Mục lục
Biển Đông: Việt Nam ngày càng gần Mỹ hơn, không mong đợi nhiều từ ASEAN?
Hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan của Mỹ đến Đà Nẵng hôm 25/6/2023 được xem là một sự kiện quan trọng, cho thấy mối quan hệ đang được thúc đẩy tăng cường mạnh mẽ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Những bước tiến ngày càng mạnh mẽ trong mối quan hệ giữa Việt Nam với “những người bạn của Mỹ” như Nhật, Úc, Phi Luật Tân…, đặc biệt trong hợp tác an ninh, quốc phòng và đối phó với Trung cộng trong các vùng biển tranh chấp, đang ngày càng làm lu mờ vai trò của ASEAN trong việc giúp giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển giữa các thành viên với Trung cộng, đồng thời đặt ra câu hỏi phải chăng Việt Nam đang xích lại gần Mỹ hơn thông qua những đồng minh của họ?
ASEAN “không có vai trò quan trọng”
Hôm 23/6, Nam Dương, quốc gia giữ quyền chủ tịch ASEAN năm 2023, thông báo quyết định dời địa điểm tổ chức cuộc tập trận quân sự chung lần đầu tiên của khối 10 quốc gia Đông Nam Á sang một địa điểm cách xa Biển Đông. Động thái này không gây ngạc nhiên đối với giới nghiên cứu trong bối cảnh khối này luôn bị Trung cộng tác động chia rẽ mạnh mẽ. Thêm vào đó, nguyên tắc “không can thiệp lẫn nhau” càng làm cho vai trò trung gian của khối càng trở nên mờ nhạt.
Cuộc diễn tập phi chiến đấu lần đầu tiên của khối ban đầu được dự định diễn ra tại vùng cực nam của Biển Đông, nơi Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền, từ ngày 18-25/9. Tuy nhiên, cuộc tập trận đã được chuyển hoàn toàn ra khỏi tuyến đường thủy chiến lược tới Biển Nam Natuna trong hải phận của Nam Dương. Quân đội Nam Dương nói quyết định di chuyển địa điểm là một quyết định độc lập và “không có sự can thiệp” từ các quốc gia khác, theo Reuters.
“Người ta và ngay cả Việt Nam cứ nói về hợp tác với ASEAN bởi vì ASEAN là một khối, nhưng thực chất nó không có nhiều vai trò, không có vai trò quan trọng trong việc giúp cho những chuyện Trung cộng gây rắc rối ở Biển Đông được giảm đi. Và rõ ràng Trung cộng họ chia rẽ ASEAN rất mạnh, chia rẽ rất tốt”, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu cao cấp khách mời của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) của Singapore, nói với VOA.
Đơn cử về việc đàm phán đã kéo dài 2 thập niên giữa ASEAN và Trung cộng về Bộ quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc ở Biển Đông, nhà nghiên cứu đang sống tại Hà Nội cho rằng đây sẽ là một viễn cảnh xa vời vì phía Trung cộng chỉ “nói mà không làm” hoặc luôn đưa ra những yêu cầu “không thể chấp nhận được” khi ngồi vào bàn đàm phán. Mặc dù vậy, hai phía vẫn “giả bộ” thông báo về những “tiến triển” trong tiến trình đàm phán của họ, vẫn theo lời TS. Hà Hoàng Hợp.
Cùng quan điểm trên, chuyên gia Greg Poling, Giám đốc Chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á của Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở Washington, nói với VOA, rằng “Trung cộng không quan tâm đến việc thỏa hiệp. Điều đó đã không thay đổi, vì vậy tôi thấy rất ít hy vọng về một COC mạnh mẽ sẽ sớm được ký kết”.
Tuy vậy, động thái hợp tác thúc đẩy COC giữa Việt Nam và Phi Luật Tân vẫn rất ý nghĩa, theo giải thích của TS. Hà Hoàng Hợp.
Ông nói: “Đây là phép thử của lòng kiên nhẫn, mặc dù nhìn thấy là có rất ít xác suất hay khả năng tiến lên trong việc có được một COC với Trung cộng, nhưng Việt Nam, Phi Luật Tân và các nước khác vẫn phải cố gắng đóng góp cho nó, vì lập trường sẵn sàng đàm phán là một trong những điểm mạnh thể hiện trong tinh thần của Công nước về Luật biển (UNCLOS) 1982”.
Nếu Trung cộng vẫn tiếp tục không muốn tiến tới để có một COC hợp lý, hợp pháp và mang tính ràng buộc, TS. Hà Hoàng Hợp nói con đường cuối cùng là ASEAN sẽ phải chờ đến khi có một sự thay đổi nào đó về mặt thể chế ở Trung cộng.
Trung cộng đang đẩy Việt Nam gần Mỹ hơn?
Khi được hỏi liệu những hành vi gây hấn, cưỡng ép của Trung cộng ở Biển Đông trong thời gian gần đây có đang đẩy Việt Nam đến gần với Mỹ hơn không, TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng “không hoàn toàn như vậy” vì Việt Nam đã tính toán một chiến lược “tầm xa” và “lâu dài” trong việc đối phó với Trung cộng. Tuy nhiên, ông không phủ nhận thực tế về việc tiến tới một mối quan hệ tốt hơn giữa Việt Nam và Mỹ đang được thúc đẩy “nhanh hơn trước”.
“Nói cụ thể, nếu Trung cộng càng gây ra nhiều chuyện với Việt Nam thì người Việt Nam sẽ gần gũi hơn với những người bạn của Mỹ, và chắc chắn sẽ gần lại với người Mỹ”, TS. Hà Hoàng Hợp nói.
Tháng trước, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã gặp người đồng cấp Nhật Bản Fumio Kishida bên lề hội nghị thượng đỉnh G7. Hai bên đã nhất trí cùng chung tay giải quyết những yêu sách lãnh thổ của Trung cộng trên biển để đảm bảo hòa bình và ổn định khu vực.
“Một trong những lợi thế đáng kể nhất là việc hợp tác với Nhật Bản có thể giúp thế cân bằng bên ngoài của Việt Nam hiệu quả hơn”, TS. Ching-Chang Chen, Giáo sư Chính trị Quốc tế – Giám đốc, Trung tâm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu của Đại học Ryukoku tại Nhật, nói với VOA.
Theo GS. Chen, với tư cách là đồng minh quan trọng nhất của Hoa Kỳ trong khu vực, Nhật Bản có thể giúp cho Việt Nam tăng cường quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản gần đây giới thiệu chương trình Hỗ trợ An ninh Chính thức (OSA) cho các đối tác có cùng chí hướng đối mặt với “những nỗ lực đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực”. Chương trình này có thể tạo điều kiện cho Nhật Bản chuyển giao thiết bị và bí quyết cho Việt Nam để giám sát các hoạt động của Trung cộng ở Biển Đông.
Các chuyên gia cho rằng vì Việt Nam và Nhật Bản đều có tranh chấp hàng hải với Trung cộng trên Biển Đông và quần đảo Senkaku, nên cả hai được xem như “những đồng minh tự nhiên”.
“Nhật Bản, với tư cách là một nền kinh tế lớn, hỗ trợ cho Việt Nam về an toàn, an ninh hàng hải và thực thi pháp luật hàng hải, bao gồm đào tạo, chuyển giao công nghệ và tặng tàu tuần tra biển. Cả hai đều có chung lợi ích để duy trì tự do hàng hải”, GS. Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Úc , Đại học New South Wales ở Úc , nhận định với VOA.
Tuy nhiên theo ông, “điều bất lợi chính là việc hợp tác hàng hải Nhật Bản-Việt Nam có thể bị Bắc Kinh xem là bắt tay chống lại Trung cộng, và do đó có thể dẫn tới các biện pháp trừng phạt”.
Mặc dù vậy, GS. Thayer cho rằng cả Nhật Bản và Việt Nam đều thành thạo trong việc quản lý mối quan hệ của họ với Trung cộng. Mặt khác, Việt Nam là thành viên của ASEAN và khối này có cơ chế cộng 3 để giải quyết các vấn đề về kinh tế với Trung cộng, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bên cạnh Nhật Bản, Việt Nam trong những năm qua cũng đẩy mạnh việc hợp tác với Phi Luật Tân, một đồng minh lâu năm khác của Mỹ trong khu vực.
Kể từ khi Tổng thống Ferdinand Marcos Jr. lên nắm quyền vào năm ngoái, Phi Luật Tân bắt đầu có những động thái cương quyết hơn đối với Trung cộng để bảo vệ quyền lợi của mình trên biển. Giữa bối cảnh thuận lợi này, theo TS. Hà Hoàng Hợp, “đương nhiên Việt Nam sẽ tranh thủ mối quan hệ cả về kiến thức cũng như vị thế của Phi Luật Tân để làm sao thúc đẩy được lợi ích cũng như lợi thế của cả hai bên”.
“Việc có một chính phủ Phi Luật Tân đứng lên bảo vệ chính mình có lợi cho Hà Nội vì cách duy nhất để đẩy lùi thành công sự cưỡng ép của Trung cộng là tham gia vào liên minh các quốc gia có cùng chí hướng”, chuyên gia Poling của CSIS nhận định thêm với VOA.
VOA (01.07.2023)
Nhật Bản và Úc vừa tập trận chung tại Biển Đông dưới sự quan sát chặt chẽ của Trung cộng
Tàu chiến Nhật Bản và tàu HMAS Anzac tham gia cuộc tập trận. VOV
Hải quân Úc và Lực lượng Phòng vệ Biển của Nhật Bản vào hai ngày 24 và 25/6 vừa qua tiến hành cuộc tập trận chung tại Biển Đông. Trung cộng giám sát chặt chẽ hoạt động này.
Hãng tin ABC tại Úc loan tin ngày 29/6, trong khi Bộ Quốc Phòng nước này không công khai cuộc diễn tập khi đang diễn ra.
Tin cho biết cuộc tập trận chung giữa hai phía được nhấn mạnh vào hoạt động hành quân chiến thuật gồm phòng không, chiến đấu đối mặt.
Hai chiến hạm Nhật bản tham gia cuộc diễn tập chung là JS Izumo và JS Samidare. Cả hai trước khi tham gia cuộc diễn tập đã có chuyến thăm tại cảng Cam Ranh, Việt Nam.
Phía Hải quân Úc cử chiến hạm HMAS AnZac hiện đang thực hiện nhiệm vụ tại khu vực Đông Nam Á và hai máy bay do thám RAAF P-8A Poseidon tham gia cuộc diễn tập.
Chuẩn đô đốc Nhật Bản Takahiro Mishiyama phát biểu với truyền thông Úc rằng Canberra, một đồng minh của Washington, là đối tác chiến lược đặc biệt của Tokyo trong khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương.
RFA (30.06.2023)
Hội thảo Biển Đông ở Washington DC: Trung cộng áp đảo khu vực, Hoa Kỳ trợ giúp Việt Nam và các nước ASEAN
Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Daniel Kritenbrink tại hội nghị Biển Đông ở DC hôm 28/6/2023 RFA
Chương trình Đông Nam Á và Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược (CSIS) ở Washington DC đã tổ chức Hội nghị thường niên về Biển Đông lần thứ 13 vào ngày 28 tháng 6 năm 2023.
Hội nghị đã thảo luận và phân tích về những diễn biến ở Biển Đông trong năm qua và những diễn tiến tiềm năng trong tương lai. Các diễn giả đã đề cập đến tình hình ở Biển Đông, các diễn biến pháp lý và tranh chấp, mạng lưới liên minh đang phát triển trong khu vực và vai trò của những quốc gia bên ngoài Biển Đông như nhóm Bộ Tứ Quad (Mỹ, Nhật, Ấn, Úc), nhóm phát triển dự án tàu ngầm hạt nhân AUKUS (Mỹ, Anh, ÚC) và Châu Âu.
Sự bất đối xứng lực lượng Mỹ – Trung ở Biển Đông
Trong bài phát biểu khai mạc hội nghị, Dân biểu Hạ viện Jennifer Kiggans, thuộc Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ, cho biết Hoa Kỳ hiện có 300 chiến hạm, trong đó chỉ có một phần ba, tức khoảng 100 chiến hạm đang ở trạng thường trực sẵn sàng được điều động khắp thế giới.
Trong khi đó, nếu như đầu những năm 2000, Trung cộng có khoảng 37 tàu chiến thì hiện nay đã có 350 tàu chiến.
Dân biểu Jennifer nhấn mạnh Trung cộng đã phát triển hạ tầng kỹ thuật cho ngành công nghiệp sản xuất và sửa chữa tàu chiến và tàu thương mại. Cùng với sự phát triển năng lực về kinh tế và công nghệ, Trung cộng ngày càng hung hăng hơn, và mở rộng bành trướng, trước hết ở các vùng lân cận trong đó có Biển Đông và sau đó ở các vùng xa hơn như Nam Mỹ và Châu Phi.
Tại hội thảo, một thính giả đặt câu hỏi với Dân biểu Jennifer Kiggans về chiến lược của Hoa Kỳ để xử lý vấn đề bất đối xứng lực lượng giữa Hoa Kỳ và Trung cộng ở Biển Đông. Hoa Kỳ có ít chiến hạm hơn, lại phải điều phối chiến hạm khắp thế giới, trong khi Trung cộng vừa có nhiều chiến hạm hơn Hoa Kỳ lại có thể tập trung chủ yếu vào khu vực Biển Đông.
Dân biểu Jennifer cho biết Hoa Kỳ phải vừa phát triển năng lực hải quân mới vừa phải thực thi chiến lược liên kết với các đồng minh để có thể bảo đảm hòa bình ở Biển Đông và khu vực châu Á.
Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận về vấn đề Hoa Kỳ có nhiều tàu chiến về hưu hơn là số tàu được đóng mới, và ngày càng có nhiều chiến hạm phải phục vụ lâu hơn thời gian tiêu chuẩn phục vụ của chúng. Mặt khác, nếu nhìn vào bản đồ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho ngành đóng tàu chiến của Trung cộng thì rõ ràng cơ sở hạ tầng này của họ đã lớn hơn Hoa Kỳ. Cho nên Hoa Kỳ không thể chạy đua với Trung cộng mà phải liên kết với các đồng minh và những quốc gia cùng chí hướng, giống như đã làm trong Thế chiến thứ hai. Hoa Kỳ sẽ đầu tư tài chính theo hướng đó, tìm ra các giải pháp để đóng được nhiều tàu hơn, giúp đỡ các đồng minh và tìm kiếm thêm các nguồn cung ứng cho ngành công nghiệp này.
Việt Nam mở rộng đảo và phối trí lực lượng các bên ở Biển Đông
Ông Harrison Prétat, nhà nghiên cứu của Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á, CSIS, cho biết Phi Luật Tân và Việt Nam đều đang cố gắng tăng cường sức mạnh ở Biển Đông. Phi Luật Tân phát triển lực lượng cảnh sát biển và một số căn cứ quân sự ở vùng duyên hải, nhìn ra Biển Đông. Trong khi đó, Việt Nam có những bước đi quyết đoán về mở rộng đảo nhân tạo và lực lượng quân sự.
“Phía bên kia Biển Đông, khác với Phi Luật Tân, Việt nam có những bước đi khác. Việt Nam đã cải tạo đảo nhân tạo mình đang kiểm soát ở quy mô lớn hơn những gì họ đã làm cả 10 năm nay cộng lại. Tổng diện tích Việt Nam bồi đắp mới trong năm nay khoảng 180 hectares. Đây là một con số rất đáng chú ý.
Nếu chúng ta đặt hoạt động này của Việt Nam trong bối cảnh Trung cộng đã bồi đắp khoảng 1200 hectares đảo nhân tạo từ 2013 đến 2016, ta thấy diện tích phía Việt Nam bồi đắp nhỏ hơn, những vẫn rất ấn tượng.
Một số thực thể mà họ đang mở rộng nhìn dường như trở nên lớn hơn đảo Trường Sa Lớn, là thực thể lớn nhất mà Việt Nam kiểm soát thực tế từ trước tới nay và là thực thể duy nhất Việt Nam xây dựng đường băng.
Rất thú vị nếu chúng ta quan sát xem trong tương lai, Việt Nam sẽ bố trí những cơ sở thiết bị gì trên những thực thể mới được bồi đắp này. Chúng ta có thể tiên đoán là tàu Việt Nam sẽ hiện diện nhiều hơn ở Trường Sa. Tàu Trung cộng đã hiện diện nhiều hơn ở Trường Sa sau khi họ mở rộng các đảo nhân tạo ở đó.”
Trả lời câu hỏi của RFA về tình hình phối trí lực lượng của các bên tại Biển Đông, ông Harrison cho biết:
“Những gì chúng ta thấy là Trung cộng đã bố trí lực lượng quân sự khắp nơi trên Biển Đông. Xét về số lượng tàu trên biển thì Trung cộng chiếm ưu thế hoàn toàn. Trung cộng tung tàu hải cảnh đến hầu hết các góc quan trọng bên trong đường lưỡi bò của họ gần như mỗi ngày.”
Về Việt Nam thì theo ông Harrison, số lượng tàu và kích cỡ tàu thì Trung cộng cũng chiếm ưu thế hơn Việt Nam. Còn về so sánh lực lượng của Hoa Kỳ và Trung cộng trong khu vực thì Trung cộng cũng chiếm ưu thế. Hoa Kỳ phối trí lực lượng khắp toàn cầu. Tuy nhiên, so sánh về sức mạnh tổng hợp cuối cùng của Hoa Kỳ và Trung cộng ở xung quanh Biển Đông thì không phải vấn đề tôi năm rõ. Tôi không có dữ liệu chính xác. Hoa Kỳ có lực lượng ở Nhật Bản, Guam, khá gần với Biển Đông. Các căn cứ đang xây dựng của Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân sẽ giúp lực lượng Hoa Kỳ lại gần Biển Đông hơn và có thể phản ứng tốt hơn nếu có xảy ra khủng hoảng.
Việt Nam hưởng lợi từ chiến lược của Hoa Kỳ ở Biển Đông
Ông Daniel Kritenbrink, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trình bày về những thách thức mới nhất về an ninh trên Biển Đông và khu vực.
Theo ông Daniel Kritenbrink, Hoa Kỳ đặt vấn đề Biển Đông trong chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương Mở và Tự do nói chung, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Sự ổn định và hòa bình ở Biển Đông là vô cùng quan trọng cho toàn cầu, bao gồm cho nền kinh tế giới.
Ngoài lượng tàu thuyền lưu thông hằng năm qua Biển Đông, ông Daniel Kritenbrink cũng cho biết Biển Đông cung cấp 12% sản lượng cá hằng năm của thế giới và là nguồn sống của khoảng 3,7 triệu người.
Ông Trợ lý Ngoại trưởng nhắc lại lập trường của Hoa Kỳ về việc thực hành quyền lưu thông tự do trên biển. Ông cũng nhấn mạnh Hoa Kỳ không có lập trường nào đối với các tranh chấp chủ quyền đối với các thực thể địa lý nằm ở khu vực “biển cả” trên Biển Đông (RFA chú thích: tức là nằm ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở của các nước xung quanh Biển Đông).
Để đạt được mục tiêu làm chủ toàn bộ Biển Đông trong phạm vi đường lưỡi bò, Trung cộng đã xác định rõ chiến lược và chiến thuật của mình. Chiến thuật tổng quát của Trung cộng là chiến thuật vùng xám (không dùng chiến tranh nóng, chiến tranh tổng lực, mà chỉ kết hợp lực lượng quân sự và phi quân sự cũng như bán quân sự để từng bước kiểm soát khu vực). Họ cũng có những chiến thuật cụ thể để thực thi chiến lược vùng xám như chiến thuật cưỡng bách về kinh tế, chiến thuật gửi tàu khảo sát xâm nhập vùng đặc quyền kinh tế các nước trong vùng. RFA đặt câu hỏi với ông Daniel Kritenbrink là liệu đúng hay sai nếu nói rằng Trung cộng có mục tiêu, chiến lược, chiến thuật còn Hoa Kỳ chưa có chiến lược nào cả, ngoại trừ thực hành quyền tự do hàng hải? Và nếu Hoa Kỳ còn chưa có chiến lược nào thì các nước xung quanh Biển Đông sẽ đối diện với tham vọng của Trung cộng bằng cách nào? Ông Daniel Kritenbrink trả lời:
“Tôi đã nghe những phàn nàn tương tự từ các đồng nghiệp ở Đông Nam Á. Họ cũng nói rằng Hoa Kỳ không đối diện những vấn đề của một Châu Á – Thái Bình Dương Mở và Tự do, rằng thực hành quyền tự do hàng hải là duy nhất những gì Hoa Kỳ làm và tại sao các bạn chưa làm tốt hơn nữa.
Chúng tôi tin rằng chúng tôi đã thực hiện một loạt chiến lược ở Biển Đông chứ không chỉ thực hành quyền tự do hàng hải.
Chiến lược thứ nhất mà Hoa Kỳ thực hiện là các hoạt động ngoại giao của chúng tôi với các quốc gia ASEAN và bên ngoài như với EU để bảo vệ trật tự dựa trên luật lệ trong khu vực, bảo vệ việc áp dụng trong thực tế những phán quyết năm 2016 của Tòa trọng tài Thường trực về Biển Đông. Theo đó, các quốc gia trong khu vực để đòi hỏi chủ quyền và quyền chủ quyền của mình trên Biển Đông dựa trên Luật biển Quốc tế. Và chúng tôi muốn bảo đảm tất cả chúng ta thực hiện những điều đó một cách hòa bình.
Thứ hai là Hoa Kỳ thực thi chiến lược xây dựng và phát triển năng lực biển cho các quốc gia trong khu vực. Trong 5 năm qua, chúng tôi đã chi 1,6 tỷ USD để xây dựng và phát triển các lực lượng thực thi pháp luật trên biển cho các quốc gia Đông Nam Á. Trong 5 năm 2012 – 2017, Hoa Kỳ đã cung cấp riêng cho Việt Nam 450 triệu USD trong chương trình phát triển năng lực chấp pháp trên biển.
Thứ ba, chúng tôi tin rằng cách thức tốt nhất để duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông là nâng cao năng lực chấp pháp trên biển của các nước Đông Nam Á để họ bảo vệ lợi ích quốc gia của mình. Các nước Đông Nam Á đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông và các nước đối tác chưa đạt được mức đầu tư ấn tượng cho việc nâng cao năng lực chấp pháp trên biển nhưng nó chắc chắn giúp cho mục đích đó. Chúng tôi tin rằng thực hiện việc hiện diện thường xuyên trong khu vực với chiến lược thực hành quyền tự do hàng hải, cũng như nâng cao năng lực chấp pháp trên biển và thực hành việc chấp pháp đó cho các quốc gia này không phải là quân sự hóa vấn đề, không làm bất ổn hóa vấn đề, mà là giúp làm ổn định khu vực.
Chúng tôi không chỉ thực hành quyền tự do hàng hải trên Biển Đông mà đã làm nhiều hơn thế.”
RFA (29.06.2023)
Trung cộng đề nghị Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quân sự, tránh làm “phức tạp” tình hình Biển Đông
Nhân chuyến công du của thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (25-28/06/2023), Trung cộng đã đề nghị hai bên hợp tác chặt chẽ hơn với nhau về mặt quân sự.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (P) và động nhiệm Trung cộng Lý Cường duyệt đội danh dự tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, Trung cộng ngày 26/06/2023. via REUTERS – POOL
Theo hãng tin Anh Reuters, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang, thành viên phái đoàn thủ tướng Việt Nam, đã có cuộc hội đàm với đồng nhiệm Trung cộng Lý Thượng Phúc, ngày hôm nay 27/06/2023, tại Bắc Kinh. Lãnh đạo bộ Quốc Phòng Trung cộng khẳng định rằng Bắc Kinh sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để tăng cường liên lạc ở cấp cao và hợp tác giữa quân đội hai nước.
Đối với ông Lý Thượng Phúc, trong bối cảnh tình hình quốc tế đang hỗn loạn và an ninh của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang phải đối mặt với nhiều thách thức, “Trung cộng và Việt Nam cần tiếp tục hợp tác và đoàn kết chặt chẽ với nhau trong một hành trình mới của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích chiến lược chung của hai nước và đóng góp tích cực cho hòa bình và ổn định khu vực”.
Bộ trưởng Trung cộng cho rằng quan hệ giữa quân đội hai nước đã phát triển tốt đẹp, và phía Trung cộng sẵn sàng thúc đẩy quan hệ lên một tầm cao mới.
Theo Reuters, cuộc tiếp xúc giữa hai bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam và Trung cộng diễn ra trong bối cảnh tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan vừa ghé cảng Đà Nẵng của Việt Nam ngày 25/06 trong một chuyến thăm thứ ba của một hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ kể từ khi cuộc Chiến Tranh Việt Nam kết thúc.
Chuyến ghé cảng Việt Nam của tàu sân bay Mỹ diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung cộng và Hoa Kỳ ở Biển Đông, một vùng biển mà Bắc Kinh khẳng định chủ quyền trên phần lớn diện tích, bất chấp các tuyên bố chủ quyền của nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Chuyến thăm cũng diễn ra chỉ ít lâu sau khi Việt Nam lên tiếng phản đối Trung cộng liên tục đưa tàu xâm nhập vùng đặc quyền Kinh tế của Việt Nam trên Biển Đông.
Bắc Kinh yêu cầu Hà Nội sớm đúc kết COC
Tranh chấp Việt Nam-Trung cộng về Biển Đông dĩ nhiên cũng được hai bên đề cập đến nhân chuyến công du của thủ tướng Việt Nam.
Theo Reuters, hôm qua, 26/06/2023, nhân cuộc hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam Phạm Minh Chính tại Bắc Kinh, thủ tướng Trung cộng Lý Cường tuyên bố rằng Trung cộng sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để quản lý các bất đồng thông qua đối thoại và tham vấn, đồng thời đẩy nhanh các cuộc tham vấn về Bộ Quy Tắc Ứng Xử ở Biển Đông.
Theo báo chí chính thức Trung cộng, trong phần liên quan đến Biển Đông, ông Lý Cường còn nói thêm: “và tránh các hành động có thể làm tình hình phức tạp hoặc nghiêm trọng thêm”.
Về phía Việt Nam, báo chí trong nước ghi nhận là thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nhấn mạnh đến “tầm quan trọng của việc kiểm soát thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông” đồng thời cho rằng hai bên cần: Tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của nhau; giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982; phát huy hiệu quả các cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên Bố về Ứng Xử của các bên ở Biển Đông (DOC), phấn đấu xây dựng Bộ Quy Tắc ứng Xử ở Biển Đông (COC) thực chất, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.
RFI (28.06.2023)