Seite auswählen

 Những điều bạn cần biết về bệnh Alzheimer và Parkinson

Lucia Schmidt

FAZ

05.04.2024

VNC chuyển ngữ

Số lượng các bệnh thoái hóa thần kinh đang gia tăng nhanh chóng. Bệnh Parkinson và bệnh mất trí nhớ vẫn chưa thể chữa khỏi. Những triệu chứng nào bạn nên chú ý? Và làm thế nào bạn có thể tự bảo vệ mình?

Bệnh thoái hóa thần kinh có nghĩa là gì?

Chúng bao gồm các bệnh gây ra bởi cái chết của các tế bào thần kinh ở một số khu vực nhất định của não. Tùy thuộc vào hình ảnh lâm sàng, điều này ảnh hưởng đến các vùng khác nhau. Có thể có nhiều lý do khiến các tế bào thần kinh chết. Điều này thường là do các protein cuộn gập sai (xem https://vi.wikipedia.org/wiki/Cu%E1%BB%99n_g%E1%BA%ADp_protein), dẫn đến các tế bào thần kinh không còn khả năng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Các bệnh thoái hóa thần kinh được biết nhiều nhất là bệnh Alzheimer và Parkinson.

Có bao nhiêu người bị ảnh hưởng bởi bệnh này?

Con số này đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới. Khi nói đến bệnh Parkinson, các chuyên gia thậm chí còn nói về đại dịch Parkinson. Trong khi có khoảng 2,5 triệu người bị ảnh hưởng trên toàn cầu vào năm 1990 thì đến năm 2016 con số này đã là 6,1 triệu. Khi nói đến bệnh mất trí nhớ, con số thậm chí còn cao hơn. Hiện có khoảng 60 triệu bệnh nhân trên toàn thế giới. Vào năm 2050 sẽ có 152,8 triệu. Daniela Berg, giám đốc Khoa Thần kinh tại Bệnh viện Đại học Schleswig-Holstein cho biết, sự gia tăng nhanh chóng không chỉ được giải thích bởi độ tuổi ngày càng tăng của dân số thế giới. Chắc chắn phải có nguyên nhân khác. Theo bà chủ yếu là do yếu tố lối sống và độc tố môi trường. “Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy một số khía cạnh của lối sống cũng như độc tố môi trường có liên quan đến sự phát triển của các bệnh thoái hóa thần kinh. Bà giáo sư nói: “Điều đó sẽ khiến bạn phải suy gẩm”. Ngoài ra, nhiều phụ nữ bị chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer và nhiều đàn ông bị bệnh Parkinson hơn.

Độc tố môi trường có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của nó?

Bà Berg nói: “Đúng vậy, và điều đó khiến tôi rất lo lắng vì tôi không có cảm giác rằng các chính trị gia đang phản ứng thỏa đáng với phát hiện này”. Ví dụ, thuốc trừ sâu thường được sử dụng trong nông nghiệp được sử dụng để gây ra bệnh Parkinson ở động vật thí nghiệm. Vì vậy, chúng tôi biết chắc chắn rằng những độc tố môi trường này có thể gây ra bệnh cảnh lâm sàng, Bà Berg nói. “Nếu bây giờ chúng ta nhìn vào cuộc thảo luận hiện nay về glyphosate, chúng ta phải nhận ra rằng thật đáng kinh ngạc là nó vẫn chưa bị cấm.” Theo Bà Berg, điều này càng đáng ngạc nhiên hơn khi ở Pháp, nông dân và điền chủ đều đang mắc bệnh Parkinson. bệnh nghề nghiệp sau khi tiếp xúc lâu dài với thuốc trừ sâu được công nhận. Nhìn chung, bác sĩ cho biết, có rất nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy chất độc môi trường và việc tiếp xúc với các chất ô nhiễm có ảnh hưởng đến các bệnh thoái hóa thần kinh.

Bà Berg cho biết, ít nhất đó có thể là một phần giải thích tại sao bệnh tật lại gia tăng với tốc độ cao như vậy. Theo nhà thần kinh học, cái gọi là trục ruột-não cũng có thể đóng một vai trò nào đó ở đây. Não và đường tiêu hóa có nhiều đường dẫn tương tác và thông tin khác nhau thông qua “trục ruột-não” (xem https://en.wikipedia.org/wiki/Gut%E2%80%93brain_axis). Điều này đã được khoa học chứng minh. “Điều này rõ ràng có nghĩa là những gì chúng ta ăn có thể có tác động đến não. Nếu chúng ta liên tục – có thể là vô tình – hấp thụ chất độc, điều này cuối cùng có thể dẫn đến sự thay đổi trong hệ vi sinh vật và thúc đẩy các bệnh thoái hóa thần kinh.

Hình ảnh MRI của não cũng có thể cung cấp thông tin; chúng cho thấy các vùng não ở bệnh nhân Alzheimer nhỏ hơn ở bệnh nhân khỏe mạnh. Picture Alliance

 

Ở độ tuổi nào người ta thường mắc bệnh Parkinson và Alzheimer nhất?

Bà Berg, đồng thời là phó chủ tịch Hiệp hội Thần kinh học Đức, cho biết: “Độ tuổi trung bình xảy ra bệnh Parkinson là giữa độ tuổi 50 và bệnh Alzheimer già hơn một chút”. Tuy nhiên, chúng tôi biết rằng cả hai căn bệnh này đều phát sinh trong cơ thể từ nhiều năm đến nhiều thập kỷ trước khi có các triệu chứng điển hình và do đó trước khi chẩn đoán được thực hiện. Berg nói: “Ấn tượng của tôi là sự khởi phát của căn bệnh này xảy ra hàng thập kỷ trước khi có những triệu chứng đầu tiên”.

Các triệu chứng đầu tiên là gì?

Với bệnh Alzheimer, những người bị ảnh hưởng trước tiên thường nhận thấy rằng trí nhớ ngắn hạn và khả năng định hướng của họ không còn hoạt động tốt nữa. Một lúc sau, những người xung quanh cũng thường nhận thấy điều này; Vào thời điểm muộn nhất, căn bệnh này trở nên liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Với bệnh Parkinson, các triệu chứng đầu tiên đa dạng hơn nhiều. Đây có thể là táo bón, thay đổi nhận thức về mùi hoặc rối loạn giấc ngủ. Tại sao những triệu chứng này rất đa dạng có thể được giải thích, trong số những điều khác, bởi thực tế là có những nghiên cứu cho thấy các tế bào thần kinh đầu tiên chết trong bệnh Parkinson không nhất thiết phải ở trong não mà còn nằm trong ruột và có thể dẫn đến rối loạn ở đó.

Theo thời gian, thông tin về việc cuộn gấp sai protein đặc trưng của bệnh sẽ được truyền đến các tế bào thần kinh khác trong não. Bệnh lây lan khắp toàn bộ hệ thống thần kinh. Chỉ khi hơn 50% tế bào thần kinh ở một số vùng nhất định của não bị ảnh hưởng thì các triệu chứng vận động điển hình của bệnh Parkinson mới xuất hiện – chẳng hạn như tay run và dáng đi chậm.

Ist der Begriff Alzheimer mit Demenz gleichzusetzen?

Nein, es wird zwar gerade in der breiten Bevölkerung fast synonym gebraucht, doch Alzheimer (xem https://www.msdmanuals.com/vi/professional/r%E1%BB%91i-lo%E1%BA%A1n-th%E1%BA%A7n-kinh/s%E1%BA%A3ng-v%C3%A0-sa-s%C3%BAt-tr%C3%AD-tu%E1%BB%87/b%E1%BB%87nh-alzheimer) ist nur eine Form der Demenz, aber die häufigste. Sie macht rund 60 Prozent aller Demenzerkrankungen aus. Neben der Alzheimerdemenz gibt es an häufigen Formen noch die frontotemporale Demenz, die Lewy-Körperchen-Demenz oder die vaskuläre Demenz.

Thuật ngữ Alzheimer có đồng nghĩa với chứng mất trí nhớ không?

Không, nó được sử dụng gần như đồng nghĩa, đặc biệt là trong dân chúng nói chung, nhưng bệnh Alzheimer chỉ là một dạng bệnh mất trí nhớ, nhưng lại là dạng phổ biến nhất. Nó chiếm khoảng 60 phần trăm của tất cả các trường hợp mất trí nhớ. Ngoài chứng mất trí nhớ Alzheimer, các dạng phổ biến bao gồm chứng mất trí nhớ vùng trán, chứng mất trí nhớ thể Lewy và chứng mất trí nhớ mạch máu.

Tại sao bệnh mất trí nhớ cũng xảy ra do bệnh Parkinson?

Trong bệnh Parkinson, chức năng của các vùng thần kinh khác nhau trong não suy giảm theo thời gian. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến các vùng não chịu trách nhiệm về chức năng ghi nhớ. Kết quả là hội chứng sa sút trí tuệ có thể xảy ra. Tuy nhiên, như Bà Berg giải thích, điều này thường có vẻ hơi khác so với bệnh mất trí nhớ Alzheimer. Suy giảm trí nhớ ngắn hạn ít hơn nhưng bị gián đoạn nhiều hơn khi thực hiện các hành động phức tạp – chẳng hạn như gọi điện thoại và đi bộ cùng lúc.

Wie werden die Diagnosen gestellt?

„Die Diagnose Parkinson“, sagt Berg, „wird bis heute in erster Linie rein klinisch gestellt.“ Der Arzt sieht den typischen Gang des Patienten, die Verlangsamung, die Muskelsteifigkeit, den Ruhetremor in der Hand oder im Bein. Darüber hinaus bedarf es, bis auf eine einmalige Bildgebung des Gehirns, um andere Ursachen der Bewegungsstörung auszuschließen, keiner weiteren Diagnostik. Die moderne Medizin bietet allerdings welche an. So ist es möglich, eine nuklearmedizinische Untersuchung durchzuführen, um den Dopamintransport bestimmter Nervenverbindungen im Gehirn bildlich darzustellen. Dopamin ist nämlich der Neurotransmitter, der bei der Parkinsonerkrankung über die Zeit abnimmt. Diese Untersuchung gehört aber nicht zur Routinediagnostik.

Các chẩn đoán được thực hiện như thế nào?

Bà Berg cho biết: “Việc chẩn đoán bệnh Parkinson cho đến ngày nay chủ yếu được thực hiện thuần túy trên lâm sàng.” Bác sĩ quan sát dáng đi điển hình của bệnh nhân, sự chậm lại, cứng cơ, run khi nghỉ ở tay hoặc chân. Ngoài quy trình chụp ảnh não một lần để loại trừ các nguyên nhân khác gây ra rối loạn vận động, không cần chẩn đoán thêm. Tuy nhiên, y học hiện đại cung cấp một số phương pháp nữa. Chả hạn như có thể thực hiện kiểm tra y học hạt nhân để ghi lại hình ảnh vận chuyển dopamine của một số kết nối thần kinh trong não. Dopamine là chất dẫn truyền thần kinh giảm dần theo thời gian ở bệnh Parkinson. Tuy nhiên, việc kiểm tra này không phải là một phần của chẩn đoán thông thường.

Trong chứng sa sút trí tuệ (demenz), việc chẩn đoán vượt ra ngoài bức tranh lâm sàng thuần túy về “bệnh nhân hay quên”. Ngoài kiểm tra nhận thức, dịch não tủy (Liquor, also Nervenwasser) cũng có thể được lấy từ bệnh nhân để tìm kiếm các protein bị sai lệch điển hình của chứng mất trí nhớ Alzheimer. Chúng tôi đặc biệt đang tìm kiếm sự thay đổi về nồng độ của protein tau- và beta-amyloid. Những điều này đã được nhận thấy rõ ràng ở giai đoạn rối loạn nhận thức nhẹ. Hình ảnh MRI của não cũng có thể cung cấp thông tin; chúng cho thấy các vùng não nhỏ hơn ở những bệnh nhân khỏe mạnh.

Gibt es Bluttests, die Alzheimer oder Parkinson nachweisen können?

Unter anderem am Institut von Neurologin Berg forscht man zurzeit an einem Parkinson-Bluttest, der die Erkrankung noch vor Symptombeginn anzeigen kann. Bei der Demenz gibt es schon erste Tests, die bereits eine Marktzulassung haben und klinisch eingesetzt werden.

Có xét nghiệm máu nào có thể phát hiện bệnh Alzheimer hoặc Parkinson không?

Viện của nhà thần kinh học Berg, trong số những viện khác, hiện đang nghiên cứu xét nghiệm máu bệnh Parkinson xem nó có thể phát hiện bệnh trước khi các triệu chứng bắt đầu. Hiện đã có những xét nghiệm đầu tiên về chứng mất trí nhớ đã được phê duyệt đưa ra thị trường và đang được sử dụng lâm sàng.

Xét nghiệm máu có hữu ích để phát hiện sớm không?

Không có câu trả lời chung cho điều này. “Trên hết đây là một câu hỏi đạo đức,” Bà Berg nói. “Từ góc độ khoa học, bạn có thể tìm hiểu nhiều điều về căn bệnh này thông qua chẩn đoán sớm vì bạn có cơ hội quan sát một bệnh nhân bị ảnh hưởng trong một thời gian dài.” Điều này có thể dẫn đến những hiểu biết sâu sắc, đặc biệt là khi liên quan đến các câu hỏi: Chính xác thì khi nào  bệnh phát sinh? Dấu hiệu ban đầu đáng tin cậy là gì? Bạn có thể làm gì để ngăn chặn căn bệnh này? Giáo sư cho biết, từ quan điểm của những người bị ảnh hưởng, việc xét nghiệm sớm như vậy nên được nhìn nhận một cách khá mâu thuẫn: “Chừng nào bạn chưa có một liệu pháp nào có sớm và hiệu quả, thì câu hỏi vẫn là: Bệnh nhân có được gì từ xét nghiệm sớm? ” Chính xác là các cuộc khảo sát từ nhóm làm việc của bà Berg cũng cho thấy sự mâu thuẫn.Nó cho thấy, rằng mọi người muốn biết sớm liệu họ sẽ mắc bệnh Parkinson hay chứng mất trí nhớ nếu có giải pháp can thiệp sớm có thể ngăn chặn sự tiến triển của bệnh. Tuy nhiên, vẫn chưa có phương pháp điều trị sớm hiệu quả.

Bệnh mất trí nhớ hiện nay được điều trị như thế nào?

Chứng sa sút trí tuệ có thể được điều trị theo nhiều cách khác nhau. Các hướng dẫn khuyến nghị luyện tập nhận thức và kích thích nhận thức cho chứng sa sút trí tuệ nhẹ và trung bình. Điều này cũng bao gồm cả sự tương tác xã hội như chơi với cháu, bà Berg nói. bà ấy cũng khuyên bạn nên rèn luyện thể chất, chẳng hạn như đi bộ. Tập thể dục giúp cải thiện hiệu suất nhận thức cũng như cải thiện các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra còn có những loại thuốc có thể được sử dụng để điều trị chứng mất trí nhớ. Các loại thuốc được biết đến nhiều nhất bao gồm thuốc ức chế acetylcholinesterase. Loại thuốc nào thích ứng với bệnh nhận nào, điều này phải được thảo luận riêng với bác sĩ điều trị.

Bệnh Parkinson được điều trị như thế nào?

Bà Berg cho biết: “Cũng chưa có liệu pháp điều trị nguyên nhân nào cho bệnh Parkinson. Các loại thuốc được sử dụng phổ biến nhất là dopamine hay còn gọi là chất chủ vận dopamine. Chúng nhằm mục đích bù đắp sự thiếu hụt dopamine trong cơ thể và hoạt động rất tốt. Ngoài ra, bệnh nhân nên được tập vật lý trị liệu, có thể cả liệu pháp ngôn ngữ hoặc trợ giúp khác để giúp việc sống chung với các triệu chứng trở nên dễ dàng hơn.

Kích thích não sâu hoặc thủ thuật siêu âm có giúp ích gì không?

Kích thích não sâu đã được chứng minh là có hiệu quả trong bệnh Parkinson. Các điện cực được đặt vào não trong một quy trình nhỏ sẽ liên tục phát ra các xung điện để đảm bảo rằng mạng lưới trong não bị gián đoạn do mất dopamine sẽ hoạt động tốt hơn trở lại. Các xung điện được gửi đi bằng một máy phát xung lực được lập trình riêng, tương tự nguyên lý của máy tạo nhịp tim, nằm dưới da ở vùng ngực hoặc vùng bụng. Một phương pháp tương đối mới đối với bệnh Parkinson là siêu âm tập trung, được kiểm soát bằng MRI, được sử dụng từ bên ngoài thông qua hộp sọ kín. Ví dụ, sóng siêu âm sau đó được điều chỉnh để chúng làm gián đoạn mạng lưới thần kinh chịu trách nhiệm tạo ra chứng run của bệnh Parkinson. Kích thích não sâu và siêu âm tần số cao hiện chưa được sử dụng trong điều trị chứng sa sút trí tuệ nhưng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục. Tuy nhiên, vẫn chưa có kết quả rõ ràng về mức độ hữu ích của việc này.

Một liệu pháp kháng thể điều trị chứng sa sút trí tuệ sắp được phê duyệt ở Đức trong những ngày này.

Người ta thường nói rằng các kháng thể mới đã tạo nên bước đột phá trong liệu pháp điều trị bệnh Alzheimer. Giáo sư Berg dè dặt hơn một chút. Mặc dù các kháng thể này ngăn chặn sự gia tăng của beta-amyloid bị sai lệch nhưng chúng không giải quyết được các yếu tố khác. Bà nói, điều này không chữa khỏi bệnh mà chỉ làm bệnh chậm lại. Ngoài ra, liệu pháp này không có tác dụng tốt hơn cho tất cả bệnh nhân, nam giới hơn nữ giới; Tuổi tác và sự kết hợp di truyền cơ bản cũng đóng một vai trò. Và Bà Berg nói, bạn cũng không nên che giấu các tác dụng phụ. Việc điều trị có thể dẫn đến sưng tấy hoặc chảy máu trong não, cùng nhiều vấn đề khác.

Bà Berg nhận thấy một hạn chế khác về chi phí ngoài tác dụng phụ. Theo ước tính hiện tại, chi phí mỗi năm cho một bệnh nhân lên tới khoảng 30.000 euro. Theo một cuộc khảo sát, số lượng bệnh nhân ở châu Âu sẽ lớn đến mức một nửa ngân sách y tế dành cho các quốc gia này sẽ “bị sử dụng hết”. Ngoài ra, người bệnh cần được chăm sóc y tế đặc biệt; bà Berg nói: “Chúng tôi không có nhân viên làm việc đó. Ngoài ra, kháng thể phải được sử dụng trong giai đoạn đầu, khi nhiều người trong số những người bị ảnh hưởng chưa biết chẩn đoán của mình. Bà Berg cho biết: “Vì các kháng thể không chữa khỏi chứng mất trí nhớ mà chỉ làm chậm quá trình tiến triển lâm sàng khoảng 30%, nên phải đặt câu hỏi liệu điều này có biện minh cho việc chi tiêu từ góc độ xã hội hay không”.

Sport, gesunde Ernährung und guter Schlaf sind Maßnahmen der Prävention. Wie effektiv ist das?

Der Nutzen sei hoch, sagt Berg. Studien legen nahe, dass bis zu 40 Prozent der Fälle neurodegenerativer Erkrankungen durch solche Prävention verhindert werden könnten; das schaffe keine medikamentöse Therapie. Noch fehle dafür aber das Bewusstsein in der Gesellschaft.

Warum wirken Sport und ausreichend Schlaf so effektiv bei diesen Krankheitsbildern?

Dazu gibt es laut Neurologin Berg einige interessante Studien. So könne bereits leichte körperliche Aktivität Entzündungen und oxidativen Stress reduzieren und den Energiestoffwechsel der Zellen verbessern. Moderate bis intensive körperliche Aktivität führt über die Herz- und Muskelfunktion hinaus zu positiven Effekten im Gehirn; unter anderem nahmen kognitive Beeinträchtigungen ab. „Auf biochemischer Ebene konnte man eine Reduzierung der fehlgefalteten Eiweiße beobachten und auch einen verminderten Nervenzellverlust“, sagt Berg.

Tập thể dục, chế độ ăn uống lành mạnh và ngủ ngon là những biện pháp phòng ngừa. Hiệu quả của những việc đó như thế nào?

Bà Berg cho biết lợi ích là rất cao. Các nghiên cứu cho thấy có thể ngăn ngừa được tới 40% trường hợp mắc bệnh thoái hóa thần kinh thông qua cách phòng ngừa như vậy; Không có phương pháp điều trị bằng thuốc nào có thể làm được điều đó. Tuy nhiên, ý thức của xã hội vẫn còn thiếu.

Tại sao tập thể dục và ngủ đủ giấc lại có tác dụng hiệu quả đối với những tình trạng lâm sàng này?

Theo nhà thần kinh học Berg, có một số nghiên cứu thú vị về vấn đề này. Ngay cả hoạt động thể chất nhẹ cũng có thể làm giảm viêm và oxy hóa do căng thẳng, đồng thời cải thiện quá trình chuyển hóa năng lượng của tế bào. Hoạt động thể chất vừa phải đến cường độ cao sẽ mang lại những tác động tích cực lên não ngoài chức năng của tim và cơ; trong số những thứ khác, suy giảm nhận thức giảm. Bà Berg cho biết: “Ở mức độ sinh hóa, người ta đã quan sát thấy sự giảm lượng protein cuộn gấp sai và sự mất mát của các tế bào thần kinh cũng giảm”.

Tương tự như vậy, sau khi hoạt động thể chất, người ta tìm thấy mức độ cao hơn của yếu tố tăng trưởng thần kinh, yếu tố này đóng vai trò trong sự phát triển và biệt hóa cũng như khả năng tái tạo của tế bào thần kinh và cải thiện chức năng nhận thức. Theo Bà Berg, từ nghiên cứu về giấc ngủ, người ta biết rằng não trải qua “quá trình làm sạch” trong khi ngủ. Nó chủ yếu liên quan đến việc loại bỏ các chất thải có thể gây hại cho não thông qua một loại bạch huyết. Nếu bạn không ngủ đủ giấc, não của bạn sẽ không thể tự làm sạch đúng cách.

 

Gia tăng bệnh Alzheimer ở phụ nữ, vấn đề ngày càng nghiêm trọng!

Trang Nguyên 

Saigon Nhỏ

 

Suy giảm nhận thức nhẹ, hay nặng hơn là sa sút trí tuệ, hàng năm ảnh hưởng đến khoảng 5 triệu người Mỹ trên 60 tuổi. (Hình minh họa: Unsplash)

Khi dân số California ngày càng già đi, gánh nặng bệnh Alzheimer ngày càng nghiêm trọng, nhất là khi 2/3 người bệnh là phụ nữ.

Tuy nhiên, với 11 triệu phụ nữ ở Hoa Kỳ sống chung với bệnh Alzheimer hoặc chăm sóc người mắc bệnh này, cũng là vấn đề đáng phải quan tâm. Đó là lý do thúc đẩy Dịch Vụ Truyền Thông Thiểu Số (EMS) tổ chức hội thảo hôm Thứ Năm, 9 Tháng Năm vừa qua, để thảo luận về những chuyện liên quan đến bệnh Alzheimer ở California.

Các chuyên gia y tế, đại diện tổ chức cộng đồng và những người chăm sóc cho bệnh nhân Alzheimer hiện diện tại hội thảo gồm:

-Bác Sĩ Wynnelena Canio, bác sĩ lão khoa và giám đốc phụ trách chăm sóc cao niên của bệnh viện Kaiser Permanente ở San Rafael. Bà còn là ủy viên của Dịch Vụ Kêu Gọi Chăm Sóc Cao Niên Sonoma County.

-Bác Sĩ Mirella Diaz-Santos, phụ tá giáo sư về khoa học não bộ của đại học UCLA.

-Anni Chung, tổng giám đốc tổ chức Self Help for the Elderly ở San Mateo, được thành lập vào năm 1966.

-Bà Mereani Ikanivere, sáng lập viên của tổ chức Prestige Care, cũng nói về văn hóa gia đình chăm sóc cho người nhà bị Alzheimer của người Á Châu Thái Bình Dương.

Hàng trên, từ trái: Wynnelena Canio, Mirella Diaz-Santos. Hàng dưới, từ trái: Anni Chung, Mereani Ikanivere. (Hình: EMS cung cấp)

Tại hội thảo, Bác Sĩ Wynnelena C. Canio cho biết vào năm 2019, Thống Đốc Newsom công bố thành lập một lực lượng đặc nhiệm mang tính đột phá, chịu trách nhiệm đưa ra các khuyến nghị về cách California có thể ngăn ngừa và chuẩn bị cho sự gia tăng bệnh Alzheimer và các bệnh khác gây ra chứng sa sút trí tuệ.

Thời gian đó, nghĩa là cách nay 5 năm, California có 660,000 cư dân California sống chung với bệnh Alzheimer. Người ta dự báo con số này sẽ tăng hơn gấp đôi vào năm 2040, nghĩa là gần 1.5 triệu người so với 719,700 người theo thống kê của năm 2020.

Khi dân số của tiểu bang càng tăng, số người bị bệnh Alzheimer cũng tăng theo với tỉ lệ rất cao. Bác Sĩ Canio nói: “Chưa bao giờ vấn đề này lại quan trọng hơn thế. Báo cáo cuối cùng của lực lượng đặc nhiệm bao gồm 10 khuyến nghị chính trong kế hoạch tổng thể về người cao niên của tiểu bang, một trong số đó là việc tạo ra một chiến dịch giáo dục bệnh Alzheimer đa ngôn ngữ, đa văn hóa, và liên thế hệ.”

Cũng theo bà, 1/6 cư dân California trên 65 tuổi có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và 1/5 nguy cơ mắc bất kỳ loại bệnh mất trí nhớ nào. Bác Sĩ Canio cho biết những con số này là  thật. “Bà nội của tôi được chẩn đoán mắc chứng mất trí nhớ… bà không còn khả năng nấu nướng, đi lại, và tắm rửa một mình, nên gia đình chúng tôi thay nhau chăm sóc bà,” bác sĩ kể.

“Một ngày nọ, khi tôi đang giúp bà tắm, bà khóc và nói ‘sao con lại bà vậy, để bà tắm cho con nhé,’ tôi trả lời: ‘Bà nói đúng đấy, bà đã từng tắm cho con mà. Nên bây giờ con phải tắm cho bà chứ!’ Kinh nghiệm mà tôi chăm sóc cho bà mình, và hàng nghìn cư dân California mắc chứng mất trí nhớ đã truyền cảm hứng cho tôi, để giúp đỡ những người thường không thể tự nói được suy nghĩ của họ.”

Bác Sĩ Mirella Diaz-Santos nói về nghiên cứu mới nổi về các yếu tố sinh học, và môi trường ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh Alzheimer ở phụ nữ.

“Tại sao phụ nữ có nhiều nguy cơ mắc bệnh Alzheimer hơn?,” Bác Sĩ Diaz-Santos đặt ra câu hỏi, và trả lời. “Di truyền, sinh học, môi trường. Nghiên cứu chỉ ra rằng các gen liên quan đến phụ nữ làm tăng tuổi thọ, từ đó làm tăng nguy cơ bị bệnh. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra rằng beta amyloid – một loại protein liên quan đến bệnh Alzheimer, tích tụ nhiều hơn trong não của phụ nữ.”

Ngoài ra, bác sĩ còn cho rằng những yếu tố gây căng thẳng mãn tính mà mọi người phải chịu đựng ngày này qua ngày khác liên quan đến về môi trường, công ăn việc làm, và vai trò của phụ nữ trong gia đình, hay căng thẳng do phân biệt đối xử, cũng đóng một vai trò trong sự khác biệt của các cộng đồng có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer ở các mức độ khác nhau.

Bà nói người Mỹ da Đen và người Mỹ gốc Tây Ban Nha có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer hoặc một dạng mất trí nhớ khác cao hơn so với người da trắng, gấp đôi hoặc gấp rưỡi.

Bác Sĩ Diaz-Santos khuyên: “Chúng ta cần trò chuyện với những cộng đồng đang phải chịu đựng trong im lặng vì họ sợ việc chẩn đoán chứng mất trí nhớ, cho là họ bị điên.”

Đừng để phát hiện bệnh Alzheimer quá trễ. (Hình minh họa: Artem Labunsky/Unsplash)

Bà Anni Chung lại nói về nỗi sợ hãi và xấu hổ có thể đi kèm với chẩn đoán bệnh Alzheimer, đặc biệt là trong cộng đồng người Hoa của bà, đồng thời chia sẻ cách tổ chức để thay đổi nhận thức về căn bệnh này.

Bà Chung nói: “Dù biết bệnh Alzheimer đang gia tăng, nhưng trong cộng đồng của chúng tôi vẫn thường coi nó như một căn bệnh tâm thần, vì Alzheimer, tiếng Trung được dịch là ‘điên,’ vì vậy những người chăm sóc người thân mắc chứng mất trí nhớ thường dấu không cho ai biết người nhà của mình ‘bị điên,’ nghĩa là họ không tìm kiếm nguồn lực hoặc giáo dục, và tình hình trở nên tồi tệ hơn.”

Để giải quyết bệnh Alzheimer, theo bà, thông qua việc giáo dục những người chăm sóc về căn bệnh này, đồng thời thực hiện các chương trình chăm sóc tại nhà và chăm sóc ban ngày như vậy sẽ có hiệu quả. “Thường thì con gái phải nghỉ việc và chuyển sang chăm sóc bố mẹ toàn thời gian. Họ thường cảm thấy tội lỗi khi thuê sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng như vậy họ sẽ bị lại cảm thấy kiệt sức”, Chung nói.

Quả thật, chăm sóc người Alzheimer 24/24 từ ngày này qua tháng nọ là công việc không dễ chút nào. Hơn một phần ba số người chăm sóc bệnh mất trí nhớ ở Hoa Kỳ là con gái, trong khi 19% phụ nữ phải nghỉ việc để chăm sóc cho cha mẹ bị bệnh Alzheimer của mình. “Chúng ta yêu cầu những người con, hoạc người chăm sóc quan tâm hơn đến người thân yêu của mình bị bệnh, nhưng chúng ta lại không đền đáp xứng đáng cho họ,” bà Chung nói.

Mereani Ikanivere lại cho rằng mặc dù những người chăm sóc thích công việc này, nhưng điều ấy không phải là giải pháp có ý nghĩa, thay vì giúp họ nhận ra mức độ thay đổi về khả năng và mô hình hành vi khi bệnh Alzheimer tiến triển.

Cô giải thích, ngay cả bản thân những người chăm sóc cũng có dấu hiệu bị bệnh. “Chúng tôi nhận thấy những người từng chăm sóc bệnh trong nhiều năm cũng có thể có dấu hiệu suy giảm nhận thức,” cô nói. “Người dân các đảo Thái Bình Dương có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao gấp đôi so với người Mỹ da trắng.”

Cô Ikanivere đưa ra số liệu, khoảng 65% người chăm sóc tại Prestige Care chăm sóc người mắc bệnh Alzheimer, và người bệnh tăng liên tục trong bốn năm qua. Việc chăm sóc đã ăn sâu vào DNA của nhiều người Fiji, vì họ thường quen chăm sóc những người thân yêu của mình từ khi còn nhỏ.

Đúng vậy, bản chất gắn bó của nhiều cộng đồng người Fiji cũng mang lại giải pháp tuyệt vời để chia sẻ những mối quan tâm trong việc chăm sóc và tránh căng thẳng, kiệt sức, thất vọng và trầm cảm do làm việc nhiều giờ. Và đó cũng là ý kiến của các chuyên gia, khi cho rằng không ai khác hơn, chính thân nhân đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ người nhà của mình bị bệnh.