Mục lục
Khi ý thức hệ thắng cuộc
25.10.2022
(Sau 10 năm đọc lại “Bên thắng cuộc”)
Một thập kỉ đã trôi qua,* “Bên thắng cuộc” của nhà báo Huy Đức (mà từ đây tôi sẽ gọi ông là “Người ghi chép lớn về thời đại”) vẫn cho tôi ấn tượng về một tác phẩm đồ sộ bậc nhất, phản ánh một giai đoạn phức tạp nhất của lịch sử Việt Nam hiện đại. Sẽ mất công vô bổ khi tranh cãi cuốn sách là tác phẩm báo chí hay lịch sử, nếu chúng ta bỗng ngộ ra rằng, lịch sử thực chất chỉ là những sự kiện, những câu chuyện cứ nối nhau trôi qua một cách liên tục và không ngừng nghỉ. Chúng ta đang sống từng giây từng phút và cũng từng giây từng phút chúng ta thuộc về lịch sử!
Bao quát hầu hết các sự kiện lớn, có tác động sâu rộng, thậm chí mang tính quyết định, mang tính định mệnh gắn với số phận của đất nước này trong trọn cả thế kỷ, “Bên thắng cuộc” rõ ràng nuôi tham vọng lớn vẽ lại chân dung thời cuộc, một thời cuộc mà những bộ phận cấu thành quan trọng của nó chủ yếu vẫn chìm trong bóng tối.
Thông thường, bất kể sự ghi chép mang tính lịch sử nào cùng thời với tác giả của nó, ông/bà ta thường phải tìm cách né tránh phần lớn sự thật “đương triều”, chủ yếu vì để bảo toàn chính mạng sống của mình và gia đình mình. Vì thế, một điều tưởng như nghịch lý nhưng lại là sự thật: Người đương thời luôn biết về họ ít nhất. Đó cũng là lý do các nhà sử học được chế độ chăm nuôi trở thành không đáng tin. “Bên thắng cuộc”, ở phần ghi điểm quan trọng, đã vượt qua được nỗi sợ truyền kiếp này. Mọi sự thật, hoặc tác giả tin là sự thật, đều được phơi bày tối đa, bằng thứ thủ pháp báo chí ở tầm lão luyện. Lần đầu tiên chúng ta biết một cách hệ thống (trong khuôn khổ gần 1000 trang sách), tiến trình hình thành nên những sự kiện thay trời chuyển đất của người Việt trong suốt thế kỉ 20, những sự kiện mà tác động của nó, cả tích cực lẫn tiêu cực, tới từng người Việt chắc chắn chưa dừng lại. Ngoài sự kì công khảo cứu, sưu tầm tài liệu bằng những bí quyết và bí mật nghề nghiệp có thể nói là vô song cho tới thời điểm này, việc trình bày nó trong một cuốn sách, để bạn đọc có thể theo dõi và bị hút theo từng sự kiện, ghi nhớ từng tiểu tiết quan trọng, hình dung ra từng chân dung các nhân vật nhưng không bị bứt khỏi tổng thể đồ sộ đến mức rất dễ gây chóng mặt, ngộp thở với một số người, là một nỗ lực ghê gớm của người viết. Điều này thường chỉ làm được bởi những người có khả năng khác thường. Dễ dàng nhận ra tính toán nghiệt ngã trong từng lần tác giả hạ bút mở đầu mỗi chương, cũng như kết thúc nó vào thời điểm nào.
Việc đưa các lời kể của nhân vật, nhân chứng mang tính minh họa cho vấn đề nào đó vào phần note, in chữ nhỏ dưới chân trang, mà nếu tính chi li có thể chiếm tới ¼ dung lượng cuốn sách, là thủ pháp không mới nhưng vẫn là một tính toán cao tay của tác giả cho trường hợp “Bên thắng cuộc”. Những lời kể, những lời chứng ấy giống như nỗ lực “vượt tường lửa” vào phần cấm kị luôn được bảo vệ bởi những hàng rào an ninh kiên cố và khắc nghiệt. Tác giả cố tình đứng tách ra, không chịu trách nhiệm về giá trị lịch sử của những thông tin ấy, nhưng bạn đọc thì có cơ hội để suy tưởng, đối chiếu với những biến cố mà mình chứng kiến hoặc thu nhận được. Và nếu không có thông tin nào bị thời gian và nhân chứng bác bỏ, điều mà tác giả luôn trông đợi, thì nó mặc nhiên là một phần lịch sử được kể lại.
Chỉ riêng cái phần note này, đáng là một cuốn sách lịch sử, sau khi nó được thời gian kiểm chứng. Và nhờ nó, chúng ta có thể vẽ lại hầu hết những chân dung đã định hình, đã ăn sâu trong trí nhớ chúng ta suốt cả thế kỉ qua. Để ít nhất rút ra hai điều: Lịch sử mà chúng ta vẫn học và vẫn miệt mài dạy con cháu cần phải được nghiêm túc và nghiêm khắc viết lại; và, chúng ta có khả năng tự mình trả về đúng với vị trí lịch sử dành cho từng nhân vật ấy. Trên thực tế, ngoài những hồi kí (kí ức cá nhân đã thành văn), sẽ chẳng có ai còn cơ hội ghi chép lại khá nhiều lời kể có mầu sắc và chất lượng lịch sử, bởi nhiều nhân vật sở hữu nó đã mất hoặc không còn khả năng nhớ lại. Nếu cần ghi một điểm quan trọng nữa cho tác giả thì chính là ở chỗ này.
Nhưng tất cả những gì vừa nói chưa phải là điều quan trọng đáng kể mà cuốn sách đem lại cho bạn đọc. Bóng tối, kể cả đêm dài đen kịt thì rồi cũng có lúc phải tan. Mọi sự kiện có thể không được bạch hóa hết, nhưng từng sự thật trong đó thì trước sau cũng lộ diện. Nhiều tư liệu lịch sử quý giá tác giả chỉ là người dịch, chép lại, biên tập, lọc ra một cách có chủ ý rồi đặt chúng vào đúng chỗ mà nó cần có mặt. Nghĩa là nếu ông không làm, thì rồi sẽ có người khác làm.
Tuy nhiên, dấu ấn của tác giả vẫn vô cùng sâu đậm ngay cả ở chính những gì chúng ta vừa nói, khi ông đã dụng công bố cục cuốn sách theo hướng làm nổi bật lên nguồn gốc sâu xa của bi kịch lớn mà dân tộc này phải trải qua. Ông cho chúng ta thấy một cách thuyết phục hoặc rất khó bác bỏ rằng, ở những bước ngoặt định mệnh của người Việt, lợi ích dân tộc, quốc gia luôn bị lợi ích đảng phái, lợi ích giai cấp, lợi ích gắn với vô sản quốc tế đẩy xuống hàng thứ yếu. Giả sử trật tự đó được hoán đổi, có thể mỗi người Việt hôm nay đã có một gương mặt khác.
Chữ “nếu” của lịch sử trong đa số trường hợp chỉ được thốt ra đầy tiếc nuối sau khi sự lựa chọn trước đó đã có đáp án. Đáp án mà tác giả muốn chúng ta nhớ là hàng loạt sự trả giá. Đó là hàng thập kỉ máu xương lênh láng của cả triệu người; đó là nhiều thập kỉ chia rẽ Bắc-Nam; đó là không biết bao nhiêu cơ hội phát triển bị bỏ lỡ, không biết bao nhiêu bi kịch đau thương không đáng xảy ra nhưng đã mãi mãi trở thành một phần u tối trong hàng triệu gia đình Việt; đó là cuộc tháo chạy hãi hùng bằng thuyền nan qua các đại dương với trùng trùng hiểm họa với hàng trăm ngàn người thành mồi cho cá; đó là khối nguyên khí tích tụ từ hàng ngàn năm bị làm cho thui chột, bị ruồng rẫy, bị bức tử.
Nhưng điều nguy hiểm là có vẻ như sự trả giá cho sự thắng cuộc của ý thức hệ chưa dừng lại, mà vẫn đang diễn ra ở ngay cả những gì chúng ta vẫn tự hào coi là thành tựu! Sự trả giá thậm chí sẽ còn kéo dài tới các thế hệ con cháu.
“Ý thức hệ” là một sản phẩm ngoại lai, được tuồn vào Việt Nam qua đường “tiểu ngạch”. Trong một không gian chính trị ẩm thấp, tranh tối tranh sáng, có phần còn hoang dã, nó bắt rễ và sinh trưởng nhanh chóng. Nó lập tức biến thành một thứ ma túy được bọc bằng cái vỏ triết học và tư tưởng tiến bộ. Sự thắng cuộc của nó, chính là nguyên nhân của mọi thảm kịch đã nói, mà sẽ khó có thể tìm thấy ở đâu sự lý giải đáng tin cậy và logic hơn “Bên thắng cuộc”.
Tác giả rõ ràng không muốn làm một việc dễ nhất là phán xét quá khứ. Không ít nhân vật lịch sử, sau khi biết rõ hơn nhiều sự thật về họ, chúng ta có thể giảm đi sự tôn sùng, nhưng không thể không cảm phục họ. Họ đã không hề cố ý đưa đất nước đến những khúc cua nguy hiểm bằng sự lao tâm khổ tứ đầy ngập lòng yêu nước, thương nòi. Nhiều người khi tự biến mình thành cái lô cốt cản trở sự phát triển của đất nước, lại luôn tin rằng họ đang hy sinh cho lý tưởng cao đẹp. Nhưng chính vì thế mà tấn bi kịch kinh người nào do họ gây ra cũng kèm theo cả yếu tố hài, kèm theo cả sự đáng thương.
Tôi tin rằng “Bên thắng cuộc” sẽ còn là cuốn sách đồng hành lâu dài với người Việt. Nó khó mà không can dự vào những lựa chọn của thế hệ tương lai, cũng như giúp họ định hình vững chắc một cái nhìn bao dung hơn về quá khứ. Ở khía cạnh nào đó nó chính là liều thuốc giải độc được/bị tích tụ lâu dài bởi sự thù hận và thất bại.
Nếu như vết thương nào cũng cần được làm lành, được hàn gắn, thì không thể từ chối liệu pháp phải một lần rạch nó ra, cạo đi phần hoại tử trước khi tìm cho nó loại thuốc thích hợp. Và cũng cần cho nỗi đau được dịp cất lên tiếng thét ai oán cuối cùng của nó, trước khi đón những nụ cười trở lại để không bao giờ đất nước rơi trở lại thảm cảnh chỉ có “một bên” thắng cuộc.
————————————
*Tác phẩm này ra mắt năm 2012, tại Hoa Kỳ và thật tiếc là nó lại chỉ có thể in ở nước ngoài, bởi đây là cuốn sách dành riêng cho người Việt, rất cần cho người Việt và chỉ thực sự quan trọng với người Việt.
‘Bên thắng cuộc’ của Huy Đức: Thành tựu học thuật ‘đáng khâm phục’
Giáo sư Ben Kerkvliet, viết từ Úc
Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức là một cuốn sách tuyệt vời.
Một cách chi tiết đáng kể, tác phẩm xem xét các sự kiện, chính sách và quá trình lớn và cả một số sự kiện nhỏ nhưng đáng lưu tâm, trong quá trình phát triển chính trị của Việt Nam từ những năm 1950 trở đi, đặc biệt là năm 1975 đến cuối những năm 1990.
Đọc từng chương trong số 22 chương của cuốn sách là một trải nghiệm khai mở đối với tôi, ngay cả quanh các chủ đề mà tôi đã có lượng kiến thức tương đối từ những cuốn sách khác và nghiên cứu của riêng tôi.
Sở dĩ cuốn sách hai tập này giàu thông tin và hấp dẫn là do Huy Đức đã dày công nghiên cứu để viết. Trong hơn hai mươi năm, Huy Đức cho biết trong lời nói đầu của cuốn sách, ông đã thu thập tài liệu từ các nguồn thứ cấp, bản tin, tài liệu, hồi ký và đặc biệt là các cuộc phỏng vấn.
Được liệt kê trong phần phụ lục của cuốn sách là hơn một trăm người Việt Nam mà ông đã nói chuyện. Họ bao gồm cả cựu tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam và các cựu thủ tướng, bộ trưởng, sĩ quan quân đội, cố vấn và các quan chức khác của chính phủ Việt Nam. Ngoài ra còn có danh sách vợ / chồng và con cái trưởng thành của một số nhà lãnh đạo nổi tiếng và một số cựu quan chức Việt Nam Cộng hòa.
Nhờ nghiên cứu phi thường của mình, Huy Đức có thể chi tiết hóa những gì các quan chức đã làm và nói khi họ cân nhắc những hành động cần thực hiện và những chính sách cần theo đuổi.
Một ví dụ là khi sách (tập II) ghi chép về đường dây tải điện siêu cao áp từ Nhà máy thủy điện Hòa Bình vào miền Nam, về sau gọi là Đường dây 500 kV. Các cuộc phỏng vấn của Huy Đức và các nguồn khác cho thấy ba bất đồng quan trọng giữa các nhà hoạch định quốc gia vào đầu những năm 1990 khi họ phát triển và thực hiện dự án.
Bất đồng đầu tiên là về việc phải làm gì với lượng điện dư thừa ở miền Bắc sẽ sản xuất vào giữa những năm 1990. Một số quan chức ủng hộ việc bán thặng dư cho Trung Quốc, quốc gia cần nhiều điện hơn. Họ cho rằng lộ trình đó sẽ tăng cường quan hệ Việt – Trung, vốn mới được bình thường hóa gần đây sau nhiều năm thù hận, đồng thời mang lại nguồn thu cần thiết cho Việt Nam.
Quan điểm trái với đề xuất đó là cần truyền tải lượng điện dư thừa vào miền Nam Việt Nam để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng ở đó. Cuối cùng thì Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã tán thành phương án đó.
Quyết định của ông đã gây ra sự bất đồng thứ hai. Một số quan chức lớn cho rằng ông Võ Văn Kiệt đã vượt quá quyền hạn của mình. Họ nói rằng ông đã không tham khảo ý kiến đầy đủ của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản và các tổ chức có liên quan khác. Ông cũng bị buộc tội né tránh ý kiến đóng góp của Quốc hội, hành vi đã làm mếch lòng nhiều đại biểu của Quốc hội.
Bất đồng thứ ba là liệu đường dây truyền tải kéo dài gần 1.500 km giữa các nhà máy phát điện ở miền Bắc và các điểm sử dụng ở miền Nam có được xây dựng đúng cách và đáng tin cậy hay không.
Trong số những ngườinghi ngờ có bà Ngô Bá Thành Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, được dẫn lời “làm đường dây 500 là tự sát”. Cố vấn Nguyễn
Văn Linh, nguyên Tổng Bí thư, ủng hộ phương án bán điện, lấy tiền xây nhà máy nhiệt điện ở miền Nam.
Các quan chức khác, quan trọng nhất là Võ Văn Kiệt, bị thuyết phục bởi các chuyên gia và các bằng chứng khác rằng hệ thống truyền dẫn có thể làm được, do đó, việc xây dựng đã được tiến hành.
Tác phẩm ghi chép của Huy Đức có nhiều chi tiết bổ sung về dự án, một số tranh cãi xung quanh dự án và việc hoàn thành thắng lợi vào năm 1994.
Bên Thắng Cuộc tự nó là một thành tựu đáng khâm phục. Cuốn sách, được xuất bản cách đây mười năm, sẽ vẫn là một đóng góp vô giá cho học thuật trong thời gian dài.
Ben Kerkvliet là một giáo sư hưu trí của Đại học Quốc gia Úc. Ông đã viết nhiều sách, trong đó có The Power of Everyday Politics: How Vietnamese Peasants Transformed National Policy (2005) và Speaking Out in Vietnam: Public Political Criticism in a Communist Party-Ruled Nation (2019).
Thắng cuộc và suy vong (Phần 1)
9-11-2022
Hai năm, 1996 và 1997, tờ Văn nghệ Trẻ chúng tôi có làm cuộc bình chọn 10 gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu ở các lĩnh vực, từ chính trị, xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, thể thao… 10 gương mặt này được xếp theo thứ tự chữ cái tên riêng, nên gọi là “Anphabet Trẻ Việt Nam” và được giới thiệu trên số báo Tết âm lịch năm tiếp theo đó. Cuộc bầu chọn rất được chú ý, dù Văn nghệ Trẻ chỉ là một tờ báo văn chương dành cho giới trẻ ra đời với giấy phép là đặc san của tờ Văn nghệ (già). Sau rồi, khi các nhân sự ban đầu của Văn nghệ Trẻ dần rời đi, thì cũng thôi bình chọn.
Đầu năm năm 1998, chúng tôi ngồi với nhau để bình chọn các gương mặt của năm 1997. Nhà báo Yên Ba đề cử nhà báo Huy Đức cho hạng mục báo chí tiêu biểu. Và tất cả thống nhất rất nhanh. Huy Đức thời ấy đang nổi như cồn với các phóng sự xã hội phanh phui nhiều vụ việc tiêu cực, nhất là ở TP.HCM, nổi nhất, ví dụ như vụ Đường Sơn Quán. Nhưng như thế là chưa đủ. Huy Đức còn là một nhà báo chính trị và nghị trường với những cuộc phỏng vấn, trò chuyện, trao đổi, chất vấn các chính khách nổi danh với một tư thế và phong cách thẳng thắn, ngang bằng, chứ không ê a lấy lòng, làm sang như đa số các nhà báo khác. Đặc biệt, tôi rất ấn tượng với loạt bài “Phỏng vấn maraton với Thủ tướng”. Thủ tướng ngày ấy là ông Võ Văn Kiệt, tôi đã từng trò chuyện và có ấn tượng sâu sắc.
Với việc lựa chọn đưa Huy Đức vào danh sách 10 gương mặt Trẻ tiêu biểu năm 1997, lúc ấy, trong số chúng tôi, không ai có thể hình dung là rồi gần 15 năm sau, qua bao nhiêu biến cố và va đập, nhận thức ngày càng sâu sắc và lương tri ngày càng sáng rõ, Huy Đức trở thành tác giả của bộ sách sử ký báo chí đặc sắc mang tên “Bên thắng cuộc”, hôm nay tôi đang nói tới đây.
“Bên thắng cuộc” được in và phát hành ngày 12/12/2012 tại nước ngoài (Mỹ). Bây giờ đã là mười năm trôi qua. Năm nay, có một cơ duyên nào đó mà nhiều người Việt mới được tiếp cận với bản in bộ sách này. Tuy nhiên, nhờ có mạng internet toàn cầu, rất nhiều người Việt đã đọc nó từ mười năm trước cho đến hiện nay. Tôi đã hỏi bất cứ một đồng nghiệp nào là nhà báo, nhà văn, thì đều nhận được câu trả lời là đã biết đến bộ sách này, đã đọc nhiều lần, đọc toàn bộ hay một phần bộ sách ấy… Có thể nói, “Bên thắng cuộc” được biết đến ở Việt Nam rộng rãi hơn bất cứ một cuốn sách nào đã xuất bản trong thời hiện tại.
Nhiều người đã tâm đắc khi đánh giá về bộ sử ký báo chí này, và đó là những đánh giá chuẩn mực, chẳng hạn: Đây là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau năm 1975; Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt nhưng rất trung thực, nó khiến cho ta bình tĩnh hơn; Đó là một kho tàng dữ liệu quý báu, làm ngạc nhiên nhiều chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên đã qua; Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện, chuyên nghiệp và có trách nhiệm trước vận mệnh đất nước; Cuốn sách này là một công minh lịch sử v.v…
Còn nhiều những đánh giá như đã kể ở trên, nhưng chưa đủ để lý giải sức hút của bộ sách này với bạn đọc Việt Nam. Theo tôi, cuốn sách đã đáp ứng những mong muốn tìm hiểu để biết rõ thêm về những gì người ta đã biết và nó đã thực sự chỉ ra những gì đằng sau, là gốc tích, là xuất phát điểm của những biến động lớn lao đương đại đã diễn ra. Cuốn sách sử ký này còn mang đến cho bạn đọc một cái nhìn và lý giải về lịch sử vẫn đang tiếp diễn.
Bây giờ, sau mười năm, có nhiều người làm nghề xuất bản đã nói: “Bên thắng cuộc” đáng ra phải được xuất bản ở trong nước. Đó là một cuốn sách cần thiết cho người Việt hiện nay. Cuốn sách ấy không vi phạm các điều cấm kỵ, không đả phá thể chế, không bịa đặt, không nói trái sự thật. Cuốn sách ấy cung cấp và trình bày những khách quan để bạn đọc minh định.
Tuy nhiên, tôi được biết, cách đây hơn mười năm, Huy Đức đã đưa bản thảo này tới một số nhà xuất bản trong nước, nhưng đều nhận được các lời từ chối, kèm theo đó là những cái nhìn hốt hoảng, sợ hãi đến xanh mặt. So với những quy định cấm kỵ trong lĩnh vực xuất bản ở nước ta, bản thảo này đều không phạm phải. Nhưng nó đã phạm vào một quy định rất mơ hồ: Vấn đề nhạy cảm.
Nhạy cảm luôn luôn là một vòng kim cô, là “ngoáo ộp” trong bối cảnh hoạt động của báo chí và xuất bản với tình trạng cực chậm giải mật và rất ít bạch hóa tại nước ta. Tôi nhớ, năm 1995, khi viết trên báo Văn nghệ về sự hy sinh của người con trai đầu lòng của ông Sáu Dân tại chiến trường, bài ghi chép của tôi đã đề cập xa xa tới người con trai thứ hai mà Thủ tướng có được với người phụ nữ khác khi từ Nam bộ ra Việt Bắc dự Đại hội II của Đảng năm 1951. Nhiều người đã rùng rùng đòi kỷ luật tôi vì “ai cho phép các anh nói về chuyện vợ con riêng tư của lãnh đạo đất nước?”, hay khi tôi kể về Thủ tướng nói chuyện với ông nông dân ở Đồng Nai sau sự kiện bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ trên báo Văn hóa, đã gọi Mỹ là “tên sen đầm quốc tế”, người ta cho rằng như thế là “trái với định hướng tuyên truyền”. Rất may mà ông Võ Văn Kiệt, khi nghe phản ánh lại, đã tỉnh khô, nói: “Tui kể chuyện của tui và nói như thế với nhà báo đó chớ. Nếu kỷ luật thì phải kỷ luật tui nghe”. Vì ông nói thế nên tôi thoát án.
“Bên thắng cuộc” đã bày ra cả một biển, cả một núi nhạy cảm. Trong gần 1.000 trang sách chữ bé li ti của hai tập bộ sách này toàn là những chuyện nhạy cảm đến có thể làm cho người ta, cách đây hơn mười năm, choáng váng. Những chuyện nhạy cảm như tôi viết ở trên chỉ đáng là một cặp cánh của con muỗi so với trái núi nhạy cảm trong bộ sách “Bên thắng cuộc”.
Huy Đức, với một kỹ năng không thể đào tạo, với một sự kiên trì không thể học theo, đã tiếp cận với vô số chính khách và các yếu nhân, những người trong cuộc, để khai thác tư liệu, ý kiến, góc nhìn và đánh giá rất cụ thể và mang yếu tố riêng biệt của các nhân sự này về mọi sự kiện lớn đã diễn ra trong lịch sử hiện tại. Những tư liệu, ý kiến, góc nhìn và đánh giá ấy lại được kiểm định kỹ càng thông qua những soi chiếu, đặt vào sau luồng thông tin chính thống đã được kiểm soát công bố nhưng vẫn có giá trị để tra cứu. Có lẽ không có người thứ hai nào có thể sở hữu được cái kho nguyên vật liệu để làm nên cuốn sử ký về thời nay như Huy Đức.
Nhưng đây mới là điều kiện cần thôi. Cái khối tư liệu, ghi chép, phỏng vấn… khổng lồ ấy phải được trình bày ra thật mạch lạc dưới dạng thức và ngôn ngữ báo chí, rất tỉnh táo, trung tính mà vẫn nóng lạnh hơi thở và cảm xúc con người trong một kết cấu hợp lý, nhuần nhuyễn thì mới hấp dẫn được những tiếp cận tác phẩm sau này. Nó đòi hỏi phải là một tài năng lớn để thể hiện.
Huy Đức, với sự từng trải và phẩm chất cá nhân, là một tác giả tài năng như thế trong thể hiện. Ông đã từng là quân tình nguyện ở chiến trường Campuchia, là sỹ quan được đào tạo về chiến thuật và chiến lược, là cán bộ văn phòng huyện ủy, là nhà văn với truyện ngắn đầu tay in trên tạp chí Văn nghệ quân đội rồi mới trở thành nhà báo. Ông đã sống trong thực tế, có tầm quan sát rộng rãi, thạo ngôn ngữ văn phòng, hành chính, có năng khiếu văn chương rồi mới thành một nhà báo đầy cá tính. Vì thế, “Bên thắng cuộc” đã tổng hoà được các yếu tố mà trở nên một bộ sử ký báo chí đặc sắc và hấp dẫn.
Một điều nữa, chúng ta thường chỉ được đọc những cuốn sách về lịch sử toàn chú trọng hay nhào nặn để đề cập đến khía cạnh chiến thắng, đến thắng lợi, để nhằm bồi bổ tinh thần tự hào. Trong khi đó, lịch sử là những thời kỳ nối tiếp nhau. Các triều đại, cứ bắt đầu là từ dựng nghiệp, thành công, thắng cuộc rồi sau đó là suy thoái rồi diệt vong, cho triều đại kế tiếp hiện ra và rồi lại tiếp tục như vậy. Lịch sử về dựng nghiệp và thành công cung cấp bài học cho việc nắm lấy, cướp lấy quyền lực. Nó rất cần thiết, đáng được nghiên cứu kỹ lưỡng. Lịch sử về suy vong cung cấp bài học cho việc gìn giữ và gia cố quyền lực, gìn giữ sự bình ổn. Nó cũng rất cần thiết. Nhưng tại sao chúng ta lại rất ít những cuốn sách lịch sử về suy vong?
Suy vong là một quá trình từ suy thoái dẫn đến diệt vong. “Bên thắng cuộc” của Huy Đức không đề cập đến diệt vong, nhưng trong đó có những chỉ ra suy thoái. Vì thế, nó càng cần được nghiên cứu kỹ càng hơn cho hiện tại và tương lai.
(Còn nữa).