dịp 30/4, họ lại tưng bừng kỷ niệm chiến thắng, xoáy vào nỗi đau tháng Tư của đồng bào phải chịu tổn thất trong chiến tranh.

Là bên thắng cuộc, họ không những không có lòng khoan dung, cao thượng mà vẫn còn đó sự căm thù chế độ Việt Nam cộng hòa mặc dù nó đã đi vào quá khứ. Xóa sổ một chính thể, hàng triệu đồng bào bỏ chạy khỏi đất nước, hàng trăm nghìn người bỏ xác nơi biển cả, sa vào tay hải tặc, đày đọa hàng trăm nghìn cán binh VNCH trong các trại cải tạo chưa đủ làm họ thỏa mãn sao? Không thể tưởng tượng được, chỉ từ cử chỉ cầm lá cờ Việt Nam bé xíu vẫy của tổng thống Mỹ khi sang thăm Hà Nội mà ông thủ tướng lập tức nghĩ ngay đến “bọn phản động lưu vong người Việt”, và tưởng tượng ra “bọn” này “rã rời chân tay”.

Năm 2005, kỷ niệm 60 năm quốc khánh, ông Võ Văn Kiệt phát biểu:

“Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…”

Phát biểu của ông Kiệt được nhắc lại với tần suất rất cao mỗi khi nói về hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cho đến nay, không có một lãnh đạo cấp cao nào nói ra được một ý tương tự. Tiếc rằng, vì quan điểm tiến bộ, cởi mở của ông mà sau đó ông bị đồng chí của mình nghi kỵ, cảnh giác. Đã có những ý kiến nghi ngờ rằng cái chết của ông có uẩn khúc.

Lối cư xử với bên bại trận ở VN, làm người ta nghĩ đến cách giải quyết trong quan hệ Mỹ – Nhật sau khi Nhật Bản đầu hàng, để có được một nước Nhật ngày nay. Xa hơn nữa là cách giải quyết trong nội bộ nước Mỹ khi Liên bang miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến cách đây 1,5 thế kỷ để có một siêu cường Hoa Kỳ ngày nay. Nó khác hẳn với tư duy hẹp hòi, thiển cận và những hành động trả thù hèn hạ sau cuộc nội chiến kéo dài 20 năm ở VN của bên thắng cuộc và dai dẳng đến tận bây giờ

Không thể chỉ kêu gọi suông

Về vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc, trái bóng luôn ở chân nhà nước cộng sản VN, đơn giản vì họ là bên thắng cuộc, ngoài ra họ là bên phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Họ có đủ quyền hành, lực lượng để chủ động trong việc ấy.

Để hòa giải và hòa hợp dân tộc, cần phải thể hiện bằng những việc làm cụ thể chứ không chỉ kêu gọi suông. Người ta nhìn vào hành động để biết nhà cầm quyền có thực tâm hòa giải không.

Những hành động cụ thể cần phải làm, trước hết cần dùng một tên gọi chính xác cho cuộc chiến tranh 1955 – 1975. Nếu ngại những từ “nhạy cảm” như “thôn tính”, “cưỡng chiếm”, có thể gọi là cuộc nội chiến hay chiến tranh Nam Bắc, chứ không gọi là “cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước” hay chiến tranh “giải phóng miền Nam”.  Cần loại bỏ vĩnh viễn những cụm từ “giải phóng miền Nam”, “đế quốc Mỹ và tay sai”, “ngụy quân ngụy quyền” ra khỏi đời sống xã hội. Phải bỏ ngày 30/4 ra khỏi ngày nghỉ lễ.

 

Hình minh họa. Một bạn trẻ người Việt ở Mỹ cầm cờ Việt Nam Cộng Hòa trong một cuộc tuần hành vì tự do cho Việt Nam ở Washington DC hôm 30/4/2005 

 

Hình minh họa. Một bạn trẻ người Việt ở Mỹ cầm cờ Việt Nam Cộng Hòa trong một cuộc tuần hành vì tự do cho Việt Nam ở Washington DC hôm 30/4/2005

AFP

Ngày 30/4 là một biến cố lịch sử. Chỉ nên tổ chức những buổi hội thảo tự do không định hướng, không kén chọn thành phần để làm rõ hơn mọi khía cạnh cuộc chiến tranh 1955 – 1975, giai đoạn đau thương và đen tối nhất của lịch sử dân tộc.

Cần chấm dứt việc gây khó dễ khi xét lý lịch đi học, đi làm đối với con cháu quân cán binh VNCH. Phải loại bỏ sự phân biệt đối xử đối với những người có liên quan đến chế độ cũ. Không được gây cản trở mọi hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ những người có liên quan đến chế độ cũ, ví dụ hoạt động tri ân thương phế binh VNCH được nhà thờ Kỳ Đồng tổ chức hàng năm. Các nghĩa trang quân đội VNCH cần được chăm sóc chu đáo như những nghĩa trang liệt sĩ khác.

Đừng làm cho nỗi đau của đồng bào miền Nam kéo dài thêm, cứa mãi, đau day dứt, dai dẳng như xẻo thịt bằng con dao cùn và lấy sự đau đớn ấy làm niềm vui, niềm tự hào, kiêu hãnh của mình.

Những người được coi là thắng cuộc liệu có biết họ đang thua cuộc. Có trong tay cả một đất nước để rồi không biết làm thế nào cho “đất nước đứng lên”. Họ đang đứng trước một cuộc khủng hoảng toàn diện với những thách thức về lý luận, về phương pháp, về lòng tin, về sự thối nát của hệ thống chính trị và phải tìm cách thoát khỏi bế tắc. Việc thực tâm hòa giải bằng những việc làm cụ thể cũng là một cách khai thông bế tắc ấy.

Cứ đến ngày 30.4 một câu hỏi ‘Ngày Thống nhất Đất nước bao giờ trở thành Ngày Hoà giải Thống nhất Lòng người’?

Lưu Trọng Văn

24-4-2021

Đất nước chỉ có sức mạnh nếu có sự Thống nhất Lòng người.

Bốn năm trước, Hữu Thỉnh rất khôn ngoan, không lấy danh nghĩa chủ tịch hội NVVN mà lấy danh nghĩa một nhà thơ từng khoác áo lính phía bên này, gửi thư cho Phan Nhật Nam, một nhà văn cũng từng khoác áo lính phía bên kia, mời Phan Nhật Nam về VN tham gia diễn đàn vì một nền văn học VN. Thực ra đây là bức thư đặt viên gạch hoà giải trước hết đối với các nhà văn.

Hữu Thỉnh viết: “Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần vào làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.

Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp gỡ này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả...”.

Tháng 7 năm 2019, gã cafe với Phan Nhật Nam tại Sàigon nhỏ, California. Nhà văn không trả lời gã lý do chính vì sao lại từ chối lời mời của Hữu Thỉnh, mà chỉ ký tặng gã cuốn “Dấu binh lửa” viết về chiến tranh.

Hôm nay, nhân sắp đến ngày 30.4, ngày mà thủ tướng Võ Văn Kiệt nói triệu người vui, triệu người buồn, câu hỏi hoà giải dân tộc vẫn còn nguyên đó mà ngay mỗi người cầm bút của Đất nước vẫn không thể tìm được câu trả lời chung, gã đọc bức thư của Phan Nhật Nam trả lời Hữu Thỉnh.

Đọc bức thư này sẽ hiểu rõ vì sao Phan Nhật Nam từ chối lời mời về VN để bắc nhịp cầu văn chương cho tiến trình hoà giải dân tộc.

“Tôi, Phan Nhật Nam, nguyên là một sĩ quan cấp Đại Uý Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù Quân Lực VNCH gởi đến ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư ngày 1 tháng 9, 2017.

1/ Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hoá, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975. Tôi có thư này để trả lời mời gọi của ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gửi tới cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hoà Hợp Hoà Giải.” Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẽ…

2/ Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: không hề có chủ trương hoà hợp hoà giải từ người / chủ nghĩa / chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.

3/ Từ thực tiễn của # 2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Nguỵ Quân-Nguỵ Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.

4/ Trong tình thế chung nhất của # 2, # 3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hoà Hợp Hoà Giải” như ông Hữu Thỉnh đề nghị! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây.

Lịch sử đẫm máu của 100 năm chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại. Hỏi thử cuộc họp mặt tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng / VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975.

5/ Hãy nhìn lại… Thương phế binh VNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính VNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe doạ đối với Chế độ XHCN!

Xin hãy “Hoà Hợp Hoà Giải” với những người đã chết. Với những người đang sống sau thảm hoạ Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp hoà giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ về. Tất cả cùng về Việt Nam.

Kính thư,

Người Lính – Viết Văn

Công Dân Mỹ gốc Việt

Phan Nhật Nam

Washington DC, 9 tháng 9, 2017”.

***

Đọc thư của Hữu Thỉnh không thể nói đó không là bức thư tình cảm, tôn trọng và đầy thiện chí của Hữu Thỉnh, người đại diện cho hội NVVN với cá nhân Phan Nhật Nam.

Nhưng khi đọc thư trả lời của Phan Nhật Nam thì phải thấy cái mà Phan Nhật Nam cần không phải là tình cảm, sự tôn trọng, thiện chí của Hữu Thỉnh đối với mình.

Mà cái khác. Cái khác ấy lại không thuộc tầm nghĩ của Hữu Thỉnh.

Gã nhớ tại Houston, một cựu đại tá VNCH nói với gã: kêu gọi hoà giải làm gì. Nhà nước VN cứ làm sao cho Dân VN hạnh phúc tự do thật sự, không cho tôi về tôi cũng vượt biên lần nữa nhưng để về. Nói xong, ông bật khóc.