Mục lục
Dương Tường – Người chưa mãn hạn
25-2-2023
Năm 2002, tôi từng hỏi: “Thời kỳ ông tự cật vấn nhất là bao giờ?” Đáp: “Những năm 60, sau vụ Nhân Văn, Xét Lại”. “Câu trả lời chung là gì?”. “Phải có một thế giới khác. Thế giới này đang hỏng. Thế giới này phải làm lại”.
Cách “làm lại” thế giới đang hỏng hóc ấy của ông Dương Tường bề ngoài trông thật yếu mềm và buồn tẻ. Không có sự kịch tính trong hành động hay lập ngôn gây shock như nhiều người mong đợi ở những trí thức phản tỉnh. Câu hỏi cuối tôi dành cho ông: “Khi cực kỳ phẫn uất hay khinh bỉ, ông làm gì?” Ông trả lời: “Im lặng”.
Ông chọn sự im lặng, quay vào bên trong, miệt mài đắm đuối với chữ. Không đủ sức chống lại cái xấu thì làm ra cái đẹp và bảo vệ cái đẹp, bảo vệ đến hơi thở cuối cùng. Hơn 70 năm làm việc không ngừng nghỉ, ông đã để lại gần 60 đầu sách dịch bao gồm các tác giả tác phẩm nổi tiếng thế giới, 6 cuốn thơ, tiểu luận, cùng hàng chục chương trình do ông thiết kế để đưa văn hóa Việt lại gần với thế giới. Ông cũng là “nhà phát hành bí mật” của những tác phẩm văn chương phi chính thống chấn động một thời.
Thi sĩ Lê Đạt có một truyện ngắn “Hèn đại nhân”, kể về một nhà toán học từ chối cuộc đấu súng để hoàn tất công trình cuối cùng của cuộc đời. Với một thi sĩ mềm yếu đến mức một hạt mưa rơi nhầm chỗ cũng khiến ông bật khóc, thì đó là một lựa chọn dũng mãnh. Trong mắt tôi, ông Tường cũng là một đại nhân như vậy.
Có lần, sau đám tang một người bạn, ông bảo: “Chú luôn là người bị bỏ lại”.
Giờ thì ông đã bắt kịp bạn bè của mình rồi, trong chuyến tàu về cõi vô cùng.
Xin chia sẻ lại bài phỏng vấn từ hơn 20 năm trước (chưa từng đăng ở đâu) cho những ai yêu mến ông:
***
DƯƠNG TƯỜNG – NGƯỜI CHƯA MÃN HẠN
I- LÝ TƯỞNG VÀ PHẢN TỈNH
Phạm Tường Vân (PTV): Một điều hơi lạ là ông đọc sách rất nhiều, đọc “Phía tây không có gì lạ” lấy từ tay lính Pháp từ rất sớm. Điều đó không ngăn ông bước vào cuộc chiến với tư cách người cầm súng?
Dương Tường (DT): Cho đến nay, tôi vẫn nghĩ – và vẫn khẳng định – Kháng chiến chống Pháp là thời kỳ hoàng kim của cách mạng Việt Nam. Nếu được sống lại thời đó một lần nữa, tôi vẫn hành động như cũ nghĩa là bỏ nhà đi bộ đội. Suốt những năm đi lính, tuyệt nhiên không hề có ý định rời quân ngũ. Có lần ốm trên đường hành quân vào chiến dịch, tụt lai sau cả tuần, đã quyết đuổi theo đơn vị bằng được. Đi bộ hơn 300 cây số từ Đô Lương (Nghệ An) đến Hoà Bình để tìm đơn vị mà không mảy may có ý định rẽ về thăm nhà. Mỗi ngày chạy bộ gần 30 cây đuổi theo đơn vị, bị máy bay rượt suýt chết.
PTV: Đến khi nào thì ông phản tỉnh?
DT: Đến chiến tranh chống Mỹ. Cho đến giờ tôi vẫn thấy chiến tranh chống Pháp là một thời kỳ tuyệt đẹp. Người ta sống với nhau đầy tình người.
PTV: Nhân Văn là chuyến tàu chở sự vỡ mộng lớn nhất của văn nghệ sĩ – trí thức sau hoà bình lập lại. Nhóm xét lại: Vũ Thư Hiên, Dương Tường, Bùi Ngọc Tấn, Xuân Khánh, Mạc Lân… là chuyến tàu thứ hai. Có phải vì các ông đi theo kháng chiến nhanh quá, đi vì mỹ cảm chứ ông phải…
DT: Rất thành thật, hoàn toàn vì lý tưởng! Các thế hệ sau khó mà hiểu được cái không khí hồi đó. Say lắm. Không bao giờ có lại thời kỳ dám bỏ tất cả, dám đốt cả Hà Nội mà đi chiến đấu như thế.
PTV: Thời kỳ ông tự đặt ra với mình nhiều câu hỏi nhất là bao giờ?
DT: Những năm 60, sau vụ Nhân Văn, Xét Lại.
PTV: Câu trả lời chung là gì?
DT: Phải có một thế giới khác. Thế giới này đang hỏng. Thế giới này phải làm lại. Và mọi thứ chủ nghĩa đều là không tưởng, con người bịa ra thứ đó để mà dối lừa nhau mà thôi.
PTV: Phản ứng của ông?
DT: Tôi gần như bị tâm thần. Tôi phải tự chữa trị bằng nghe nhạc, chủ yếu là nhạc cổ điển. Tôi gọi đó là nhạc liệu pháp (musicotherapy)
II – NHỮNG NGƯỜI CÙNG ĐI QUA KIẾP NẠN
PTV: Thập niên 60 – 70 của thế kỷ trước, bi kịch ập đến với các ông. Trong khi các ông Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn đã bị gọi tên, sao ông không bị bắt?
DT: Nếu ở Hải Phòng hay một tỉnh nhỏ nào khác, chắc tôi có kết cục giống Bùi Ngọc Tấn. Thấy Vũ Thư Hiên, Kiến Giang, Vũ Huy Cương “đi”, tôi, Mạc Lân, Xuân Khánh cũng khăn gói chuẩn bị đón khả năng xấu nhất. Nhưng chờ mãi không thấy bắt. Có lẽ họ bắt mấy người tiêu biểu. Mà bắt thế đã là quá nhiều rồi!
PTV: Ông chuẩn bị những gì?
DT: Ba lô, vài bộ quần áo, dăm quyển sách, nếu lọt thì có cái giải khuây.
PTV: Ông trả lời với chính quyền như thế nào về những người bạn “khả nghi” của mình?
DT: Câu trả lời luôn là: “Đó là những người bạn tốt nhất của tôi, thương tôi nhất. Có chặt đầu tôi đi thì tôi cũng không tin họ là người xấu!”
PTV: Một điều khó hiểu là ông có thể chơi với những người rất “khắc” nhau. Ví dụ như Trần Dần với Văn Cao chẳng hạn, hai người từng chung nhóm Nhân Văn, ở chung một góc phố, vậy mà chẳng bao giờ giáp mặt?
DT: Họ không chơi nhưng rất trọng nhau. Tôi rất thân với cả hai, tôi biết. Lần nào tôi đến chơi, Văn Cao cũng nhắc đến Trần Dần và ngược lại. Dần bảo: “Thằng Văn nó chưa đẻ nhưng nó là voi, đẻ rất to!” Hôm đám tang Văn Cao, Trần Dần chống gậy đến ngồi như pho tượng. Giữa họ có những vướng mắc do thời cuộc chứ hoàn toàn không phải vấn đề tư tưởng hay quan điểm.
PTV: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn có một câu tổng kết buồn để biện minh cho những thành quả ít ỏi của thế hệ mình: “Thế hệ có tất cả. Vậy mà lại mất tất cả. Một thế hệ trắng tay”. Ông nghĩ sao?
DT: Một thế hệ của những tinh hoa bị bỏ phí, bị hắt hủi và làm cho biến dạng. Nhưng bảo là ít đóng góp thì chưa chính xác: một vài người trong số họ cũng đã tạo ra một vài ảnh hưởng có tính tác động trong dòng chảy chung của văn học nước nhà. Và điều này thì gần như chắc chắn: “đó là thế hệ nhiều đam mê và trong trắng nhất”.
III – ÁM ẢNH DÀI VÔ TẬN
PTV: Tôi nói điều này, xin ông đừng giận: có cảm giác, ông chưa vào tù nhưng ông chưa bao giờ được ra tù! Chẳng thà hồi đó người ta bắt ông, nhốt vài năm rồi thả, ông còn được hưởng niềm vui mãn hạn. Đằng này, lúc nào ông cũng sống trong cảm giác của những ngày chờ đợi.
DT: (không đáp, chỉ gật đầu).
PTV: Và lúc nào cũng “giật mình một cái vỗ vai”?
DT: Dù là những lúc vui nhất, tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy yên ổn. Tôi vẫn chưa thoát khỏi cái tâm thái bất an mà tôi gọi là angoisse khi nói chuyện với một nhà báo nước ngoài hồi đầu những năm 1980. Một thứ ám ảnh hồ như pre-apocalyptic, tiền-khải huyền, nơm nớp lo sợ một bất hạnh thình lình ụp xuống. Thấy cháu gái mình thông minh, 5 tuổi nói tiếng Anh như gió, ngữ điệu rất hay, hạnh phúc lắm nhưng ngay lập tức cái angoisse ấy lại ập đến. Xã hội đầy bất trắc, cái gì chờ nó ngay mai?
Tôi còn có một thói quen xấu: tích trữ giấy một mặt. Xưa kia toàn viết giấy xám xịt, có được tờ giấy trắng (như giấy A 4 bây giờ) hoặc pơ-luya là quý như vàng, bình thường không dám viết, chỉ dành cho dịp nào thật đặc biệt, chẳng hạn khi làm được bài thơ nào thật ưng ý mới dám trịnh trọng chép lên. Tôi giữ lại tất cả giấy loại, cái nào còn trắng một mặt là giữ lại, mặc dầu rất hiếm khi dùng đến. Dù bây giờ viết bằng máy tính nhưng cứ phòng sẵn 5- 6 cái bút mới yên tâm. Và tăm nữa. Trong túi lúc nào cũng thủ sẵn một cây (ông móc túi lấy ra cây tăm tre!). Hoàn toàn vớ vẩn, những cái đó! Giấy bây giờ đầy, tăm thì đâu chẳng có. Chẳng qua sống trong cùng quẫn quá lâu nên thành một tâm lý lúc nào cũng lo thiếu thốn, sợ khi hữu sự, không có cái mà dùng!
PTV: Dường như ông trốn vào những lĩnh vực ít phải bày tỏ chính kiến, những lĩnh vực khá khó tiếp cận đối với các nhà chức trách để ít bị bắt bẻ như hội họa. Và lựa chọn khôn ngoan này khiến ông còn “lành lặn” đến bây giờ? Cũng nhờ vậy mà ông cũng góp phần tạo nhiều sân chơi quốc tế cho hội họa đương đại Việt Nam vào cuối thế kỷ 20.
DT: Đúng. Tôi tự bảo mình: kiềm chế đi một tí, và ráng làm mỗi thứ một tí, cố gắng kiễng chân, cố gắng nhích lên. Mỗi người ráng ghé vai đẩy từng milimét, từng phần của milimét, làm sao để thế giới phải khác đi.
IV- BÁN MÁU
PTV: Ở nhà, ông là người thế nào?
DT: Ở nhà tôi luôn bị mắng vì tội ăn dè làm vợ con phát bực. Cả đĩa thịt, tôi chỉ chọn mấy miếng nhỏ. Lúc nào cũng cảm thấy mình có lỗi. Mình nuôi con không bằng người. Chỉ được về mặt văn hóa, còn những cái khác thua kém hết. Đôi lúc thấy cháu mình được nuôi nấng đầy đủ, thấy vui lắm nhưng chỉ một lúc cái angoisse lại đến. Điều này chẳng đứa con nào của tôi hiểu được.
PTV: Trong cuốn “Rừng xưa xanh lá” ông Bùi Ngọc Tấn “tố” ông là người đầu têu rủ bạn bè văn nghệ sĩ trí thức đi bán máu nuôi gia đình?
DT: Tôi chỉ rủ Mạc Lân và Châu Diên thôi.
Hồi đó tôi được ưu ái cấp cho một cái thẻ cho máu (viết tắt là TCM) tức là được công nhận là cộng tác viên cho máu thường xuyên của bệnh viện. Mỗi lần bán máu, ngoài tiền (50 đồng 100cc), còn được cấp các phiếu đường, thịt, đậu. Tôi mang tất về nộp vợ.
PTV: Ông đã bán bao nhiêu lít máu tất thảy?
DT: Không thể tính được. Hơn một năm, cứ hai tuần 1 lần, trung bình 250cc. Lúc cấp bách thì tuần/lần, lần đạt “kỷ lục” nhờ Lê Phát giới thiệu với trưởng phòng huyết bệnh viện Việt Đức thì được ưu tiên bán 300cc.
PTV: Hồi đó ông nặng bao nhiêu?
DT: Hơn 40 kg.
(Lúc kết thúc cuộc phỏng vấn, ra phố Hàng Bài, ông cân thử, kết quả: 53 kg cả giày lẫn áo bông, thế mà vẫn hơn cái thời bán máu hẳn 12kg!
Vụ này, Bùi Ngọc Tấn tưng tửng kể: “Tường ăn mừng thắng lợi với Phát bằng một bữa bia hơi Cổ Tân. Phái hai vại, Tường một vại. Uống xong, Phát nói một câu xanh rờn làm các bàn khác quay cả lại: Hôm nay tao uống máu thằng Tường!”.
Tôi nhẩm tính: hai tháng 1 lít, một năm 6 lít, năm rưỡi 9 lít, chưa kể những lúc vượt chỉ tiêu! Gấp đôi số máu chảy trong cơ thể một con người.
Chín lít máu của Dương Tường, hàng chục lít của Mạc Lân, còn nữa, những Châu Diên, Chính Yên, Phan Kế Bảo, Nguyễn Hàm Châu… Bao nhiêu người đã nhận máu của họ? Những dòng máu này có chảy ngoan ngoãn trong các cơ thể xa lạ kia hay thỉnh thoảng xáo trộn, gây ra những phút ngây ngơ ngoài ý muốn?)
PTV: Ngoài bán máu ra, ông còn có những cách nào khác để qua cơn bĩ cực?
DT: Cũng có một số cách khác tuy không đàng hoàng lắm nhưng lương thiện: Vợ Mạc Lân là nhân viên mậu dịch bán ở quầy thuốc. Tôi đi khám bệnh, xin đơn, đưa ra vợ Lân ghi hóa đơn từng ấy thứ thuốc rồi đem về cơ quan thanh toán, cộng cả tiền bồi dưỡng ốm. Bệnh thật, chỉ có chữa là giả. Mà với những cơ thể suy dinh dưỡng trầm trọng của chúng tôi hồi đó, chẳng lúc nào thiếu bệnh.
Một cách nữa là bán thuốc lá cho căng-tin, tiêu chuẩn công đoàn chia mỗi người được 3-4 bao mỗi tuần theo giá cung cấp, cố nhịn dành được 2 bao đem ra bà hàng nước. Bán cũng không dễ, phải phục cho đến khuya, vắng vẻ mới dám thò thuốc ra. Tôi nghiện thuốc nặng nhưng chỉ dám hút thuốc lá cuộn, trong gạt tàn chẳng có cái đầu mẩu nào vì tất cả đều được gom gop tích lại, lúc bí đem xé ra vấn đi vấn lại.
Cách nữa là tranh thủ nhịn cơm tiêu chuẩn, bớt được bữa nào thì bớt, dư ra phiếu nào bán lại cho nhà bếp lấy tiền đưa vợ đong gạo. Đến nhà người thân tình cứ nhè vào bữa cơm. Chuyện văn chương, triết học cứ đến bữa lại nở như ngô rang, bà chủ bưng cơm lên, mời rơi mình một tiếng. Lấy cớ nói nốt câu chuyện, vừa ăn vừa “làm khách” để giữ sĩ diện nên chỉ dám làm một bát. Thôi thì cầm hơi cho qua ngày, vợ con cũng đỡ được một suất. Nhưng xong rồi thì ngượng lắm!
PTV: Đã bao giờ ông có ý định tự sát?
DT: Không bao giờ.
PTV: Có khi nào ông ước mình là công dân nước khác?
DT: Khi sang Mỹ, tôi thấy đây quả là một đất nước của tự do và có cảm giác là nếu ở đó, mình sẽ làm được nhiều hơn. Nhưng chưa bao giờ tôi ước mình là công dân một nước khác. Tôi không thể sống được ở một nơi nào ngoài Việt Nam.
PTV: Khi cực kỳ phẫn uất hay khinh bỉ, ông hành xử thế nào?
DT: Im lặng.
PTV: Khi quá thất vọng về ai đó?
DT: Không chơi nữa. Có những người ngay từ đầu đã không chơi được
PTV: Cảm giác đỉnh cao của sự “không chơi được”?
DT: Buồn nôn.
PTV: Ông đã gặp mấy người như thế?
DT: Nhiều. Xin đừng bắt tôi phải nêu tên.
Phạm Tường Vân thực hiện từ 2001 -2003
_____
Dương Tường – Nhà báo – Nhà thơ – Dịch giả- Nhà phê bình nghệ thuật.
Tên đầy đủ: Trần Dương Tường
Sinh năm 1932
Cao: 1m60
Nặng: 53kg
Đeo kính cận 20 độ (cho đến khi mổ mắt – năm 1997)
“Thành tích” thời niên thiếu:
14 tuổi tham gia Tổng khởi nghĩa ở Me, 18 tuổi vào bộ đội.
Ba lần thi trượt, chưa tốt nghiệp lớp 7
Trong hơn 70 năm làm việc với chữ: Chuyển ngữ gần 60 tác phẩm của Pháp, Nga, Anh, Hoa Kỳ, Đức, Hy Lạp, Brazil, Nhật Bản, Na Uy sang tiếng Việt.
Tập truyện ngắn Cây tường vi
Vở kịch Chim hải âu, Anton Chekhov
Anna Karenina, Lev Tolstoy
Cái tẩu, Yuri Nagibin
Trong màn sương cuối mùa, Alex La Guma
Cuốn theo chiều gió, Margaret Mitchell
Người dưng, Albert Camus
Con đĩ biết lễ nghĩa, Jean-Paul Sartre
Con đường xứ Flandres, Claude Simon
Cội rễ, Alex Haley
Đồi gió hú, Emily Brontë
Alexis Zorba – Con người hoan lạc, Nikos Kazantzakis
Bức thư của người đàn bà không quen, Stefan Zweig
24h trong đời người đàn bà, Stefan Zweig
Cái trống thiếc, Günter Grass
Mặt trời nhà Scorta, Laurent Gaudé
Kafka bên bờ biển, Haruki Murakami
Charlie và nhà máy sôcôla, Roald Dahl
Lolita, Vladimir Vladimirovich Nabokov
Vở kịch Cơn bão, Shakespeare
Phố những cửa hiệu u tối, Patrick Modiano
Chết chịu, Louis-Ferdinand Céline
Đi tìm thời gian đã mất – Bên phía nhà Swann, Marcel Proust
Đi tìm thời gian đã mất – Dưới bóng những cô gái đương hoa, Marcel Proust
Chuyển ngữ từ tiếng Việt:
Truyện Kiều, từ tiếng Việt sang tiếng Anh.
Sáng tác: Dương Tường – Thơ, Nhà xuất bản Nhã Nam, 201736 bài tình (thơ – in chung với Lê Đạt);
Đàn (thơ ngoài lời), Nhà xuất bản Trẻ;
Thơ Dương Tường – Mea culpa và những bài khác, Nhà xuất bản Hải Phòng;
Chỉ tại con chích chòe (tạp luận), Nhà xuất bản Hải Phòng, 2003;
Thuyền trưởng (truyện ký, dưới bút danh Nguyễn Trinh);
Người tạo dựng nhiều “sân chơi”, đặt nền tảng cho nhiều cuộc giao lưu nghệ thuật trong và ngoài nước: Tâm hồn bộc bạch (Hong Kong), chương trình trao đổi sân khấu Việt – Mỹ đưa vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đến với công chúng Mỹ.
Chú Dương Tường
27-2-2023
Tôi gặp chú lần đầu vào năm 2005. Chú nhỏ, hiền, tinh, thanh và đẹp như một ngài thỏ. Không phải thỏ trắng, chú Tường thực ra ít ngây thơ. Không phải xám, chú Tường hiếm khi nghiêm trọng. Không vằn, vì quả tim ứ đầy xúc cảm đã cuốn phăng những lằn nghi ngại. Đó là ngài thỏ màu xanh tím than. Trong bóng tối, thứ màu “dương cầm đêm” đó thành đen – bán máu, lo sợ, run rẩy. Dưới ánh mặt trời, nó ánh lên sắc tím – màu của nước mắt thơ Dương Tường – kiêu hãnh buồn. Trên bãi cỏ, bên người yêu dấu, ngài thỏ trở về chú thỏ xanh, chú thỏ xanh xanh tinh nghịch chạy đùa trên cánh đồng xuân.
Tôi thật may mắn. Cô bé chuyên văn tỉnh lẻ mê tiểu thuyết phương Tây không nghĩ có ngày được làm người bạn nhỏ của dịch giả những tác phẩm vĩ đại Đồi gió hú, Cuốn theo chiều gió, Anna Karenina… Thôi, đừng chẻ hoe từng dấu từng chữ mà vùi đi công lao lớn của ông, một trong những người đã miệt mài chuyển tinh hoa văn học về đáy hang sâu Bắc bộ. Thời đó, sách miền Nam hoặc bị đốt hoặc bị nhốt hết, chúng ta biết gì về văn học bên ngoài nếu không có những ông – bác – chú như Dương Tường?
Có lần tôi thưa với chú rằng tôi cảm thấy “sợ” khi đọc thơ chú. Các thanh âm, biểu tượng mơ hồ chồng lên ngưc khiến tôi đau. Giờ người ta hay giễu cợt thơ. Riêng tôi vẫn nghĩ thơ là loại hình nghệ thuật thượng thừa. Những cuốn tiểu thuyết hay thường đầy tính thơ như tác phẩm của Kawabata, hoặc ám mùi triết như của Kundera, tuyệt vời nhất là cả hai: thơ cùng triết quện nhau quyến rũ. Không đạt được thế, gánh hàng xén bày ra sẽ giống phóng sự, giống ghi chép, giống hồi ký, giống nồi lẩu thập cẩm ba miền.
Tôi chưa nghe chú Tường chê ai, nói xấu ai bao giờ. Chú ủng hộ, khuyến khích người viết trẻ một cách thành thật, dễ thương chưa từng có. Tất nhiên nhiều người đi trước cũng nâng đỡ người trẻ, nhưng đa phần họ khác chú Tường, họ bề trên, họ áp đặt, họ dạy bảo, họ ra điều kiện. Lần đầu gặp, chú khoe đã mua 20 cuốn Bóng Đè để tặng cho các họa sĩ. Có lẽ vì thế, tôi vinh hạnh có nhiều bạn đọc là họa sĩ. Lần Lam Vỹ, chú và cô Trinh cũng mua mười cuốn. Lưng Rồng thì tôi không biết cô chú có kịp mua trước khi nó bị trảm. Không chỉ sách vở, đời thường chú quan tâm đến mọi người biết bao là thân thiết. Chú hỏi bố cháu đỡ tý nào chưa, Alec thế nào, Asa học lớp mấy, chị Cầm hè này có về hay không… Trở về, tôi có thể từ chối gặp người này người kia nhưng tôi không thể ngăn mình gặp chú. Bởi với chú, tôi không cần giữ kẽ, không cần đối phó, không cần lặng im. Nhưng vừa rồi tôi đã không thể gặp. Kiên nói ngay cả Kiên cũng chỉ đứng nhìn qua cửa kính phòng bệnh…
Giờ thì ngay cả nhìn qua cửa kính cũng không ai còn có thể. Tôi nhớ về chú với biết bao là trân quý là trìu mến. Tôi có nhiều ảnh chụp chung với chú. Nhưng tôi để lên đây bức ảnh này. Ảnh chú đứng giữa sân nhà cụ Kình ngày mồng Tám tết 2020. Tôi nhớ chú, Kiên và tôi nắm tay nhau bước khỏi quán cà phê ở Nhà Chung, ra xe họa sĩ Hà, xe nhà phê bình Nguyên để đi Đồng Tâm cùng Codet và Sa. Hình như nhóm chúng tôi là nhóm thứ hai “dám” đến nhà cụ Kình những ngày ấy. Chúng tôi muốn đến tận nơi, nhìn tận mắt nơi “trận đánh” đã diễn ra. Chúng tôi muốn thắp hương cho cụ Kình. Chúng tôi đã sờ sợ. Nhưng chú Tường không hề ngần ngại. Chú lên xe, chú bước vào nhà cụ Kình, chú đứng trước bàn thờ, chú rơi nước măt và chú bước ra sân.Tấm lưng trĩu xuống, đôi mắt thất thần. Chú không tin ở mắt mình. Những vết đạn hằn sâu.
Nụ cười Dương Tường
Nguyễn Ngọc Giao
Diễn Đàn
30.5.20220-25.02.2023
Tháng hai 2020, một trong những việc đầu tiên của chúng tôi khi ra đến Hà Nội là đến phố Phan Huy Chú thăm anh Dương Tường và chị Trinh. Mấy ngày trước, Phạm Xuân Nguyên gọi vào Thành phố, nói đang ngồi với anh Dương Tường, và chuyển máy cho anh. Dương Tường nói ngày rằm tháng giêng sẽ không thể nào xuống Bát Tràng để cùng nhau gửi tro cốt Boudarel xuôi dòng Sông Hồng. « Mình yếu quá rồi, không đi đâu được nữa ».
Đúng là anh Dương Tường yếu lắm. Đôi mắt chỉ còn thấy lờ mờ, chân đi không vững. Ngày đêm, có lẽ chỉ di chuyển trong cái tam giác là bàn máy, giường ngủ, và ghế nệm phòng khách. Từ mấy năm nay, anh lại bị zona nặng, ngày đêm đau nhức. Chị Trinh khoẻ hơn, tiền đình rối loạn, thi thoảng choáng váng, nhưng đi đứng còn vững vàng, vẫn là chỗ dựa cho anh, như chị vẫn là từ mấy chục năm nay, nhất là những năm đen tối.
Đến ngạc nhiên là nụ cười rạng rỡ của Dương Tường.
Mười hai năm mới gặp nhau, chúng tôi vui, đã đành. Anh hỏi thăm tình hình bạn bè Paris, nhất là gia đình Thận Ngọc, “con Chó”, “con Dê” và Mimi… Càng vui hơn, khi chúng tôi hỏi anh : Anh làm sao chống trả với cơn đau zona hành hạ ? Mình phải bày cuộc chơi. Và anh say sưa kể cuộc chơi. Mấy người bạn trẻ thiết kế cho anh một dàn máy tính màn ảnh lớn, anh có thể đọc mờ mờ những dòng chữ cỡ to trên màn ảnh. Mình học thuộc lòng bàn phím để có thể đánh máy. Ngồi bên cạnh, chị Trinh nói nhỏ với tôi : Cũng còn nhầm nhiều chỗ đấy. Mình bỏ ra ba năm dịch Truyện Kiều ra tiếng Anh. Bản dịch đang in, cuối tháng sau, in xong mình sẽ nhờ gửi sang cho các bạn.
Về lại Paris cuối tháng ba, tôi lại nhận được điện thoại của Phạm Xuân Nguyên gọi từ nhà Dương Tường. Kiều, bản tiếng Anh của Dương Tường vừa in xong. Bản đầu tiên được đặt lên ban thờ hai cụ thân sinh. Xuân Nguyên được tặng bản thứ ba hay thứ tư. Còn mấy bản cho bạn bè ở Paris, phải đợi sau cơn đại dịch.
Nhà thơ Dương Tường và bản dịch Kiều vừa xuất bản
(tháng 3.2020, ảnh Phạm Xuân Nguyên)
Tiếng Anh của tôi không cho phép tôi đánh giá bản dịch của anh. Nhưng tôi biết chắc đây là bản Kiều qua cảm nhận của Dương Tường, không của ai khác. Anh say sưa nói về hai từ ghét nhau ngay trong những dòng đầu Truyện Kiều : Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Chữ nhau ở đây không réciproque, không đối xứng. Mệnh ganh ghét tài, chứ tài hơi đâu mà ghét mệnh ? Thế thì tại sao lại nhau ? Anh giải thích : A gây sự đánh B, B không đánh lại, nhưng trách A : “Sao lại đánh nhau thế ?”. Tài và mệnh ghét nhau là như thế . Tôi chợt nhớ tới việc anh dịch L’étranger của Camus là Người dưng, chứ không dịch Người xa lạ như có người đã làm, Dương Tường đã từng bị một nhà phê bình nghĩ là mình rành tiếng Pháp (và tiếng Việt), đã chê anh dịch sai. Cách hiểu chữ nhau, cũng như chữ étranger, người ta có thể đồng ý hay không đồng ý với Dương Tường, nhưng bảo là sai, thì… không đúng. Nói thế, để tỏ ý nóng lòng đọc bản dịch tiếng Anh của anh, dù không đủ tiếng Anh để thưởng thức, phê bình, nhưng ít nhất để khám phá cách đọc, cách hiểu áng văn Nguyễn Du của Dương Tường.
Tôi hỏi anh, bây giờ bản dịch đã hoàn tất, anh chơi gì để quên cơn đau zona ? Anh cười : Mình tiếp tục dịch thơ. May thay, trí nhớ của anh tốt hơn hẳn đôi mắt và cặp chân. Không biết anh thuộc bao nhiêu bài thơ, và trong đó, bao nhiêu bài anh thích. Nhưng chắc đủ, để ngày ngày, Dương Tường ngồi vào bàn máy, dịch sang tiếng Anh một bài anh thích, trên bàn phím mà ngón tay anh thuộc lòng từng phím. Cuộc chơi để làm chủ tuổi già, để thắng bệnh zona, và cách li với đại dịch Covid-19…
Nguyễn Ngọc Giao
Dương Tường dịch Màu tím hoa sim
The colour of myrtle flowers
by Hữu Loan
Her three elders were in the people’s army
the youngest of her siblings still a babbling urchin
when her hair was at its greenest
A soldier away from home I loved her
with that love one devotes to one’s younger sister
The wedding day she did not claim for a bridal robe
I came straight back from camp
my soldier’s boots coated with dust from marches
She smiled nicely beside her original man
I rejoined my regiment right after the wedding
From the battled area I pitifully thought of her
To get married in war-time
if I’d never be back… it pained me
picturing up my young wife
desperately awaiting at home
each sun-setting
Yet it was not the warring man but
his beloved in the rear that got killed.
I got back
too late to see her alive
Her mother seated herself by her daughter’s tomb
wrapped in darkness
The vase for flowers on the wedding day
now served as incense urn
with cold ashes all around
Dearest
your hair was still too short
to be knotted into a full chignon
Dearest
the last moment
we’re not given the mere chance
to cross eyes once nor to exchange one word
dearest…
The early autumn wind pappled the shivering surface of the river
The little one growing up
gazed at his sister’s photo-portait, bewildered,
when the early autumn wind rose
withering up the grass about the tombstone
In a forest doused with rain one afternoon
the three soldiers on the northeastern front heard of
their sister’s death before news of her wedding reached them
In days not long ago
she loved violet myrtle flowers
she wore violet blouses the color of myrtle flowers
In days not long ago…
The sun was settling and we kept marching
through hills upon hills of myrtles
unending hills covered with those violet blossoms
which dyed the sylvan dusk in an infinite violet
Somewhere someone sang out :
“ My shirt came unsewn at one side
“ I’ve taken no wife and my mum is too old to mend it yet ” (*)
Glancing at my shirt torn at the shoulder
bathed in the color of the blossoms I echoed in petto :
“ My shirt came unsewn at one side
“ I’m away from mum and orphaned of wife.”
(Việt Nam News, Feb. 9, 2020, p. 6)
Tưởng Năng Tiến – Dương Tường
Tôi có cái thói hễ thấy người sang là bắt quàng làm họ. Nhưng riêng chuyện tôi cũng (muốn) là bạn của ông Dương Tường thì không hẳn thế. Ông ấy (rõ ràng) trông dáng bộ cũng bệ rạc y như tôi thôi, chứ có sang trọng quái gì đâu – theo như lời bè bạn:
- Một lần Dương Tường đưa nhóm hoạ sĩ 5 người (gang of five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh mở triển lãm. Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi. Dương Tường đi xích lô, tay cầm tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người gác cửa khách sạn to lớn, mặc sắc phục nắm chặt vai anh, đẩy ra vỉa hè:
Không được bán báo ở trong ấy! Đi ra ngoài kia mà bán! - Một ngày giáp tết, nghe mấy họa sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp nơi để chọn bằng được một cành hoa đào ưng ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua đại một cành đào, vác ra ngoài cổng chợ đứng chờ. Đang cầm cành hoa mới mua, xo ro trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn tay nắm lấy vai anh, đẩy vào trong chợ :Không được bán hoa ở đây! Mang vào trong chợ mà bán! Đó là người bảo vệ chợ. (Bùi Ngọc Tấn. “Tôi Là Bạn Của Ông Dương Tường”. Viết Về Bè Bạn. Hải Phòng: Nhã Nam, 2003).
Vẫn cứ theo như lời Bùi Ngọc Tấn thì Dương Tường nhỏ người. Đã là dân Việt mà lại nhỏ con thì phải hiểu là … nhỏ lắm. Tôi áng chừng ông ấy cao khoảng một thước năm mươi lăm đổ lại, và nặng cỡ bốn mươi lăm ký là hết sức.
Tôi thì khác. Tôi cao đến một thước tám mươi, và nặng gấp rưỡi Dương Tường. Chỉ có điều đáng tiếc là cái vóc dáng “cao cả” này đã không khiến cho tôi trông cao sang, và quí phái hơn ông ấy được bao nhiêu – nếu chưa muốn nói là ngược lại.
Tôi cũng thường bị “trông lầm” (nhiều lần) chỉ vì trông không được ngon lành, hay bảnh bao gì cho lắm. Mới hôm qua chứ đâu, tôi ngồi cú rũ (một đống) trên mấy bậc thềm – trước khu thương xá Phước Lộc Thọ – ở phố Bolsa. Tôi hay bị buồn (ngang) khi ngày sắp tắt, nhất là vào những buổi chiều tàn, ở California. Màu nắng vàng hanh, hay đỏ rực của ráng chiều, dễ làm cho kẻ tha hương chạnh lòng nghĩ về chốn cũ: “Chiều nay gửi đến quê xưa, bao là thương là nhớ cho vừa … ”
Tôi cứ ngồi hát nho nhỏ, chỉ đủ cho chính mình nghe như thế, mà thấy nẫu cả lòng. Hẳn là trông tôi phải thê thảm lắm nên có một bà đồng hương đi qua, đã cúi xuống, kín đáo dúi cho tôi một tờ giấy bạc. Cầm thì kỳ mà không cầm cũng kẹt nên tôi cầm (đại) và miệng lí nhí nói cảm ơn mà mặt đỏ bừng!
Cũng theo lời kể của Bùi Ngọc Tấn, vào những năm đầu thập niên 60, Dương Tường phải sinh sống bằng nghề … bán máu. Ông Tấn đã hơi bi thảm hoá vấn đề, khiến nhiều người nghe muốn rơi nước mắt, chứ ở đất nước tôi mà có máu để bán, và có người mua – lại không phải qua cò (vì ông Tường vốn quen biết lớn) thì sung sướng và hạnh phúc lắm rồi, còn than van gì nữa?
Sau 1975, đất nước thống nhất, “Nam/Bắc hoà lời ca”, tôi ca (hơi) trật nhịp nên bị túm đi học tập một thời gian. Ra khỏi trại tù, tôi sống lang thang vất vưởng ở nhiều nơi, trước khi trôi dạt về Rạch Giá.
Thành phố này, vào mùa mưa, hay có những ngày biển động. Trời thấp, ẩm, lạnh, mây xám màu chì. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Tôi hay loanh quanh trong chợ Nhà Lồng của Rạch Giá, mắt láo liên nhìn quanh những bàn ăn, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần ăn còn lại. Chao ơi, giá lúc ấy mà có máu để bán và có người mua thì đỡ (khổ) biết chừng nào?
Những cảnh đời (không may) mà Dương Tường trải qua, tôi cũng đều đã nếm. Đồng cảnh tương lân. Kiếp sống lao đao của ông ấy khiến tôi sinh lòng ái ngại nên (thoáng) có ý muốn làm bạn cho vui, thế thôi.
Nhưng cuộc đời của Dương Tường không chỉ khốn khổ và khốn nạn như thế. Nó tệ hơn thế, đôi khi. Ông ấy còn bị bạn bè xa lánh, “bị công an thẩm vấn nhiều lần, mỗi bước đi đều bị giám sát chặt chẽ.” Cũng có những khi Dương Tường được ưu ái cho đi nước này nước nọ. “Anh được Cộng đồng pháp ngữ mời sang Pháp. Anh sang Đức trong Festival Gặp Việt Nam của Đức.” (Bùi NT sđd. Tr. 42).
Lúc nào thì Dương Tường cũng nằng nặc … đứng về phe nước mắt, như ông đã tuyên bố như vậy – qua thơ. Ngày 28 tháng 5 năm 2004 – tại viện Goethe – khi giới thiệu buổi đọc văn của một bạn đồng nghiệp, ông phát biểu :
Những gì chảy ra từ ngòi bút Bùi Ngọc Tấn khiến tôi nghĩ đến quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel văn học tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 10/12/1957:
Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ cô đơn và mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đày ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.
Nếu tính từ lúc Nguyễn Mạnh Tường đọc tham luận, góp ý với Đảng CSVN, trước phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc (vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, rồi bị vùi dập cho đến chết) thì mãi đến nửa thế kỷ sau, người ta mới lại được nghe tiếng nói dõng dạc và thẳng thắn như thế – của luơng tri – qua miệng Dương Tường, giữa lòng Hà Nội.
Tôi trộm nghĩ (rất có thể) là Dương Tường đã tạo nền cho những bài tham luận nẩy lửa – trước thềm Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII. Sau nhiều năm nín lặng, những người cầm bút Việt Nam đã cùng lên tiếng (nói một cách “chẻ hoe” và “trắng phớ”) về hoàn cảnh tồi tệ và nghiệt ngã mà chế độ đã dành cho họ.
Nếu những suy đoán chủ quan của tôi mà không trật thì Dương Tường (rõ ràng) quá bảnh. Ông ấy chỉ có cái dáng ngoài bệ rạc (như tôi) thôi chứ tư cách thì ngon lành hết biết. Tôi mới đụng chuyện với Đảng và Nhà Nước CS đâu có vài năm (lẻ) đã ù té bỏ chạy, và chạy luôn tới bữa nay, tuyệt nhiên không dám quay đầu nhìn lại. Còn Dương Tường, và những kẻ đồng hội đồng thuyền – theo lời của Phạm Xuân Nguyên :
… đã gánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh.