Mục lục
Biên tập sách của Nguyễn Huy Thiệp
(Nhân việc Nguyễn Huy Thiệp được trao giải thưởng Nhà nước. Trích hồi kí “LÁCH QUA LUẬT NGẦM”, có lược bớt so với nguyên bản)
Tạ Duy Anh
Tôi không nhiều kỉ niệm với Nguyễn Huy Thiệp. Có thể là do số phận. Khi ông nổi danh như cồn, thì tôi đang nằm chết dí ở thị xã Lào Cai hoang tàn, ăn mắm tôm khô đến thối cả ruột. Tôi biết đến ông lần đầu qua truyện ngắn “Muối của rừng”, đọc ngay trên chốt canh địch. Tờ báo Văn nghệ đã bị tôi làm cho nhàu nát, chỉ vì truyện của ông. Thực sự tôi đã bị sốc, bởi lần đầu tiên được đọc một thứ văn đẹp và sâu sắc như vậy do người Việt viết.
Kỉ niệm thật sự, cực kỳ hiếm hoi giữa Nguyễn Huy Thiệp và tôi, thì lại dậy lên chút mùi cay đắng. Đó là khi tôi nhận được bản thảo tiểu thuyết “Tuổi hai mươi yêu dấu” của ông. Hồi đó, bất cứ điều gì Nguyễn Huy Thiệp viết ra, cũng là vàng mười, luôn sẵn sàng trở thành sự kiện truyền thông. Vì thế, không khó hiểu khi tôi mang “Tuổi hai mươi yêu dấu” về nhà và đọc ngấu nghiến, hình như chỉ trong một đêm, phần do tò mò, phần vì nó cũng ngắn. Hôm sau tôi đem lên trình Tổng biên tập Nguyễn Khắc Trường. Ông tác giả của “Mảnh đất lắm người nhiều ma” không vồ vập như tôi tưởng, mà vừa cười vừa hỏi: “Nó viết có được không?”
Tôi chưa kịp nói gì thì Nguyễn Khắc Trường cười hề hề, tay vuốt đùi, bảo:
-Tớ chả tin Thiệp viết tiểu thuyết. Những tay viết truyện ngắn hay, thường viết tiểu thuyết cóc ra gì. Lão Nguyễn Công Hoan là trường hợp thấy rõ nhất.
Tôi bảo:
-Anh cứ mang về đọc đi đã. Có vài chỗ hơi gai, em đã đánh dấu, tùy anh quyết định. Bên đối tác muốn in sớm.
-Ờ, để tớ đọc.
Vài hôm sau, vừa nhìn thấy tôi, Nguyễn Khắc Trường tủm tỉm:
-Tớ nói chỉ có đúng, “Tuổi hai mươi yêu dấu” rất thường, phải nói rõ là rất thường, thế mới chán.
Nguyễn Khắc Trường cười thành tiếng, nói bâng quơ:
-Khó lắm, không dễ đâu.
Sau đó, khi bàn vào việc, ông bảo tôi:
-Bảo Thiệp bỏ đi mấy câu về Quốc hội*, câu vè của thằng Trần Đăng Khoa**, gây hấn thế chả đáng. Bỏ đi mấy câu ấy thì cho in, in được. Không hay nhưng cũng nhiều người sẽ quan tâm. Thiệp nó có được cái đó. Nó viết gì bây giờ cũng có người quan tâm. Chứ tớ với cậu thì còn lâu nhé hề hề…
Chả hiểu có thần linh đưa đường hay sao mà mấy ngày sau Nguyễn Huy Thiệp bất ngờ xuất hiện ở phòng làm việc của tôi, lúc đó cả phòng văn học trong nước vẫn ngồi chung. Hóa ra ông và mấy người sắp có chuyến đi Thụy Điển, thành phần có cả Lê Minh Khuê và họ đến chỉ để gặp chị Khuê, bàn về chuyến đi. Trong tình thế đó, tôi thành ra vô duyên. Sau khi chào ông, được ông chiếu cố gật đầu, tôi lại cắm mặt xuống bàn để đọc. Mọi người bàn rôm rả ngay bên cạnh về chương trình gặp gỡ, thăm thú, quà tặng…khiến tôi có chút phân tâm và nói thật cũng thấy chạnh lòng. Tôi bèn tìm cách ra ngoài. Trước khi đi, có lẽ để đỡ gây đột ngột, tôi nói với Nguyễn Huy Thiệp ý kiến của Tổng biên tập, nếu tác giả đồng ý thì có thể đem đi in. Nguyễn Huy Thiệp chả mấy quan tâm, nhưng cũng hờ hững đáp:
-Ông nói với ai thế thì được, chứ không thể nói như vậy với một nhà văn danh tiếng như tôi. Chả in tiếng Việt thì tôi in bằng tiếng Anh. Cuốn đó của tôi mà không in được trong nước, thì khối thằng lãnh đạo cỡ bộ trưởng mất chức chứ đùa, tôi nói trước cho mà biết.
Suýt nữa thì tôi bật cười, không phải do câu nói đầy kiêu ngạo, mà vì cái sự ngây thơ, không biết là thật hay giả vờ của Nguyễn Huy Thiệp. Nếu ông nghĩ thật rằng sách của ông mà không in được trong nước khối thằng lãnh đạo sẽ mất chức, thì có vẻ ông đang sống trên cung trăng. Nhưng chả hiểu sao tôi lại nói với ông thế này:
-Em nghĩ cắt đi câu đó cũng chả hại gì đến tác phẩm. Anh nên đồng ý để in tiếng Việt cho bạn đọc trong nước đọc trước đã. Tiếng Việt mới quan trọng. In tiếng Anh trước làm quái gì, liệu được mấy người quan tâm. Bọn Tây nó vẫn đọc anh em mình bằng tâm thế thực dân, chứ nó chả coi ra gì đâu.
Tôi vẫn luôn nghĩ như vậy, như một quan điểm cá nhân. Khi nói chuyện với sinh viên viết văn, tôi bảo với họ rằng tiếng Việt, với gần một trăm triệu người dùng, xứng đáng là một ngôn ngữ lớn để chúng ta sống chết với nó cả đời. Nhà văn hay bất cứ ai, trước hết phải phấn đấu trở thành người có tiếng nói quan trọng với dân tộc mình cái đã.
(Khi thầy Hoàng Ngọc Hiến còn sống, tôi đã kịp nói ý nghĩ về “tâm thế thực dân của bọn Tây” cho thầy nghe. Thầy nhìn tôi chăm chú hồi lâu rồi hỏi: “Em nghĩ như vậy từ bao giờ?” Tôi đáp: “Em luôn nghĩ thế, càng tin thế khi tiếp xúc với một vài người ngoại quốc, kể từ Đại sứ trở đi”. Thầy Hiến chồm người qua bàn, nắm lấy tay tôi, nói: “Chúc mừng em!” Tiện thể thầy hỏi: “Có phải vì thế mà em không thích đi nước ngoài”? Tôi đáp: “Em có thích chứ, nhưng em chỉ muốn đi với tư cách khách du lịch”. Lần này mắt thầy Hiến sáng rực: “Cậu quá tỉnh táo. Nhiều nhà văn của mình tưởng bở là mình quan trọng, thành ra bị ê chề, chết dở với tư cách khách mời. Nói thế chứ Tây nó vẫn nhìn cánh mình bằng nửa con mắt”.
Sau này tôi tiếp tục mang ý nghĩ của mình tâm sự với nhà phê bình Thụy Khuê nhân chuyến đưa bà về thăm mộ Nam Cao và Tú Xương, thì bà nói luôn: “Tụi nó vẫn thế đấy”).
Trở lại chuyện đang kể. May phúc gặp được “người khổng lồ”, tôi chỉ định tiện thể giãi bày điều nung nấu ấy như một tâm sự gan ruột của đồng nghiệp đàn em, cũng là thay cho lời chào trước khi ra chỗ khác để mọi người đỡ thấy bất tiện. Nào ngờ hôm đó tôi đã khiến Nguyễn Huy Thiệp nổi giận đến mức ông sửng cồ lên với tôi. Ông hướng vào tôi bằng vẻ mặt có phần khinh thường, nói một thôi bằng thứ giọng phẫn nộ thành ra lắp bắp:
-Ông nói y hệt thằng A25 (công an văn hóa). Ông viết thì cũng được nhưng tôi không ngờ ông ăn nói chả khác gì công an. Không ai nghĩ ông lại là người vẫn giữ đầu óc kỳ thị như vậy. Ông làm tôi thất vọng quá. Nhà văn danh tiếng như tôi in đâu mà chả được. Một chữ tôi cũng không cắt.
Tôi đã định nói rằng, người Việt làm gì có quyền kì thị ai, kể cả Lào, nhưng quyết định chấm dứt cuộc chuyện ở đó. Khi ông đang nóng lòng muốn đến thăm quan trước nơi ông tuyệt đối tin tưởng sẽ sớm đặt chân, là Phòng Khánh tiết của Viện Hàn lâm Thụy Điển, thì những lời nói của tôi đúng là còn hơn ếch ngồi đáy giếng lại dám lí sự với trăng sao!
Hôm sau tôi truyền đạt lại nguyên văn lời Nguyễn Huy Thiệp cho Nguyễn Khắc Trường. Ông Tổng biên tập ngồi nghe, tủm tỉm cười, bảo: “Thôi, Thiệp nó kiêu thế thì đành chịu”.
Rồi vỗ đùi cười ầm lên. Ai đã từng quen với kiểu cười đó của Nguyễn Khắc Trường, đều sẽ hiểu ra ông định nói gì.
Từ bấy, Nguyễn Huy Thiệp và tôi hầu như không mặn mà với nhau. Gặp ông tôi vẫn một mực giữ lễ của bậc đàn em “bé tí”. Về phần mình, ông cũng tỏ ra đã “thể tất’ cho tôi phần nào. Tuy thế không bao giờ tôi có mặt trong số những người vây quanh ông.
“Tuổi hai mươi yêu dấu” không in được trong nước mà chả ai bị kỉ luật, mất chức như lời tác giả của nó cảnh báo! Nhưng Nguyễn Huy Thiệp cũng đúng một phần: nó được dịch ra tiếng Pháp và tiếng Anh để in ở những nước có nền văn hóa và xuất bản khổng lồ. Thật đáng đời cho những kẻ ngăn cản tiểu thuyết của ông xuất bản nguyên vẹn trong nước! Đáng đời hơn nữa khi một lần tôi thấy Đài phát thanh Quốc tế Pháp (RFI) giới thiệu trang trọng về “Tuổi hai mươi yêu dấu”, trong đó trích đọc bài đăng trên báo Le Monde. Bài báo ca ngợi tiểu thuyết như một tiếng nói phản biện sâu sắc, mạnh mẽ về các vấn đề chính trị, xã hội nhức nhối ở Việt Nam. Nếu ai chưa biết tí gì về tờ báo Le Monde, thì tôi xin trích hầu một đoạn giới thiệu lấy trong từ điển: “Là một nhật báo bằng tiếng Pháp buổi tối với số lượng phát hành mỗi số đến thời điểm năm 2004 là 371.803 bản. Tờ báo này được xem là báo chuẩn mực Pháp và thường được mọi người rất kính trọng, luôn là tờ báo tiếng Pháp duy nhất có thể mua dễ dàng ở các quốc gia không phải thuộc khối Pháp ngữ”.
Ở trên tôi có nhắc đến hai chữ số phận, khi gắn với mối quan hệ giữa Nguyễn Huy Thiệp và tôi. Nếu bạn nào còn nghi ngờ, cho rằng tôi làm phách, thì nên biết nốt đoạn cuối sau đây: Gần 15 năm năm sau, khi đã lang thang khắp thế giới, “Tuổi hai mươi yêu dấu” lại về nằm hiền lành trên bàn biên tập của tôi. Tôi giữ nguyên những gì từng biên tập, không can thiệp thêm mảy may. Trước khi kí duyệt vào bản thảo để đưa in, nhớ lại lần bị ăn mắng té tát trước đây, tôi bèn đem ra kể với người đại diện của Nguyễn Huy Thiệp cũng là biên tập viên Công ty Nhã Nam, để bày tỏ chút ngại ngần, thì cô ấy bảo với tôi:
-Anh Thiệp bây giờ khác rồi anh ạ. Anh ấy không chờ giải Nobel nữa đâu. Anh ấy đang bệnh tật, in sách chỉ vì cần có tiền. Nếu bắt buộc phải cắt cứa gì thêm, anh cứ theo ý anh đi.
Tự dưng tôi buồn ủ rũ và chỉ muốn khóc, không hẳn vì thương ông nhà văn lớn gặp bước đường cùng về cơm áo, mà nghĩ cám cảnh cả cho cái kiếp văn nhân ở xứ này, trong đó có mình. Đúng là đời chả biết đằng nào mà lần. Người dám mơ đến giải Nobel mà còn thế, huống nữa là mình.
Đường xa ngẫm nỗi sau này mà kinh!
———————-
*Trong sách nhân vật tôi bảo 460 thằng đại biểu quốc hội là 460 thằng ngu.
** Câu vè bị nghi là của Trần Đăng Khoa (trong nguyên bản cũng nói rõ như vậy): NGỒI BUỒN CỞI CÚC XEM CHIM/CÒN HƠN VÀO RẠP COI PHIM NƯỚC MÌNH.
Sau này có dịp, tôi hỏi Trần Đăng Khoa có phải ông là tác giả, thì ông Khoa không công nhận nhưng cũng không bác bỏ, chỉ cười.
Thụy Khuê phỏng vấn, viết và dịch các bài viết về Nguyễn Huy Thiệp
(Bấm vào tựa đề để vào trang Thụy Khuê nghe bài phỏng vấn, đọc các bài viết.)
Nguyễn Huy Thiệp : « Văn học là một sự chiêm nghiệm những đau khổ của con người »
RFI
Để tưởng nhớ tác giả của Tướng Về Hưu vừa từ trần ngày 20/03/2021 tại Hà Nội, RFI phát lại một phần cuộc nói chuyện của Nguyễn Huy Thiệp dành cho nhà báo Bảo Thạch qua hai chương trình đã được phát vào ngày 28/01/2008 và 02/02/2008 nhân dịp ông vừa nhận giải thưởng Văn Học Ý Nonino.
Cuối tháng Giêng 2008 nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ Việt Nam sang Ý nhận giải thưởng văn học Nonino Risit d’Aur Prize. Đó cũng là thời điểm ông cho ra mắt độc giả Paris tập truyện Chú Hoạt tôi được dịch ra tiếng Pháp, rồi một tác phẩm khác của ông được dịch sang tiếng Ý. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã dành cho RFI tiếng Việt hai buổi nói chuyện. Dưới đây là một phần nội dung cuộc trao đổi giữa nhà báo Bảo Thạch với tác giả của rất nhiều truyện ngắn, của những tiểu thuyết như Tuổi 20 Yêu Dấu, Gạ Tình Lấy Điểm hay Tiểu Long Nữ.
Trước hết nhà văn Nguyễn Huy Thiệp giới thiệu qua về giải thưởng Nonino của văn đàn Ý mà ông được trao tặng năm 2008. Chủ tịch ban giám khảo năm đó là giải Nobel Văn Học Vidia Naipaul và thành phần ban giáo khảo gồm với những tên tuổi lớn trên văn đàn quốc tế.
Nguyễn Huy Thiệp : Ở Ý hàng năm có 1.500 giải thưởng khác nhau, nhưng Nonino là giải rất có uy tín. Tiếp xúc với các tác giả danh tiếng tại châu Âu tôi đã nhận ra được rất nhiều điều. Chúng tôi luôn luôn thống nhất và gặp gỡ nhau ở những điểm rất chung về văn học, về những suy nghĩ về văn học. Trong thâm tâm, tôi rất mừng rỡ vì cảm thấy mình đã chọn con đường đi đúng đắn. Không có gì phải mặc cảm. Không có gì phải lo ngại nếu như cứ tiếp tục con đường văn học với những tinh thần nhân đạo hay với những tư tưởng mà mình đã xác định ngay từ đầu. Văn học là một sự chiêm nghiệm nỗi đau khổ của con người và nó đi tìm những tư tưởng nhân đạo, những tinh thần nhân đạo. Đó là cái chức năng duy nhất của văn học chứ nó không phải là những thứ khác (…) Đó là một khía cạnh và là khía cạnh cơ bản nhất. Chính trải qua những sự chiêm nghiệm về nỗi đau khổ của con người đấy, nó tìm đến cái tư tưởng, đến tinh thần nhân đạo, nó khiến con người trở nên con người hơn. Tức là sống với nhau một cách tử tế hơn, lương thiện hơn, văn hóa hơn. Và tôi nghĩ đấy chính là một trong những điều rất quan trọng mà nhà văn phải vươn tới chứ không phải là ở một cái danh vị hão huyền, chứ không phải ở những cái đồng tiền bạc vớ vẩn hay những chuyện a dua theo các tinh thần chính trị khác nhau.
Bảo Thạch : Gần đây trong nước có xuất bản một tập truyện của anh vào giữa năm 2007 và trong lời tựa anh viết đại ý là trong cuộc đời viết văn của anh, sau truyện ngắn Sang Sông, thì đã có một thay đổi lớn trong quan niệm của anh, cũng như phong cách viết của anh ?
Nguyễn Huy Thiệp : Trong quá trình viết văn thì cũng không có nhiều chặng đường khác nhau. Tôi bắt đầu xuất hiện từ khi có cuộc Đổi Mới trong xã hội Việt Nam, tức cỡ khoảng độ 1986-1987. Đến nay là tôi đã trải qua 20 năm viết lách. Cũng có thể nói là đã có sự khuynh đảo nào đấy ở trong văn đàn ở Việt Nam. Thì cũng có nhiều chặng khác nhau anh ạ. Trong giai đoạn đầu khi tôi viết, có thể là nó mang tính chất bản năng từ những thứ tự nhiên trong lòng mình thôi. Đó là giai đoạn từ khoảng năm 1986 đến 1991. Từ Sang Sông, tức là đến giai đoạn sau này, từ 1991 trở đi cho đến khoảng năm 2000 thì là một giai đoạn khác. Tôi không chỉ viết bằng bản năng nữa mà lúc đó là viết bằng cái vốn văn hóa của mình, bằng kinh nghiệm cuộc sống, rồi với việc tôi gặp gỡ đạo Phật. Lúc đó tinh thần hay những tác phẩm của tôi nó khác. Đến giai đoạn từ năm 2000 trở đi, khi thế giới thay đổi, internet vào Việt Nam, rồi nhiều vấn đề khác đặt ra trong xã hội đối với xã hội cũng như văn học Việt Nam. Trong bản thân tôi cũng có nhiều suy nghĩ. Đó là giai đoạn mà tôi bắt đầu thể nghiệm một số lối viết khác nhau. Cho đến bây giờ, tôi vẫn kiên trì đi theo một số khuynh hướng hay những lối viết khác nhau của mình. Ngoài việc viết truyện, tôi cũng viết cả kịch, tiểu luận văn học … Nhân cuốn sách anh vừa nói, năm ngoái, tôi bị tim hẹp động mạch vành, phải đi cấp cứu ở bệnh viện. Tôi cũng chán nản và có ý định thôi, dọn dẹp tất cả sự nghiệp văn học của mình cho nên mới in lại tuyển tập truyện ngắn. Nhưng sau đó tôi nhận ra một điều : trong quá trình sống cũng là quá trình mà chúng ta phải tập chết. Phải tập chấp nhận những điều để tiến tới cái chết. Tôi phải tự chung sống với bệnh tật, phải tự tập luyện, tự phải vượt lên. Gần đây thì cũng có sự thanh thản hơn, nhất là khi mà tác phẩm của mình được quảng bá một cách rộng rãi, được đón nhận một cách rất nhiệt tình ở trong nước cũng như ở ngoài nước, rồi lại được nhận những giải thưởng giá trị như Nonino này nữa.
Bảo Thạch : Tôi vẫn nhớ anh tiết lộ « người viết văn như cầm một thanh kiếm ». Nguyễn Huy Thiệp vẫn giữ tinh thần đó ?
Nguyễn Huy Thiệp : « (Cười). Đó là trường văn trận bút mà anh ! Đây không chỉ là trường hợp của tôi. Khi tôi nói chuyện với Magris, thậm chí với Naipaul – giải Nobel Văn Học 2001 và chủ tịch ban hội đồng giám khảo Nonino thì cũng vậy thôi. Họ đều có kinh nghiệm riêng ở trường văn trận bút. Không chỉ có ở Việt Nam mới có những chuyện đố kỵ, ghen tị trong văn chương. Chuyện đấu tranh trong văn chương, ở Ý cũng có, ở Ai Cập, Anh, Mỹ, Pháp … cũng vậy. Và một tác giả cũng phải biết bảo vệ tác phẩm của mình. Trong truyện chưởng ở Trung Quốc có câu ‘đa tình kiếm khách vô tình kiếm’ : người cầm bút cũng như một kiếm thủ. Có thể là bản thân con người đó thì rất tình cảm thôi. Nhưng khi cầm kiếm hay cầm bút thì đó là những thứ rất vô tình. Cái kiếm nó rất vô tình. Cái bút nó rất vô tình. Nhiều khi cũng gây sát thương, gây tổn thương nào đấy cho đồng nghiệp của mình, cho người nọ người kia. Nhưng đời nó là như thế.
Bảo Thạch : Được gặp Nguyễn Huy Thiệp tại Paris, tôi không khỏi nhớ đến lần được gặp anh cách nay 20 năm tại Hà Nội. Khi đó văn đàn Hà Nội đang rúng động vì truyện ngắn Tướng Về Hưu.
Nguyễn Huy Thiệp : Tướng Về Hưu là một trong những truyện rất đặc biệt. Nó có thể là một cái mốc trong cuộc đời hoạt động văn học của tôi. Giống như những truyện khác của tôi, nó có phần thực và hư. Cũng có những truyện 7 thực- 3 hư, hay 5 thực-5 hư, hay 9 thực-1 hư. Nhưng gần như là những truyện ngắn của tôi bao giờ cũng có bóng dáng của sự sống, có bóng giáng của đời sống : đời sống của bản thân tôi hay của cái xã hội mà tôi quan sát. Tướng Về Hưu là truyện trong đó có đầy đủ ái ố, hỷ nộ, chuyện vui, chuyện buồn… Qua 20 năm rồi, cho đến bây giờ đọc lại, người ta vẫn thấy là nó có một cái sự tiết chế một cách tối đa, kể cả về ngôn ngữ viết lẫn tinh thần kìm nén của người viết. Xã hội Việt Nam lúc đó nó thế. Đó là một xã hội đang kìm nén, chất chưa trong đó rất nhiều sức mạnh tiềm ẩn về tinh thần rồi về vật chất khác nhau. Nói thế này thì hơi duy tâm, nhưng tôi cũng như là được thời thế, được trời đất, được tinh thần của xã hội lúc đó mượn mình vào đấy như là để viết ra tác phẩm đấy thôi (…) Trong một buổi nói chuyện tại Sài Gòn với nhà văn Nguyễn Khải ông có nói là khi đọc Tướng Về Hưu, đối với ông, nó rất là thảng thốt. Ông cảm thấy như không phải là người viết, mà như là trời xui đất khiến. Thậm chí như là ma quỷ viết … Tôi không biết. Nhưng tôi là một nhà văn luôn luôn tôn trọng cái hiện thực.
Truyện Nguyễn Huy Thiệp: Trần trụi, đau xót mà bay bổng
RFI
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời ngày 20/03/2021. Trong hơn 40 năm viết văn, ông đã để lại một di sản lớn. Đối với nhiều người yêu văn chương, truyện ngắn là cống hiến quan trọng nhất trong di sản của bậc thầy văn chương.
Nhà phê bình văn học Ngô Văn Giá là một người hâm mộ văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Ngô Văn Giá cũng là người gần gũi với Nguyễn Huy Thiệp trong giai đoạn cuối đời (*). Trả lời RFI Tiếng Việt qua điện thoại từ Hà Nội, nhà phê bình Ngô Văn Giá chia sẻ nhận định chung của ông về một số cống hiến, mà theo ông là quan trọng nhất trong di sản truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
« Thế giới nhị nguyên » tan vỡ, thần tượng giải thiêng
Nhà phê bình Ngô Văn Giá : Trong vòng 10 năm chói sáng, quãng từ 1987 đến 1997, khoảng thế thôi, anh ấy đã để lại trên dưới 60 truyện ngắn. Truyện ngắn của anh không có trung bình. Đấy là điều khẳng định luôn. Truyện nào đọc cũng được, và cũng có cái để nghĩ, có cái để đối thoại, có cái để tác động vào người đọc. Nhưng để chọn ra những cái trội nhất, có ý nghĩa đỉnh cao trong sáng tác đỉnh cao của anh ấy, và cũng là đỉnh cao của thể loại truyện ngắn của nền văn xuôi Việt Nam đương đại, anh ấy có chừng trên 20 truyện. Chúng ta có thể kể ra « Những ngọn gió Hua Tát » chẳng hạn. Sau đó là « Tướng về hưu », « Muối của rừng », « Chút thoáng Xuân Hương », « Mưa Nhã Nam », « Sống dễ lắm », « Chảy đi sông ơi », « Huyền thoại Mẹ », « Những bài học nông thôn », « Những người thợ xẻ »…
Còn bây giờ đi vào những đóng góp tư tưởng nghệ thuật, thi pháp, tôi ghi nhận một số khía cạnh như thế này. Khía cạnh đầu tiên là, với sự xuất hiện hàng loạt, cùng một lúc một số truyện như « Tướng về hưu », « Muối của rừng », « Chút thoáng Xuân Hương », « Huyền thoại Mẹ » và nhất là chùm ba truyện ngắn lịch sử : « Vàng lửa », « Phẩm Tiết », « Kiếm sắc », Nguyễn Huy Thiệp đã thiết lập một cái nhìn, một quan niệm về đời sống, phá tan cách nhìn bổ đôi ngày xưa. Bên này tốt – bên kia xấu, bên này thiện – bên kia ác, bên này địch – bên kia ta. Các nhà văn phần lớn đều như vậy, sau này có rục rịch một chút, nhưng về cơ bản vẫn như thế. Nhưng đến Nguyễn Huy Thiệp, thì « thế giới » tan hoang cả, phân mảnh, vỡ vụn ra. Cuộc sống là đa diện : tốt pha xấu, thiện pha ác, quỹ dữ pha với thiên thần, và cái này có thể nay tốt mai thành xấu, phẩm chất đang ở « thời chiến » được coi là tốt, sang « thời bình » thành lạc thời… Như vậy, để nói là quan niệm của ông nhìn về thế giới, về hiện thực đời sống, nó khác lắm rồi.
Cái thứ hai là, cũng cùng một quan niệm, nhưng về lịch sử. Anh ấy nhìn lịch sử với tư cách một người phân tích, và đưa ra những kiến giải lịch sử theo cách của mình, chứ không phải là cách người khác muốn, và không có sự áp đặt nào cả. Nhất là với bộ ba truyện « Vàng lửa », « Phẩm Tiết », « Kiếm sắc », đó là một cái nhìn gần, cận cảnh, xét đoán con người trên phương diện con người, bản năng, bản thể, cá nhân. Ví dụ như một Quang Trung hiện ra, trước kia vốn được thuần túy ngợi ca như một anh hùng bách chiến, bách thắng, đẹp lộng lẫy, được thần thánh hóa. Bây giờ thì không. Quang Trung ngoài cái phần đó còn là cận cảnh Quang Trung đời thường, yêu đương, bộc lộ cả những cái rất đời thường. Như vậy, đó là cách ông ấy giải huyền thoại, kéo nhân vật về đời thường.
Cái thứ ba là sự phối hợp lạ lùng, nhuần nhuyễn – điều mà cho đến nay vẫn chưa có được sự lý giải thỏa đáng – giữa tính chất cực kỳ trực diện, cực thực, dữ dội, trần trụi, không kiêng kỵ bất cứ cái gì, kể cả những ngôn từ bị coi là tục tĩu, gọi sự vật đúng với tên gọi của nó trong đời sống, phối hợp với một lối viết vô cùng trữ tình, đầy chất thơ, lãng mạn, bay bổng. Tôi thấy lối viết như vậy nó đẩy người ta vào sự đau đớn, cái sợ hãi, cái ghê rợn, nhưng đồng thời nó lại cứu người ta ra khỏi đó, để bước vào một cái gì đó trong trẻo, thanh khiết. Đó là một cái điều cũng rất là lạ. Cho đến nay, người ta vẫn chưa nói được hết, chưa khẳng định được hết (khi nói về văn chương Nguyễn Huy Thiệp).
Cái ác, nữ tính và thiên nhiên
RFI : Xin ông cho biết một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kỳ lạ này ạ.
Nhà phê bình Ngô Văn Giá : Thí dụ ta lấy truyện ngắn « Những người thợ xẻ » nhé (tác phẩm công bố năm 1988) ! Ông tập trung mô tả một gánh xẻ gỗ thuê, trong đó có một phụ nữ đi cùng với nhóm đàn ông, và nhân vật tôi nữa. Trong đó, tất cả những người làm nghề sơn tràng có tính khí cực kỳ cục cằn, dữ dội, thô bạo. Đó là những người gần với chất thô sơ bản năng, lục lâm thảo khấu. Họ đối xử với nhau một cách rất trắng trợn, thực dụng, dữ dội. Nhưng đó là đàn ông với nhau. Một khi có người đàn bà ở đấy, người đàn bà nhìn họ, cho dù đó là những người lỗ mãng đấy, phàm phu tục tử đấy, có chất lỗ mãng, hoang dã man rợ ấy, nhưng trong cái nhìn của người đàn bà thì họ lại rất đáng thương. Và cái thiên tính nữ, bản năng che chở của người nữ hiện lên. Đấy chính là cái suối nguồn mát lành.
Miêu tả con người là thế, miêu tả thiên nhiên đẹp vô cùng. Tôi vẫn còn nhớ một câu kinh điển, như một giai điệu trở đi trở lại. « Này hoa ban nghìn năm trước mày vẫn trắng thế này ư ? ». Rồi đến một đoạn khác : « Này hoa ban nghìn năm sau mày còn trắng thế này không ? ». Miêu tả những cánh rừng như vậy nó hùng vĩ, con người đi trong đó cô độc, như muốn hòa vào lòng từ bi, mẫu tính của người nữ, để như dịt lại những vết thương, hoặc cứu chuộc lại những tính người đã bị rơi vãi, hao hụt, mất mát ở những con người thô lỗ, hoang dã kia.
Sự phối hợp lạ lùng giữa lối viết cực thực, trần trụi, cực kỳ dữ dội, không kiêng kỵ, với văn phong vô cùng thanh thoát, trữ tình, bay bổng, lãng mạn có thể coi là điểm hết sức riêng trong di sản văn chương Nguyễn Huy Thiệp, như nhà phê bình Ngô Văn Giá vừa gợi mở. Sáng tác văn chương thường là câu chuyện hết sức riêng tư, đầy bí ẩn và chắc chắn là vô cùng phức tạp, khó lý giải. Một số người cho đó là « thiên tài » riêng của Nguyễn Huy Thiệp, khó lòng xét đoán. Tuy nhiên, nhiều người cũng đặt câu hỏi : vì sao một phong cách kỳ lạ như vậy đã hình thành ở Nguyễn Huy Thiệp ?
Ngôn ngữ của nông dân, muối của văn
Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn, tác giả một luận án tiến sĩ về văn Nguyễn Huy Thiệp dưới góc độ « nhân học văn hóa » và nhiều bài viết về Nguyễn Huy Thiệp (**), đặc biệt chú ý đến một số tiểu luận văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Trả lời RFI, ông Mai Anh Tuấn chia sẻ.
Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn : Theo quan sát của tôi, có 5 tiểu luận rất quan trọng được Nguyễn Huy Thiệp công bố trong một giai đoạn từ 1989 đến 1992, tức là giai đoạn ông sung sức nhất, tạo nên hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp trên văn đàn. Đó là « Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn » (1989), « Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn » (1991), « Nhà văn và bốn trùm ”Mafia” » (1992), « Con đường văn học » (1992) « Con đường của nhà thơ » (1992). Có thể nói các tiểu luận quan trọng nhất xuất hiện trong giai đoạn của cái mà ông gọi là Tâm tuyệt, Khí tuyệt, tức là thời gian ông đã dồn hết sức lực và sự tinh anh của mình vào sáng tác.
Trong số các tiểu luận văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn quan tâm nhất đến hai tiểu luận « Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn » và « Nhà văn và bốn trùm ‘‘Mafia’’ ». Ông Mai Anh Tuấn cho biết sơ lược ý nghĩa của hai tiểu luận này.
Nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn :Tôi thấy nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rất tâm đắc với bài « Nhà văn và bốn trùm ”Mafia” » hoặc « Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn ». Cá nhân tôi xin được chia sẻ ngắn về hai tiểu luận này. Có hai điểm tôi tâm đắc trong « Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn ». Thứ nhất, ông nhấn mạnh đến tuổi thơ gắn bó, lớn lên ở nông thôn, và ông ấy học được ngôn ngữ của người bình dân lao động. Và cách nói, cách diễn đạt đó tác động ít nhiều ảnh hưởng đến lối hành văn sau này của Nguyễn Huy Thiệp. Tôi cho rằng, ngoài ảnh hưởng của văn xuôi cổ điển, chắc chắn phải có ảnh hưởng của lối tư duy, diễn đạt của người bình dân, không làm chữ, không làm màu, đi thẳng vào đối tượng, vì thế chúng ta thấy nó cũng gây ra nhiều phản ứng, thậm chí là những quy kết không hề nhẹ nhàng đối với văn chương của Nguyễn Huy Thiệp.
Thứ hai là trong tiểu luận này, ông có nói một cái ý, nhà văn viết phải rắc một ít muối đâu đó trên trang viết. Ông nói : Muối sát vào lòng người đọc một, thì sát vào lòng người viết 10 lần. Theo ông, văn học ở ta rất ít muối.
Còn trong tiểu luận « Nhà văn và bốn trùm ”Mafia” », ông nói có bốn trùm « Mafia » bao lấy nhà văn, khiến nhà văn khó có thể thoát ra được. Đó là chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn trùm này làm cho văn chương, làm cho con người luôn phải nhận thức, luôn phải cảnh giác với các hiểm nguy. Nhà văn nào, tác giả nào có khả năng đối diện với nó, có khả năng hiểu thấu nó, thì nhà văn đấy đi được xa.
Trong tiểu luận của Nguyễn Huy Thiệp, ông có nói : nhà văn có sự nhạy cảm khủng khiếp với sự nhục mạ nhân phẩm. Ông nhìn thấy nhà văn như một cá thể cô đơn. Ông có đặt ra như một định nghĩa : Nhà văn là gì ? Nhà văn chẳng là gì cả ! Nó chỉ là một linh hồn nhỏ đầy lầm lỗi và luôn tìm cách sám hối để vượt khỏi lầm lỗi ấy. Nó là một con vật nhạy cảm một cách đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn. Nó viết không phải vì nó. Nó viết để cả bầy đoàn rút ra một lợi ích công cộng và lợi ích văn hóa.
Sự mong manh của nhân tính và sứ mạng của nhà văn
Trong tiểu luận « Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn », được nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn phân tích ở trên, Nguyễn Huy Thiệp tâm sự : « Nhưng tác phẩm dù hay ho đến đâu chăng nữa, nhà văn cũng sẽ hiện ra trước mắt chúng ta như một người nông nổi, một người nông nổi hết sức đáng thương, một kẻ bất hạnh nhưng tốt bụng. Người ta cũng đã từng vẽ hình ảnh Chúa với những nét hao hao như thế ». Sự mong manh của nhân tính, con đường cô đơn tột cùng, sự thăng hoa trong đau đớn của người sáng tác – cảm nhận xuyên suốt trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp – bắt đầu được chú ý trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam những năm gần đây (***).
Sinh thời, trong một số lần trả lời phỏng vấn, Nguyễn Huy Thiệp cho biết truyện ngắn « Sang Sông » (1991) đánh dấu việc ông bước qua một giai đoạn khác trong sáng tạo. Câu chuyện diễn ra trong bối cảnh một chuyến đò ngang, với các nhân vật « một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, một tên cướp, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ con, một cặp tình nhân và chị lái đò », có thể coi như một ẩn dụ về Nguyễn Huy Thiệp.
Câu chuyện – với đỉnh điểm là cảnh cậu bé bị kẻ buôn đồ cổ kề dao vào cổ, « tên cướp » tung côn đập vỡ bình cứu trẻ – kết thúc với cảnh nhà sư từ bỏ lộ trình đã định, để trở về cùng chuyến đò ngang. « Trăng lên, tiếng chuông ngân nga êm đềm. Nhà sư thầm thì đọc câu thần chú: – Gate gate! Para gate! Para para san gate! ». Con người đã đi qua chuyến đò, vượt được sông, nhưng quyết không rời bỏ chuyến đò nhân sinh.
RFI : Xin cảm ơn nhà phê bình Ngô Văn Giá và nhà nghiên cứu Mai Anh Tuấn.
—
Ghi chú
(*) Ngô Văn Giá, « Nguyễn Huy Thiệp trở lại Hua Tát », Tiền Phong, 27/08/2017.
(**) Mai Anh Tuấn, « Nguyễn Huy Thiệp, bởi những trải nghiệm riêng khác », Tia Sáng, 21/06/2016 hay « Nguyễn Huy Thiệp : Không ai lí giải được gì về nó, cái sự sống vô cùng vô tận ấy », maianhtuan.wordpress.com, 26/07/2017.
(***) Trần Văn Toàn, « Nhà văn hiện đại Việt Nam : Những giới hạn và sứ mệnh (suy tư từ những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp) » in trong « Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy », NXB Giáo dục 2006.
RFI: Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời
RFI
Theo báo chí trong nước, trích dẫn nguồn tin từ gia đình, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vừa qua đời vào chiều nay, 20/03/2021, tại nhà riêng, sau một thời gian dài chống chọi với bệnh tật sau cơn đột quỵ, hưởng thọ 72 tuổi.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 20/04/1950 ở Thái Nguyên ( thật ra quê quán của ông là Thanh Trì, Hà Nội ), nguyên là một thầy giáo ở miền núi phía Bắc. Ông được coi là một trong những nhà văn lớn của Việt Nam thời kỳ sau chiến tranh, với tên tuổi gắn liền với các truyện ngắn như Tướng về hưu, Muối của rừng, Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê, Sang sông. Ngoài ra, ông còn viết bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết…
Gây xôn xao dư luận nhiều nhất vẫn là tác phẩm Tướng về hưu, lần đầu được in trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1987 đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học vào thời ấy.
Nguyễn Huy Thiệp còn là tác giả nhiều tiểu thuyết, kịch bản, thơ, tiểu luận. Ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản gồm: Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm, Tuổi 20 yêu dấu.
Nhưng từ khoảng hơn 10 năm nay, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã hầu như không sáng tác gì mới, chỉ vui hưởng tuổi già với con cháu.
Một số tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Pháp như “Un général à la retraite” ( Tướng về hưu ), éditions de l’Aube, 1990, hay “À nos vingt ans” ( Tuổi 20 yêu dấu ), éditions de l’Aube, 2005.
Tuổi hai mươi yêu dấu của Nguyễn Huy Thiệp
(Bấm vào tựa đề để đọc tiểu thuyết này.)