Seite auswählen

Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh

 Ông nội Hồ Chí Minh là ai?
– Em út của Hồ Chí Minh là ai?
– Đứa con rơi của Hồ Chí Minh là ai?

Số phận con người: Không thể bất công kéo dài đến vậy!

* ông nội thật của Hồ Chí Minh
* Vương Chí Nghĩa là ai?
* Hoa Quốc Phong là con cả Mao Trạch Đông
* quyền sống bình thường của anh Nguyễn Tất Trung

Tết Mậu Tý đến gần. Người ta thường nghĩ về quê hương, về người thân, về bà con họ hàng, về mồ mả tổ tiên…Thường vào dịp cuối năm, nhiều người tìm ra họ hàng mới, người thân mới. Những khám phá mới, có khi bất ngờ, đến lạ lùng, có trường hợp thú vị, lại có chuyện pha với đắng cay. Nhất là trong những gia đình dòng họ lớn, có tăm tiếng, đã và đang đi vào lịch sử.

 Ông Hồ Sĩ Tạo là ông nội Hồ Chí Minh: Đây là tin có thật, do nhà văn Hồ Sĩ Sênh, bút danh Trường Lam, hội viên Hội văn nghệ tỉnh Nghệ An, đưa ra, qua một sáng tác được công bố tại trại viết văn của Hội văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Trường Lam đã sưu tầm tài liệu khá công phu từ những người thật việc thật có quan hệ chặt chẽ với ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, còn có tên Nguyễn Sinh Huy, nguyên tri huyện Bình Khê, cha đẻ Nguyễn Sinh Côn (Cung) là ông Hồ Chí Minh sau này, sau khi bị mất chức do tội ngộ sát, đã vào Nam bộ làm nghề thầy lang khám bệnh bốc thuốc.
Điều trên bảo đảm tính chân thật của sự kiện.
Theo tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Sinh Sắc là con ông Nguyễn Sinh Nhậm quê ở Kim Liên, huyện Nam Đàn.Thật ra ông Nguyễn Sinh Nhậm vợ chết sớm, ốm yếu, nhận lấy cô Hà Thị Hy thường gọi là cô Đèn,” cheo” cô về làm vợ mọn, khi cô đã có mang với ông Hồ Sĩ Tạo; ông Nguyễn Sinh Nhậm đặt tên cho con cô Đèn, sinh vào năm 1863 là Nguyễn Sinh Sắc, nhận là con của mình. Ông Nhậm chết sau đó 3 năm.
Chính ông Hồ Sĩ Tạo mới là người cha huyết thống của ông Nguyễn Sinh Sắc, là ông nội thật sự của ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ Sĩ Tạo sinh năm 1834 mất năm 1907, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, đỗ Gỉải Nguyên khoa Mậu Thìn (1868), làm quan, dạy học, có tiếng văn hay chữ tốt cả một vùng Nghệ Tĩnh, tiếng vang trong Kinh, ngoài Bắc, quan hệ xã hội rất rộng. Ông lại hào hoa phong nhã, thích ngâm thơ vịnh nguyệt, mê ca trù, nhiều vợ đông con. Ông yêu mến cô Hà Thị Hy quê làng Sài huyện Nam Đàn, xinh đẹp hát hay; ông lại dạy học ngay trong nhà cô.
Hồng nhan bạc mệnh, người tình của cô Hy tài hoa bao nhiêu thì chồng danh nghĩa của cô là ông Nguyễn Sinh Nhậm yếu kém nhạt nhẽo bấy nhiêu. Ông chết sau khi lấy bà chừng 3 năm; phận làm mọn thời ấy thật cực nhục, cả họ Nguyễn Sinh khinh thị hắt hủi 2 mẹ con bà; bà phải bỏ nhà, bỏ con ra đi. May là khi bà chết, có người thương xót mang xác bà về quê và chính ông Hồ Sĩ Tạo lại tổ chức chôn cất và đọc lời điếu cho bà.
Chính ông Hồ Sĩ Tạo đã chăm lo bồi dưỡng cho ” đứa con hoang” của mình thành danh, qua gửi gắm ở những học trò cũ của mình đã thành thầy giỏi và quan chức có thanh thế trong triều đình, như ông Cao Xuân Dục. Ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng năm Tân Sửu (1901), sau đó vào Huế nhận chức Thừa biện bộ Lễ.

– Vương Chí Nghĩa: em út của Hồ Chí Minh. Năm 1907, ông Sắc được bổ nhiệm Tri huyện Bình Khê, đến 1911 ông tự gây nạn lớn, khi trong cơn nát rượu, ông ra lệnh đánh một số nông dân chậm nộp thuế, làm một người chết. Ông bị kết trọng tội, suýt mất đầu. Tuyệt vọng, bị sỉ nhục, ông rời bỏ kinh đô và quê nhà, đi biệt vào phương Nam, tít vùng sâu Đồng tháp – Cao lãnh, tự xưng là Cụ Vương, làm nghề bắt mạch, bốc thuốc.
Một lão nông tên là Mai Nhuận, có cả gia đình hàm ơn cụ Vương cứu mạng trong nạn dịch lớn, tự nguyện gả cô con gái út cho cụ Vương để đỡ đần cụ trong tuổi già cô đơn mà cô gái cũng đỡ vất vả. Mối tình vùng sông nước giữa cụ Vương và cô gái họ Mai đã tạo nên một cậu con trai kháu khỉnh mang tên Vương Chí Nghĩa, sinh năm 1927. Đây là người em út chưa từng biết của ông Hồ Chí Minh.
Vương Chí Nghĩa dời nơi ở lên vùng Tây Nguyên, sống mai danh ẩn tích để giữ an toàn cho dòng họ khi đất nước chưa độc lập, lại chia đôi và chiến tranh. Vương Chí Nghĩa có 2 con trai: Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt (sinh tháng 12-1959), cùng 5 con gái, trong đó một người mang tên Hồ Thị Minh Nguyệt đã cùng em là Vương Chí Việt xuất gia đi tu từ năm 1980. Vương Chí Việt mang pháp danh Thượng tọa Thích Chân Quang, hiện chủ trì chùa Phật Quang ở Bà rịa – Vũng tàu, đã tốt nghiệp khoa ngoại ngữ tiếng Anh. Mới đây năm 2007, Thượng tọa đã ra Nghệ An thăm viếng các làng xã quê hương ở Quỳnh Lưu và Nam Đàn, nhận họ hàng với chú bác, anh chị em, con cháu…Tuy nhiên về ông thày tu này đang có những nhận định khác nhau từ trong nước…

Thích Chân Quang (tên tục làVương Chí Việt) cháu kêu Hồ Chí Minh bằng Bác ruột

Thích Chân Quang (tên tục làVương Chí Việt) cháu kêu Hồ Chí Minh bằng Bác ruột

 Chuyện bên Tàu: Hoa Quốc Phong là con cả của Mao Trạch Đông Lại bắt sang chuyện Tàu. Trước đây vài năm, báo chí Hồng công lên tiếng nhiều lần cho rằng Hoa Quốc Phong từng là Thủ tướng Quốc vụ viện Trung quốc, rồi Chủ tịch Đảng CS Trung quốc là con trai ngoài giá thú của Mao Trạch Đông. Từ đó nhiều người bán tín bán nghi, vì trong các triều đình cộng sản, thật với giả, giả với thật cứ lộn nhèo với nhau, nhiều chuyện khó tin nhất có khi lại là thật, có chuyện ngỡ là của thiệt lại là của giả, của dỏm.
Gần đây báo chí Hồng công khẳng định chuyện trên đây là sự thật 100 phần trăm, và in hẳn cuốn sách nhỏ phát hành nửa công khai trên lục địa, kể đầu đuôi câu chuyện này. Talawas vừa đưa lên mạng.
Chuyện rằng năm 1920 khi Mao Trạch Đông 27 tuổi, xây dựng Tổ Thanh niên Cộng sản ở Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), có quan hệ với một cô gái họ Diêu. Bố cô gái buôn thuốc lá. Mao và cô gái họ Diêu sinh ra một bé trai ngoài giá thú năm 1921 đặt tên là Hoa Quang Tổ; sau 2 năm cô gái họ Diêu ốm chết. Hoa Quang Tổ được một số gia đình thay nhau nhận nuôi, đổi tên là Hoa Thành Vũ, sau đó là Hoa Quốc Phong. [Một năm sau Mao mới gặp Dương Khải Tuệ và sinh ra con chính thức Mao Ngạn Anh].
Ngoài Mao ra, một số lãnh đạo cao nhất của đảng CS Trung quốc như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình …đều biết chuyện này và chú ý đào tạo, nâng đỡ quá trình trưởng thành của Hoa Quốc Phong. Năm 1950 Mao điều Hoa từ tỉnh Sơn Tây về tỉnh Hồ Nam quê nhà, với chức bí thư địa ủy của địa khu Tương Đàm (địa khu là cấp trên của huyện, cấp dưới của tỉnh). Hoa được đưa lên làm Trưởng ban Văn giáo tỉnh, Trưởng ban Mặt trận tỉnh,và đến 1968 vào ban chấp hành trung ương, là Bí thư thứ nhất tỉnh ủy Hồ Nam. Mọi việc đều giữ kín, không cho Hoa biết thân thế thật của mình.
Cho đến đầu năm 1966, Mao chỉ thị cho Chu Ân Lai nói rõ cho Hoa biết Hoa là con trai cả theo huyết thống của Mao và chỉ phổ biến trong nhóm lãnh đạo cao nhất, đồng thời chỉ thị cho Hoa ”cứ giữ lý lịch như cũ, không thay đổi quan hệ vốn có với Mao, vì lợi ích toàn cục của đảng”. Hoa đã phải ký vào văn bản cam kết như thế.
Sau khi Lâm Bưu làm phản tháng 9-1971, Mao điều Hoa Quốc Phong về Bắc Kinh, đưa vào Bộ chính trị, chức vụ là phó thủ tướng, khi Hoa vừa 50 tuổi.
Sau khi Mao chết tháng 9-1976, Hoa Quốc Phong được đưa vọt lên là Chủ tịch ban chấp hành trung ương đảng kiêm Chủ tịch Ủy ban quân sự Trung ương vào tháng 7-1977, cho đến tháng 6-1981 thì bị đưa xuống Phó chủ tịch, Hồ Diệu Bang lên làm Chủ tịch, đến Đại hội XII (9-1982) Hoa ra khỏi trung ương, rồi về hưu sau đó ở Hồ Nam.
Hoa Quốc Phong nhiều lần khẩn khoản xin được bạch hóa lý lịch thật, đổi sang họ Mao, nhưng đều bị từ chối, với lý do phải ”bảo vệ danh dự của lãnh tụ và của đảng ”.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Hoa Quốc Phong nay 86 tuổi vẫn quan hệ chặt chẽ với Mao Lina, em gái út của mình, nay đã 67 tuổi, con của Mao và Giang Thanh; Hoa hiện sống ở Thiều Sơn, Hồ Nam quê của Mao và tự mình xử sự như người tiếp nối tự nhiên của dòng họ Mao.

 Phải đối xử công bằng với anh Nguyễn Tất Trung: Trên đây nói về ông Hồ Sĩ Tạo là người ông nội thật sự của ông Hồ Chí Minh, về Vương Chí Nghĩa là em út cùng cha khác mẹ với ông Hồ Chí Minh, về Thượng tọa Thích Chân Quang (Vương Chí Việt) là cháu gọi ông Hồ Chí Minh là bác ruột, về cả chuyện ông Hoa Quốc Phong nay được biết rõ là con cả theo huyết thống của Mao Trạch Đông… chỉ để nói đến trường hợp anh Nguyễn Tất Trung.
Tất cả những sự thật trên đây đều bị chế độ cộng sản phủ nhận, đi với những sự giả dối và bịa đặt bị cưỡng bức là sự thật. Chế độ độc quyền đảng trị ép mọi người phải hiểu rằng ông nội của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Nhậm chứ không phải là Hồ Sĩ Tạo, rằng ông Hồ chỉ có chị cả là cô Thanh, có bí danh là Bạch Liên, người anh là ông Nguyễn Tất Khiêm, còn gọi là ông Khơm, và em út là Xin chết sớm sau khi sinh vào năm 1904 (Mậu Tuất), chứ không có anh chị em nào khác.
Một trong những nạn nhân bi thảm kéo dài nhất của kiểu lừa dối trên đây là anh Nguyễn Tất Trung, con của ông Hồ Chí Minh và cô Nông Thị Xuân, một cô gái Tày quê ở làng Nà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao bằng. Cô được Trần Đăng Ninh, chủ nhiệm hậu cần quân đội chọn rồi đưa về Hànội nhằm ”phục vụ” ông Hồ. Cô được bộ công an của Trần Quốc Hoàn quản lý, dấu tại ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông thợ nhuộm, để hàng tuần đưa vào phục vụ ông Hồ 1, 2 đêm. Mối quan hệ ấy đưa đến kết quả là cô Xuân cho ra đời vào cuối năm 1956 một cháu bé được ông Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung theo họ cũ của mình (Nguyễn Tất Thành).
Trần Quốc Hoàn nổi tiếng dâm loạn đã nhiều lần cưỡng hiếp cô Xuân, bị cô chống lại quyết liệt, có cô Vàng là em họ ở cùng phòng với cô Xuân biết rõ. Nhiều lần con quỷ râu xanh này trói cô Xuân vào giường để cưỡng hiếp, hắn còn đe dọa 2 cô không được hé môi nói với ai, nhất là không được bẩm báo ông Hồ. Hoàn còn dương súng ngắn đe nẹt 2 cô rằng :” chúng mày liệu hồn, đến ông Hồ cũng nằm trong tay tao đây, hiểu chưa?”. Thế rồi sau một cuộc cưỡng hiếp cực kỳ thô bạo, tên Hoàn sợ rằng cô Xuân sẽ báo với ông Hồ, Hoàn liền dựng lên một tai nạn xe ô tô trên đường đê gần làng Chèm vào tờ mờ sáng để thủ tiêu cô. Ông Nguyễn Minh Cần lúc ấy là phó chủ tịch uỷ ban nhân dân Hà nội đã biết rõ vụ án mạng này, với những biên bản khám mổ tử thi của bệnh viện Việt – Đức. Sau đó cô Vàng bị đuổi về Cao bằng và ”chết đuối” trong một nghi án trên sông Bằng Giang; chồng chưa cưới của cô Vàng khẳng định hung thủ là tay chân của Trần Quốc Hoàn, kẻ sát nhân muốn bịt hết kẽ hở về tội ác của mình.

Cô Nông thị Xuân sau đổi là Nguyễn Thị Xuân,  sinh năm 1932, mất năm 1957.  Chụp cuối năm 1956 tại Hànội sau khi đẻ Nguyễn Tất Trung

Cô Nông thị Xuân sau đổi là Nguyễn Thị Xuân, sinh năm 1932, mất năm 1957. Chụp cuối năm 1956 tại Hànội sau khi đẻ Nguyễn Tất Trung

– Những nạn nhân một cuộc án mạng giữa cung đình: Cô Xuân, cô Vàng, anh thương binh nặng chồng chưa cưới của cô Vàng đều là những nạn nhân của chế độ toàn trị giả đạo đức, hiện còn ngậm đắng nuốt cay dưới suối vàng vì nỗi oan khiên của họ vẫn chưa được làm sáng tỏ; bọn tội phạm bất nhân của một chính quyền đàn áp lấy công an làm nòng cốt vẫn còn lộng hành.
Ở đây, lúc này, toàn xã hội ta cần đặc biệt chú trọng đến số phận, đến nỗi oan khiên đeo đẳng một con người còn sống và gia đình anh, đó là anh Nguyễn Tất Trung, đứa con không được thừa nhận của ông Hồ Chí Minh và cô Nông Thị Xuân.
Đã 51 năm nay, hơn nửa thế kỷ, anh Trung sống lay lắt về mặt pháp lý, không có giấy khai sinh thật, không được nhận cha đẻ của mình, không được nhận mẹ đẻ của mình,chưa được một lần thăm mộ và thắp hương trên mộ mẹ; anh không được về quê hương bản quán quê nội cũng như quê ngoại để nhận bà con họ hàng, không được biết, và dù biết cũng không được nhận ai là ông bà, chú bác, anh chị em, con cháu ruột thịt của mình.
Cả cuộc đời anh và đời vợ và con anh bị đặt trong thế bất công và phi lý, không có một văn bản pháp lý nào quy định, sống không có căn cước thật, bị xô đẩy, đưa qua chuyển lại tùy tiện theo ngẫu hứng của giòng đời. Trung chỉ được yên ấm trong lòng mẹ Xuân và trong vòng tay êm ái của dì Vàng có vài tháng ngắn ngủi, để rồi côi cút, cô đơn, không hiểu gì cho rõ về cuộc đời mình. Ông Sao Đỏ – Nguyễn Lương Bằng đưa bé Trung về gia đình được vài tháng trong năm 1957, rồi giao lại cho gia đình tướng Chu Văn Tấn trên Thái Nguyên vài năm. Sau đó, các bà Hội phụ nữ cứu quốc trung ương đưa chú bé vào trại mồ côi của Hội, rồi vào trường Nguyễn Văn Trỗi dành cho con liệt sỹ. Vào những năm 1967 – 1968, cậu bé Trung thông minh, nhanh nhẹn, bắt đầu tìm hiểu thế giới xung quanh, cũng bắt đầu tò mò về căn cước thật của mình, thì 2 đợt ốm nặng ập đến, có lúc tưởng như không qua khỏi. Bóng đen của tên “lưu manh xứ Nghệ” trở thành trùm công an cộng sản – quỷ dâm ô Trần Quốc Hoàn lại hiện ra. Tên này lo sợ bị lật tẩy, đã dùng thủ thuật an ninh cộng sản được thày Tàu tiếp tay, cho cậu bé uống và tiêm nhiều lần thuốc độc, thuốc lú, gây thần kinh hỗn loạn, khi quên khi nhớ, có lúc như ngớ ngẩn, có khi ngồi thừ vô cảm hàng buổi, mất hẳn sinh khí, như kẻ vô hồn. Ông Hồ mất vào tháng 9-1969 khi cậu Trung vừa ra khỏi cơn ốm dài. Trước khi mất, ông chỉ mong được đi gặp Cụ Mác cụ Lê, quên khuấy còn có đứa con bị bỏ rơi đang băn khoăn về lý lịch thật của mình.
Cái may cho cậu Trung là sau khi ông Hồ mất, ông Vũ Kỳ, thư ký riêng lâu năm (từ năm 1948) của ông Hồ đón Trung về gia đình, nhận Trung làm con nuôi, coi như con đẻ của mình, đi học trường phổ thông Chu Văn An cạnh Hồ Tây cùng 2 con ông là Vũ Quang và Vũ Vinh, cùng độ tuổi với Trung. Đây là thời kỳ ổn định, ấm cúng nhất của anh Trung, nhưng bệnh đau đầu dai dẳng không cho anh vào được trường Đại học. Ông Vũ Kỳ còn quan tâm đến việc lập gia đình cho Trung, và đám cưới được tổ chức khi anh 32 tuổi, vào năm 1988, với cô Lưu Thị Duyên, thuộc một gia đình bình thường. Anh chị có một cháu trai kháu khỉnh, sinh năm 1992, đặt họ và tên là Vũ Thanh, sau đổi là Nguyễn Thanh Trung, vì tuy Trung rất quý ông Vũ Kỳ, nhưng vẫn nuôi ý muốn tìm trở về gốc gác thật của mình.
Trong xã hội Việt nam suốt nửa thế kỷ qua, không có một con người nào sống trong tình trạng cay đắng đặc biệt như anh Trung. Anh bị mất quyền được là mình. Anh luôn phải đeo chiếc mặt nạ. Anh không có cha thật, mẹ thật, anh chị em thật của mình. Anh là người công dân lương thiện cực hiếm trong xã hội không có căn cước thật. Anh không hề có một tội nào dù là nhỏ nhất. Thắc mắc về cội nguồn, anh có chăng? biết hỏi ai cho ra lẽ? Anh tự biết, nếu hỏi với người cai quản anh, có khi mang vạ vào thân. Vì anh có thể lờ mờ hiểu rằng người đẻ ra anh có liên quan đến nhiều vụ án mạng kinh khủng. Anh ngại, anh sợ. Nhiều người biết, và họ thấy ở anh luôn có sự không bình thường; bệnh trầm cảm, phẫn chí, lầm lỳ, tâm thần bất định…luôn bám chặt anh.

– Thời minh bạch và hội nhập, sự giải thoát: Chúng ta hãy tưởng tượng nỗi hận đời trong lòng anh Nguyễn Tất Trung, khi tâm trí anh đã trở lại gần như bình thường 5, 6 năm nay, như một số anh em trong nước cho biết, sau khi “thuốc lú” độc ác đã tiêu tan với thời gian. Bao nhiêu câu hỏi “vì sao?”, ” vì sao? ” gậm nhấm tâm hồn anh. Vì sao anh lại phải sống u ẩn, trong bóng tối mãi thế này? Vì sao mình lại không được là mình? phải mang mặt nạ kỳ quặc mãi thế này? Cái quý nhất của con người là căn cước riêng biệt để phân biệt với mọi người khác đã bị tịch thu vĩnh viễn. Quyền cao quý nhất là quyền được làm một con người, được là chính mình đã bị tước đoạt. Một điều phi lý bất công anh có vẻ không sao hiểu và chịu nổi.
Vẫn chưa hết. Câu hỏi ai oán nhất làm anh đau xót là về mẹ anh. Anh chỉ có một bức ảnh hơi mờ ảo về người mẹ xinh đẹp và hiền hậu của anh, đôi mắt sáng mà dịu, hàm răng hé trắng, mái tóc bồng, áo len cụt tay tự đan, ảnh quý chụp năm 1956 ngay sau khi sinh anh; nhưng còn thiếu cháy bỏng những di vật có thể còn,- bộ quần áo, chiếc gương, lược – , những hiểu biết về ông bà ngoại, về họ hàng thân thuộc ở Nà Mạ hiện còn là những ai để ngày nào đó anh sẽ đưa vợ con anh lên thăm.
Nỗi ám ảnh lớn là cái chết bi thảm của người mẹ yêu quý của anh đã diễn ra như thế nào vào sáng 12-2-1957 ấy, vì sao? ai là thủ phạm? Mộ mẹ anh ở đâu sau khi mổ tử thi ở bệnh viện Việt – Đức thì người ta mang chôn nơi nào? có ai chăm sóc nấm mộ thiêng ấy, bao giờ anh và vợ con anh được thăm viếng? Lại còn cái chết bi đát của dì Vàng, mà vòng tay đã ôm ấp anh từ những ngày trứng nước, có phải đã bị giết ngày 2-11-1957 rồi quẳng xuống sông Bằng Giang? Phải chăng như có người biết, anh vẫn gìn giữ một phiên bản lá thư của anh thương binh chồng chưa cưới của cô Vàng gửi ông Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch Quốc hội (đề ngày 29-7-1983) để quyết tìm hiểu cho ra sự thật. Bức thư tuyệt mệnh này đã được gửi ra hải ngoại và một bản sao đã được một người bạn chuyển cho anh. Có lần anh đã mạnh dạn tìm đến nhà tướng Ngô Thế Nùng, em rể ông Hoàng Minh Chính để cố hỏi dò về cái chết bi thảm của mẹ anh.
Việc thông tin công khai, nói lên đầy đủ sự thật về Nguyễn Tất Trung nay đặt ra là đã chín muồi. Nỗi hận ấp ủ nửa thế kỷ đến hồi phải được giải tỏa. Vì đất nước đang trong quá trình đổi mới không ai cưỡng lại nổi, tính trong sáng, minh bạch đã được cam kết trước toàn dân và thế giới.

– Chia sẻ yêu thương: Trước hết những người có lương tâm và tình người trong xã hội ta dễ thông cảm với anh Nguyễn Tất Trung và lòng khao khát của anh tìm hiểu sự thật về mình, vượt lên số phận bất công phi lý do hoàn cảnh khe khắt tạo nên, và sẵn sàng khuyến khích, tiếp sức cho anh bước vào cuộc đời mới, có căn cước thật, được là chính mình.
Được biết anh Trung thường ngồi suy tư hàng giờ, và từng nói với bạn rằng anh đã khóc cạn nước mắt về người mẹ quý yêu, rằng cuộc đời anh chìm nổi tưởng là chết nhiều lần rồi, nay thì phải sống để biết những điều cần biết …
Tôi cùng một số bạn mạnh dạn đưa câu chuyện về anh Trung và gia đình vì thông cảm sâu sắc với hoàn cảnh của anh, trên trách nhiệm con người đối với con người, không ai có quyền dửng dưng với một số phận éo le, cô đơn, có vẻ bế tắc như thế, để tiếp sức nghị lực cho anh đứng dậy là chính mình giữa thanh thiên bạch nhật. Anh rất ham tin tức trên đời, hằng ngày đọc các bản tin trên mạng. Anh thông minh, tư duy đã hồi phục, tự mình biết cách ”ra công khai” như thế nào và từ đó làm chủ đời mình, không cần ai chỉ vẽ, o ép.
Thật ra tôi đã có lòng cảm mến anh thanh niên Nguyễn Tất Trung từ gần 20 năm nay. Vào năm 1989 tôi hay ghé qua nhà ông Vũ Kỳ, khi ấy đang là Giám đốc bảo tàng Hồ Chí Minh. Ông Kỳ và tôi lúc ấy rất không hài lòng khi thấy họ xóa bỏ 3 đoạn của di chúc ông Hồ Chí Minh, các đoạn nói về: mở ngay cuộc kiểm điểm sau toàn thắng để phòng ngừa bệnh kiêu ngạo; giảm một năm thuế nông nghiệp để ”thư dân”; làm ”hỏa thiêu”. Tôi đặt và đăng bài viết của ông Vũ Kỳ trên báo ”Nhân dân Chủ nhật” phơi bày 3 điểm ấy, buộc họ phải đưa ra Quốc hội, công bố lại ” toàn bộ di chúc ”, đưa công khai bản chụp nguyên si cả tập di chúc, ra nghị quyết giảm thuế nông ngiệp 50% trong 2 năm. Ông Kỳ và tôi bị ban bí thư lên án là vô kỷ luật, bị triệu tập đến ”làm việc với lãnh đạo” ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân, cứ như một phiên tòa. Sau đó tôi hay ghé chơi nhà ông Kỳ, và gặp cả 3 cháu Quang, Vinh và Trung ở đó. Quang và Vinh người mập mạp như ông Kỳ, còn Trung thì gầy, cao, rất xinh trai. Vợ Trung là cô Duyên cũng xinh, trắng, giản dị; 2 vợ chồng đã ở riêng, đang cố chữa bệnh để mong có con. Hai vợ chồng vẫn thường về thăm ông Vũ kỳ và gia đình.
Tôi cũng được biết tháng 4-2005, khi ông Vũ Kỳ ốm nặng nằm trong bệnh viện Việt-Xô sát bờ sông Hồng, Trung luôn thay phiên với Quang và Vinh túc trực bên cạnh bố; khi ông Kỳ mất, Trung cũng mặc áo xô, chống gậy, đội mũ rơm trong lễ tang.
Vì bị bệnh, học không đến nơi đến chốn, nên Trung khó kiếm việc làm. Có lúc làm giữ kho, bảo vệ công xưởng. Khi sức khỏe khá, 2 vợ chồng mở quán cà-phê, ở sau ga Hàng Cỏ – Hà nội, rồi dời về cổng trường Đại học Bách khoa. Có lúc gia đình anh ở số nhà 31 phố Lê Thanh Nghị, có lúc ở tại Phòng 102- Khu tập thể Ủy ban khoa học nhà nước trong ngõ Thịnh Hào 1 . Lâu nay anh được tự do tiếp bè bạn hơn trước, không khí chung của xã hội dễ thở hơn, tính công khai minh bạch và quyền tự do công dân được khẳng định dần.
Trước đây, thế lực an ninh luôn vây bủa, kiềm chế cuộc sống của gia đình Trung, kiểm tra mọi mối quan hệ, vừa đe dọa vừa mua chuộc. Gần dây, kinh tế khá lên, họ cấp cho nhà khá rộng, rồi phong lên là sỹ quan trong danh sách, nhận lương cấp ”thượng tá, cốt để vợ chồng tránh những quan hệ xã hội rộng rãi khó kiểm soát.
Nhưng không gì quý hơn tự do, nhân phẩm của một con người. Con người luôn nhận trách nhiệm với chính bản thân mình trước hết.
Khi cuộc sống anh Nguyễn Tất Trung khá lên, tiền không thiếu, có xe cộ khá sang thì anh lại càng có vẻ băn khoăn thao thức; thì ra tiền không mua được sự yên tĩnh của tâm hồn, anh có vẻ bứt rứt: tại sao cuộc đời che dấu, mang mặt nạ mãi của anh lại không đến lúc chấm dứt, để anh được là anh với căn cước chân thực đàng hoàng, sống tự do, thoải mái, hồn nhiên trong quãng đời còn lại của mình.
Cả đại gia đình người Việt trong và ngoài nước sẽ hết lòng chia sẻ yêu thương với anh và chị Duyên cùng gia đình và tận lực giúp anh, che chở anh khi cần.
Có kẻ sẽ lại vu cáo tôi là nói xấu chế độ, có âm mưu lật đổ và phá hoại.
Tôi chỉ có lòng dạ ngay thật, trọn vẹn với nhân dân, kiên định niềm tin vững chãi rằng sự thật, chỉ có sự thật mới cứu vãn được đất nước này khỏi sự dối trá, đạo đức giả và tội ác, xây dựng mối quan hệ ngừơi với người là bạn, là anh chị em trên tình nghĩa đồng bào thân thiết.
Không có bí mật quốc gia nào, không có danh dự của một phe đảng nào có thể viện ra để chà đạp nhân thân, thủ tiêu căn cước thật, quyền làm người trọn vẹn của một công dân sinh ra đã bình đẳng tuyệt đối với mọi con người khác dưới ánh mặt trời.

2 vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con là Nguyễn Thanh Trung (sinh năm 1992)  tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu trắng dài là ông Vũ Kỳ, mất năm 2005;  bên trái ông Kỳ là ông em ruột. Trung và vợ con ở phía phải

2 vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên cùng con là Nguyễn Thanh Trung (sinh năm 1992) tại gia đình ông Vũ Kỳ vào năm 1998; người có râu trắng dài là ông Vũ Kỳ, mất năm 2005; bên trái ông Kỳ là ông em ruột. Trung và vợ con ở phía phải

2 vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên viếng mộ của tướng Chu Văn Tấn;  thượng tướng Chu Văn Tấn người dân tộc Nùng ở Bắc Sơn, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu Việt Bắc,  Phó chủ tịch Quốc hội, sinh năm 1910, mất năm 1984, bị lột hết chức vụ năm 1978  vì '' tội'' làm gián điệp cho Tàu không có xét xử; khi chết không được chôn ở Nghĩa trang Mai Dịch,  mộ trong ảnh ở Thái nguyên, mấy người đứng quanh là mật vụ công an luôn theo dõi những người đến thăm mộ

2 vợ chồng Nguyễn Tất Trung và Lưu Thị Duyên viếng mộ của tướng Chu Văn Tấn; thượng tướng Chu Văn Tấn người dân tộc Nùng ở Bắc Sơn, Tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu Việt Bắc, Phó chủ tịch Quốc hội, sinh năm 1910, mất năm 1984, bị lột hết chức vụ năm 1978 vì ” tội” làm gián điệp cho Tàu không có xét xử; khi chết không được chôn ở Nghĩa trang Mai Dịch, mộ trong ảnh ở Thái nguyên, mấy người đứng quanh là mật vụ công an luôn theo dõi những người đến thăm mộ

Nguyễn Tất Trung thăm hang Pắc Bó, ngồi bên hòn đá, có ghi: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngồi tại đây để dịch cuốn Lịch sử đảng CS Liên Xô vào năm 1941.

Nguyễn Tất Trung thăm hang Pắc Bó, ngồi bên hòn đá, có ghi: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngồi tại đây để dịch cuốn Lịch sử đảng CS Liên Xô vào năm 1941.

2 vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó - Cao Bằng (ông Hồ đặt tên cho suối này là suối Lênin, cạnh đó là núi Mác)

2 vợ chồng Trung và Duyên bên dòng suối ở Hang Pắc Bó – Cao Bằng (ông Hồ đặt tên cho suối này là suối Lênin, cạnh đó là núi Mác)

Bùi Tín
Giáp Tết Mậu Tý 2008.