Seite auswählen

Tàu Cảnh sát biển Trung cộng tuần tra Bãi cạn Scarborough ở Biển Đông, ngày 6/10/2020. (Ảnh: STR/AFP qua Getty Images)

 

Ngay sau khi Trung cộng tuyên bố xua đuổi thành công tàu hải quân của Phi Luật Tân khỏi Biển Đông, Phi Luật Tân đã bác bỏ thông tin này. Manila coi đây là hành động tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung cộng.

 

Thứ 3 (10/10), cảnh sát biển Trung cộng tuyên bố rằng tàu của họ đã xua đuổi một pháo hạm của hải quân Phi Luật Tân khỏi Bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. Họ cáo buộc tàu Phi Luật Tân “xâm phạm” lãnh hải Trung cộng.

Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Phi Luật Tân Romeo Brawner ngay lập tức khẳng định rằng tuyên bố của phía Trung cộng là sai. Ông nói các tàu Phi Luật Tân sẽ không rời khỏi Bãi cạn Scarborough vì nó nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Phi Luật Tân.

Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) chỉ định các khu vực biển trong phạm vi 200 hải lý tính từ biên giới các quốc gia ven biển là một phần vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia đó. Bãi cạn Scarborough nằm cách tỉnh Zambales của Phi Luật Tân 124 hải lý.

Ông Brawner nói với các phóng viên: “Cảnh sát biển Trung cộng đã có mặt ở đó và thách thức [tàu Phi Luật Tân]. Nhưng tàu hải quân [Phi Luật Tân] vẫn tiếp tục lộ trình và không bị xua đuổi. Nó đang thực hiện nhiệm vụ của mình: tuần tra hàng hải”.

 

Ông nói thêm: “Quan điểm của chúng tôi vẫn là: đó là tuyên truyền của Trung cộng”.

 

Tranh chấp ở Bãi cạn Scarborough bùng lên thời gian gần đây sau khi Phi Luật Tân cho biết họ đã thực hiện một “chiến dịch đặc biệt”, dỡ bỏ thành công hàng rào nổi do cảnh sát biển Trung cộng lắp đặt tại Bãi cạn Scarborough nhằm ngăn người Phi Luật Tân tiến vào khu vực.

Cảnh sát biển Phi Luật Tân cắt dây neo giữ hàng rào nổi của Trung cộng gần bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. (Ảnh: Reuters/NTD chụp màn hình)

 

Ông Commodore Jay Tarriela – người phát ngôn cảnh sát biển Phi Luật Tân – cho biết rào chắn nổi gây ra nguy hiểm cho hoạt động hàng hải, đây rõ ràng là hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và tước đi các hoạt động sinh kế của ngư dân Phi Luật Tân tại bãi cạn.

Đảng Cộng sản Trung cộng (ĐCSTQ) tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Đông, trong đó có vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia và Phi Luật Tân.

 

Năm 2016, Tòa án Hague đã ra phán quyết ủng hộ hành động pháp lý của Phi Luật Tân chống lại Trung cộng trong vấn đề chủ quyền biển. Tuy nhiên, Bắc Kinh không tôn trọng phán quyết này; các tàu Trung cộng vẫn liên tục xâm phạm các vùng biển của Phi Luật Tân.

 

Sự cố đâm chìm tàu ở Biển Đông

Tuần trước, 3 ngư dân Phi Luật Tân đã thiệt mạng sau khi tàu đánh cá của họ đang hoạt động ở Biển Đông bị một tàu thương mại không rõ danh tính đâm chìm.

 

Cảnh sát biển Phi Luật Tân cho biết vụ việc xảy ra vào ngày 2/10 khi con tàu đang neo đậu cách Bãi cạn Scarborough 85 hải lý về phía Tây Bắc. Có 11 thành viên thủy thủ đoàn sống sót khi thuyền chìm.

Danh tính chiếc tàu thương mại vẫn chưa được điều tra ra. Thủy thủ trên tàu đánh cá không thể xác định được thông tin về chiếc tàu thương mại nước ngoài này do điều kiện thời tiết bất lợi và trời tối.

Sau vụ việc, vào ngày 4/10, Tổng thống Phi Luật Tân Ferdinand Marcos Jr. tuyên bố nước này đang tiến hành điều tra về vụ việc. Nhà lãnh đạo Phi Luật Tân khẳng định sẽ buộc những người gây ra những cái chết phải chịu trách nhiệm.

 

Ông Marcos viết trên mạng xã hội X: “Hiện tại, cảnh sát biển Phi Luật Tân đang quay lại và kiểm tra tất cả các tàu trong khu vực như một phần của cuộc điều tra”.

“Chúng tôi đảm bảo với các nạn nhân, gia đình họ và mọi người rằng chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức để buộc những người phải liên quan đến sự cố hàng hải đáng tiếc này phải chịu trách nhiệm”.

Ông nói thêm: “Chúng ta hãy cho phép cảnh sát biển Phi Luật Tân thực hiện công việc của họ và điều tra, đồng thời chúng ta hãy hạn chế suy đoán trong thời gian chờ đợi”.

Đánh giá ban đầu dựa trên lời kể của ngư dân sống sót và tình hình giao thông đường biển vào thời điểm xảy ra tai nạn cho thấy, một tàu chở dầu thô mang cờ của Quần đảo Marshall có thể đã đâm vào tàu cá Phi Luật Tân. Cảnh sát biển Phi Luật Tân cho biết họ sẽ cố gắng xác định vị trí tàu chở dầu và thủy thủ đoàn.

 

 Aldgra Fredly 

Theo The Epoch Times (11.10.2023)

 

 

 

 Manila: Hải cảnh Trung cộng không cản được xuồng vũ trang của hải quân Phi Luật Tân

Tàu hải cảnh Trung cộng gần bãi đá ngầm Scarborough.

 

Hôm 10/10, Tư lệnh quân đội Phi Luật Tân bác bỏ tuyên bố của hải cảnh Trung cộng rằng họ đã xua đuổi một xuồng vũ trang của hải quân Phi Luật Tân ra khỏi bãi đá ngầm có tranh chấp ở Biển Đông, coi đó là tuyên bố mang tính “tuyên truyền”, theo Reuters.

“Lực lượng hải cảnh Trung cộng đã có mặt ở đó và tìm cách cản đường. Nhưng tàu hải quân vẫn tiếp tục hành trình và không bị xua đuổi. Tàu này đang thực hiện nhiệm vụ của mình: tuần tra hàng hải”, ông Romeo Brawner, người đứng đầu Lực lượng Vũ trang Phi Luật Tân, nói với các phóng viên.

“Quan điểm của chúng tôi vẫn cho rằng đó là nội dung tuyên truyền của Trung cộng”.

Hải cảnh Trung cộng trước đó cho hay họ đã thực hiện “các biện pháp cần thiết” để xua đuổi xuồng vũ trang của Phi Luật Tân ra khỏi bãi ngầm Scarborough sau khi họ phớt lờ những cảnh báo nhiều lần. Người phát ngôn hải cảnh Trung cộng Cam Vũ (Gan Yu) cho rằng hành động của Phi Luật Tân cũng vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.

 

Vụ việc xảy ra một ngày sau khi Trung cộng cảnh báo Phi Luật Tân không được tiếp tục “khiêu khích” tại một bãi ngầm ở Biển Đông, nói rằng những hành động như vậy đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung cộng, trái luật pháp quốc tế và phá vỡ hòa bình và ổn định khu vực.

Bãi ngầm Scarborough là một trong những thực thể biển có nhiều tranh chấp nhất ở châu Á và là điểm bùng phát các tranh chấp về chủ quyền và quyền đánh bắt cá.

Khu vực này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân, nhưng Trung cộng tuyên bố họ có “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với nơi mà họ gọi là đảo Hoàng Nham và các vùng biển lân cận.

 

VOA (10.10.2023)

 

 

 

Trung cộng khoe mở nhiều cuộc tập trận ‘thực chiến’ ở Biển Đông

 

Quân đội Trung cộng “gần đây mở một loạt những cuộc tập trận với các chiến hạm mạnh nhất tại nhiều khu vực của Biển Đông.”

Tờ Hoàn Cầu Thời Báo khoe như vậy hôm Thứ Hai, 9 Tháng Mười, và cho biết các cuộc tập trận nhằm chứng tỏ khả năng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ vào lúc Mỹ và Phi Luật Tân phối hợp tập trận nhắm vào các đảo và bãi đá ngầm tranh chấp.

Một hình ảnh Trung cộng tập trận tại Biển Đông tuyên truyền trên truyền hình CCTV. (Hình: Chụp từ màn hình đài CCTV)

 

Hoàn Cầu Thời Báo dẫn thông cáo báo chí của Hải Quân Trung cộng khoe rằng các chiến hạm của họ đã phối hợp thực hành “các điều kiện thực chiến trên Biển Đông” cả tấn công và phòng vệ với khu trục hạm 10,000 tấn, tàu ngầm, máy bay trực thăng chống tàu ngầm, bắn đạn thật tại nhiều khu vực cũng như trong nhiều ngày.

 

Tuy nhiên, người ta không thấy guồng máy tuyên truyền của Bắc Kinh cho biết đích xác khu vực cũng như thời điểm tập trận trước đây vẫn loan báo, khuyến cáo các loại tàu qua lại.

Hôm Thứ Ba, 10 Tháng Mười, báo mạng tuyên truyền của quân đội Trung cộng đưa tin Hải Cảnh của họ đã xua đuổi “tàu võ trang” của Phi Luật Tân tại khu vực bãi Cỏ Mây. Tuy nhiên, hãng tin Reuters thuật lời tư lệnh Hải Quân Phi Luật Tân nói rằng đó chỉ là trò tuyên truyền của Bắc Kinh chứ không đúng như vậy.

 

Báo chí của Bắc Kinh kể rằng tàu Trung cộng đã tiến hành “các biện pháp cần thiết” để xua đuổi khi tàu võ trang của Phi Luật Tân “xâm phạm” vùng biển chủ quyền khu vực bãi Cỏ Mây mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền, tranh chấp với Phi Luật Tân. Việc này xảy ra chỉ một ngày sau khi Bắc Kinh đe dọa Phi Luật Tân phải chấm dứt các hành động “khiêu khích” ở vùng biển đảo Trường Sa.

Bất chấp phán quyết của tòa án quốc tế, Trung cộng vẫn ngang ngược coi 80% đến 90% Biển Đông là thuộc chủ quyền của nước họ có từ “đời xưa” để lại. Nhiều khu lực lấn sâu vào các vùng biển đặc quyền kinh tế của các nước phía Nam. Đó là lý do Bắc Kinh đã cản trở các hoạt động dò tìm và khai thác dầu khí của Việt Nam, Phi Luật Tân, Malaysia.

 

Từ nhiều tháng nay, vùng biển khu vực quần đảo Trường Sa ngày càng có dấu hiệu căng thẳng hơn, đặc biệt tại các khu vực bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) nơi một chiếc tàu Phi Luật Tân gỉ sét ủi bãi ở đó để xác định chủ quyền. Căng thẳng cũng xảy ra tại bãi cạn Scarborough shoal mà các tàu đánh cá hoặc tàu Cảnh Sát Biển Phi Luật Tân tới các vũng này đều bị tàu Cảnh Sát Biển Trung cộng phối hợp với dân quân biển xua đuổi.

Tàu Hải Cảnh Trung cộng chặn đường tàu Cảnh Sát Biển Phi Luật Tân hồi Tháng Tám. (Hình: Ted Aljibe/AFP/Getty Images)

 

Hồi Tháng Hai, tàu Hải Cảnh Trung cộng bắn tia laser làm “mù tạm thời” một số thủy thủ Phi Luật Tân gần bãi Cỏ Mây. Vào Tháng Tám, tàu Hải Cảnh Trung cộng lại xịt vòi rồng xua đuổi tàu của Phi Luật Tân đi tiếp tế cho Thủy Quân Lục Chiến tại bãi Cỏ Mây.

Nói chung các chuyến tiếp tế cho đơn vị Thủy Quân Lục Chiến đồn trú trên chiếc tàu tại bãi Cỏ Mây đều bị tàu Trung cộng cản trở nhưng các tàu nhỏ bé của Phi Luật Tân vẫn kiên nhẫn tìm cách vượt qua. Người ta chưa thấy sự xuất hiện của các chiến hạm Trung cộng ở hai điểm nóng đang có nhiều dấu hiệu căng thẳng, dù chúng vẫn thường xuyên biểu diễn tập trận như gián tiếp đe dọa. 

 

Nguoi Viet (10.10.2023)

 

 

 

 

Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông như nào ?

 

Việt Nam khẳng định chủ quyền ở Biển Đông bằng cách nạo vét và nâng cấp một số tiền đồn mà Hà Nội kiểm soát. Đến cuối năm 2022, Việt Nam đã « mở rộng việc bồi đắp tại bốn thực thể và nạo vét mới tại năm thực thể khác… tạo ra khoảng 170 héc ta đất mới và nâng tổng diện tích mà Việt Nam đã khai hoang trong thập kỷ qua lên 220 héc ta », theo Tổ chức Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington. 

Ảnh minh họa : Một tầu hải cảnh Trung cộng phun vòi rồng vào tầu tuần tra của Việt Nam ở Biển Đông, ngày 02/05/2019.  REUTERS/Vietnam Marine Guard/Handout via Reuters

 

Tuy nhiên, theo AMTI, « quy mô của công việc bồi đắp, mặc dù vẫn còn thua xa so với hơn 3.200 héc ta đất do Trung cộng tạo nên từ năm 2013 đến năm 2016, nhưng mức độ lớn hơn đáng kể so với những nỗ lực trước đây của Việt Nam và thể hiện một động thái lớn nhằm củng cố vị thế của mình ở Trường Sa ».

Trong khi Trung cộng bị chỉ trích gay gắt vì gia cố các thực thể do nước này chiếm đóng ở Biển Đông thì hoạt động bồi đắp, củng cố của Việt Nam ít bị chú ý hơn vid có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, liệu hoạt động được cho là bảo vệ chủ quyền này có phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) ? Việt Nam hiện kiểm soát những thực thể nào và làm thế nào để bảo vệ chủ quyền ? 

Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École Normale supérieure de Lyon) tóm lược tình hình trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt.

 

 

RFI : Việt Nam tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Trường Sa, Việt Nam có tranh chấp chủ quyền với các bên Trung cộng, Đài Loan, Phi Luật Tân, Malaysia. Xin ông cho biết là trên thực tế Việt Nam hiện quản lý những thực thể nào ở quần đảo Trường Sa ?

 

Laurent Gédéon : Việt Nam duy trì sự hiện diện thực sự trên 29 đảo lớn, nhỏ ở Biển Đông, bao gồm 6 đảo, 15 đá ngầm, 6 bãi và 2 bãi cạn. Ngoài ra, Hà Nội cũng kiểm soát trên 16 đá ngầm nhưng không chiếm đóng thực và lâu dài. Như vậy, sự hiện diện của Việt Nam là lớn nhất về số lượng và chứng minh là Việt Nam có chủ quyền trong khu vực.

Để so sánh, Trung cộng kiểm soát 7 đảo trong quần đảo Trường Sa, Đài Loan 2 đảo trong đó có đảo Ba Bình (Itu Aba) lớn nhất, Phi Luật Tân kiểm soát 11, Malaysia 7 và Brunei 1. Việt Nam đòi hỏi chủ quyền nhiều nhất đối với quần đảo này bởi vì Hà Nội cho rằng hầu hết các đảo thuộc về chủ quyền của mình. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với 6 trên 7 đảo do Malaysia kiểm soát, 7 đảo do Trung cộng kiểm soát, 2 đảo do Đài Loan kiểm soát và 11 đảo do Phi Luật Tân kiểm soát.

Ngược lại, trong số những đảo do Việt Nam kiểm soát, Manila đòi chủ quyền đối với 20, đó là những đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, Bắc Kinh đòi chủ quyền đối với toàn bộ 29 đảo mà Việt Nam kiểm soát, Malaysia đòi hai. Còn Đài Loan, dù tuyên bố chủ quyền theo bằng chứng lịch sử giống như lập luận của Trung cộng, nhưng trên thực tế, Đài Bắc tỏ ra kín đáo về chủ đề này.

 

Cuối cùng, phải nhắc đến một loạt bãi cạn tuy không bị chiếm nhưng thuộc ảnh hưởng trực tiếp với mức độ hiện diện khác nhau của Đài Loan, Malaysia, Việt Nam, Phi Luật Tân, Trung cộng. Chúng ta thấy là nhìn chung, Trung cộng và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Riêng ở Trường Sa, Việt Nam kiểm soát nhiều đảo nhất so với các nước khác.

 

 

RFI : Việt Nam cũng âm thầm bồi đắp, củng cố các đảo và đá do Việt Nam quản lý. Việt Nam có những công trình gì trên những thực thể này ? Những công trình bồi đắp đó có phù hợp với luật biển quốc tế, cũng như phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ?

 

Laurent Gédéon : Những họa động cải tạo thường xuyên được tiến hành từ khoảng 10 năm nay đối với các điền đồn đảo của Việt Nam cho thấy quyết tâm của Hà Nội biến những căn cứ này trở nên vững chắc hơn trước một cuộc tấn công hoặc hoặc bị phong tỏa và tăng cường năng lực răn đe trước đe dọa tấn công từ các công trình của Trung cộng trong trường hợp xảy ra xung đột.

 

Việt Nam có khoảng 50 tiền đồn trải dài trên 29 đảo lớn, nhỏ. Những tiền đồn này lại được chia thành ba loại : các đảo nhỏ đồn trú, các công trình bằng bê tông trên mỏm các bãi cạn, các nhà giàn biệt lập (DK) dựng trên đá ngầm, còn được gọi là Dịch vụ-Khoa học kỹ thuật.

Nhìn chung, trên hầu hết các đảo do Việt Nam kiểm soát, người ta thấy các công trình hạ tầng sau : hệ thống phòng không, hệ thống bảo vệ bờ biển, boong-ke, sân bay trực thăng, hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, trạm radar (radome) tiếp nhận và phân tích sóng điện tử, các tòa nhà hành chính, hệ thống đường hầm.

Những công trình này thường dẫn đến việc phải mở rộng diện tích của đảo hoặc đá ngầm bằng cách bồi đắp. Về điểm này, Việt Nam đi theo bước của Trung cộng, nước cũng tiến hành bồi đắp các đảo nhỏ mà họ kiểm soát, cho dù Việt Nam tiến hành ở quy mô nhỏ hơn. Năm 2022, Việt Nam đã thúc đẩy và mở rộng các công trình bồi đắp và hiện có tổng diện tích khoảng 2,2 km² ở Trường Sa. Để so sánh, tổng diện tích bồi đắp của Trung cộng hiện khoảng 13 km². Đài Loan và Phi Luật Tân cũng có các hoạt động tương tự nhưng ở quy mô nhỏ hơn.

 

Thông qua những hoạt động bồi đắp này, Bắc Kinh cũng như Hà Nội tìm cách tăng diện tích các đảo mà họ kiểm soát bởi ít nhất hai lý do sau. Một mặt là để tăng cường khả năng phòng thủ và tấn công của những vùng đất này. Mặt khác, tạo các đảo nhân tạo mà quy chế có thể sẽ được công nhận trong tương lai trong trường hợp luật quốc tế thay đổi.

 

Về mặt luật pháp quốc tế, chúng ta thấy là Tòa Án Trọng Tài Thường Trực, trong phán quyết ngày 12/07/2016, nêu rõ : « Tòa án nhận thấy các hoạt động cải tạo đất ở quy mô lớn và xây dựng các đảo nhân không phù hợp với nghĩa vụ của một quốc gia thành viên trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung cộng đã gây ra những tác hại không thể khắc phục được đối với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Phi Luật Tân và tiêu hủy bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông vốn là một phần tranh chấp giữa các Bên ».

 

Phán quyết các thẩm phán để ngỏ khả năng Việt Nam cũng có thể bị chỉ trích giống như Trung cộng vì đã tiến hành hoạt động bồi đắp gây hậu quả cho môi trường bởi vì những hoạt động đó thay đổi lâu dài hiện trạng ban đầu của các đảo. Để Việt Nam được hưởng lợi ngoài những lợi ích chiến lược từ những công trình đã thực hiện thì sẽ phải cần đến sự thay đổi của luật pháp quốc tế trong khi sự thay đổi đó hiện giờ chưa nằm trong chương trình nghị sự.

 

 

RFI : Trung cộng bị chỉ trích mạnh mẽ vì bồi đắp và quân sự hóa các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa. Tuy nhiên, các nước có tranh chấp ở trong vùng, trong đó có Việt Nam, cũng bồi đắp. Có lý do nào giải thích cho việc những nước này ít bị chỉ trích hơn, hoặc ít bị để ý hơn ?

 

Laurent Gédéon : Theo tôi, có nhiều lý do có thể giải thích cho việc Việt Nam, cũng như là Phi Luật Tân hoặc Đài Loan, ít bị chỉ trích hơn về các hoạt động quân sự hóa và bồi đắp các đảo so với Trung cộng.

Trước tiên là việc Trung cộng hiện giờ bị coi là bá chủ ở trong vùng. Bắc Kinh bị cáo buộc có những tham vọng bành trướng. Tâm lý này càng được củng cố bởi Trung cộng thường xuyên tuyên bố những yêu sách lãnh thổ hoặc công bố các tài liệu chính thức không chút úp mở nào, ví dụ bản đồ biên giới mới nhất của Trung cộng đã khiến nhiều nước láng giềng ở Biển Đông phản đối. Trong bối cảnh đó, mọi hoạt động của Trung cộng trên thực địa đều bị đánh giá là nhằm mục tiêu tấn công.

 

Tiếp theo, Việt Nam vẫn luôn được coi là bên bị đe dọa, chứ không phải là mối đe dọa, bất chấp những tuyên bố hợp pháp hóa yêu sách chủ quyền của Việt Nam. Sự bất cân xứng chiến lược giữa Trung cộng và Việt Nam khiến người ta tin rằng các công trình do Việt Nam thực hiện là nằm trong khuôn khổ tự vệ chính đáng và ngăn cản những tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Do đó, hành động của Việt nam được xem như có tính chính đáng về mặt đạo đức với báo chí cũng như với giới phân tích.

 

Thiện chí của dư luận đối với Việt Nam được củng cố bởi thực tế Việt Nam là đối tượng được Hoa Kỳ chú ý về mặt địa-chính trị, nhân tố gián tiếp nhưng đóng vai trò lớn trong cuộc xung đột này. Đối với Washington, Hà Nội là quân bài quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung cộng mà bằng chứng mới nhất là chuyến thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam. Bối cảnh này cũng tạo những kết quả tích cực cho hình ảnh chung của Việt Nam ở nước ngoài.

 

Dù những yếu tố này là không thể bàn cãi nhưng vẫn có hai lưu ý, theo tôi, là quan trọng. Thứ nhất, cần phải nhớ là những công trình này mang lại giá trị thực về mặt chiến lược cho các đảo và đá mà các nước kiểm soát. Vấn đề đặt ra là việc sử dụng chúng giả sử trong trường hợp sức mạnh Trung cộng suy giảm, ví dụ sau một cuộc xung đột trong vùng mà Trung cộng xử lý kém. Liệu những công trình đó có thể phục vụ cho Việt Nam để áp đặt sự chia sẻ vùng ảnh hưởng đối với Phi Luật Tân hay Malaysia không ? Câu hỏi này cần được đặt ra.

Lưu ý thứ hai là bằng cách thay đổi cấp độ phân tích và thoát khỏi cách tiếp cận thuần túy khu vực, chúng ta có thể hiểu các hành động của Trung cộng ở Biển Đông như một phần của cơ chế rộng hơn, đó là chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Cách lập luận này khiến chúng ta coi những hành động này (bồi đắp…) như là những yếu tố của một chiến lược rộng hơn để bảo vệ Biển Đông. Nhìn từ quan điểm của Trung cộng, việc đó được coi là xây dựng một chuỗi phòng thủ. Lập luận này không chỉ làm thay đổi bản chất của việc Trung cộng xây dựng các cơ sở hạ tầng làm biến đổi nguyên trạng ở Biển Đông mà nếu một ngày nào đó, các quốc gia trong muốn tiến hành đàm phán với Trung cộng thì cũng cần phải tính đến yếu tố này.

 

 

RFI : Trong trường hợp Việt Nam và Phi Luật Tân đạt được một thỏa thuận song phương giải quyết tranh chấp để cùng đối phó với Trung cộng, Bắc Kinh có để yên không bởi vì họ đòi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông ? Liệu Trung cộng có khả năng cố tình tạo xô xát trên biển để răn đe hai nước ?

 

Laurent Gédéon : Tôi nghĩ là rất có thể là dù không phản đối nhưng Trung cộng sẽ từ chối tham gia vào một giải pháp chung mà Việt Nam và Phi Luật Tân đề xuất. Chúng ta thấy là Bắc Kinh thường xuyên ưu tiên các cuộc gặp song phương thay vì các cuộc đàm phán đa phương như trường hợp bế tắc của các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) từ năm 2002. Mối quan hệ song phương cho phép Trung cộng gia tăng thế bất cân xứng với đối tác và áp đặt lập trường của họ. Vì thế, có rất ít khả năng Bắc Kinh tham gia vòng đàm phán ba bên với Hà Nội và Manila.

 

Cũng có thể là Trung cộng cảm thấy ở thế yếu trước bộ đôi Việt Nam – Phi Luật Tân, hai nước này chắc chắn được Mỹ và Nhật Bản trực tiếp ủng hộ một mặt nhất định về ngoại giao. Trong những điều kiện này, chúng ta có thể giả định mà không sợ nhầm lẫn lớn, là Bắc Kinh sẽ sử dụng chiến lược đe dọa, như cách họ nhiều lần thể hiện đối với Việt Nam hoặc Phi Luật Tân. Để làm được điều này, Trung cộng có một lực lượng tấn công đáng kể thông qua đội đánh cá hiện vẫn đóng vai trò bình phong cho các hoạt động chiến lược của nước này ở Biển Đông. Dĩ nhiên, tình hình sẽ khác hoàn toàn nếu Trung cộng suy yếu, bất kể lý do là gì, nhưng hiện giờ đây vẫn chỉ đơn thuần là một giả thuyết.

 

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

 

RFI (09.10.2023)

 

 

 

 

Truyền thông Trung cộng “dằn mặt” thái độ cứng rắn của Phi Luật Tân ở Biển Đông

 

Báo chí Trung cộng lên tiếng cảnh cáo thái độ cứng rắn của Phi Luật Tân ở Biển Đông, cũng như việc Manila tăng cường hợp tác quân sự với Mỹ, Liên Hiệp Châu Âu và nhiều nước trong vùng. Ngày 07/10/2023, trang Global Times, phiên bản tiếng Anh của Hoàn Cầu Thời Báo cho rằng « Manila nên nhận thức được mối nguy hiểm khi hành động như một cây gậy của Mỹ khuấy động Biển Đông ».

Ảnh minh họa: Tàu của tuần duyên Phi Luật Tân bị một tàu tuần duyên và tàu dân quân biển Trung cộng chặn mũi khi tiến vào bãi Cỏ Mây ( Second Thomas Shoal); ngày 04/10/2023. AP – Joeal Calupitan

 

Vai trò của Phi Luật Tân bị Global Times hạ thấp, khi coi Manila chỉ là một « con tốt », một « cây gậy để Mỹ khuấy động Biển Đông », khác với « vai trò hung hăng » của Tokyo và Canberra. Ngoài ra, Phi Luật Tân còn bị cơ quan truyền thông Nhà nước Trung cộng cáo buộc là « hợp lực với Hoa Kỳ để khuấy động thêm tình trạng bất ổn ở Biển Đông », cũng như « làm xáo trộn bầu không khí hữu nghị giữa Trung cộng và Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông ».

 

Ngoài ra, cuộc tập huấn hàng hải (MTA) Sama Sama 2023 được Mỹ và Phi Luật Tân cùng với các đối tác kéo dài từ ngày 02 đến 13/10 ở ngoài khơi Manila cũng bị chỉ trích. Báo mạng Trung cộng cho rằng Washington viện cớ « đối phó với hàng loạt mối đe dọa cho an ninh và tăng cường khả năng tương tác » nhưng thực ra đợt huấn luyện Sama Sama lần thứ 7 nhắm đến Trung cộng.

 

Global Times mượn lời chuyên gia quân sự Tống Trung Bình (Song Zhongping) để de dọa dùng đến vũ lực nếu Phi Luật Tân, bị Mỹ xúi giục, biến thành đầu tầu chống Trung cộng. Nếu cuộc xung đột gia tăng sẽ có nguy cơ biến thành chiến trường khiến Phi Luật Tân « hứng chịu những tổn thất không sửa chữa được ».

 

Những lời đe dọa này được Trung cộng đưa ra vào lúc Phi Luật Tân tỏ ra cứng rắn hơn trong vấn đề Biển Đông. Sự kiện gần đây nhất là phóng viên của AP, tham gia chuyến thực địa để phản ánh thái độ hung hăng của hải cảnh và dân quân biển Trung cộng ở Biển Đông, đã đưa tin tầu hải cảnh của Trung cộng « cắt mũi » nguy hiểm, chỉ cách một tầu của Phi Luật Tân có 1 mét và bao vây một tầu khác trong nhiều giờ hôm 04/10.

 

RFI (08.10.2023)

 

 

 

 

Trung cộng tiếp tục dã tâm dùng ‘cơ bắp’ làm bá chủ Biển Đông

Trung cộng vẫn lấy sức mạnh quân sự “ăn trùm” để ức hiếp các nước khác ở khu vực cả ở Biển Đông và biển Hoa Đông.

 

Giới lãnh đạo Trung cộng thay vì tuân thủ luật lệ quốc tế, thì lại “ngày càng sử dụng lực lượng quân sự như phương tiện dùng để ức hiếp” các nước khác, dù là tại vùng biển Hoa Đông, Biển Đông hay khu vực Đài Loan.

Tàu Hải Cảnh Trung cộng 21556 chặn đường tàu Cảnh Sát Biển Phi Luật Tân đi tiếp tế tại bãi Cỏ Mây ngày 4 Tháng Mười 2023. (Hình: PCG)

 

Ông Ely Ratner, phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, phát biểu như vậy khi thuyết trình tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế (CSIS) giữa tuần qua. Ông nói rằng quân đội hiện nay “đang là lực lượng đi đầu để Trung cộng đạt các mục tiêu được tính toán lại,” hiểu theo nghĩa bá quyền bành trướng.

 

Dù ông Ratner không nói chính thức trong một cuộc họp báo của Bộ Quốc Phòng, dù chỉ là ở một cuộc thuyết trình tại một tổ chức nghiên cứu chính trị độc lập, người ta hiểu ý kiến của ông phản ảnh quan điểm của chính phủ Mỹ hiện nay về những gì đang diễn ra tại khu vực Biển Đông và biển Hoa Đông, có dấu hiệu “ngày càng gay gắt hơn,” xét qua hành vi của Trung cộng.

 

Chỉ một này trước khi ông Ratner thuyết trình tại Washington, Hoa Kỳ, thì một số tàu Hải Cảnh to lớn và tàu dân quân biển Trung cộng chặn đường, cản trở hai tàu tiếp tế nhỏ bé của Phi Luật Tân mang tiếp liệu cho nhóm lính Thủy Quân Lục Chiến đang đồn trú trên chiếc tàu rỉ sét tại bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal) nhằm xác định chủ quyền.

 

Dịp này ông nói thêm rằng, nhịp độ Trung cộng hiện đại hóa quân sự chưa từng có cả lực lượng võ trang thông thường cũng như lực lượng nguyên tử đang tiến hành không minh bạch, không những vậy, còn sang cả các lãnh vực chiến tranh mạng và không gian nữa.

Chỉ riêng ở khu vực Biển Đông, hai nước Việt Nam và Phi Luật Tân thường xuyên bị sức ép quân sự của Trung cộng. Dễ dàng nhìn thấy các chuyến tàu tiếp tế của Phi Luật Tân cho lính của họ ở bãi Cỏ Mây bị chặn. Các tàu Hải cảnh Trung cộng quấy rối hay bám sát các hoạt động dầu khí của Việt Nam ở bãi Tư Chính thì khó thấy hơn.

 

Nhiều lần tàu Hải Cảnh Trung cộng chạy vòng lên, vòng xuống trên một vùng biển rộng lớn, trong khi Việt Nam cho một chiếc tàu kiểm ngư bám theo ngó chừng. Chỉ khi Việt Nam đưa một tàu khoan tìm dầu khí tới hoạt động thì khi đó sẽ thấy một đoàn vài chục chiếc tàu cả Hải Cảnh lẫn dân quân biển bu tới như dòi, kiếm chuyện.

Tàu Cảnh Sát Biển Việt Nam (trái) bị tàu Hải Cảnh Trung cộng chặn đường ở phía Nam đảo Tri Tôn năm 2014. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

 

CSVN  từng phải bồi thường cho một công ty Tây Ban Nha Repsol số tiền lên cả tỉ đô la khi buộc họ bỏ ngang họp đồng khoan tìm đang tiến hành dở dang hồi năm 2018.

Tin tức thời đó tiết lộ, Bắc Kinh đe dọa đánh chiếm các vị trí của Việt Nam ở Trường Sa nếu không từ bỏ kế hoạch tìm kiếm mới tại bãi Tư Chính, nằm trong phạm vi chủ quyền “lưỡi bò” ngang ngược.

Hiện chỉ mới thấy Trung cộng dùng lực lượng bán quân sự để áp chế Việt Nam và Phi Luật Tân nhưng cũng đã làm cả Hà Nội và Manila lúng túng. Đằng sau các tàu Hải Cảnh và dân quân biển ấy là đoàn chiến hạm, tàu ngầm đang đợi ở phía xa xa, chờ lệnh.

 

Phụ tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Ratner đã nói thẳng ra cái dã tâm của Bắc Kinh ức hiếp các nước khu vực. 

 

Nguoi Viet (08.10.2023)

 

 

 

 

Việt Nam : Dự án khí đốt với Exxon và Gazprom bị trì hoãn vì tranh chấp với Trung cộng ở Biển Đông

 

Các dự án khai thác khí đốt ngoài khơi Việt Nam của tập đoàn Mỹ Exxon Mobil và tập đoàn Nga Gazprom bị chậm tiến độ ít nhất vài năm, làm dấy lên lo ngại về tương lai của những dự án này ở những khu vực tranh chấp với Trung cộng ở Biển Đông.

Ảnh minh họa: Một nhà giàn khai thác dầu khí của Việt Nam ở Trường Sa, Biển Đông Reuters

 

Thông tin được nêu trong một dự thảo đánh giá các dự án đề ngày 31/08/2023 của bộ Công Thương Việt Nam và được hãng tin Anh Reuters đưa tin ngày 05/10. Dự thảo có thể trở thành báo cáo chính thức từ nay đến cuối tháng 11.  

 

Dự án thứ nhất là Cá Voi Xanh của tập đoàn Mỹ Exxon Mobil vẫn giậm chân tại chỗ. Theo kế hoạch năm 2011 của chính phủ Việt Nam, 5 nhà máy điện của dự án có tổng công suất gần 4 GW sẽ đi vào hoạt động vào khoảng năm 2024 khi có khí đốt do dự án Cá Voi Xanh cung cấp.

Nhưng cho đến nay, chưa một nhà máy nào được xây dựng. Trong văn bản dự thảo ngày 31/08, bộ Công Thương Việt Nam nêu kế hoạch 5 nhà máy này sẽ đi vào hoạt động « vào khoảng năm 2028 » trong triển vọng khí đốt sẵn sàng ở mỏ Cá Voi Xanh.   

 

Tuy nhiên, từ nhiều năm nay Exxon Mobil tìm cách rút khỏi dự án Cá Voi Xanh do sức ép nhằm ưu tiên các loại năng lượng xanh. Khi được hỏi về sự chậm trễ và tính toán của Exxon Mobil, Michelle Gray, người phát ngôn của tập đoàn Mỹ, chỉ bình luận rằng « hoạt động thương mại vẫn tiến triển ». Bộ Công Thương Việt Nam và tập đoàn dầu khí PetroVietnam – đối tác của Exxon trong dự án Cá Voi Xanh từ năm 2009 – không trả lời đề nghị bình luận của Reuters.

 

Dự án thứ hai liên quan đến nhà máy nhiệt điện có công suất 0,34 GW dùng khí đốt do tập đoàn Nga Gazprom khai thác tại mỏ khí Báo Vàng (Quảng Trị). Hoạt động thăm dò khí đốt được khởi công từ năm 2000, ở vùng biển giữa Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung cộng. Theo dự thảo văn bản của bộ Công Thương, Gazprom « vẫn đang thăm dò dự trữ khí đốt » nên khó có khả năng nhà máy nhiệt điện này đi vào hoạt động trước năm 2030, trái với trù tính hồi tháng 05/2023 của chính phủ Việt Nam.  

 

Theo Reuters, những chậm trễ của các dự án nói trên có thể tác động đến khả năng cung ứng điện của Việt Nam trong bối cảnh liên tục xảy ra tình trạng cắt điện luân phiên trong những tháng gần đây. Việt Nam muốn đưa khí đốt khai thác trong nước, trong đó có những dự án của Exxon và Gazprom, chiếm khoảng 10% sản lượng điện từ nay đến năm 2030.  

 

RFI (05.10.2023)