Seite auswählen

Nhà văn Jon Fosse được trao Nobel Văn học 2023

Minh An

Saigon Nhỏ

 

Jon Fosse (ảnh: Dia Dipasupil/Getty Images)

Viện Hàn lâm Thụy Điển vừa công bố tiểu thuyết gia và nhà viết kịch Na Uy Jon Fosse 64 tuổi giành được giải Nobel văn học cho các tác phẩm “lên tiếng cho những điều không thể nói”.

“Kiệt tác của Fosse là Septology,” đại diện của Viện Hàn lâm cho biết, “(tác phẩm được) hoàn thành vào năm 2021, trong đó một nghệ sĩ lớn tuổi nói chuyện với chính mình như một người khác” trong suốt bảy ngày.

Nhà xuất bản Transit Books tại California đã xuất bản “Septology” do Damion Searls dịch và gom lại một tập vào năm 2022. Trước đó, Transit đã xuất bản tác phẩm này thành ba tập riêng biệt có tựa đề “The Other Name”, “I Is Another” và “A New Name.” “A New Name” đã lọt vào vòng chung kết của Giải Sách Quốc gia Hoa Kỳ ở hạng mục văn học dịch và Giải Hội Phê bình Sách Quốc gia Hoa Kỳ ở hạng mục tiểu thuyết. Transit Books sẽ phát hành cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Fosse, “A Shining”, câu chuyện về một người đàn ông Na Uy bị lạc trong một khu rừng hẻo lánh, cũng do Damion Searls dịch, vào cuối tháng này.

Jon Fosse sinh năm 1959 ở bờ biển phía Tây Na Uy. Khối lượng tác phẩm lớn của ông trải dài ở nhiều thể loại, từ kịch, tiểu thuyết và tuyển tập thơ cho đến tiểu luận, bản dịch và sách thiếu nhi. Giải Nobel danh giá do 18 giám khảo của Viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng, vinh danh toàn bộ tác phẩm của một nhà văn chứ không phải một tác phẩm cụ thể nào.

Viết trên The New Yorker, nhà phê bình Merve Emre, nói về Jon Fosse:

“Từ mà tôi nghĩ đến để mô tả tất cả những điều này – ánh sáng, âm nhạc, nước thánh, trang phục thiêng liêng – là “cuộc hành hương”. Người ta hiếm khi thấy các nhà văn còn sống được đối xử tôn kính như vậy. Fosse nói với tôi: “Tôi chỉ là một chàng trai xa lạ đến từ miền Tây Na Uy, từ vùng nông thôn Na Uy…”

Jon Fosse học Đại học Bergen, nơi ông nghiên cứu văn học so sánh (comparative literature). Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, “Red, Black,” được xuất bản năm 1983, tiếp theo trong suốt ba thập niên tiếp theo là “Melancholy I” và “Melancholy II”, “Morning and Evening”, “Aliss at the Fire” và “Trilogy”.

Sau đó, ông bắt đầu viết “Septology”, bộ tiểu thuyết bảy tập. Người kể chuyện “Septology” là một họa sĩ tên Asle, một người cải sang đạo Công giáo, đau buồn vì cái chết của vợ ông, Ales. Đêm trước đêm Giáng sinh, Asle tìm thấy người bạn của mình, cũng là một họa sĩ tên Asle, bất tỉnh trong một con hẻm ở Bergen, chết vì ngộ độc rượu. Ký ức của họ được nhân đôi, lặp lại và dần dần mờ đi thành một giọng nói duy nhất, một ý thức lan tỏa có khả năng tồn tại ở nhiều thời điểm và nhiều nơi cùng một lúc.

Nhà phê bình Merve Emre nhận xét: Đọc các vở kịch và tiểu thuyết của Fosse là tham gia vào sự giao cảm với một nhà văn mà sự hiện diện của ông ấy khiến người ta cảm thấy mãnh liệt hơn nhờ vẻ dè dặt, cùng với sự thoái bộ của ông ấy. Những vở kịch của ông, với các nhân vật thường có tên chung – Người Đàn ông, Người Phụ nữ, Mẹ, Con – nắm bắt được cường độ của các mối quan hệ nguyên thủy của chúng ta và đôi khi trở nên ảm đạm và hài hước”.

Merve Emre kết luận: “Septology” là cuốn tiểu thuyết duy nhất khiến tôi tin vào sự tồn tại của thần thánh, như nhà thần học thế kỷ 14 Meister Eckhart, người mà Fosse nghiền ngẫm đọc, đã mô tả: “Chính trong bóng tối mà người ta tìm thấy ánh sáng, nên khi chúng ta đau buồn thì ánh sáng là thứ gần với chúng ta nhất.”

Jon Fosse nổi tiếng trong giới văn học quốc tế và được mệnh danh là “nhà viết kịch còn sống sáng tác nhiều nhất”. Ông giành nhiều giải thưởng danh giá của châu Âu và từ lâu đã được chính phủ Na Uy trợ cấp toàn phần, trọn đời và có nơi ở gần Cung điện Hoàng gia ở Oslo.

Năm 2007, ông được phong Hiệp sĩ cùng với Huân chương Quốc gia Pháp. Nhà phê bình Damion Searls đã đưa ra một so sánh trong một bài tiểu luận năm 2015 trên tờ The Paris Review: “Hãy nghĩ về bốn nhân vật lão làng trên văn đàn Na Uy như bốn người trong nhóm Beatles. Per Petterson là Ringo (Starr) vững chãi, luôn đáng tin cậy; Dag Solstad là John (Lennon), nhà thực nghiệm, người có ý tưởng; Karl Ove Knausgaard là Paul (McCartney), người dễ thương; và Fosse là George (Harrison), người trầm lặng, thần bí, tâm linh, có lẽ là nhân vật giỏi nhất trong tất cả.”

Ủy ban Nobel lâu nay đã bị chỉ trích với việc chỉ chăm chú vào các nhà văn châu Âu và giới văn sĩ da trắng. Chỉ có năm nhà văn da màu được trao Nobel văn học trong hai mươi năm qua. Nhà văn Pháp Annie Ernaux đã giành được giải này vào năm ngoái, “vì sự can đảm và nhạy bén mổ xẻ mà nhờ đó bà khám phá ra cội nguồn, sự ghẻ lạnh và những hạn chế chung của ký ức cá nhân”. Nhà văn người Tanzania Abdulrazak Gurnah đoạt Nobel văn học 2021 và nhà thơ Mỹ Louise Glück đoạt năm 2020.

Giải Nobel văn học là giải thưởng đầy uy tín, béo bở và khá điên rồ

 

Economist

Cù Tuấn, biên dịch

Tiếng Dân

6-10-2023

 

Jon Fosse, nhà văn người Na Uy. Ảnh: Alamy/Economist

Tóm tắt: Chúng tôi sẽ vén bức màn về cách đánh giá giải thưởng văn học được thèm muốn nhất này, và cho thấy sự tùy tiện của nó.

Việc công bố người đoạt giải Nobel văn học thường gây ra một trong ba phản ứng. Đầu tiên là “Ai vậy?”; thứ hai là “Tại sao?”; còn câu thứ ba — và cho đến nay là hiếm nhất — là “Hoan hô!”

 
Năm nay, phản ứng mạnh mẽ chủ yếu nằm ở hai phản ứng đầu tiên. Ngày 5/10, Jon Fosse, nhà văn người Na Uy, đã được trao giải thưởng viết văn danh giá nhất thế giới này. Hầu hết những người yêu thích văn học đều chưa bao giờ nghe nói đến ông. Ông Fosse viết văn chủ yếu bằng ngôn ngữ Nynorsk, một ngôn ngữ mà ngay cả các nhà văn Na Uy cũng coi là ngôn ngữ của dân tộc thiểu số. Bộ ba tác phẩm nổi tiếng nhất (nhưng vẫn ít được biết đến) của ông có tên là “Septology”, được tự quảng cáo là “một trải nghiệm đọc hoàn toàn khác”.

Ở một khía cạnh nào đó, việc trao giải thưởng này là một quá trình đơn giản. Theo thông lệ, ông Fosse đã được gọi điện ngay trước 1 giờ chiều ngày 5/10 theo giờ Thụy Điển. Như thường lệ, ông nhấc máy thì nghe một giọng nói người Scandinavi, nói với ông rằng ông Fosse đã giành được giải thưởng đáng thèm muốn trên, đi kèm với 11 triệu SKr (khoảng 1 triệu USD). Giống như nhiều người đoạt giải Nobel, ông Fosse có thể cho rằng đó là một trò lừa bịp. Giống như nhiều người, sau đó ông có thể đã mở sâm panh. Hoặc có lẽ, như Doris Lessing đã làm, ông ấy có thể chỉ thở dài và nói: “Ôi, lạy Chúa!”

 
Trong hầu hết các khía cạnh khác, giải thưởng này là một cơn ác mộng về độ phức tạp. Đánh giá bất cứ điều gì, ngay cả người về đích đầu tiên trong một cuộc chạy đua 100 mét, đều rất khó khăn. Đánh giá chất lượng văn học – hay một bản giao hưởng, chứ không phải một cuộc chạy nước rút – còn khó hơn nhiều.

Aristotle có thể đã nhanh chóng phác thảo được những phẩm chất khiến một tác phẩm trở nên tuyệt vời trong cuốn “Thơ” của ông; rất ít người khác cảm thấy tự tin đề ra các tiêu chí như vậy. “Posh bingo” là cách nhà văn Julian Barnes từng mô tả về giải Booker, một giải thưởng văn học khác được trao hàng năm cho cuốn tiểu thuyết hay nhất viết bằng tiếng Anh, xuất bản ở Vương quốc Anh và Ireland (bản thân Barnes đã lọt vào danh sách rút gọn ba lần trước khi đoạt giải ở lần thứ tư).

Các thành viên Ban giám khảo giải thưởng có vẻ đã đưa ra những quyết định quan trọng nhưng không kỹ càng bằng cái mũ của trường Hogwarts khi chọn nhà cho các tân sinh. Vào năm 2016, khi ủy ban Nobel văn học của Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn Bob Dylan, ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ, đã có một làn sóng phản đối kịch liệt trên toàn thế giới. Như Anders Olsson, chủ tịch hiện tại của Ủy ban này đã lặng lẽ nhận xét: “Chúng tôi luôn nhận được những lời chỉ trích”.

 
Ngay trong năm đầu tiên thành lập, Ủy ban Nobel đã gây ra sự phẫn nộ khi không trao giải thưởng cho Leo Tolstoy mà thay vào đó trao giải thưởng cho nhà thơ Sully Prudhomme – một cái tên gần như không mấy ấn tượng thời bây giờ. Ông Olsson thừa nhận: “Rất nhiều nhà văn xuất sắc” không những không được chọn mà thậm chí còn không được đề cử: Anton Chekhov, Joseph Conrad, James Joyce, Marcel Proust và Virginia Woolf chẳng hạn. Jorge Luis Borges, Henrik Ibsen và Henry James cũng không thể giành chiến thắng (mặc dù ít nhất họ đã được đề cử).

Một số người có thể vẫn có thiện cảm với các thành viên Ủy ban. Có một điều, tiêu chí đánh giá của giải Nobel gần như là bí truyền; chúng không hề rõ ràng chút nào. Alfred Nobel – một người giỏi về hóa học hơn là viết lách – đã tuyên bố trong di chúc rằng, một trong những giải thưởng mang tên ông sẽ được trao cho “người đã tạo ra trong lĩnh vực văn học các tác phẩm xuất sắc nhất theo hướng lý tưởng hóa”. Bất kể điều đó có nghĩa là gì đi nữa.

Đối tượng cạnh tranh tiềm năng cho giải thưởng văn học này là rất lớn. Các tác giả không tích cực tham gia để được xét giải Nobel. Thay vào đó, ban giám khảo phải lựa chọn trong số tất cả các nhà văn còn sống, viết bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới. Cứ cho rằng chỉ có 7.000 ngôn ngữ trên toàn cầu, thì số lượng đối thủ cạnh tranh tiềm năng là rất lớn. Ông Olsson thừa nhận, đó là một nhiệm vụ “khổng lồ”. Và tất nhiên đó là một điều vô nghĩa. Sáu thành viên của ban giám khảo sẽ không rảnh rỗi để xem xét tác phẩm của mọi tác giả Ireland viết bằng tiếng Gaelic hay mọi tác giả người Papua New Guinea viết bằng tiếng bản địa Hiri Motu.

Tuy nhiên, các thành viên Ban giám khảo cũng đang xem xét khá nhiều trong số đó. Mỗi năm, Ủy ban này gửi khoảng 4.000 lời mời đến các tổ chức văn học trên toàn thế giới, và yêu cầu họ đề cử trước ngày 1 tháng 2. Những đề cử này trở thành một danh sách dài gồm 200 tác giả và được rút gọn xuống còn 20 tác giả vào tháng 4. Đến tháng 5, họ đã đưa ra một danh sách ngắn hơn gồm 5 ứng cử viên (giống như tất cả các danh sách khác, được giữ bí mật hoàn toàn, trong 50 năm qua đều như vậy). Sau đó việc đánh giá và đọc bắt đầu một cách nghiêm túc. Quá trình này là công bằng nhất có thể, nghĩa là cực kỳ không công bằng.

Neil MacGregor, cựu giám đốc Bảo tàng Anh và chủ tịch Ủy ban giải thưởng Booker năm 2022, cho biết, việc lựa chọn giữa các tác phẩm được chọn là “rất, rất khó”. Theo ông MacGregor, các thành viên Ủy ban phải chọn lựa giữa một cuốn sách về cuộc nội chiến Sri Lanka thời hiện đại và những suy nghĩ nội tâm của một phụ nữ Mỹ thuộc tầng lớp trung lưu thời cận đại. Nói cách khác, họ đang lựa chọn giữa “táo và cam”.

Việc chọn lựa này thậm chí còn khó hơn thế nhiều. Câu hỏi dành cho các thành viên Ủy ban này không chỉ đơn thuần là: bạn, với tư cách cá nhân, có thích cuốn sách này hay không? Đó là: liệu chúng ta, với tư cách là một nhóm, có thể chấp nhận nó không? Ông MacGregor nói, điều cần thiết để một cuốn sách giành được giải thưởng không phải là sự nhiệt tình của cá nhân mà là “sự đồng ý chung”: nó “hơi giống một bồi thẩm đoàn xem xét một vụ án hình sự”.

Và đôi khi không khí trao giải có thể cũng nghiêm túc y như quá trình lựa chọn tác giả tác phẩm. Việc đánh giá tác giả đoạt giải Booker đã khiến Joanna Lumley, một nữ diễn viên người Anh, kết luận rằng “giải thể hiện trung thực một showbiz khốn nạn”, khi một “bữa tiệc trà được so sánh với một vùng nước biển tràn ngập cá piranha răng nhọn”.