Seite auswählen
Những nghi phạm bị bắt sau vụ bạo động ngày 11 Tháng Sáu 2023 (ảnh: báo CAND)

Cuộc vây bắt bố ráp nhóm người Thượng tham gia vào vụ bạo loạn đẫm máu ở hai đồn công an ở xã Ea Ktur và Ea Tu vào rạng sáng ngày 11 tháng Sáu đang có nguy cơ biến thành một cuộc xung đột sắc tộc và trả thù theo đúng nghĩa đen.

Toàn bộ năm tỉnh thành Tây Nguyên đặt trong trạng thái chiến tranh. Lực lượng công an, mật vụ, cảnh sát cơ động chống khủng bố, quân đội hùng hậu được triển khai. Bất kể ai, với kiểu hình và ngữ âm “dân tộc”, mặc quần áo rằn ri đều trở thành đối tượng bị truy bắt và xét hỏi. Một clip trên MXH cho thấy đám đông đầy phẫn nộ cùng lực lượng công an đang trói gô hai người đàn ông dân tộc mặc chiếc quần rằn ri khi họ trên đường đi làm rẫy như những kẻ tội phạm, mặc cho hai thanh niên ú ớ thanh minh bằng thứ tiếng Việt không rõ ràng. Theo thông báo của Bộ Công an, hiện đã có 45 đối tượng tình nghi bị bắt giữ và cuộc bố ráp vẫn tiếp tục với qui mô mở rộng chưa từng có.

Điều đáng lo ngại là bầu không khí đầy kích động thù hận đang lây lan, khuyến khích các hành động bạo lực tập thể. Sáu viên công an và hai viên chức hai xã bị tử thương đều là người Nghệ An, Thanh Hóa và đây cũng là sắc dân nhập cư đa số, đông đảo nhất ở năm tỉnh Tây Nguyên sau 1975. Với đặc tính cấu kết vùng miền mạnh mẽ, họ thậm chí tổ chức các đội nhóm đi lùng bắt người dân tộc thiểu số như thời Trung cổ và sẵn sàng sử dụng bạo lực mà không có sự ngăn cản của phía chính quyền.

 Cuộc bố ráp đang biến thành một cuộc trả thù sắc tộc không kiểm soát có thể tạo ra xung đột sâu sắc thêm, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Điều đó cần phải chấm dứt ngay. Cuộc khủng hoảng này cần nhanh chóng khép lại bằng tiến trình luật pháp. Điều quan trọng hơn là Hà Nội nhìn nhận ra ngọn nguồn của mâu thuẫn dẫn đến tội ác và bạo loạn như đã xảy ra trong nhiều thập niên qua và vẫn nhức nhối tới hôm nay dù nhà cầm quyền đã tiêu tốn một nguồn lực khổng lồ. Vấn đề cần được giải quyết ở gốc rễ chứ không phải bằng bạo lực và đàn áp sắt máu.
Bỏ qua nguyên nhân trực tiếp gây cuộc bạo loạn có tổ chức này có thể có những tác nhân “nước ngoài” tác động. Tôi sẽ chỉ tập trung vào phân tích các nguyên nhân gây ra những mâu thuẫn và phẫn uất xã hội đã tồn tại quá lâu ở Tây Nguyên nói riêng.

Đó là các mâu thuẫn về văn hóa, bất công trong chính sách quản lý đất đai, phân biệt đối xử và cướp bóc một cách có hệ thống của chính quyền địa phương đối với những sắc dân thiểu số Tây Nguyên. Ngoài ra, còn có các yếu tố lịch sử và chủng tộc cần phải được xem xét một cách khách quan và toàn diện. Chính các vấn đề này mới là căn nguyên của tội ác và bạo loạn, bất ổn xã hội. Những sai lầm cần được triệt để khắc phục dù phải hy sinh các lợi ích phe nhóm đang chiếm ưu thế quyền lực vượt trội ở hệ thống cầm quyền Việt Nam.

  Công an bố ráp và bắt bớ nhiều người được cho là can tội thực hiện vụ bạo loạn ngày 11 Tháng Sáu 2023 (ảnh: báo CAND)
Toàn bộ khu vực nghẹt thở với sự “ra quân” của quân đội lẫn công an (ảnh: báo CAND)

Trụ sở Công an xã Ea Tiêu và Ea Ktur, hai địa điểm chứng kiến cuộc bạo động ngày 11 Tháng Sáu 2023 (đồ họa của VNE)

Tây Nguyên trước 1975

Ngược lại tiến trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam thì đến khi chúa Nguyễn Hoàng nhập Phú Yên năm 1611 tới thời Gia Long thống nhất non sông một dải từ mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan năm 1802, thì Tây Nguyên vẫn chưa nằm trong cương thổ Việt Nam. Vùng cao nguyên và núi non mênh mông này là nơi sinh sống của các sắc dân Kor, Ktu, Ba Na, Xơ Đăng, Hre, Jrai… và họ không khuất phục trước sự cai trị hà khắc của nhà Nguyễn.

Những cuộc nổi dậy mạnh mẽ chống lại Nguyễn triều được biết tới với tên gọi “loạn mọi Đá Vách”. Đá Vách là tên gọi khác của núi Thạch Bích, phía Tây của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Cuộc nổi dậy của họ kéo dài suốt nửa thế kỷ và Nguyễn triều đã phải nhọc công bình định với hao tổn to lớn.

Vào thời Pháp thuộc, hệ thống quyền lực hành chính và những hạ tầng xã hội văn minh được người Pháp bắt đầu đặt nền móng từ những năm 1891. Với việc phát hiện ra cao nguyên Lang Biang bởi nhà khoa học lừng danh Yersin và theo đề nghị của ông, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã cho xây dựng thành phố Đà Lạt, chính thức trực tiếp can thiệp vào vùng đất Tây Nguyên kể từ 1900. Đến Tháng Năm 1949, người Pháp trao quyền quản lý Cao Nguyên Trung Phần với xứ Thượng Nam Đông Dương cho chính phủ Quốc gia Việt Nam.

Quốc trưởng Bảo Đại tách riêng Cao Nguyên Trung bộ ra và lập qui chế hành chính đặc biệt có tên Hoàng Triều Cương Thổ vào Tháng Tư 1950. Vùng này gồm năm tỉnh là Đồng Nai Thượng, Lâm Viên, Pleiku, Daklak, Kontum. Đến 1955, chính quyền VNCH dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm mới giải thể qui chế này và sát nhập “Hoàng Triều Cương Thổ” vào lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, Tây Nguyên hay Cao nguyên Trung phần là phần đất cuối cùng được sát nhập vào cương thổ Việt Nam trong lịch sử hiện đại.

Trong suốt quá trình người Pháp can thiệp vào Tây Nguyên, việc nhập cư được kiểm soát khá chặt chẽ. Người Pháp duy trì chế độ tự trị của vùng đất này và hạn chế người Kinh nhập cư, ngoại trừ những công ty trồng café, cao su được quyền tuyển người và đưa người Kinh vào làm việc với số lượng giới hạn. Việc thành lập các đồn điền và di thực các loại cây công nghiệp chiến lược là café, cao su… về trồng tại cao nguyên Lang Biang đã sớm có những kết quả kinh tế to lớn, cùng với những hạ tầng kỹ thuật, đô thị được xây dựng một cách khoa học đã thay đổi đời sống của người dân địa phương. Đà Lạt trở thành thủ đô của Cao Nguyên Trung Phần.

Người Pháp rất tôn trọng văn hóa và tập tục bản địa của người Thượng – tên gọi chung cho các dân tộc Tây Nguyên. Dưới thời Quốc gia Việt Nam, “Qui chế 16” của Quốc trưởng Bảo Đại thừa nhận các quyền sở hữu đất đai của người Thượng, cũng như tôn trọng tập tục bộ lạc và chức sắc kế truyền…

Nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, chủng tộc, tài nguyên, thổ nhưỡng, khí hậu của người Pháp về Tây Nguyên cách đây hơn 100 năm phải khiến cho giới trí thức Việt sau hơn một thế kỷ mới được tiếp cận phải sửng sốt, thán phục. Một ví dụ tiêu biểu là bản trường ca Đam Săn của dân tộc Ede (Rhade) đã được chuyển ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng Pháp bởi Léopold Sabatier từ 1929. Rất lâu sau đó, những nhà “văn hóa Việt Nam” mới được biết tới kiệt tác này qua bản dịch của ông.

Cuộc di cư lớn đầu tiên của người Kinh vào Tây Nguyên dưới thời VNCH được ghi nhận vào giai đoạn 1954 khi gần một triệu người Bắc di cư vào Nam. Trong số đó, 54,551 người đã được sắp xếp định cư ở Đà Lạt và Lâm Đồng. Cho đến 1975, toàn bộ dân số khu vực Tây Nguyên ước chừng khoảng 1.2 triệu dân với đa phần là dân bản địa chiếm khoảng 70%. Chính sách của VNCH sau khi sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào Trung phần, gọi là Cao nguyên trung phần (hay Tây Nguyên) chú trọng xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, gia tăng quyền lực hành chính.

Song đối với các dân tộc bản địa, chính quyền VNCH hết sức tôn trọng văn hóa, tập tục, hỗ trợ kinh tế, hướng dẫn nghề nghiệp, kỹ thuật lâm nghiệp để họ có đời sống tốt hơn. Mối quan hệ giữa chính quyền, người Kinh nhập cư và các dân tộc bản địa được ghi nhận là tốt đẹp và hòa hảo. Mặc dù vậy, việc sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ và loại bỏ cơ chế tự trị của vùng đất này của Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng đã tạo cớ để cho những mâu thuẫn với người Thượng phát sinh. Điều này đã đem tới cơ hội để những người cộng sản khai thác và lợi dụng triệt để.

Tây Nguyên sau 1975

Sau 1975, nhà cầm quyền Việt Nam thực hiện chính sách di dân cưỡng bức một lượng lớn dân cư thành phố là những gia đình sỹ quan, viên chức làm việc trong chính quyền cũ tập trung vào các “vùng kinh tế mới” mà thực chất là những nơi rừng thiêng nước độc, không có hạ tầng để khai hoang và dọn dẹp bom mìn sau chiến tranh. Một lượng lớn dân nghèo nông thôn từ miền Bắc với đa số sắc dân ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ, Hà Tây… cũng được khuyến khích vào làm việc trong các lâm trường quốc doanh theo chương trình phát triển kinh tế mới, nhằm giảm sức ép dân số ở miền Bắc và tăng nguồn lao động cho Tây Nguyên.

Theo thống kê, Tây Nguyên là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất cả nước. Việc tăng dân số chủ yếu là tăng dân số cơ học bởi nhập cư trong đó có hai nguồn là nhập cư theo kế hoạch và nhập cư tự do. Chỉ riêng tỉnh Đắk Lắk, từ 1976 đến 2005, đã có 56,490 hộ nhập cư theo diện tự do với 289,688 nhân khẩu.

Dân số Tây Nguyên tính đến 2012 đã đạt khoảng 5.379 triệu dân, gấp 4.5 lần so với 1976. Tỷ lệ nhập cư tự do của toàn vùng trong bốn thập niên sau chiến tranh giao động 54% – 60% mức tăng dân số và xu hướng này ngày một cao hơn.

Việc nhập cư ồ ạt thiếu kiểm soát, thiếu chính sách phát triển kinh tế xã hội một cách khoa học, căn cơ đã gây ra vô vàn các hệ lụy. Chỉ trong hơn bốn thập niên, hơn 80% rừng nguyên sinh ở Tây Nguyên trên thực tế đã biến mất và bị chuyển đổi thành rừng trồng cây công nghiệp, cây lấy gỗ làm nguyên liệu, sắn và các loại lương thực ngắn ngày. Rừng nguyên sinh về cơ bản đã không còn. Cùng với việc phát triển thủy điện ồ ạt, đô thị hóa nhanh cũng góp phần tàn phá môi trường gây ra tình trạng suy thoái tài nguyên đất trên diện rộng và nguồn nước ngầm sụt giảm về lâu dài sẽ gây ra thảm họa sinh thái trong tương lai không xa.

Năm 2004, một khảo sát về dân số và xã hội cho thấy tỷ lệ người dân tộc bản địa chỉ còn khoảng 25% dân số Tây Nguyên (so với tỷ lệ 70% trước 1975) và là những đối tượng rất dễ bị tổn thương bởi các chính sách đất đai và hộ khẩu của nhà cầm quyền. Từ vị trí là chủ nhân của Tây Nguyên, những dân tộc bản địa này đã trở thành sắc dân “thiểu số”. Mặc dù của nhà cầm quyền luôn nói quan tâm tới đời sống cho các dân tộc thiểu số và 54 dân tộc anh em đều bình đẳng. Tuy nhiên, thực tế và chính sách thì cả một vực thẳm.

Xung đột về văn hóa và bị tước đoạt sinh kế và nguồn lợi

Nhà nghiên cứu dân tộc học người Pháp Jacques Dournes khi nghiên cứu về văn hóa những dân tộc Tây Nguyên có viết “Nền văn minh Jrai là một nền văn minh thảo mộc”. Nhà văn Nguyên Ngọc nói “Người Kinh thấy rừng là thấy gỗ, người Thượng thấy rừng là thấy Mẹ, thấy cội nguồn sự sống”.

Không chỉ là văn minh Jrai, cả nền văn minh Tây Nguyên là nền văn minh thảo mộc, có nghĩa là Rừng. Văn hóa bản địa gắn liền với rừng đại ngàn. Những dân tộc Tây nguyên có đức tin riêng biệt, có văn hóa và đời sống vật chất, tâm linh gắn liền với Rừng Tây Nguyên. Từ ngàn đời nay, người Thượng sống trong những tán rừng nguyên sinh và họ coi Rừng là Mẹ. Họ không phá rừng để xây biệt phủ bằng gỗ quí như ông tướng công an Trần Kỳ Rơi hay tất cả các quan chức cộng sản người Kinh khác. Họ không bao giờ lấy từ rừng nhiều hơn cái cần thiết cho nhu cầu tối thiểu, gỗ chỉ đủ dựng một căn nhà đơn sơ, thú chỉ đủ cho sinh tồn.

Người Thượng Tây Nguyên khi chặt một cây rừng, họ làm lễ xin Thần linh và tạ lỗi với cây rừng vì đã làm đau rừng. Đó là thứ Đạo Đức của Tự Nhiên – điều hoàn toàn xa lạ với những người Kinh và các sắc dân nhập cư sau 1975. Sự khác biệt đến đối lập trong cách nhìn nhận và ứng xử với Thiên Nhiên, mà ở đây là Rừng, giữa người Kinh và Thượng đã là một mâu thuẫn ghê gớm.

Nhiều người cho rằng người Thượng Tây Nguyên với tập tục đốt nương làm rẫy gây nên nạn phá rừng. Điều này là một nhận thức sai và mang tính qui chụp. Bởi lẽ, người Thượng chỉ đốt rẫy làm nương trong một vùng bao trùm hoàn toàn bởi rừng nguyên sinh. Bốn mặt là rừng nguyên sinh. Họ coi đó là mượn Mẹ Thiên Nhiên một mảnh đất và sẽ trả lại sau vài vụ mùa. Những ai từng sống ở rừng nguyên sinh Tây Nguyên sẽ thấy rừng phục hồi rất nhanh và rất mạnh. Một mảnh rẫy như thế sau vài vụ mùa được trả lại Mẹ Thiên Nhiên sẽ tái sinh rất nhanh. Người Thượng không chiếm hữu nương rẫy, họ chỉ mượn của Rừng một thời gian và trả lại Rừng sau đó.

Nhưng điều này đã không còn nữa. Khi người Kinh xuất hiện, họ đã chặt phá phần lớn rừng nguyên sinh Tây Nguyên và thay thế bằng những cánh rừng trồng cây công nghiệp, họ chiếm hữu nương rẫy, đất đai và đẩy những người dân tộc thiểu số Tây Nguyên ra khỏi nguồn sống của họ từ ngàn đời nay. Phương thức canh tác độc canh và các hoạt động khai thác tận diệt, phát triển thủy điện bừa bãi và quá trình đô thị hóa của người Kinh đã thay đổi hệ sinh thái Tây Nguyên hoàn toàn. Những cánh rừng nguyên sinh giờ chỉ còn trong ký ức. Rừng nguyên sinh không còn, nương rẫy không còn, những sắc dân thiểu số Tây Nguyên bị đẩy tới chỗ vong bản về văn hóa, cùng kiệt về kế sinh nhai.

 Những cuộc giải tỏa và cưỡng chiếm nhà đất suốt nhiều thập niên qua luôn là một trong những nguyên nhân khiến cộng đồng người thiểu số Tây Nguyên uất giận (file photo)

Sau 1975, toàn bộ tài nguyên đất, rừng Tây Nguyên được quốc hữu hóa để hình thành các đơn vị kinh tế lớn. Ban đầu là các binh đoàn quân đội làm kinh tế, tiếp theo là các liên hiệp xí nghiệp nông lâm công nghiệp, sau đó là các nông trường, lâm trường thuộc trung ương hay tỉnh quản lý. Đến năm 1988, chỉ tính các đơn vị trung ương trên tỉnh Gia Lai-Kontum có tất cả 15 nông trường quản lý 50,000 hecta đất và 41 lâm trường quản lý 862,000 hecta rừng. Nếu tính cả các nông lâm trường của Binh đoàn 15 và của tỉnh, huyện… các loại là 1,500,000 hecta, chiếm gần 60% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.

Cuối thập niên 1980 việc phá rừng tràn lan và tình trạng các nông lâm trường quốc doanh làm ăn bết bát, Nhà nước cộng sản Việt Nam đã chủ trương thu hẹp diện tích quản lý của các chủ thể nhà nước nhưng các nông lâm trường này vẫn quản lý phần lớn tài nguyên đất rừng của Tây Nguyên. Theo Bộ Tài nguyên Môi trường, đến năm 2012, số hộ gia đình, cá nhân được giao đất lâm nghiệp chỉ chiếm 1.5% tổng số hộ nông nghiệp với tổng diện tích được giao chỉ chiếm 2.55% diện tích đất lâm nghiệp.

Đối với cộng đồng dân cư buôn làng, chỉ có 2.1% số buôn làng dân tộc tại chỗ được giao đất lâm nghiệp với diện tích được giao chỉ bằng 0.96% diện tích đất lâm nghiệp của vùng. Như vậy, từ vị trí chủ nhân của cao nguyên đại ngàn, người Thượng Tây Nguyên bị tước đoạt gần như toàn bộ quyền sở hữu đất và rừng. Trên thực tế, phần diện tích mà họ được giao phần lớn là đất rừng nghèo kiệt, rừng tre nứa và nền đất dốc rất khó để canh tác. Thiếu đất canh tác trở thành một hiện tượng phổ biến đối với nhóm dân tộc Tây Nguyên.

Theo số liệu điều tra của Viện Dân tộc học, trước năm 2000, trong năm tỉnh Tây Nguyên, Dak Lak là tỉnh mà tình trạng thiếu đất canh tác nghiêm trọng hơn cả. Năm 1997, khi điều tra tại 29 xã, 81 buôn của người dân tộc tại chỗ, kết quả cho thấy:

Chỉ có 7/29 xã và 15/81 buôn có đủ đất canh tác; 9/29 xã và 17/81 buôn thiếu 1/3 đất canh tác; 6/29 xã và 28/81 buôn thiếu ½ đất canh tác; 7/29 xã và 21/81 buôn thiếu 2/3 đất canh tác (Vũ Đình Lợi, 2000).

Đói nghèo khiến các buôn làng Tây Nguyên tan rã nhanh hơn bất cứ sự đàn áp nào. Chính vì lý do đó, người Thượng đã phải khai phá và xâm canh những cánh rừng ở xa, chiếm lại đất của các nông lâm trường nơi mà trước đây là rừng, là nương rẫy của họ. Tình trạng tái chiếm, thu hồi, xung đột bởi đất đai đã nhức nhối từ lâu khi bắt đầu chính sách quốc hữu hóa toàn bộ đất và rừng Tây Nguyên để giao cho các nông lâm trường quốc doanh từ sau 1975. Người dân tộc tại chỗ không có đất canh tác, không có sinh kế, bị bức tới “bần cùng sinh đạo tặc”.

Năm 2000, nhóm nghiên cứu gồm Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Vũ Thị Hồng đã đưa ra một cảnh báo trong “Sở hữu và sử dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên” mà nếu như nhà cầm quyền thực sự nghiêm túc tiếp thu thì đã không có những xung đột đẫm máu trường hợp người nông dân cầm súng Đặng Văn Hiến hay ở cuộc bạo loạn ngày 11 Tháng Sáu ở hai xã Ea Ktur, Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, Dak Lak vừa qua.

Xin trích lại nguyên văn lời cảnh báo xác đáng của nhóm nghiên cứu này:

… Sẽ không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp khắc phục những khuyết điểm của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì “vấn đề dân tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên, chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là đổ máu, với sự can thiệp vừa kín đáo, vừa trắng trợn của kẻ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì nguy cơ tới thật khó lường…

Xung đột vì phân biệt đối xử và thù hận do yếu tố lịch sử

Có thể nói, phương thức quản lý rừng và đất đai ở Tây Nguyên hiện nay vô cùng phi lý, bất công và kém hiệu quả. Tính đến 31 Tháng Mười Hai 2012, việc giao đất rừng cho hộ gia đình cá nhân và cộng đồng Tây Nguyên chỉ đạt 3.51% diện tích đất lâm nghiệp. Trong khi đó, con số tương ứng của cả nước là 28.69%.

Vấn đề phân phối, giao đất cũng rất nhiều tiêu cực. Theo số liệu năm 2012, trong 1,205,047 hộ được giao đất có đến 338,424 hộ/cá thể không phải là hộ nông lâm ngư nghiệp nhưng vẫn được giao đất sản xuất. Đa phần trong số này là người Kinh và những người làm trong bộ máy công quyền. Những cánh rừng màu mỡ nhất, những thửa đất, rừng, mặt hồ, sông đẹp nhất thì đều là của người Kinh và cán bộ. Tình trạng vi phạm về quản lý đất đai trên Tây Nguyên là vô cùng phức tạp và nhức nhối khi lợi tức từ đồn điền và giá đất nông nghiệp tăng phi mã khoảng 15 năm trở lại đây.

 Cái nghèo luôn đeo bám dai dẳng các cộng đồng thiểu số ở Tây Nguyên, khi họ không chỉ bị cưỡng chiếm đất rừng mà còn bị tước đoạt cả văn hóa (ảnh: báo Dân Tộc và Phát Triển)

Trên thực tế, người dân tộc bản địa bị tước đoạt sinh kế, bị tách khỏi rừng là môi sinh và cội nguồn của họ. Họ bị gạt ra ngoài các chính sách hỗ trợ mà đáng nhẽ ra các dân tộc thiểu số phải được quan tâm như giáo dục, y tế…

Thật khó tin khi có tới 35.17% người dân tộc tại chỗ không được đến trường, mù chữ. Những con số bi thảm này của Tổng cục thống kê cung cấp kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 đã cho thấy mức độ “quan tâm” của đảng và nhà nước Việt Nam như thế nào trong hơn 40 năm qua!

Để sinh tồn, cộng đồng người Thượng Tây Nguyên từ vai trò chủ nhân ông của Tây Nguyên đại ngàn trong một quá khứ không xa lắm, nay đã trở thành những dân tộc vong bản về văn hóa, chấp nhập các công việc tay chân hạ bạc cho người Kinh nhập cư – những người đã rất nhanh chóng chiếm hữu được phần lớn tài nguyên đất và rừng Tây Nguyên. Tại sao lại có sự bất công đến thế?

Điều này có thể liên quan đến trong giai đoạn chiến tranh, các người Thượng Tây Nguyên đã tham gia lực lượng quân đội VNCH và họ trở thành những chiến binh quả cảm, chống Cộng hăng hái nhất. Thiệt hại mà các lực lượng người Thượng gây ra cho bộ đội Bắc Việt là rất lớn. Đã có nhiều cuộc trả thù đẫm máu do bộ đội Bắc Việt tấn công vào các cộng đồng người Thượng như vụ thảm sát tại Đắc Sơn năm 1967 khi hai tiểu đoàn bộ đội đã giết hại 252 người Thượng. Nạn nhân đa số là phụ nữ và trẻ em.

Ngay cả khi hòa bình lập lại, chính sách hà khắc tiếp tục được thi hành và như trên tôi phân tích ở phần trên, Hà Nội đã thực hiện một cách hệ thống việc triệt hạ sinh kế, không gian sống và văn hóa của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên bằng các chính sách hạn chế sự tiếp cận tài nguyên đất và rừng của người Thượng.

 “Con giun xéo lắm cũng quằn” là một phản ứng sinh tồn tự nhiên và không có gì lạ khi đã có rất nhiều cuộc nổi dậy của người Thượng mà truyền thông nhà nước không bao giờ đưa tin một cách khách quan, trung thực. Năm 1999, “nhà nước Degar” được thành lập. Sự kiện này đã tạo ra “cơ hội vàng” cho những sỹ quan công an thăng tiến thần tốc lên đỉnh cao danh vọng bằng các “thành tích” trấn áp sắc dân thiểu số Tây Nguyên mà phải kể đến cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang và cựu Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung.

Xung đột về tôn giáo và tín ngưỡng

Người Thượng Tây Nguyên có đức tin riêng, họ tin vào Giàng và những thần linh Tự Nhiên ẩn trú trong những khu rừng nguyên sinh. Văn hóa thảo mộc của người Thượng gắn liền với Rừng và Rừng cung cấp nguồn sống cho họ. Bị tách khỏi rừng, những cộng đồng dân tộc Tây Nguyên đang vong bản về văn hóa và dần dần tiêu biến giống như sắc dân Mon Khmer, Chiêm Thành trong quá khứ.

Bên cạnh tín ngưỡng có từ ngàn đời nay, người Thượng còn là những con chiên sùng kính Đức Chúa Trời. Thiên chúa giáo đã du nhập vào Tây Nguyên theo bước chân của các nhà truyền đạo Tây Phương trước khi người Pháp khai đặt hệ thống quyền lực hành chính ở vùng đất này. Đạo Tin Lành du nhập vào Tây Nguyên từ cuối những năm 20, 30 của thế kỷ trước cùng với Phật giáo Hòa Hảo. Từ đầu những năm 1990 trở đi, đạo Tin Lành phục hồi và phát triển nhanh trong nhiều vùng người Thượng Tây Nguyên. Đến Tháng Mười Hai 2020, số lượng tín đồ đạo Tin Lành ở năm tỉnh Tây Nguyên là 529,410 người, trong đó tín đồ là người dân tộc thiểu số khoảng 511,450 người. Có thể thấy Tây Nguyên là nơi phong phú các tôn giáo cùng tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên, việc các tôn giáo như Tin Lành, Thiên Chúa giáo, Phật giáo Hòa Hảo không nằm trong vòng kiểm soát của nhà cầm quyền Việt Nam phát triển số lượng tín đồ đã khiến cho giới chức chính quyền cộng sản lo ngại.

Các cuộc đàn áp tôn giáo được ghi nhận ở mức độ nghiêm trọng trong những năm gần đây đã khiến cho Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về quyền tự do tôn giáo” vào ngày 4 Tháng Mười Hai 2022. Ngày 3 Tháng Năm 2023, thậm chí Hoa Kỳ còn muốn đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia “đáng quan ngại về tự do tôn giáo”.

Đó không phải chỉ là những lời cảnh báo suông. Việc bị đưa trở lại vào danh sách các quốc gia đàn áp về tôn giáo, tự do báo chí và vi phạm nhân quyền sẽ khiến cho Việt Nam mất đi cơ hội tiếp cận những nguồn hỗ trợ tài chính và đầu tư quốc tế quan trọng để chuyển đổi sang nguồn năng lượng sạch và tiếp cận các công nghệ tiên tiến của Tây phương. Điều vô cùng cần thiết trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng.

Tuy vậy, quan sát cách hành xử của giới chức Việt Nam đối với những nhà bất đồng chính kiến trong thời gian qua, cũng như việc gia tăng đàn áp tôn giáo ở Tây Nguyên, tôi rất ngạc nhiên. Bởi dường như giới chức cộng sản Việt Nam đang tự mâu thuẫn giữa mong muốn phát triển, hội nhập với cái gọi là “an ninh quốc gia”.

Dường như, có một lực kéo rất mạnh đang muốn Việt Nam quay trở lại bóng tối cô lập. Cuộc đàn áp và bố ráp nhóm người Thượng ở Dak Lak đang trở nên hỗn loạn và đầy bạo lực. Tôi lo sợ rằng đây sẽ là điểm khởi đầu cho một quá trình công an hóa và quân sự hóa tồi tệ bộ máy nhà nước vốn đã hết sức chuyên chế và độc tài.

Chính quyền cộng sản Việt Nam luôn thắt chặt an ninh khu vực Tây Nguyên với lực lượng công an cùng quân đội – trong ảnh là Trung đoàn Cảnh sát Cơ động Tây Nguyên (ảnh: CAND)

Kết luận

Với những phân tích và các kết quả nghiên cứu về xã hội, dân tộc, lịch sử, văn hóa được viện dẫn trong bài viết này, người viết mong muốn cung cấp cho các nhà lãnh đạo Việt Nam một cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về căn nguyên mâu thuẫn, bất ổn ở Tây Nguyên. Bạo lực không thể và không bao giờ là giải pháp cho những sai lầm mà chính họ gây ra. Những sắc dân “thiểu số” Tây Nguyên, cũng giống như người Kinh, cần phải được đối xử công bằng, được tôn trọng. Họ cần có sinh kế, được học hành và có nghề nghiệp. Chẳng nhẽ, những điều vô cùng giản dị đó là quá xa vời ở chế độ “gấp vạn lần tư bản” hay sao?

Cuối cùng, để kết thúc bài phân tích tổng hợp này, tôi xin trích dẫn một đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Xuân Tình:

“Trong lịch sử của các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên, chưa bao giờ vấn đề đất đai lại nóng bỏng như hiện nay… Trong đó, tính không phù hợp của chính sách đất đai của Nhà nước với truyền thống sở hữu cộng đồng của các dân tộc tại chỗ được coi là vấn đề xuyên suốt”.

Bộ Luật đất đai của Việt Nam đã qua rất nhiều lần sửa đổi, nhưng những tồn tại, mẫu thuẫn về căn bản thì vẫn còn nguyên. Có chăng, chỉ là những sửa đổi câu chữ, “vẽ rắn thêm chân”. Và ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng vẫn khẳng định “quyền sử dụng đất không phải quyền sở hữu”. Cái mệnh đề quái gở “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước là đại diện chủ sở hữu” vẫn tồn tại như một lá bùa ma quỉ khiến cho đất nước không thể nào thay đổi, những mâu thuẫn, bất công, tệ nạn ngày càng nhức nhối, chồng chất oán hận của người dân Tây Nguyên nói riêng và khắp nơi trên mảnh đất hình chữ S Việt Nam đang rên xiết tiếng kêu than.

‘Khủng bố’ ở Tây Nguyên?

Blog VOA

Trân Văn

13-6-2023

Không chỉ hệ thống truyền thông chính thức mà một số trang facebook dùng vào việc tuyên truyền trên mạng xã hội đã sửa cách gọi sự kiện này từ “khủng bố” thành “dùng súng tấn công”.

Dư luận rúng động trước sự kiện hai nhóm có vũ trang tấn công trụ sở xã Ea Tiêu và xã Ea Ktur ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk lúc rạng sáng 11/6/2023 khiến bốn sĩ quan công an, hai cán bộ xã, ba người dân thiệt mạng, hai sĩ quan công an bị thương (1),… Tính đến tối ngày 13/6/2023 (giờ Việt Nam), chính quyền Việt Nam đã bắt giữ 45 người bị cho là có liên quan đến vụ tấn công vừa kể (2).

Có vài điểm đáng lưu ý khi theo dõi, đối chiếu những thông tin chính thức từ phía các viên chức hữu trách và “báo chí cách mạng” về “sự kiện Cư Kuin”: Thứ nhất, phần lớn các cơ quan truyền thông thuộc hệ thống “báo chí cách mạng” im lặng trước sự kiện này, một số cơ quan truyền thông như VnExpress, Công Thương trót đưa tin đã vội vàng đục bỏ ngay sau đó.

Thứ hai, khi các cơ quan truyền thông thuộc hệ thống “báo chí cách mạng” đồng loạt loan báo về “sự kiện Cư Kuin”, các tin liên quan đến sự kiện này rất ngắn và nội dung giống hệt nhau, điều đó cho thấy các cơ quan truyền thông thuộc hệ thống “báo chí cách mạng” đã bị hệ thống chính trị, hệ thống công quyền khống chế. Sự khống chế này buộc người ta phải cân nhắc về tính chính xác của thông tin cho dù đó là thông tin chính thức.

Thứ ba, khi các cơ quan truyền thông thuộc hệ thống “báo chí cách mạng” tham gia đáp ứng “quyền được biết” của dân chúng về “sự kiện Cư Kuin”, thiệt hại nhân mạng rất chung chung, đúng với những gì mà viên tướng là Phát ngôn viên Bộ Công an muốn báo giới truyền tải tới công chúng rằng đã có “một số đồng chí công an xã, cán bộ xã, người dân chết và bị thương (3) – khác xa với tin ban đầu mà VnExpress tự nguyện đục bỏ.

Thiệt hại nhân mạng đột nhiên trở thành chung chung sau khi một số thắc mắc xuất hiện trên mạng xã hội: Tại sao Bí thư xã Ea Ktur, Chủ tịch xã Ea Tiêu cùng có mặt tại hiện trường vào lúc nửa đêm để bị “sát hại”? Hai cuộc tấn công gần như cùng lúc vào trụ sở hai xã có liên quan đến việc nửa đêm, Bí thư xã Ea Ktur và Chủ tịch xã Ea Tiêu còn làm việc? “Người dân” bị sát hại thật sự là thường dân hay tài xế của cán bộ xã?

Phải đến hôm nay (13/6/2023), mới có thông tin chính thức xác nhận hai cán bộ xã thiệt mạng là ông Nguyễn Văn Kiên – Bí thư kiêm Chủ tịch HĐND xã Ea Ktur và ông Nguyễn Văn Dũng – Phó Bi thư kiêm Chủ tịch xã Ea Tiêu (4).

Thứ tư, không chỉ hệ thống truyền thông chính thức mà một số trang facebook dùng vào việc tuyên truyền trên mạng xã hội đã sửa cách gọi sự kiện này từ “khủng bố” thành “dùng súng tấn công”. Việc chỉnh sửa nội dung xảy ra sau khi ông Tô Ân Xô – Phát ngôn viên Bộ Công an khuyến cáo: Các cơ quan truyền thông cần kiểm chứng thông tin trước khi đăng tải để đảm bảo thông tin đúng sự thật.

Trên thực tế, “khủng bố” có thể khiến các tổ chức quan sát – bảo vệ nhân quyền, chính quyền các quốc gia phải thận trọng hơn khi lên tiếng nếu xảy ra đàn áp ở diện rộng nhưng thừa nhận đã xảy ra “khủng bố” ở Việt Nam đồng nghĩa với việc xác nhận Việt Nam đang trong tình trạng bất ổn về an ninh, chính trị, đặc biệt là vì Bộ Công an chỉ có thể kiểm soát “báo chí cách mạng”, tuyên bố về “khủng bố” có thể dẫn đến những hậu quả tai hại hơn nếu có nguyên nhân khác và nguyên nhân này được phơi bày…

***

Khi thông tin do hệ thống chính trị, hệ thống công quyền và hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam cung cấp về “sự kiện Cư Kuin” vừa không đầy đủ, vừa có những dấu hiệu không khách quan (tự ý đục bỏ, liên tục sửa chữa – điều chỉnh nội dung nhưng không đính chính, xin lỗi), một số người và một số cơ quan truyền thông bên ngoài Việt Nam đã sử dụng Google để tìm kiếm những thông tin liên quan đến hai xã Ea Tiêu và Ea Ktu nói riêng cũng như huyện Cư Kuin nói chung để tìm câu trả lời về nguyên nhân…

Trong số những người và những cơ quan truyền thông bên ngoài Việt Nam thử truy tìm nguyên nhân như vừa kể có tạp chí Luật Khoa (TCLK). Từ những thông tin đã được hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam loan báo trước đó, TCLK giới thiệu: Cả hai xã Ea Tiêu và Ea Ktu đã cũng như đang là những điểm nóng về thu hồi đất và thanh toán tiền bồi thường cho hai dự án: Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn Đường tránh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột và Dự án Khu Đô thị mới Trung Hòa.

Cả hai dự án vừa kể đều cần thu hồi đất. Trên danh nghĩa, đất cần thu hồi thuộc quyền quản lý của một số công ty cà phê nhưng trên thực tế lại do dân chúng sử dụng. Đó cũng là lý do chính quyền địa phương phải tổ chức cưỡng chế. Hồi đầu tháng 3 năm nay, có vài chục gia đình “tự nguyện bàn giao đất” để thi công Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn Đường tránh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột. Cuối tháng 5 vừa qua, có vài chục gia đình bị cưỡng chế để thu hồi đất xây dựng Dự án Khu Đô thị mới Trung Hòa (5)

Cũng đã có một số người, một số cơ quan truyền thông bên ngoài Việt Nam giới thiệu sự kiện xảy ra hồi cuối tháng 4 năm nay: Người Ê đê ở huyện Cư Kuin phản đối việc xả nước thải của khu vực là trung tâm hành chính huyện Cư Kuin vào hồ Ea M’tá, xã Ea Bhốk. Cuộc biểu tình này đã bị cảnh sát cơ động trấn áp bằng dùi cui, roi điện. Hàng chục người bị thương trong đó có phụ nữ đang mang thai và hàng chục người bị bắt nhưng dân chúng vẫn thề “thà chết để bảo vệ hồ Ea M’tá (6).

Chưa thể xác định nguyên nhân thật sự dẫn tới vụ “khủng bố” trụ sở hai xã Ea Tiêu và Ea Ktu, nay đã được định danh lại là “dùng súng tấn công” nhưng không thể loại trừ bất đồng giữa chính quyền – bên có nhu cầu thu hồi đất với dân chúng ở Cư Kuin – bên bị thu hồi đất là thực tế hiển nhiên. “Sự kiện Cư Kuin” xảy ra rạng sáng 11/6/2023 và sau những nỗ lực tổng hợp thông tin để phán đoán nguyên nhân như vừa đề cập, trưa 13/6/2023, tờ Lao Động có một phóng sự…

Theo đó (7), dân chúng hai xã Ea Tiêu và Ea Ktu đã giao đất để thi công Dự án Đường Hồ Chí Minh đoạn Đường tránh phía Đông thành phố Buôn Ma Thuột (đầu tư bằng tiền từ công khố, tổng vốn đầu tư hơn 1.500 tỉ, trong đó dự trù dành 400 tỉ cho bồi thường song chi phí bồi thường đã tăng thêm khoảng 331 tỉ, xấp xỉ 726 tỉ) nhưng chưa nhận được tiền bồi thường. Cứ như mô tả của Lao Động thì dự án có rất nhiều vướng mắc cả từ phía chính quyền lẫn nhà thầu song đáng chú ý nhất vẫn là vướng mắc giữa doanh nghiệp mà trên danh nghĩa là “chủ đất” với những gia đình đang sử dụng đất được gọi bằng mỹ từ “người lao động”. Dường như “chủ đất” mới là đối tượng trực tiếp nhận tiền bồi thường từ chính quyền nhưng sau đó, “chủ đất” và “người lao động” không đạt được sự đồng thuận về “phương án phân chia tỉ lệ ở khoản tiền bồi thường về tài sản trên đất” mà “người lao động” khẳng định là “không hợp lý, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi”.

Chưa rõ việc thực hiện các dự án ở khu vực huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, thu hồi đất, thay vì đối thoại thì tổ chức cưỡng chế, kể cả sử dụng vũ lực đối với những người phản kháng, rồi tình trạng “chủ đất” và “người lao động”, mâu thuẫn giữa các “chủ đất” (dường như không phải chỉ có một “chủ đất” trong khu vực) và “người lao động” trong việc phân chia tiền bồi thường,… có phải là nguyên dân nhân dẫn tới “sự kiện Cư Kuin”? “Sự kiện Cư Kuin” không phải là tập đầu…

(Còn tiếp)

Chú thích

(1) https://nhandan.vn/lanh-dao-bo-cong-an-va-tinh-dak-lak-tham-vieng-cac-nan-nhan-post757335.html

(2) https://congan.com.vn/tin-chinh/vu-tan-cong-vao-tru-so-ubnd-xa-tai-dak-lak-da-bat-giu-39-doi-tuong_148358.html

(3) https://dttc.sggp.org.vn/bo-cong-an-dang-to-chuc-vay-bat-nhom-doi-tuong-tan-cong-tru-so-cong-an-xa-tai-dak-lak-post105453.html

(4) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/thong-tin-ve-vu-tan-cong-tru-so-cong-an-tai-dak-lak-119230611122926149.htm

(5) https://www.luatkhoa.com/2023/06/luat-khoa-360-vu-tan-cong-tru-so-cong-an-xa-tai-dak-lak/

(6) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/protest-against-waste-releasing-system-in-daklak-04242023091309.html

(7) https://laodong.vn/xa-hoi/dan-o-xa-ea-tieu-eaktur-cu-kuin-da-giao-dat-lam-duong-tranh-buon-ma-thuot-1204088.ldo

‘Sự kiện Cư Kuin,’ hồi chuông cảnh báo?

Blog VOA

Trân Văn

14-6-2023

Đài VTC News hôm 13/6 loan tin về việc bắt thêm các nghi phạm vụ tấn công trụ sở công an xã ở Đắk Lắk.

Song tương quan giữa “sự kiện Cư Kuin” với các “chủ đất” – nếu có vẫn chưa phải là điều quan trọng nhất. “Sự kiện Cư Kuin” là hồi chuông cảnh báo về một ẩn họa mà tính chất, mức độ nguy hiểm đáng ngại hơn nhiều…

Tiếp theo phần đầu: ‘Khủng bố’ ở Tây Nguyên?

Nếu tìm kiếm, đối chiếu thông tin nhằm xác định nguyên nhân dẫn tới chuyện vài chục người có vũ trang tấn công trụ sở hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk lúc rạng sáng 11/6/2023, chắc chắn sẽ nhận ra: Việc phê duyệt, thực hiện các dự án tiếp tục là nguyên nhân dẫn tới bất đồng giữa dân chúng và chính quyền địa phương.

Cho dù chưa thể khẳng định “thu hồi đất” và “bồi thường” là nguyên nhân dẫn tới “sự kiện Cư Kuin” nhưng ít nhất cũng có thể thấy, mâu thuẫn về lợi ích giữa “chủ đất” (doanh nghiệp được giao quyền sử dụng đất) với “người lao động” (cả cá nhân lẫn gia đình đang sử dụng đất) vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.

Mâu thuẫn đã trở thành gay gắt khi các “chủ đất” được chính quyền xuất công quỹ bồi thường (tổng chi phí bồi thường đã được bổ sung thêm 332 tỉ) nhưng “phương án phân chia khoản bồi thường về tài sản trên đất” của “chủ đất” với “người lao động” bị “người lao động” cho là “không hợp lý, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi” của họ, thành ra thu hồi đất và bồi thường vẫn là… “vấn đề (1). “Vấn đề” đó vốn không mới và cách nay bảy năm, một “người lao động” đã từng phải dùng súng để giải quyết mâu thuẫn…

***

Cuối tháng 10/2016, dư luận Việt Nam rúng động khi một người đàn ông 41 tuổi ngụ tại xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông bắn vào “đoàn cưỡng chế thu hồi đất lấn chiếm” khiến ba người chết. 13 người bị thương. Hung thủ – ông Đặng Văn Hiến (sinh năm 1975) và ba đồng phạm bị bắt.

Ở cả hai phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm, ông Hiến cùng bị các Hội đồng xét xử (HĐXX) phạt tử hình. Tuy nhiên đã có khoảng 5.000 người ký vào kiến nghị Chủ tịch Nhà nước ân xá cho ông Hiến. Thân nhân của hai trong số ba nạn nhân bị ông Hiến bắn chết gửi thư cho HĐXX phúc thẩm đề nghị đừng phạt tử hình ông Hiến (2). Các thẩm phán tham gia xét xử ông Hiến cũng áy náy với hình phạt tử hình do chính họ tuyên nên liên tục nhắc nhở để ông Hiến đừng bỏ lỡ cơ hội xin ân xá (3)! Vì sao lại thế?

…Giống như nhiều vùng khác ở Tây Nguyên, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông cũng là túi chứa di dân tự do – những cá nhân lìa bỏ nơi chôn nhau, cắt rốn, dắt díu nhau đi khai hoang, lập nghiệp ở những vùng đất mới với hi vọng có thể thoát khỏi khốn cùng. Ở Tây Nguyên, đất mới là những khu rừng nguyên sinh đã bị khai thác đến cạn kiệt rồi bỏ hoang… Tuy hoang hóa nhưng đất rừng luôn là công thổ và vì vậy chỉ chính quyền mới có quyền định đoạt công thổ.

Năm 2008, chính quyền tỉnh Đắk Nông quyết định cho Công ty Long Sơn thuê 1.079 héc ta rừng ở xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức. Tiếng là rừng nhưng một phần không nhỏ trong 1.079 héc ta đó đã là nơi cư trú, là vườn, là rẫy… vừa là sinh kế, vừa là tương lai của hàng trăm gia đình di dân. Sau khi được thuê 1.079 héc ta rừng ở xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, chủ Công ty Long Sơn đã bán cả công ty lẫn quyền khai thác hàng ngàn héc ta đất cho gia đình ông Nghiêm Xuân Thiên Sửu.

Kể từ đó, gia đình ông Sửu – chủ mới của Công ty Long Sơn bắt đầu tiến trình xua đuổi di dân tự do ra khỏi khu vực mà công ty đã được công nhận là… “chủ”, toàn quyền… khai thác. Vườn, rẫy – cơ hội đổi đời của hàng trăm gia đình bị chặt phá, bị đốn hạ, nhà cửa bị giật sập. Sau vài thập niên đổ mồ hôi, sôi nước mắt, dốc hết sức lực, vốn liếng vào việc khai hoang, định cư, hàng trăm gia đình đối diện với viễn cảnh vừa trắng tay, vừa vô gia cư… Họ bắt đầu tất tả ngược xuôi xin cứu xét.

Khai phá – sử dụng công thổ để mưu tìm cơm no, áo ấm có thể là sai nhưng lẽ nào lại gạt bỏ thực tế khai thác – sử dụng công thổ cũng như tất cả những tình tiết có liên quan khác để cho phép Công ty Long Sơn phủi tay, không bồi thường, không hỗ trợ? Nếu cho thuê 1.079 héc ta rừng ở xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức nhằm phát triển kinh tế – xã hội địa phương, tại sao không cho những gia đình di dân tự do thuê lại phần đất họ đã khai hoang mà lại dành quyền thuê cả thổ cư, vườn, rẫy của họ cho riêng Công ty Long Sơn?..

Không thể trả lời những thắc mắc ấy, năm 2010, chính quyền Đắk Nông yêu cầu Công ty Long Sơn thảo luận với dân chúng địa phương về chuyện bồi thường. Năm năm sau, chính quyền Đắk Nông quyết định thu hồi 265/1.097 héc ta đã giao cho Công ty Long Sơn vì phần đất này vốn là nơi cư trú, vườn, rẫy của hàng trăm gia đình. Năm sau nữa (tháng 7 năm 2016), sau khi thị sát tại chỗ, một Phó Thủ tướng yêu cầu chính quyền tỉnh Đắk Nông ngăn chặn Công ty Long Sơn “cưỡng chế – thu hồi đất” để kiểm tra lại.

Song tất cả những động tác vừa kể chỉ có giá trị trên… giấy, trong thực tế, Công ty Long Sơn vẫn liên tục điều động các loại xe chuyên dụng và “công nhân” dỡ bỏ nhà cửa, hủy diệt những vườn tiêu, vườn điều, vườn cà phê,… trên phần đất mà chính quyền tỉnh Đăk Nông đã cho công ty này… thuê. Trong quá trình “cưỡng chế – thu hồi đất”, “công nhân” của Công ty Long Sơn đã đánh đập, gây thương tích cho nhiều người dân ở xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức chỉ vì họ “dám” bảo vệ nhà cửa, vườn tược vốn là của họ.

Suốt tám năm, toàn bộ hệ thống công quyền từ xã đến tỉnh ở Đắc Nông án binh bất động trước tất cả các đợt “cưỡng chế – thu hồi đất” mà Công ty Long Sơn thực hiện, bất kể dân chúng xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, có người bị “công nhân” của Công ty Long Sơn dùng rựa vạt mất gần nửa hộp sọ, tuy may mắn không mất mạng nhưng sẽ sống với cái đầu bị móp ấy cho đến hết đời. Có phụ nữ bị trụy thai do “công nhân” của Công ty Long Sơn đạp vào bụng,…

Đó cũng là lý do dân chúng xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức quyết định tự cứu mình bằng cách tự vũ trang với súng tự chế. Sau khi bị 30 “công nhân” Công ty Long Sơn hành hung vì ngăn cản Công ty Long Sơn dỡ nhà, phá vườn của mình trong đợt “cưỡng chế – thu hồi đất” mà công ty này tiến hành vào ngày 23 tháng 10 năm 2016, ông Hiến đã chạy về nhà lấy súng tự chế, bắn chỉ thiên để cảnh cáo. Bởi “công nhân” Công ty Long Sơn vừa lao đến, vừa ném đá… ông Hiến có thêm sự hỗ trợ của hàng xóm chĩa thẳng súng vào đám đông bóp cò…

Chỉ đến khi có ba người chết, 13 người bị thương, hệ thống công quyền ở tỉnh Đắk Nông mới chuyển động. Tuy nhiên những chuyển động ban đầu chỉ nhắm tới chuyện trừng phạt Đặng Văn Hiến, Ninh Viết Bình, Hà Văn Trường vì “giết người”, Đoàn Văn Diện vì “che giấu tội phạm”… Một tuần sau thảm án, ông Nghiêm Xuân Thiên Sửu, chủ Công ty Long Sơn vừa dọa sẽ kiện nhiều cơ quan truyền thông chính thức ra tòa vì thông tin sai sự thật, vừa chỉ dẫn báo chí “lên huyện, lên tỉnh” để tìm… “sự thật (4).

Mũi dùi công lý chỉ chĩa vào Công ty Long Sơn khi công chúng sôi lên vì giận: Chuyện doanh nghiệp này tự tổ chức cưỡng chế – thu hồi đất bằng cách trang bị dao, rựa, gậy gộc, khiên, đá,… để “công nhân” tấn công dân lành được xác định là “trái pháp luật”. Cũng phải tới lúc đó, đại diện chính quyền tỉnh Đắk Nông mới phân trần, rằng… quyết định giao đất cho Công ty Long Sơn chỉ dựa vào bản đồ, chưa đo đạc thực địa nên không rõ hoạt động cưỡng chế – thu hồi đất của doanh nghiệp này có chính xác hay không!

Cũng phải tới lúc đó, chính quyền Việt Nam mới thừa nhận một sự thật khác, trong 1.079 héc ta rừng mà chính quyền tỉnh Đắk Nông cho Công ty Long Sơn thuê có 539 héc ta là rừng tự nhiên, 540 héc ta là đất lâm nghiệp không còn rừng. Từ năm 2008 đến ngày xảy ra thảm án Quảng Trực, công ty Long Sơn đã phá trụi 501/539 héc ta rừng mà lẽ ra công ty này phải giữ, 38 héc ta còn lại không bị tác động chỉ vì đó là rừng… “nghèo kiệt”… Tháng 12/2016, ông Nghiêm Xuân Thiên Sửu và một phụ tá bị bắt (5).

Kết quả chung thẩm, ông Đặng Văn Hiến vẫn bị phạt “tử hình” (tháng 9 năm ngoái ông mới được ân xá – miễn tử [6]). Ông Nghiêm Xuân Thiên Sửu và một đồng phạm cùng bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì “hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” được giảm mỗi người hai năm tù nên một người ở tù bốn năm, một người ở tù hai năm. Không có bất kỳ viên chức nào trong hệ thống công quyền ở tỉnh Đắk Nông bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

***

Trong vài năm gần đây, một số cơ quan truyền thông chính thức tại Việt Nam đã từng đề cập đến tình trạng hỗn loạn ở huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk sau khi chính quyền công bố chủ trương sẽ thực hiện một số dự án ở nơi này. Chẳng hạn tháng 6 năm ngoái, khi đề cập đến việc cưỡng chế 64 công trình xây dựng trái phép và dự trù sẽ giải quyết thêm 500 công trình nữa tại huyện Cư Kuin, tờ Tiền Phong cho rằng, sở dĩ tình trạng xây dựng trái phép ở xã Ea Tiêu trở thành trầm trọng bởi nhiều người cho rằng, chính quyền sẽ thu hồi đất trong tay một công ty vốn là “chủ đất” và vì vậy sẽ giao đất cho những cá nhân, gia đình thực sự đang sử dụng đất (7).

Cứ như những gì mà một số cơ quan truyền thông chính thức đã tường thuật về các dự án – hoạt động thu hồi đất để thực hiện dự án – thanh toán tiền bồi thường tại huyện Cư Kuin thì ít nhất tại huyện này cũng có vài doanh nghiệp được chính quyền giao đất kiểu như Công ty Long Sơn được nhận đất ở Đắk Nông, tuy nhiên không có cơ quan truyền thông chính thức nào bận tâm đến chuyện đã có bao nhiêu héc ta đất được giao cho các doanh nghiệp không sử dụng đất?

Chưa thể xác định các “chủ đất” có liên quan đến “sự kiện Cư Kuin” chăng nhưng chẳng lẽ giao đất cho một số doanh nghiệp làm “chủ đất”, bất kể có sử dụng đất hay không rồi vui vẻ trả tiền bồi thường cho các “chủ đất” là chuyện không đáng bận tâm? Song tương quan giữa “sự kiện Cư Kuin” với các “chủ đất” – nếu có vẫn chưa phải là điều quan trọng nhất. “Sự kiện Cư Kuin” là hồi chuông cảnh báo về một ẩn họa mà tính chất, mức độ nguy hiểm đáng ngại hơn nhiều…

(Còn tiếp)

Chú thích

(1) https://laodong.vn/xa-hoi/dan-o-xa-ea-tieu-eaktur-cu-kuin-da-giao-dat-lam-duong-tranh-buon-ma-thuot-1204088.ldo

(2) https://tuoitre.vn/tu-hinh-ong-dang-van-hien-khoang-cach-nao-giua-phap-ly-va-dao-ly-20180128091153419.htm

(3) https://tuoitre.vn/ong-dang-van-hien-bi-tuyen-y-an-tu-hinh-20180712145538175.htm

(4) http://plo.vn/thoi-su/chung-toi-chi-san-ui-phan-dat-bi-lan-chiem-661945.html

(5) https://news.zing.vn/vu-xa-sung-o-dak-nong-bat-pho-giam-doc-cong-ty-long-son-post708464.html

(6) https://tuoitre.vn/tu-tu-dang-van-hien-thoat-an-tu-2022091515275989.htm

(7) https://tienphong.vn/cuong-che-xong-64-cong-trinh-trai-phep-tren-dat-ca-phe-hon-500-diem-khac-vao-tam-ngam-post1442797.tpo

Vấn đề ở Tây Nguyên: Cần một chính quyền có ‘tâm’ và có ‘tầm’

Blog VOA

Trân Văn

14-6-2023

Chưa thể xác định đâu là nguyên nhân dẫn đến “sự kiện Cư Kuin” nhưng người thiểu số ở Tây Nguyên càng ngày càng nghèo túng, bế tắc là một thực tế không thể phủ nhận.

Tiếp theo phần 1: ‘Khủng bố’ ở Tây Nguyên? Và phần 2: ‘Sự kiện Cư Kuin,’ hồi chuông cảnh báo?

Do đặc điểm địa lý và lịch sử, tại Việt Nam có ba khu vực mà phần lớn các sắc tộc thiểu số quần cư tại đó đã nhiều thế kỷ: Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam bộ (đồng bằng sông Cửu Long). Vì nhiều lý do, cả ba khu vực đều chậm phát triển, dân chúng các sắc tộc thiểu số nghèo túng và do chính sách vừa thiển cận, vừa lệch lạc lại dễ dàng bị thao túng bởi lợi ích của các cá nhân, phe nhóm nên cả ba khu vực đều bị đe dọa bởi nguy cơ các sắc tộc thiểu số nổi loạn, đòi tự trị như người Việt đã từng và đang chứng kiến.

Không phải tự nhiên mà đầu thập niên 2000, Bộ Chính trị của đảng CSVN quyết định thành lập ba “Ban Chỉ đạo” (BCĐ) cho ba khu vực này (BCĐ Tây Bắc, BCĐ Tây Nguyên, BCĐ Tây Nam bộ). BCĐ Tây Nguyên được thành lập đầu tiên (2002) sau khi xảy ra vụ nổi loạn hồi 2001 – người thiểu số chiếm trụ sở chính quyền tỉnh Đắk Lắk. Hai năm sau (2004), do hai khu vực còn lại cũng bất ổn, Bộ Chính trị của đảng CSVN quyết định thành lập thêm BCĐ Tây Bắc và Tây Nam bộ.

Tuy mục tiêu của cả ba BCĐ vừa kể là giám sát, tư vấn về chủ trương, phối hợp với chính quyền các địa phưng trong khu vực trách nhiệm để duy trì trật tự, trị an nhưng trên thực tế, các BCĐ loại này chỉ thêm tốn kém cho công quỹ, tạo thêm điều tiếng vì đủ loại tiêu cực. Năm 2004, người thiểu số ở Tây Nguyên lại nổi loạn thêm một lần nữa. Đến năm 2011 là cuộc nổi loạn ở Tây Bắc (Mường Nhé). Đó cũng là lý do cuối năm 2017, Bộ Chính trị của đảng CSVN quyết định giải thể cả ba BCĐ (1).

Sở dĩ phải dông dài về các BCĐ Tây Bắc, BCĐ Tây Nguyên, BCĐ Tây Nam bộ vì đó chính là một trong những chuyện có thể dùng làm ví dụ để chứng minh, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền nhận thức rất rõ về ẩn họa đe dọa cả sự toàn vẹn lãnh thổ lẫn an ninh chính trị – kinh tế – xã hội quốc gia nhưng “dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng CSVN” các chủ trương, chính sách cũng như việc thực thi những chủ trương, chính sách này chẳng khác gì gài mìn ở tương lai, đặc biệt là gài mìn tại khu vực Tây Nguyên.

***

Rừng là không gian sinh tồn của các sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Rừng là phần chính yếu trong cả văn hóa lẫn đời sống của 12 sắc tộc bản địa. Bất kể sự khốc liệt của chiến tranh, đầu thập niên 1980, rừng vẫn còn bao phủ khoảng 70% tổng diện tích ở Tây Nguyên (khoảng 3,8 triệu héc ta) nhưng đến nay, tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 2,1 triệu héc ta rừng và chỉ 10% trong số này được xem là “rừng giàu”, 90% còn lại là rừng nghèo kiệt (2).

Giữa thập niên 1970, dân số ở khu vực Tây Nguyên là 1.225.000 người thuộc 18 sắc tộc, trong đó người thuộc các sắc tộc thiểu số là 850.000 người, chiếm khoảng 70% dân số. Hiện nay, dân số ở khu vực Tây Nguyên khoảng sáu triệu người (số liệu năm 2021) thuộc 53 sắc tộc, trong đó 52 thuộc các sắc tộc thiểu số nhưng dù có thêm nhân khẩu của 35 sắc tộc thiểu số khác, tỷ lệ người thiểu số ở Tây Nguyên chỉ chừng 37,5% (khoảng 2,2 triệu người [3].

Theo nhiều chuyên gia KHXH, bởi mỗi sắc tộc cần không gian sinh tồn riêng, khi Tây Nguyên trở thành nơi tập trung gần như tất cả các sắc tộc ở Việt Nam, những sắc tộc bản địa phải cư trú xen kẽ với các sắc tộc khác, trong đó đa số là người Kinh, việc soạn – thực thi chính sách phải chú trọng đến hóa giải khác biệt, loại bỏ những ẩn ức có thể dẫn tới xung đột. Tuy nhiên trên thực tế, chính sách đã biến phần lớn thành viên của các sắc tộc bản địa trở thành đói nghèo, gánh chịu đủ loại thiệt thòi cả về y tế lẫn giáo dục.

Cho dù 1,7 triệu héc ta rừng đã bị đốn trụi nhưng theo một số thống kê do các cơ quan hữu trách của chính quyền Việt Nam thực hiện và công bố: Giai đoạn 2013 – 2015, trong 326.909 gia đình thuộc các sắc tộc thiểu số thì có 32.975 (10%) gia đình thiếu đất ở (10%), 293.934 (khoảng 90%) gia đình thiếu đất canh tác (4). Các số liệu vừa đề cập tuy đáng ngẫm nghĩ nhưng chắc chắn đã lạc hậu, tỉ lệ người thiểu số không có đất ở, thiếu đất canh tác đã vượt xa mức vừa dẫn khi nghèo túng và bế tắc tiếp tục khiến họ phải bán xới nhà cửa, ruộng nương để tiếp tục sinh tồn trên bản quán, năm ngoái, giới hữu trách và hệ thống truyền thống chính thức cảnh báo hiện tượng người thiểu số ở Tây Nguyên bị… “dụ dỗ” nên thi nhau bán sạch nhà cửa, ruộng nương (5).

Trong một bài viết được công bố trên tạp chí Lý luận Chính trị hồi tháng 1/2021, dẫn trên dữ liệu thống kê từ các nguồn chính thống bà Nguyễn Thị Thanh Dung (Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) nhận định: Do tình trạng “mạnh ai nấy được” diễn ra khá phổ biến, dẫn đến các tộc người thiểu số Tây Nguyên vốn chưa thích nghi với điều kiện sản xuất thị trường hiện đại đã bị “nghèo đi” theo cả nghĩa tương đối và tuyệt đối, làm tăng mâu thuẫn xã hội, tăng nguy cơ xung đột xã hội. Trong lúc tỷ lệ số hộ nghèo tuyệt đối ở Tây Nguyên đã giảm từ gần 50 % (2006) xuống dưới 15% (hiện nay) thì tỷ lệ hộ nghèo tương đối của các tộc người thiểu số, chiếm từ 52% đến 70% trong tổng số hộ nghèo ở Tây Nguyên (6).

Cũng trong bài viết vùa đề cập, bà Dung cho biết: Ở Tây Nguyên, các nông, lâm trường làm ăn thua lỗ, không mang lại lợi ích kinh tế cho nhà nước, nhà nước không có nguồn thu từ các nông, lâm trường này để giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội mới nảy sinh do sự thu hẹp đất đai của các cộng đồng… Đất rừng bị khai thác bừa bãi, lượng nước ngầm trong đất cạn kiệt, lượng nước tưới giảm, suy giảm thảm thực vật, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng cây trồng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người sản xuất mà trước hết là các tộc người thiểu số. Người dân Tây Nguyên bị “nghèo” đi trong nền “kinh tế rừng” truyền thống, trong lúc chưa có sinh kế thay thế hiệu quả, chưa thể và chưa có điều kiện để thích nghi hoặc chuyển sang nền sản xuất hiện đại

***

Chưa thể xác định đâu là nguyên nhân dẫn đến “sự kiện Cư Kuin” nhưng người thiểu số ở Tây Nguyên càng ngày càng nghèo túng, bế tắc là một thực tế không thể phủ nhận. Ngoài việc thỉnh thoảng thừa nhận thực tế đó, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam tiếp tục khiến thảm trạng về dân sinh trong các cộng đồng thiểu số trở nên tồi tệ hơn. Làm sao có thể xem chính quyền Việt Nam vừa có “tâm”, vừa có “tầm” khi càng ngày càng nhiều thành viên của các sắc tộc bản địa không có nơi cư trú, không có đất canh tác mà vẫn thản nhiên giao đất vào tay những doanh nghiệp chỉ nhận đất để sang nhượng rồi tiếp tục phá rừng như Công ty Long Sơn hay để nhận tiền bồi thường từ các dự án như đã trình bày trong hai phần trước của bài viết này?

Trước giờ, những cảnh báo, đề nghị của bất kỳ ai nằm bên ngoài hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam về việc điều chỉnh chính sách, cách đối xử đối với các cộng đồng thiểu số tại Việt Nam nói chung, tại Tây Nguyên nói riêng đều bị quy chụp là “thù địch”, là “phản động”, là “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân” nhưng chẳng lẽ di dân thiếu viễn kiến, phá rừng để… trồng cao su, để phát triển kinh tế, để phát triển thủy điện, để thực hiện dự án sân golf này, dự án đô thị kia,… và tạo ra thực trạng như đã biết với Tây Nguyên, với các cộng đồng thiểu số cả ở Tây Nguyên lẫn các khu vực khác lại là… “thiện chí”, là… “đúng đắn, tiến bộ” và là… “củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân”?

Không phải tự nhiên mà nhiều quốc gia đa dạng về sắc tộc dành đủ loại ưu đãi cho các sắc tộc bản địa cũng như sắc tộc thiểu số… Nếu không thể tìm hiểu qua thân nhân, bạn bè thì có thể sử dụng Google để tìm kiếm thông tin về chính sách đối với các sắc tộc bản địa của Mỹ, Canada, Úc,… Những diễn biến ngay sau khi xảy ra “sự kiện Cư Kuin”, đặc biệt là những hình ảnh, video clip và những nhận định, bình luận vừa hằn học, vừa miệt thị nhắm vào nhiều thành viên của các cộng đồng thiểu số ở Tây Nguyên từ các tài khoản vốn vẫn dùng để bảo vệ đảng CSVN, bảo vệ nhà nước XHCN trên mạng xã hội có thể “bảo vệ” cái gọi là… “khối đại đoàn kết toàn dân”.

Cứ nhìn vào lịch sử nhân loại cả cận đại lẫn hiện đại ắt sẽ nhận ra, việc chủ động phát tán, giới thiệu những hình ảnh, video clip nhằm xiển dương “quân – dân đoàn kết cùng chung tay trấn áp tội phạm (7), bày tỏ sự hào hứng, hả hê khi săn lùng thành viên của các cộng đồng thiểu số sau “sự kiện Cư Kuin”, khăng khăng quy chụp đó là “âm mưu, thủ đoạn” của những “Nhà nước Degar”, “Tin lành Degar”, “FULRO”,… như đang thấy chính là cách chứng minh cho thành viên của các cộng đồng thiểu số nhận ra họ chẳng là gì ngay tại bản quán, trao cho kẻ thù thật sự của xứ sở này, dân tộc này cơ hội để khi cần có thể “hà hơi, tiếp sức” nhằm hình thành các lực lượng đòi ly khai, đòi tự trị để lũng đoạn tương lai quốc gia, vận mệnh dân tộc.

Đối tượng nào thật sự đang “phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân”?

Chú thích

(1) https://plo.vn/ly-do-dung-hoat-dong-3-ban-chi-dao-vung-post458227.html

(2) https://vnexpress.net/rung-tay-nguyen-ngay-cang-suy-giam-4589491.html

(3) http://ubdt.gov.vn/ctmtqg/tao-sinh-ke-ben-vung-vung-dong-bao-dan-toc-thieu-so-tay-nguyen.htm

(4) https://vov.vn/xa-hoi/tay-nguyen-nong-cac-van-de-thuy-dien-pha-rung-va-di-dan-335479.vov

(5) https://www.vietnamplus.vn/canh-bao-dong-bao-dan-toc-thieu-so-tay-nguyen-bi-du-do-ban-dat/790182.vnp

(6) http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3396-thuc-trang-xung-dot-dat-dai-vung-dan-toc-thieu-so-o-nuoc-ta.html

(7) https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0YnJkGteFaJv3SC6kUg1WPMBtfjNbM5ppUiAEkUgyiRcAgiWqrxCLUvQHYmw2vwWml&id=100090309433825

Không chỉ [những] người Thượng [sử dụng bạo lực] có lỗi

14-6-2023

Bạo loạn có tổ chức, có vũ trang, lên tới hàng trăm người mà khi xảy ra vẫn để bị bất ngờ là một thất bại về an ninh, tình báo. Đặc biệt, là thất bại của, cái mà chúng ta thường nghe, “thế trận an ninh nhân dân”. Tuy nhiên, nếu coi sự kiện này là lý do phình thêm bộ máy an ninh thì lại có nguy cơ thất bại nữa.

Khi bạo lực đang được sử dụng thì sử dụng bạo lực để tạm thời chấm dứt nó là khó tránh. Nhưng bài học muôn thuở ở bất cứ đâu, bạo lực (đơn thuần) chỉ nuôi dưỡng thêm bạo lực.

“Ngã” ở đâu thì phải đứng dậy ở đó; đánh mất dân thì phải nỗ lực lấy lại từ dân.

Một trí thức có gia đình sống nhiều chục năm ở Tây Nguyên nhận xét rằng, “Sau sự kiện ‘nhà nước Đề Ga 2003”, giao thông, điện, y tế rất được nhà nước quan tâm, cuộc sống của người dân Tây Nguyên thay đổi vượt bậc. Nhưng, đất đai vẫn là một vấn đề lớn”. Ức chế không chỉ bị thu hồi đất. Theo ông, “Ở một số buôn làng, đồng bào bán hết đất cho người Kinh, thậm chí không còn đất để địa táng theo truyền thống cha ông họ”.

Chính quyền cơ sở, nhất là xã, rất khó xử. Đồng bào phá rừng, nếu mà ngăn họ thì họ không còn kế sinh nhai. “Tao đói, cán bộ có cho tao ăn ko?”. Nhưng, nếu làm ngơ, thì họ phá rừng, làm rẫy thuần thục tầm 5 năm, bán cho người Kinh, rồi lại tìm khoảng rừng mới, phá tiếp… Cứ thế, đồng bào các dân tộc lùi sâu, lùi sâu…

Nếu bỏ qua yếu tố văn hóa và lịch sử, chúng ta sẽ thấy thật vô lý, tại sao sau khi đã xài hết tiền bán đất, “Đồng bào” lại đổ lỗi, “Do người Kinh nên tụi tao mới khó khăn”.

Nhưng, Tây Nguyên ngày xưa là “vùng người thượng”. Kể từ khi Tây Nguyên nằm trong ranh giới quốc gia Việt Nam, Tây Nguyên trở thành “vùng kinh tế mới của người Kinh”. Ngày xưa, Tây Nguyên không chỉ là một lãnh địa mà còn là một thế lực. Họ sử dụng gỗ, ngà voi, sừng tê, kỳ nam, mật ong… để đổi lấy muối, gạo, vải vóc… và “nói chuyện phải quấy” với người Kinh.

Ngày nay, cùng khai thác những lâm sản ấy, người Kinh có lợi thế hơn nhiều. Người Kinh phá rừng đại ngàn bằng máy móc, vận chuyển gỗ và các sản vật quý hiếm bằng xe cộ… Người Kinh ở Tây Nguyên tự giao du với người Kinh ở miền xuôi. Người Thượng không còn công cụ và cơ hội để “nói chuyện” với người Kinh nữa. Không gian sống tại chỗ của họ bị thu hẹp, cơ hội ảnh hưởng ra ngoài, không còn.

Không chỉ có người Thượng ở Tây Nguyên, trong cộng đồng các dân tộc của quốc gia Việt Nam, nhiều dân tộc vừa có bản sắc hơn hẳn người Kinh vừa có tư chất thông minh không kém người Kinh. Nhưng cả người Thượng và hơn 50 dân tộc thiểu số khác luôn thua kém người Kinh cơ hội tiếp cận kinh tế, văn hóa cũng như chính trị.

Tối qua, VTV đưa phát biểu của ba thanh niên người dân tộc bị bắt trong vụ bạo loạn, họ đều có vẻ như chưa đến 30. Nhưng, một người trong số họ phải nói qua phiên dịch, hai người còn lại không nói sõi tiếng Việt.

Trong số 53 dân tộc ở Việt Nam, có 33 dân tộc có chữ viết riêng nhưng ngay từ khi vào trường, họ đã không được học bằng tiếng mẹ đẻ. Trong một quốc gia mà người Kinh chiếm 85,3% thì việc lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính là không có gì phải bàn cãi. Tuy nhiên, chỉ tính riêng về ngôn ngữ, phải thấy, hơn 14,1 triệu người dân tộc thiểu số đã thua kém người Kinh ngay từ khi mới ra đời.

Một nhà báo người Dao nói với tôi rằng, kể cả khi đi học và đi làm, để bằng được người Kinh, chị phải nỗ lực gấp 3 lần.

Sự kiện những người dân bản địa sử dụng bạo lực lúc 0:35 phút ngày 11-6-2023 ở Tây Nguyên mang màu sắc xung đột sắc tộc, văn hóa [bao gồm tôn giáo]. Nó vừa gây tội ác nhưng cũng chứa đựng những ẩn ức của những người cảm thấy bị thua thiệt trong mọi phương diện, bị dồn nén trong không chỉ một thế hệ. Việc tháo gỡ, vì thế, bạo lực cũng sai, tiền bạc cũng sai mà đối phó, sách lược cũng sai.

Nên hoãn việc sửa Luật Đất Đai cho đến khi thực sự tìm được những công cụ chính sách hóa giải các xung đột không chỉ giữa người Kinh với người Thượng mà còn phải hóa giải được các xung đột trong nội bộ người Kinh, trong nội bộ các gia tộc, gia đình.

Không thể cấm người dân tộc bán đất cho người Kinh hay cấm người Kinh mua đất của người dân tộc vì làm như thế là tước bớt quyền về tài sản của người dân tộc. Nhưng cũng không để quyền này phá vỡ các không gian sinh tồn của người dân tộc.

Đồng bào các dân tộc mạnh hơn khi họ sống trong một cộng đồng. Cộng đồng cần một “không gian sinh tồn”. Và, theo kinh nghiệm từ nhiều cộng đồng thiểu số trên thế giới, hành động tập thể [collective action] thường có kết quả bảo vệ “không gian sinh tồn” tốt hơn những nỗ lực cá nhân.

Nên xác lập sở hữu cộng đồng [“community ownership” hoặc “collective ownership”] về tài nguyên kể cả đất, rừng, nước, thuỷ sản, khoáng sản… trong “không gian sinh tồn” đó cho các cộng đồng dân tộc. Bằng cách này, vừa bảo vệ được “không gian sinh tồn” đặc thù vừa không hạn chế quyền tìm kiếm cơ hội khác, như mua đất, làm ăn… riêng lẻ, bên cạnh người Kinh của người dân tộc.

Nên thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận với tri thức bằng cách thiết lập chế độ giáo dục song ngữ. Học sinh cấp I được học các kiến thức phổ thông bằng tiếng mẹ đẻ, đồng thời, tiếng Việt là một môn học riêng. Từ cấp II, chương trình học chính bằng tiếng Việt nhưng phải có giáo viên bản ngữ trợ giúp đảm bảo các em theo kịp phần kiến thức phổ thông không được học bằng tiếng mẹ đẻ.

Cho dù trong thời đại ngày nay, các em có thể tìm kiếm các phương tiện nghe nhìn để tự học tiếng Việt. Môn tiếng Việt như là một ngôn ngữ thứ hai phải luôn được dạy cho đến khi các em đủ chuẩn vào đại học.

Ở những huyện xã, nơi có những cộng đồng người dân tộc thiểu số sống lâu đời, nên ấn định số lượng đại biểu HĐND người dân tộc không thấp hơn 40% [ngay cả khi tỷ lệ người dân tộc thấp hơn 40%] hoặc cho họ quyền phủ quyết một số chính sách liên quan. Thay vì áp dụng chế độ “Đảng cử dân bầu” với những đại biểu này nên để các cộng đồng đưa những người tiêu biểu, thực sự nói tiếng nói của họ vào các cơ quan dân cử [Trong số 499 đại biểu Quốc hội khóa XV có 89 đại biểu “Đảng cử” người dân tộc thiểu số].

Trong một quốc gia có 53 dân tộc thì bản sắc dân tộc phải là sự đa dạng, không thể “phát huy” chúng bằng cách “xây một nhà hát các dân tộc” ở Thủ đô. Áp đặt ngôn ngữ hay lấn át, xóa nhòa bản sắc thiểu số chỉ là sự đồng hóa, không những không thể hóa giải mà còn nuôi dưỡng mầm xung đột.

Đừng nghĩ đồng bào các dân tộc đương nhiên có nghĩa vụ biết ơn khi người Kinh đặt không gian sinh tồn của họ vào phần “bờ cõi” mà người Kinh “mở mang”. Đúng là họ chưa từng “độc lập” với tư cách một quốc gia. Nhưng ở trong quốc gia ấy, nếu người thiểu số “lép vế”, vừa phải chia sẻ với người Kinh không gian sinh tồn của mình, vừa không có cơ hội ngang bằng với người Kinh khi muốn vươn ra thì nếu họ có coi người Kinh như thực dân chúng ta cũng không nên trách họ.