Lê Hồng Minh
6 tháng 2, 2023
Ngày 20 Tháng Ba 1971, nhạc phẩm chủ đề của phim “Love Story” (“Chuyện tình”) nhảy vọt lên đứng đầu bảng xếp hạng của thị trường nhạc nhẹ Hoa Kỳ, và ngự trị trên đỉnh cao này liên tục trong suốt một tháng! Nhiều nhà phê bình âm nhạc cho rằng “Love Story” là một bản nhạc xuất sắc, gọi là kiệt tác là xứng đáng.
Còn Viện Phim ảnh Hoa Kỳ (American Film Institute) thì bình chọn đây là tác phẩm nằm trong TOP 10 của 100 bản nhạc phim hay nhất mọi thời đại. Nhạc phim “Love Story” đứng hạng thứ 9, xếp sau các nhạc phim kinh điển như “Casablanca”, “Cuốn theo chiều gió”, “Bác sĩ Zhivago”!
___________________
Bản nhạc chủ đề gắn liền với bộ phim này đến nỗi rất ít có ai còn nhớ tựa bài hát ban đầu của nó là “Where do I begin” (“Bắt đầu từ đâu”). Nhưng khi nghe những nốt nhạc dạo đầu trỗi lên, có lẽ mọi người đều nhận ra ngay và gọi đó là bài “Love Story”. Đó là khoảng không của một giai điệu nhẹ nhàng lãng mạn, miên man đến dịu dàng, đã gieo vào hồn người một chút cảm giác bâng khuâng, một thời xao xuyến rung động. Những nốt nhạc cứ trầm trầm khiến cho tâm hồn thoáng buồn, trong lòng loanh quanh khoảnh khắc tơ vương.
Thực ra Francis Lai sáng tác cho phim là nhạc nền, không có lời; sau khi phim công chiếu, ở bên Mỹ ông Carl Sigman viết lời bằng tiếng Anh, ở bên Pháp bà Catherine Desage viết lời bằng tiếng Pháp, hai lời này độc lập với nhau, không phải là bản dịch của nhau và khác biệt lớn nhất ở chỗ: Lời tiếng Anh là lời của chàng trai, còn trong tiếng Pháp lại là lời của cô gái (sắp từ giã cõi đời).
Những người hát thành công nhất là hai danh ca Andy Williams và Shirley Bassey. Ca khúc này cũng đã chu du vòng quanh thế giới với gần 800 phiên bản và được chuyển lời sang 25 thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt. Phiên bản tiếng Việt “Chuyện tình”, do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với ca từ quen thuộc “Biết dùng lời rất khó…”.
SỐ PHẬN LẠ KỲ
Như đã chia sẻ, trước khi trở thành một bản tình ca nổi tiếng ướt đẫm nước mắt như mọi người đã biết, nhạc phẩm “Love Story” trước hết chỉ là giai điệu chủ đề bộ phim của đạo diễn Arthur Hiller. Bộ phim này ra mắt khán giả vào ngày 16 Tháng Mười Hai 1970, dựa theo quyển tiểu thuyết vô cùng ăn khách của Erich Segal. Khởi đầu, nó được viết như một kịch bản phim, nhưng “Love Story” chẳng rõ vì sao lại không được bất cứ một hãng phim nào mua bản quyền cả.
Sau đó tác giả phải viết lại thành truyện ngắn để đăng trên báo, rồi từ đó được hoàn chỉnh trở lại để chuyển thành một quyển tiểu thuyết dày 127 trang, phát hành đúng vào ngày “Lễ tình yêu Valentine” năm 1970. Erich Segal (1937-2010), dù là gương mặt không hề xa lạ với giới xuất bản hồi đó và cả sau này, nhưng ông là nhà văn chỉ nổi tiếng nhờ một tác phẩm duy nhất vừa kể trên, cho dù ông đã sáng tác nhiều cuốn truyện sau đó. Chính con gái của Erich Segal đã tâm sự: “Có hai thứ làm nên cuộc đời của cha tôi – đỉnh cao và vực thẳm, đó là tiểu thuyết Love Story và căn bệnh Parkinson”!
Khi hãng phim Paramount công chiếu phim “Love Story” vào mùa Đông năm 1970 (với Ryan O’Neal vai Oliver và Ali MacGraw vai Jenny), dù được dự báo nó trở thành một quả bom tấn làm nổ tung mọi kỷ lục trước đó về doanh thu nhưng có lẽ chắc những ông chủ của hãng phim cũng không ngờ xuất phẩm của họ làm thổn thức rung động hàng triệu con tim trên thế giới như vậy, với câu chuyện thương tâm của đôi tình nhân trẻ, yêu nhau ở trường đại học, nhưng lại bị gia đình cấm cản ngăn cách.
Motif tình dang dở trái ngang giữa Jenny – một nữ sinh nhà nghèo, với Oliver – chàng trai con nhà giàu trở thành tấn bi kịch đẫm lệ, chắc cũng không quá xa lạ nhưng chính ca khúc chủ đề, hoặc lời thoại của phim… đã trở thành một trong những câu nói bất hủ của lịch sử điện ảnh Mỹ!
Một chi tiết khá thú vị là câu thoại nổi tiếng trong phim đã ăn sâu vào tâm trí người xem và thậm chí “tràn” ra cả cuộc sống thực tế của nhiều thế hệ, câu “Love means never having to say you’re sorry” (tạm dịch “Yêu là không bao giờ phải nói lời xin lỗi”)!
Câu thoại nổi tiếng này được mọi người biết “Love means never having to say you’re sorry/Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói lời hối tiếc” thực ra là một lỗi của diễn viên khi nói sai trong kịch bản, lẽ ra phải là “Love means not ever having to say you’re sorry”.
Viện Phim Mỹ đã xếp câu thoại trên ở vị trí thứ 13 trong top 100 lời thoại kinh điển nhất lịch sử màn ảnh. Không chỉ xuất hiện trong nhiều bài hát và tựa phim sau này, câu nói trên phổ biến đến mức trở thành tuyên ngôn mạnh mẽ cho tình yêu, được dùng trong nhiều đám cưới, bức thư tình.
___________________
Một trong những nguyên nhân khiến bộ phim tình cảm ướt át này được yêu mến đến vậy là nhờ phần nhạc của bộ phim, xâm chiếm hết cảm xúc của công chúng. Ca khúc này mỗi lần nghe lại đều mang đến cho ta một giai điệu nhẹ nhàng lãng mạn, miên man dịu dàng, gieo vào hồn người chút cảm giác bâng khuâng, để nhớ về một thời xao xuyến rung động. Những nốt nhạc trầm khiến cho tâm hồn thoáng buồn, trong lòng khoảnh khắc tơ vương.
Hẳn phải có đến hàng triệu triệu người thuộc nhiều thế hệ nằm lòng những giai điệu của bài hát (“Where do I begin”) – “Love Story” – dù có thể thậm chí chưa xem qua bộ phim kinh điển này bao giờ. Thật kỳ lạ, đây là một trong những bài hát nhạc dành cho phim mà số phận của nó lại không cần phụ thuộc vào bộ phim nó thuộc về, hay nói đúng hơn, nó đã vượt ra khỏi chức phận của một bản nhạc phim, có đời sống độc lập, và dường như “trẻ mãi không già”!
Stanley Jaffe, ông chủ hãng phim Paramount khi giao đề bài cho nhạc sĩ người Pháp, Francis Lai, người soạn nhạc cho phim “Love Story”, nói ngắn gọn như ra lệnh: “Không cần lời, chỉ cần giai điệu”! Câu chuyện ly kỳ có lẽ đã bắt đầu từ đây…
NGƯỜI CHA ĐẺ FRANCIS LAI
Trước khi đến Paris lập nghiệp, nhạc sĩ Pháp Francis Lai (1932-2018) đã tốt nghiệp nhạc viện thành phố Nice. Thời thanh niên sôi nổi, ông trau dồi thêm nhạc lý với nhiều bậc đàn anh, trong đó có Bernard Dimey, người được xem là hướng dẫn ông trong lĩnh vực sáng tác nhạc phim. Những năm 1950, Francis Lai tách ra khỏi xu hướng hiện thực của dòng nhạc Pháp, và ở thời điểm những năm 1960, ông đã nổi tiếng khắp thế giới như là một trong những gương mặt tiêu biểu của trường phái lãng mạn.
Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông đã viết khoảng 600 bài hát và hơn 100 ca khúc cho phim. Thật ra, ông đã thành danh trong làng nhạc quốc tế từ năm 1966, nhờ soạn ca khúc chủ đề của bộ phim “Un homme et une femme” (tạm dịch “Một người đàn ông và một người đàn bà”) của đạo diễn Claude Lelouch. Phim này từng đoạt Cành cọ vàng tại Cannes và bốn giải Oscar. Từ năm đó trở đi, ông rất bận rộn với công việc do được nhiều đạo diễn mời hợp tác.
Ngoài nhạc phim, ông còn sáng tác rất nhiều ca khúc ăn khách trong lĩnh vực nhạc nhẹ. Tính tổng cộng, có trên dưới 60 nghệ sĩ tên tuổi từng hát nhạc của ông, từ danh ca Edith Piaf, Dalida, Aznavour, Patricia Kaas – phía nhạc Pháp; tới các bậc thượng thặng như Ella Fitzgerald, Elton John hay Carly Simon – phía nhạc Anh-Mỹ.
Với ca khúc “Love Story” do Andy Williams và Shirley Bassey lần lượt thể hiện, ông đã giành được một tượng vàng Oscar năm 1971 ở hạng mục “Ca khúc nhạc phim xuất sắc nhất”. Cũng trong năm 1971, bài hát này cũng mang về cho ông giải Quả cầu vàng danh giá.
Trong Francis Lai tồn tại một quan niệm khá độc đáo rằng, âm nhạc là thứ ngôn ngữ không biên giới, nên có thể chẳng cần đến ca từ mà nó vẫn có thể ăn sâu vào lòng người! Hầu hết bản nhạc (kể cả bài “Love Story”) do ông sáng tác đều không có lời, ca từ bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh chỉ được đặt sau đó mà thôi, và thường do những người khác đặt. Ông thố lộ rằng sở dĩ ông ưa nhạc không lời là xuất phát từ việc ông rất mê nhạc jazz!
Francis Lai góp phần vào thành công của hơn 100 bộ phim với những ca khúc chủ đề đi vào lòng người và nhiều người nhận định rằng, chỉ với một vài nốt nhạc thôi, Francis Lai đã làm cho các bộ phim trở nên đẹp đẽ và gây xúc động hơn. Chính vì thế những ca khúc bất hủ của vị nhạc sĩ được mệnh danh “ông vua của những câu chuyện tình” này đã luôn có chỗ đứng để mãi ngân nga trong trái tim của nhiều thế hệ người yêu nhạc từ trước đến giờ!
5 NỐT THỔN THỨC KHÔNG BAO GIỜ CHẾT
Sau khi nhận “đơn đặt hàng” của chủ hãng phim Paramount, Francis Lai tìm được giai điệu của khúc nhạc “Love Story” vào lúc… nửa khuya. Ban đầu ông định sáng tác trên bốn nốt nhạc căn bản ấy, nhưng nghĩ lại nếu làm như vậy thì thấy gần giống với cấu trúc của một giai điệu vô cùng ăn khách đã trở nên đình đám hai năm về trước là nhạc phẩm chủ đề của bộ phim “Romeo & Juliette” (“A time for us” của Nino Rota).
Do vậy trong câu mở đầu của mỗi đoạn, ông cho thêm một nốt nhạc nữa, biến thành năm, trong khi các câu kế tiếp chỉ có bốn, nhưng có lẽ cũng vì thế mà giai điệu trở nên lâm ly hơn. Vì sự thêm vào một nốt nhạc này, mà đến tận hàng thập niên sau, bản nhạc này vẫn “đẹp không tì vết”, phần lớn cũng vì giai điệu tự nó đã đứng vững, không lời mà vẫn lôi cuốn lạ thường. Nhiều người đúc kết rằng mỗi bài hát thì sẽ cũng sẽ có những giai thoại nào đó đi theo nó, nhưng với trường hợp của “Love Story”, bản tình ca này đã trở thành huyền thoại!
Bộ phim “Love Story” có tiết tấu khá nhẹ nhàng trên giai điệu dìu dặt của bản nhạc nền đó, và đây được xem là điều ấn tượng. Đạo diễn phim đã sử dụng một hình ảnh cho cảnh ban đầu phim và lúc bộ phim kết thúc: Một người đàn ông ngồi đối diện hàng rào trong công viên tuyết phủ trắng. Anh ta vừa mất đi một người yêu anh nhiều hơn bản thân người đó, và anh cũng yêu người đó hơn chính bản thân mình. Nhưng, anh vẫn tự nhủ: “Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói hối tiếc”.
Chính vì khá đắt “show” viết nhạc cho phim (điển hình là bài hát trong những bộ phim diễm tình như “Bilitis”, “Emmanuelle” rất được yêu thích) nên Francis Lai đã có tới hai lần từ chối khi hãng phim Paramount có dự án chuyển thể tiểu thuyết “Love Story” lên màn bạc, bởi vì vào thời điểm đó, ông đang phải soạn nhạc chủ đề cho… bốn phim khác nhau. Nhà sản xuất người Mỹ Bob Evans thấy vậy mới gọi điện thoại cho nam tài tử Alain Delon cậy nhờ anh thuyết phục, vì biết rằng hai người là bạn thân của nhau. Nể bạn, nên Francis Lai mới nhận lời, nhưng dường như ông cũng loay hoay mãi vẫn không tìm ra được một giai điệu ưng ý để thể hiện.
Được mệnh danh là ông vua sướt mướt, nghe nhạc của Francis Lai, nếu ai không bùi ngùi thì cũng trở thành thơ thẩn, rất dễ bị đeo đuổi không dứt ra được bởi những giai điệu cứ quẩn quanh quẩn quanh. Chọn Francis Lai viết nhạc phim, giới chủ hãng phim Paramount “chắc cú” rằng chỉ cần những giai điệu không lời của Francis Lai cùng với hình ảnh diễm lệ của bộ phim nói về một cuộc tình đẹp và đau đớn, là “ăn tiền”, là đủ. Thậm chí quá đủ!
Khi được chủ hãng phim nhấn mạnh rằng phải làm sao đó để nó luôn… ám vào đầu công chúng giai điệu bài hát và hình ảnh bộ phim, chứ không cần bất cứ lời hát nào, bởi phần lời bài hát ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến hai điều trên, thậm chí có nguy cơ sẽ làm trôi tuột đi tất cả, Francis Lai đã cho ra đời bản nhạc phim có giai điệu như tuôn chảy từ trái tim, như cửa sổ mùa thu đón chào nắng mới, có một nỗi buồn xen lấn nhưng lại dịu ngọt và tan chảy chậm rãi.
Trên nền nhạc ấy, cuộc tình hai nhân vật chính bỗng lung linh như cổ tích, như thể cái chết không xóa nhòa được sự tận hiến. Khi bộ phim chính thức phát hành, nó đã xô đổ mọi kỷ lục và trở thành phim “bom tấn” của năm 1970. Cùng với đó, bài nhạc trong phim được yêu thích một cách đặc biệt. Tất cả các đài phát thanh đều được yêu cầu phát đi phát lại phần biểu diễn của dàn nhạc Henry Mancini.
Và một “hệ quả” đã xảy ra: Nhiều ông chủ của các hãng đĩa gọi điện về cho Paramount yêu cầu được biến bài nhạc này thành ca khúc có lời. Họ nói rằng đang có một loạt các ca sĩ gạo cội yêu cầu được hát bài hát trong phim và yêu cầu này là không thể từ chối! Ba ngày sau khi phim công chiếu, “ông trùm” điện ảnh Stanley Jaffe gật đầu đồng ý với điều kiện: Bài hát này chỉ được phát hành sau nhiều tuần nữa bởi ông vẫn không muốn bộ phim và phần nhạc tuyệt vời của Francis Lai bị ảnh hưởng.
Và Carl Sigman, người khả dĩ nhất có thể cho ông một phần lời bất hủ, được chọn để giao trọng trách này, bởi sự nghiệp của ông gắn liền nhiều bài nhạc phim phổ lời rất nổi tiếng như “Till”, “What Now My Love”… kèm theo lời nhắn: Đây là một bộ phim sướt mướt nên phần lời cũng phải như vậy, càng buồn càng tốt, còn “viết kiểu gì thì tùy ông”. Và chỉ trong vòng một ngày sau đó, Carl Sigman đã viết xong lời bài hát, cũng nhanh như kiểu Francis Lai đã làm!
Dưới cây bút của mình, Carl Sigman đã làm cho bản nhạc trở thành một bài hát, có tựa đề “Jenny – A love story” (“Jenny – Một câu chuyện tình”). Bao trùm bài hát là một nỗi buồn được tả qua sắc lá Tháng Tư với những chiếc lá rơi buồn bã. Đó là tâm trạng của chàng trai Oliver ngồi chờ đợi Jenny khi nhớ lại những hơi thở ngọt ngào của Jenny đã bỏ lại phía sau.
“Nàng đến và ra đi như những cơn mưa mùa hè, như chiếc lá vô tình chạm vào Tháng Tư buồn bã” và rồi “nàng chia sẻ cùng tôi thế giới đặc biệt của nàng, nàng trải dài nó ra với tất cả tình yêu của mình và rồi đột ngột biến mất. Tôi với tay nhưng vẫn không chạm vào được”…
Khi trình bày thử được nhiều người khen, nhưng hóa ra đời đâu có đơn giản như vậy. Bob Evans, một sếp có số má trong hãng Paramount và còn là bạn trai ngoài đời của… Ali MacGraw (người thủ vai Jenny trong “Love Story”) sau khi xem xong phần lời đã nói rằng nó quá buồn bã và kéo cảm xúc chùng xuống. Evans yêu cầu Sigman… viết lại.
Carl Sigman tức điên lên và nói rằng sẽ không sửa bất cứ một từ nào. Sau một hồi đi vòng vòng trong phòng, bỗng Sigman dừng lại, và tự hỏi rằng “Where do I begin?” (tạm dịch “Tôi bắt đầu từ đâu đây?”). Nói xong, ngay lập tức Sigman lấy tờ giấy, kéo ghế ngồi xuống bàn và từ đó ca từ tuôn chảy. Ngay dòng đầu tiên, tựa bài hát ông đã viết luôn: (“Where do I begin”) Love Story”. Ở thời điểm này, mạch câu chuyện bắt đầu… chuyển hướng và đó là giây phút lịch sử để tạo nên một bài hát huyền thoại như chúng ta đã biết!
Sigman đã “hóa thân” cho câu chuyện cũ để đổi màu câu chuyện ấy, bỏ đi tên các nhân vật trong phim, chuyển nội dung từ thể bi quan sang thể hồi tưởng với đầy ắp những lời tán dương tuyệt diệu…
“Tôi biết bắt đầu từ đâu, để kể một câu chuyện tình tuyệt diệu đến nhường nào, một chuyện tình ngọt ngào mà nàng đã mang đến cho tôi, lấp đầy cả một thế giới trống rỗng. Nàng đến và biến đời tôi thành đáng sống, với những bài ca thiên thần cùng mộng tưởng hoang dại, lấp trong tôi tình căng tràn”…
Viết xong xuôi, Sigman cảm giác như mình vừa bị hút hết hơi ra khỏi người. Nhưng ông khoan khoái tựa lưng vào ghế và nghĩ “Tay Evans đó đã đúng, phần lời trước quả thực quá tệ”.
Ngày hôm sau, phần lời của bài hát được chính thức mang tên (Where do I begin) Love Story. Bài hát được gửi đến các ông chủ nhiều hãng đĩa danh tiếng và chờ ngày phát hành.
Trong lịch sử ghi âm Mỹ, chưa có trường hợp nào mà cùng một bài hát lại có đến ba phiên bản của ba nghệ sỹ khác nhau cùng phát hành… một ngày. Nhưng chuyện này đã xảy ra với (Where do I begin) Love Story, khi hãng dĩa Columbia vì quá đau đầu với cuộc chiến cover bài (Where do I begin) Love Story giữa ba ông hoàng Tony Bennett, Andy Williams và Johnny Mathis nên quyết định phát hành bài này vào cùng thời điểm, ngày 20 Tháng Ba 1971.
Cả ba ca sỹ này đều là con cưng của hãng Columbia và ai cũng đều muốn mình là người hát đầu tiên nên cuối cùng ông chủ hãng đĩa quyết định: Tung cả ba bản ra thị trường để cả ba ca sỹ có cơ hội thi tài với nhau, mà công chúng sẽ là người phán xử công bằng.
Kết quả: Andy Williams thắng gần như tuyệt đối. Ông được mời lên kênh NBC (với hàng chục triệu khán giả theo dõi mỗi đêm) hát bài này 12 lần liên tục. Đĩa đơn này còn thắng tuyệt đối với hàng triệu đĩa bán ra. Ở Nhật, bài này bán được 600,000 bản tiếng Anh trong bốn tuần và 600,000 bản tiếng Nhật chỉ trong vòng có ba tuần mà thôi.
Trong khi đó, phiên bản của Tony Bennett dù hát khá tình cảm nhưng nhịp điệu lại khá chậm và nó không thu hút bằng Andy Willlams. Johnny Mathis là người xếp ở vị trí cuối cùng khi ông chỉ thắng nhờ bài hát nằm trong album mà không phát hành thành single.
ANDY WILLIAMS VÀ SHIRLEY BASSEY – BÁU VẬT SỞ HỮU VẬT BÁU
Năm 1971, (Where do I begin) Love Story trở thành bài hát… toàn cầu và được rất nhiều nghệ sỹ tên tuổi cover. Bài hát trở thành bài “hit” lớn nhất trong sự nghiệp của nhà viết lời Carl Sigman và rất nhiều ý kiến cho rằng, ông chính là người cha thứ hai của “Love Story”, bên cạnh Francis Lai, đưa bài hát ra khỏi ánh hào quang của một bộ phim và độc lập trở thành một bài hát kinh điển.
Nếu chỉ dừng lại ở bản nhạc của Francis Lai và phần viết lời của Carl Sigman thì chưa phải hết chuyện. Thế giới đã sinh ra Francis Lai và Carl Sigman thì cũng sẽ sinh ra Andy Williams và Shirley Bassey – một nam và một nữ danh ca, người nam da trắng, còn người nữ da màu – cả hai người đều được coi là vô đối trong ca khúc này!
Howard Andrew “Andy” Williams (1927-2012) là một ca sĩ và người sáng tác nhạc người Mỹ. Trong sự nghiệp âm nhạc lẫy lừng của mình, ông đã thu âm 44 album, với 18 đĩa vàng, ba đĩa bạch kim và năm đề cử giải Grammy. Nhắc tới ông thì không thể không nhắc tới “Moon River” – ca khúc trong bộ phim kinh điển “Breakfast at Tiffany’s”, từng đoạt Oscar ca khúc hay nhất năm 1962. Ông còn là người dẫn chương trình cho “The Andy Williams show”, một show truyền hình tạp kỹ, kéo dài từ năm 1962 tới năm 1971, và nhiều sản phẩm truyền hình đặc biệt. Nhà hát Moon River ở Branson, bang Missouri, được đặt theo tên của bài hát được biết đến nhiều nhất mà ông hát: “Moon River”.
Sinh năm 1927 tại Wall Lake, Iowa, Andy Williams bắt đầu sự nghiệp ca hát chuyên nghiệp từ năm lên 8 tuổi khi tham gia ban nhạc Williams Brothers Quartet cùng ba anh trai. Tới năm 1951 ban nhạc tan rã, Andy vừa chuyển hướng sang các hoạt động truyền hình, vừa tiếp tục theo đuổi âm nhạc.
Năm 1956 ông sánh vai với Elvis Presley trở thành ngôi sao, và tiếp tục được yêu mến ở những thập niên 1960, 1970 sau đó với một loạt bản hit như “Butterfly”, “Love Story”, “Can’t get used to losing you”, “Almost there”… Giọng ca ngọt ngào, trữ tình của ông từng được Tổng thống Ronald Reagan ngợi ca là “báu vật quốc gia”.
Ởcác danh ca nữ, giọng hát trội nhất nhạc phẩm (Where do I begin) Love Story chỉ có thể là Shirley Bassey. Phiên bản của Shirley rất dễ nhận ra nhờ khúc nhạc dạo đầu với bộ gõ. Ngoài cách nhả chữ độc đáo, hát thoát theo làn hơi nhưng vẫn rõ âm trong những đoạn cao trào, Shirley Bassey còn có sở trường chuyển nhịp hất câu, mà người nghe thường tìm thấy nơi giọng ca vàng Frank Sinatra.
Thành danh từ những năm 1962-1963, Shirley Bassey nhờ vào nhạc phẩm “Love Story” mà đăng quang thành nữ hoàng của dòng nhạc phim vào thập niên 1970. Hầu hết ca khúc chủ đề của loạt phim điệp viên 007 trong giai đoạn này đều do bà ghi âm. Trong đó có nhạc phẩm “Diamonds are forever”, phát hành năm 1971, tức là hầu như cùng thời với nhạc phẩm “Love Story”. Được xem là giọng hát trau chuốt mài giũa tựa như một viên đá quý nên cũng từ đó mà giới chuyên môn đặt cho Shirley Bassey biệt danh “Diva kim cương” (Diamond diva) là vậy!
Giai điệu của tình khúc “Love Story” cứ hoài mãi ngân vang lên cho những hình ảnh khép lại một câu chuyện tình đẹp và đẫm nước mắt của người ngồi xem, để rồi đâu đó dưới hàng ghế khán giả, chắc chắn có không ít khán giả độ tuổi trung niên ở hôm nay sẽ bất chợt hát theo lời Việt mà nhạc sĩ Phạm Duy viết cho ca khúc bất tử này.
“BIẾT DÙNG LỜI RẤT KHÓ!”
Năm 1970 ở Sài Gòn, thanh niên ai ai cũng rất yêu thích ca khúc “Love Story” do ca sĩ Andy Williams trình bày. Dựa vào lời tiếng Anh, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt “Chuyện tình” mà giờ ai cũng thuộc với đoạn mở đầu gần như… năn nỉ: “Biết dùng lời rất khó để mà nói rõ, ôi biết nói gì cuộc tình lớn quá…”.
Không phải bàn cãi, cũng như nhiều ca khúc quốc tế khác mà ông đã Việt hóa, có thể nói nghệ thuật chuyển ngữ của nhạc sĩ Phạm Duy qua ca khúc này đã lên tới đỉnh cao nhất.
Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ
Ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá
Chuyện tình đáng nhớ, tuy cũ như là biển già trắng xóa
Cuộc tình quý giá như những ngọc ngà nàng dành cho ta
Ôi biết nói gì?
Với một lời quý mến, mà nàng nói đến
Khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt
Cuộc tình thứ nhất, muôn kiếp muôn đời là tình vĩnh viễn
Vì nàng đã hiến đôi cánh tay mềm nghìn đời quyến luyến
Lòng ta đầy kín, lòng ta đầy kín
Là muôn nghìn chuyện yêu đương, câu hát thần tiên
Và những mộng huyền mênh mang, đầy kín hồn hoang
Man mác tình duyên
Thôi hết cuộc đời im tiếng
Ðời lẻ loi đã tan, ta đã được nàng
Làm gì còn tiếng than, nắm đôi tay thiên thần
Ði suốt mùa Xuân…
Sẽ còn được biết mấy? Một đời luyến ái
Yêu sẽ lâu dài hoặc là quá ngắn? Thật là khó đoán
Nhưng vẫn cho rằng cuộc đời có hết, loài người có chết
Sao sáng trên trời ngày nào sẽ tắt
Em vẫn gần ta!
_____________
Ký ức của nhiều thanh niên Sài Gòn ngày ấy – mà người viết bài có duyên gặp ở thời điểm hiện nay – là kỷ niệm từng nô nức đi xem phim “Love Story”. Họ chạy theo mốt mặc áo thun có in hình đôi diễn viên với câu nói nổi tiếng trong phim: Love means never having to say you’re sorry (Yêu là không bao giờ phải nói hối tiếc).
Tiểu thuyết “Chuyện tình” của Erich Segal mà bản tiếng Việt của Phan Lệ Thanh dịch ngay sau đó cũng được phát hành. Lúc đó khán giả mới biết kịch bản phim “Love story” do chính Erich Segal viết, sau đó ông chuyển thành tiểu thuyết.
Năm 1987, Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nay là NXB Hội Nhà Văn) in “Love Story” với bản dịch của Hoàng Cường, với tựa đề “Câu chuyện tình yêu”. Cuốn sách này không tạo được hiện tượng như in lần đầu ở Sài Gòn năm 1972, vì thiếu đi cuốn phim trứ danh và ca khúc tuyệt vời hỗ trợ. Một phần, do năm 1972, thanh niên Sài Gòn đã quá lo âu và mệt mỏi vì chiến tranh nên họ muốn tìm quên lãng trong những cuốn tiểu thuyết, bộ phim lãng mạn. Và “Love Story” đã đáp ứng được điều đó, khi mỗi cuốn sách đều có một phước phận của riêng nó.
Với việc đặt lời Việt cho nhạc phẩm này, nhiều người biết hiện còn một phiên bản lời Việt khác có tựa đề “Tình sử” do Ngọc Chánh viết, từ trước năm 1975 đã được ca sĩ Thanh Lan trình bày. Sau này tại hải ngoại, phiên bản lời Việt “Tình sử” này cũng đã được giọng ca Ngọc Lan hát chung với phiên bản lời Pháp “Une histoire d’amour”, tuy nhiên tựa đề tiếng Việt “Tình sử” đã đổi thành “Chuyện tình”. Đâu đó ở trên internet, chúng ta cũng có thể sẽ bắt gặp một phiên bản lời Việt được ghi là “Chuyện tình” (Phạm Duy) nhưng với lời hát khác hoàn toàn phần đặt lời của nhạc sĩ Phạm Duy mà lâu nay chúng ta vẫn biết, chắc là của một fan khuyết danh nào đó!
Khi nghe một bản nhạc cũ bằng chính âm thanh cũ của ngày xưa, chúng ta như được sống lại kỷ niệm về một quãng thời gian đáng nhớ cùng với những niềm vui, những nỗi buồn và ký ức của riêng mỗi người. Phải chăng nghe “When do I begin” hay “Biết dùng lời rất khó” là cũng là nghe và mường tượng về kỷ niệm, mà nhờ kỷ niệm ấy, âm thanh của bài nhạc ấy đã ở lại trong tâm hồn ta lâu hơn, sâu hơn, đằm thắm hơn.
Ngày nay mở YouTube ra nghe chẳng có gì là khó, nhưng ai trong chúng ta nếu có cơ hội nhìn thấy những bản nhạc cũ in từ trước 1975, hỏi có xúc động không? Những bản nhạc tờ rời ngày ấy dù được in khá đơn sơ, trang trí có phần mộc mạc giản dị, nhưng nhờ có nó mà chuyển tải âm nhạc và những câu chuyện xung quanh nó đến thật gần với mọi người.
Có người còn kể lại khi còn nhỏ, nhìn thấy các anh của mình ôm guitar ngồi hát, trước mặt là những bản nhạc đơn như thế, là đã xuất hiện cảm xúc mãnh liệt, dâng trào. Có người còn nói, thời điểm đó, nhìn hình của tờ nhạc rời in bằng ba thứ tiếng Việt-Anh-Pháp thì là một cơ hội không thể quý báu và tiện lợi hơn, cho việc… học ngoại ngữ. Còn thời điểm hiện tại, muốn tiếp cận một bản nhạc như thế thiệt là khó!
Trong bản nhạc được in ngày trước có hai lời tiếng Anh và tiếng Pháp đề ngay dưới lời Việt, nên thật dễ để so sánh cách chuyển ngữ bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy và từ đó tìm ra những điều thú vị nho nhỏ.
Bản chuyển ngữ tiếng Việt của nhạc sĩ Phạm Duy đã theo theo sát lời tiếng Anh hơn nhưng ông sửa câu văn “rặt Anh ngữ” thành “rặt Việt ngữ” thiệt là tài tình. Ý nghĩa của đoạn tiếng Anh là “bắt đầu từ đâu bây giờ, để nói về câu chuyện mà tình yêu có thể trở nên thật tuyệt vời”, được ông sắp xếp gọn ghẽ lại thành “biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ, ôi biết nói gì, cuộc tình lớn quá”.
Người nhạc sĩ lúc này đang đứng ở chủ thể của câu chuyện nên ông bày tỏ sự “lúng túng” của người kể: “Để mà nói rõ”… rồi lại “ôi biết nói gì”, thay vì chỉ đơn thuần kể lại như bản gốc!
Ông đã biến câu “một sự thật đơn giản về tình yêu mà nàng đem lại cho ta” trở thành “cuộc tình quý giá” với so sánh “như những ngọc ngà”. Câu tiếng Anh “she brings to me” nghe có phần hơi đơn giản, nhưng nhạc sĩ Phạm Duy lại “nâng cấp” nó lên thành “nàng dành cho ta” nghe thân mật gần gũi hơn. Và còn nữa, “Ôi biết nói gì?” trong khúc ca tiếng Việt nghe “đã” hơn, thay vì dịch theo cách Mỹ “Bắt đầu từ đâu bây giờ?”.
Và trong khi bản gốc viết “với câu chào hello đầu tiên, nàng đã đem ý nghĩa đến cho đời sống trống rỗng của tôi”, Phạm Duy đã Việt hóa thật tự nhiên thành “Với một lời quý mến, mà nàng nói đến khi bước chân vào cuộc đời vắng ngắt”. Phạm Duy dùng hình tượng cụ thể để nói về tinh thần: Thay vì chỉ “bước vào đời” thì “khi bước chân vào” sẽ trở nên rõ ràng hơn và đầy hình tượng hơn; rồi thay vì chỉ “vắng” thì thành “vắng ngắt”, với cấp độ cao hơn. Biết nói gì hơn nữa về thiên tài Phạm Duy!
Với cá nhân tôi, qua ba đào của thời cuộc, ngần ấy năm của nhạc phẩm này kể từ khi nó ra mắt cũng là ngần ấy thời gian kể từ ngày tôi ra đời. Rồi lớn lên, rồi sống với những ký ức mà Love Story cũng như những ca khúc thời đó để lại, tôi luôn thấy mình biết ơn biết chừng nào những Francis Lai, những Andy Williams, những Phạm Duy… Họ đã tưới mát tâm hồn tôi. Tôi biết ơn họ nhiều đến mức đôi khi tôi không phải biết nói như thế nào… Biết dùng lời rất khó, để mà nói rõ…