Mục lục
Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954, những đoạn sử buồn nước Việt
Bùi Văn Phú
Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Santa Ana, California
Hội thảo về Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954 tại Quận Cam là dịp để những trang sử ít được biết tới, bị che giấu bấy lâu được soi rọi, để các thế hệ người Việt nhìn lại những khúc quanh lịch sử trầm luân của đất nước.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954.
Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về Cải cách Ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”
Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình Bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển.
Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
Năm nay là kỉ niệm 70 năm ngày kí Hiệp định Genève 1954 chia đôi nước Việt tại Vĩ tuyến 17 với sự kiện gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam. Nguyên do nào đã tạo nên làn sóng di cư này, rồi 20 năm sau, 1975 lại có làn sóng người Việt bỏ nước ra đi là “thuyền nhân” kéo dài trong hai thập niên để hàng triệu người Việt có mặt tại Hoa Kỳ hôm nay?
Cải cách Ruộng đất đẫm máu
Vì sao chúng ta có mặt tại đất nước này?
Giáo sư Alex-Thái Võ từ Đại học Texas Tech, là con của một gia đình H.O. (một trong các diện di cư sang Mỹ theo chương trình Ra đi Có trật tự), đã từng tự hỏi. Ông kể lại trong phần giới thiệu chương trình:
“Tại làm sao tôi lại ở Hoa Kỳ? Điều gì đã đưa tôi đến đây? Câu trả lời có thể là dễ. Đó là vì cuộc chiến Việt Nam và hậu quả quả nó. Nhưng khi nghiên cứu sâu vào thì thấy lịch sử có những móc dây chuyền với nhau, không phải là cái gì đứng một mình hay một động thái riêng, mà là những yếu tố dính chùm với nhau để rồi có ảnh hưởng đến chúng ta. Tôi nghĩ lại thì có Nhân văn Giai phẩm, nghiên cứu thêm tôi nhận ra Nhân văn Giai phẩm là phát xuất từ những sự phẫn uất nổi lên từ giai đoạn của Cải cách Ruộng đất mà ra. Vì thế tôi đã chọn chủ đề Cải cách Ruộng đất để nghiên cứu từ hơn 20 năm qua, đi tìm tư liệu về Cải cách Ruộng đất từ Hoa Kỳ, từ Việt Nam. Đọc 65 tập Văn kiện Đảng…”
Tốt nghiệp tiến sĩ sử từ Đại học Cornell và là người đồng phối hợp tổ chức sự kiện cuối tuần qua với Giáo sư Vũ Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt-Mỹ tại Đại học Oregon ở Eugene, và Giám đốc Bảo tàng Di sản người Việt (Vietnamese Heritage Museum) Châu Thụy, Giáo sư Alex-Thái Võ có nhận định về Cải cách Ruộng đất và Di cư 1954 như sau:
“Đó là hai sự kiện lịch sử Việt Nam quan trọng bị che lấp, bóp méo hay xóa mờ dù ở Việt Nam hay ở một nước tự do dân chủ như Hoa Kỳ. Bằng cách đào sâu vào những câu chuyện lịch sử này, chúng tôi không muốn gây hận thù, gây chia rẽ. Chúng tôi chỉ muốn khẳng định quyền của con người, quyền của người Việt Nam, quyền của người tị nạn được định hình tương lai của mình bằng một sắc thái thông thái…”
Sự việc người Việt bỏ quê từ Bắc vào Nam năm 1954, rồi từ Việt Nam ra nước ngoài vào năm 1975 là bắt nguồn từ những hậu quả kinh hoàng trong Cải cách Ruộng đất do chế độ cộng sản chủ trương, đưa đến cái chết của hàng trăm ngàn người dân, bị qui cho là địa chủ mà phần lớn là qui sai nên đã chết oan.
Một văn kiện đảng ngày 4/5/1954 qui định mỗi 1.000 dân thì xử tử một người. Mỗi xã qui định là có 5% địa chủ. Vì thế nhiều người bị cho là địa chủ và bị đấu tố, làm nhục, hành hạ oan trái. Nhiều người khác thấy thế, sợ quá mà tự tử, theo dẫn chứng của Giáo sư Thái Võ.
Theo một số nhà nghiên cứu tại Mỹ, hiểu biết của đa số người Việt Nam về cuộc di cư năm 1954 và cải cách ruộng đất miền Bắc chỉ dừng lại ở cái tên của nó và một vài câu chuyện truyền miệng, trong khi quy mô, tác động và hệ luỵ của những sự kiện này đã kéo dài suốt 70 năm qua và vẫn ảnh hưởng đến những chính sách hiện tại và lợi ích của người dân.
Nguyên nhân dẫn đến lỗ hổng này là do phần lịch sử đen tối đã bị cố tình che giấu, trong khi những nhân chứng sống, thế hệ trực tiếp trải qua hai sự kiện trên gần như không còn nữa.
“Đây là hai sự kiện quan trọng của lịch sử Việt Nam và nó ảnh hưởng đến gia đình, cuộc sống của rất nhiều người Việt Nam và cả những người sau này đi qua Mỹ nữa, trong số họ có nhiều gia đình đã từng di cư từ Bắc vào Nam hoặc chịu cải cách ruộng đất”, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị – Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Việt-Mỹ của Đại học Oregon, nói với VOA.
“Nó quan trọng như vậy nhưng lịch sử trong nước họ không dạy hoặc họ bỏ qua vì rõ ràng nó phô bày tính bạo lực, xấu xa của đảng Cộng sản, thành ra họ muốn che giấu, trong khi bên này thì những người lớn tuổi dần dần mất đi nên mới có nhu cầu cần phải giáo dục cho cộng đồng biết về những sự kiện này”, GS. Vũ Tường cho biết thêm về lý do trường đại học của ông cộng tác với Đại học Kỹ thuật Texas và Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt tổ chức cuộc triển lãm – thảo luận về “Cuộc di cư năm 1954” và “Cải cách ruộng đất miền bắc Việt Nam” vào hai ngày 17-18/8 tại Bowers Museum, thành phố Santa Ana, bang California, Hoa Kỳ, nhân dịp 70 năm kỷ niệm các sự kiện lịch sử này.
Triển lãm giới thiệu với công chúng hàng trăm tài liệu, hình ảnh, văn bản… của nhà nước Cộng sản về cuộc cải cách ruộng đất đã khiến hàng trăm ngàn người đổ máu oan uổng, cũng như những tài liệu của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cho thấy việc tiếp nhận, sắp xếp cuộc sống cho gần một triệu người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 như thế nào.
“Đây là một chương trình mà 70 năm qua chưa có một tổ chức nào làm. Viện Bảo Tàng muốn dùng cơ hội này để đưa ra ánh sáng những tài liệu mà trước giờ đã không được nhiều chú ý. Thành ra ngày hôm đó có một vở kịch ngắn của những nạn nhân là con của những ông bà, cha mẹ bị giết trong cuộc cải cách, và những người đó họ viết lại vở kịch bằng những tài liệu thật và họ đóng lại, ngay cả diễn viên là những người đã từng đóng phim cho Hollywood cũng đóng trong vở kịch”, Hoạ sĩ Châu Thuỵ, Giám đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, giới thiệu thêm về nội dung của hai ngày triển lãm.
Cuộc cải cách khốc liệt và hành trình di cư của những người tìm tự do
Cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam tổng cộng có 5 đợt, được tiến hành từ năm 1953 -1956 tại 3.314 xã, khiến hàng trăm ngàn người bị đấu tố, bị kết án oan sai. Theo thống kê chính thức của Việt Nam, tổng số người đã bị quy là địa chủ trong cuộc cải cách này là 172.008 người. Trong đó, số người bị quy sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%.
Giáo sư Alex Thái, thuộc Trung tâm Việt Nam học của Đại học Kỹ thuật Texas, nói nếu chỉ tính trên con số mà chính quyền ở Việt Nam công bố (mà thực tế có thể nhiều hơn), thì số người chịu ảnh hưởng của cuộc cải cách ruộng đất phải gấp 4, 5 lần hoặc hơn vì mỗi gia đình thời đó đều có ít nhất 4, 5 con.
“Trong phần cải cách ruộng đất, chúng tôi trưng bày những văn bản của nhà nước cũng như những tư liệu liên quan để chứng mình cuộc cải cách ruộng đất này không phải là một cuộc nổi dậy bình thường do người dân uất ức, nghèo đói quá mà họ đứng dậy, mà nó là một sự phát động từ trong chính quyền nhà nước Việt Nam để gây sự hận thù giữa người dân với nhau, để rồi sách động cuộc cách mạng ruộng đất”, GS. Alex Thái nói về nội dung cuộc triển lãm.
Để thực hiện công tác gây sự căm hận này, theo những nghiên cứu của GS. Alex Thái, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã dùng cách thức được gọi tên là “phát động quần chúng”.
Ông giải thích: “Để phát động quần chúng, chính phủ phải in ấn rất nhiều tư liệu để làm sao cổ vũ người dân. Mà người dân Việt Nam vào thời kỳ đó rất thiếu học, đa phần vào thời gian đó chỉ mới học lớp 3, lớp 4 thôi, thì để cho họ có được sự căm thù đối với tầng lớp giàu có hơn, tức tầng lớp trí thức, địa chủ, phú nông, để rồi họ đứng lên, lấy số đông người dân nghèo đó để đả phá, chỉ trích, đấu tố những người thuộc tầng lớp giàu. Chúng tôi sẽ trưng bày những văn bản đó, trong đó có những văn bản nói rằng cứ mỗi 1.000 người thì phải xử tử 1 người. Xưa nay người ta hay nói cải cách ruộng đất giết chóc nhiều lắm nhưng không mấy ai hiểu cụ thể nó có những con số như vậy. Nó là một quota, và sau này có một quota nữa là mỗi xã thì phải có 5% địa chủ”.
Theo nhà nghiên cứu lịch sử của Đại học Kỹ thuật Texas , chính những quota mà các cán bộ xã huyện phải nằm lòng để thực hiện theo chỉ thị đã dẫn đến biết bao người dân và gia đình họ bị vu oan để đáp ứng những “chỉ tiêu” này.
Với chủ đề di cư, GS. Alex Thái cho biết cuộc triển lãm sẽ trưng bày những văn bản của hai nhà nước: Dân chủ Việt Nam Cộng hoà, tức nhà nước Cộng sản, và Việt Nam Cộng Hoà.
“Một số người Bắc ra đi năm 1975 hoặc đi vượt biên sau năm 1976 thì họ cũng là những người đã di cư từ Bắc vào Nam (năm 1954) cho nên nó có sự móc nối về lịch sử. Thứ hai, nó giúp định nghĩa chữ tự do trong lịch sử Việt Nam như thế nào”, Giáo sư Hoàng Anh Tuấn, giảng dạy về Lịch sử tại Đại học Pepperdine, Mỹ, một trong những diễn giả khách mời của hội thảo, nói về nội dung mà ông tham gia trình bày.
Đến xem triển lãm, người xem có dịp để tìm hiểu và hình dung việc chính phủ miền Nam tiếp nhận và quản trị gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam như thế nào. Họ đã phải phân chia người dân ra sao, lập ra các trại tiếp thu người, chi tiền như thế nào cho các gia đình, chia máy may, dụng cụ làm nông… ra sao để các gia đình ổn định cuộc sống ở vùng đất mới, thậm chí họ có thể dò tìm cả tên người thân nếu có trong danh sách hàng ngàn cái tên của những người di cư năm 1954 đã được chính quyền Việt Nam Cộng Hoà phân bổ về các địa phương.
Theo Hoạ sĩ Châu Thuỵ, cuộc triển làm chính là cơ hội để mọi người học hỏi để biết thêm “thế nào là chế độ Cộng sản”, mà ảnh hưởng của nó có thể nhìn thấy đến tận ngày nay trong chính sách đất đai hay những vấn đề tiêu cực về mặt xã hội.
Cho thế hệ trẻ và tương lai người Việt
Cuộc triển lãm và hội thảo có sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu về Việt Nam, kèm theo chương trình chiếu phim, diễn kịch… được mở cửa miễn phí cho công chúng.
Các nhà tổ chức cho biết cuộc triển lãm được thực hiện khi họ nhìn thấy những góc khuất lịch sử và nhu cầu về việc trình bày lịch sử một cách trung thực cho cộng đồng, đặc biệt cho thế hệ trẻ, nhưng người được sinh ra sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.
“Sau những buổi hội thảo và các cuộc triển lãm, có đến 80-90% các em lớn lên ở đây không hề biết tại sao bố mẹ ra đi”, họa sĩ Châu Thuỵ chia sẻ. “Cách đây mấy ngày, có một nhóm bạn trẻ tới đây và thú thật là bố mẹ họ đi vượt biên nhưng hỏi thì không bao giờ nói. Có thể những người đi vượt biên, đi tù cải tạo họ bị vấn đề về tâm lý nên không muốn kể lại quá khứ đau thương của họ. Thành ra, Viện Bảo Tàng là câu trả lời cho các em”.
GS. Hoàng Anh Tuấn lưu ý thêm về vấn đề trình bày. Ông nói: “Người Việt Nam khi gặp nhau bên Mỹ thường chú trọng nói tiếng Việt, nhưng hội thảo này có tiếng Anh nữa, vừa tiếng Việt vừa tiếng Anh nên ngôn ngữ rất thuận tiện cho các bạn trẻ. Ngoài ra, những bạn trẻ sinh ra và lớn lên tại Việt Nam rồi qua đây du học, chính quyền đã không dạy họ về một số vấn đề lịch sử như chống Cộng, Việt Nam Cộng Hoà… nên các em cũng nên tham dự để hiểu thêm về lịch sử của mình”.
Đối với hoạ sĩ Châu Thuỵ và Viện Bảo Tàng, việc tổ chức triển làm là một cơ hội và cũng là trách nhiệm phải làm. Vì theo lời ông, “mình ở nước tự do và mình có thể làm được những chuyện mà các bạn trẻ trong nước không thể làm được, nên chúng ta làm cho họ”.
Santa Ana (VB) – Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt – Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này?
Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay. Lịch sử Việt Nam trải qua những thời khắc bi thương, khi số phận dân tộc mình lại do những thế lực ngoại bang quyết định, đẩy đất nước đến biến cố 1954 rồi 1975.
Tiến sĩ Alex Thái Võ thuộc Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University là gương mặt trẻ nhất trong ban tổ chức cũng như thành phần diễn giả. Anh cho rằng nghiên cứu về giai đoạn lịch sử này không chỉ là để hoài niệm quá khứ, mà là để cho hiện tại và tương lai. Hiện nay, chính quyền CSVN trong nước vẫn tiếp tục bưng bít thông tin về sự kiện cải cách ruộng đất. Ở bên Mỹ, các nhóm truyền thông cũng như học giả thiên tả đã diễn giải sự kiện theo góc nhìn thiên kiến, bóp méo hay viết lại lịch sử. Nếu những người có tâm huyết, có kiến thức về lịch sử trong cộng đồng người Việt hải ngoại không làm gì cả, sự thật lịch sử của dân tộc sẽ bị đánh tráo.
Những người tham dự triển lãm dễ dàng nhận ra qui mô của cuộc triển lãm qua khối lượng và chất lượng những hiện vật trưng bày liên quan đến giai đoạn lịch sử này. Đặc biệt là bộ sưu tầm các ấn phẩm báo chí, văn học trong giai đoạn Trăm Hoa Đua Nở và Nhân Văn Giai Phẩm và các văn kiện quan trọng. Những sự kiện xảy ra cùng lúc với cuộc cải cách ruộng đất, đẩy nhiều giới văn nghệ sĩ trí thức miền Bắc vào cảnh tù đầy chỉ vì muốn có tiếng nói đối lập với đảng cộng sản.
Khán giả như rùng mình xúc động khi xem vở kịch ngắn, dựng lại “phiên tòa đấu tố tên địa chủ Trần Bá Cường làng Quát tỉnh Thái Nguyên, 1953” với tiếng phát thanh trên loa dựng lại không khí “loa phường”. Nhiều diễn viên nghiệp dư là hậu duệ của những nạn nhân từng bị đấu tố, cho nên buổi diễn hết sức sống động, đầy cảm xúc. Người xem như được chứng kiến tận mắt những oan trái của phiên xử, khi một người yêu nước, nhân hậu, thương người như ông Trần Bá Cường lại bị vu oan cho những tội danh như giết người, hiếp dâm… Kịch bản nêu lên những thủ thuật của những người cộng sản sử dụng khi dàn dựng những phiên tòa đấu tố: kích động lòng căm thù thông qua sự ganh ghét giai cấp; lợi dụng lòng tham để xúi giục những người nông dân chất phác tham gia đấu tố nạn nhân mà trước đây mình chưa bao giờ thù ghét. Sự tàn ác, dối trá, xấu xí của con người cộng sản đã được khai thác trong màn kịch “tòa án nhân dân đặc biệt” này.
Phần hội thảo về cải cách ruộng đất có bốn diễn giả: Giáo Sư Vũ Tường, GS Alec Holcombe, GS Nguyễn Văn Canh và GS Alex Thái Võ, với sự điều hợp của GS Lan Cao. Mỗi người trình bày một nghiên cứu của mình có liên quan đến cải cách ruộng đất. Nghiên cứu của GS Vũ Tường để trả lời câu hỏi những người lãnh đạo CSVN có thực sự yêu chủ nghĩa cộng sản? Hay họ chỉ yêu nước, theo cộng sản để có được sự giúp đỡ của Nga và Tàu? Đó là luận điểm của những người thiên tả ở Mỹ như Ken Burns khi dựng bộ phim thời sự “The Vietnam War”. Theo GS Tường, lúc đầu những lãnh đạo CSVN như Hồ Chí Minh có thể là những người yêu nước, tin rằng theo phong trào cộng sản quốc tế có thể giúp Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Nhưng rồi, dần dần họ tin vào chủ thuyết này một cách mù quáng, một phần là do sự phụ thuộc tuyệt đối vào sự viện trợ của Nga và Tàu. Trong suốt hơn nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập, đảng CSVN thực hiện nhiều chính sách theo chủ thuyết cộng sản: cải cách ruộng đất, triệt tiêu tiếng nói đối lập, triệt tiêu giai cấp tư sản (đánh tư sản ở Miền Nam sau 1975), ủng hộ phong trào cộng sản quốc tế như đối với Cuba… Đến cuối thập niên 1980s, khi khối cộng sản Đông Âu sụp đổ, đảng CSVN buộc tìm cách đổi mới, đẻ ra khái niệm quái thai “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, thực chất là tạo điều kiện cho tầng lớp tư bản đỏ làm giàu nhanh chóng nhờ vào sự độc quyền chính trị. Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản chỉ là cái cớ để giới lãnh đạo giữ vững vị thế cái trị độc quyền đất nước và người dân Việt Nam, dưới sự kiểm soát ngầm từ trung Cộng.
Giáo sư Holcombe làm mọi người ngạc nhiên khi thuyết trình bằng tiếng Việt, điều mà ông thú nhận là lần đầu tiên làm. Ông nhắc đến tình hình chính trị ở Việt Nam hiện nay vừa có sự chuyển giao quyền lực từ Nguyễn Phú Trọng sang Tô Lâm, rồi liên hệ đến sự chuyển giao quyền lực đầu tiên trong nội bộ đảng CSVN có liên quan đến giai đoạn cải cách ruộng đất: từ bộ tứ Hồ Chí Minh- Trường Chinh- Phạm Văn Đồng-Võ Nguyên Giáp sang cho Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Rạn nứt bắt đầu sau khi phong trào cải cách ruộng đất gây ra những hậu quả thảm khốc. Hồ Chí Minh có nhỏ một vài giọt nước mắt, rồi chọn Trường Chinh làm vật tế thần để cách chức. Vào thời điểm đó, lãnh đạo CSVN bắt đầu chuẩn bị cho chiến trường, do đó cần tìm một lãnh đạo là người trong Nam. Lê Duẩn là nhân vật thích hợp. Lê Đức Thọ cũng được đưa vào vai trò trưởng ban tổ chức trung ương đảng, là những bước chuẩn bị đầu tiên để hai nhân vật này trở thành những người đứng đầu đảng CSVN trong suốt 28 năm sau đó.
GS Nguyễn Văn Canh nói về chủ đề “Đấu Tố & Hình Phạt”, chỉ ra những chiến thuật mà giới lãnh đạo cộng sản để thực hiện những cuộc đấu tố “long trời lở đất”, phá hoại đến tận gốc rễ giá trị đạo đức của thôn làng Việt Nam. Làm sao để những phụ nữ nông dân vốn thật thà, chất phác lại có thể đứng lên đấu tố những người trước đây mình vẫn kính trọng? Kích động căm thù bằng cách khơi dậy sự bất công giữa giai cấp bần nông và địa chủ, giữa người giàu và người nghèo. Khai thác lòng tham lam của con người để dụ dỗ họ làm những điều mà bình thường lương tâm họ không cho phép. Họ dụ người nông dân nếu đấu tố địa chủ thì sau này sẽ được chia đất. Điều trớ trêu là rồi sau đó, số phận người nông dân vẫn trắng tay dưới chế độ cộng sản. Bằng hình thức hợp tác xã nông nghiệp, ruộng đất lại lọt vào tay chính quyền. Đất đai dần dần trở thành “sở hữu toàn dân”, thực chất là do nhóm lãnh đạo chóp bu thao túng, làm giàu cho cá nhân trên tài nguyên của đất nước.
GS Alex Thái sang Mỹ năm 8 tuổi, giải thích lý do vì sao lại quan tâm đến đề tài cải cách ruộng đất. Vì sao anh có mặt ở Mỹ? Câu trả lời gần nhất là vì cha mẹ anh trốn chạy chế độ cộng sản. Nguyên nhân xa hơn một chút là chiến tranh Việt Nam; rồi dần dần đi ngược trở lại đến giai đoạn cải cách ruộng đất và cuộc di cư 1954, bắt đầu với lá thư của La Quý Ba gửi cho Hồ Chí Minh. Anh đưa ra những con số để cho thấy những sai lầm và sự tàn bạo khủng khiếp của cải cách ruộng đất. Một cuộc đấu tố thường huy động dân từ hai đến ba xã; có khoảng 15,000 người tham dự, có cả trẻ em. Chỉ tiêu theo sự hướng dẫn từ La Quí Ba, cố vấn Trung Cộng thời đó, chỉ tiêu là cứ 1,000 thì phải xử tử một người. Cứ một xã là phải tìm cho ra 5% dân số là địa chủ. Một thống kê cho thấy trong 172,000 địa chủ phú nông phân loại gian ác có 123,000 trường hợp oan sai; 26,000 trường hợp tử hình thì khoảng 20,500 là oan sai. Chưa kể nhiều trường hợp chết vì tự tử.
Con số về số người chết trong cải cách ruộng đất được nhiều nguồn đưa ra rất khác nhau. Có nguồn cho là khoảng 600,000. Trong khi đó, các nhóm thân cộng phản chiến ở Mỹ vào thập niên 1970s đưa ra con số chỉ là 2,000. Họ còn cho là những sai lầm chết người trong cải cách ruộng đất là do cán bộ bên dưới thực hiện sai, chứ không phải do lãnh đạo cấp trên chỉ thị! Lý luận này rất giống với những luận điệu thân cộng về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, dân quân làm sai chứ lãnh đạo không hề hay biết!
Cải cách ruộng đất đã làm thay đổi tận gốc rễ làng quê Miền Bắc. Con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, trò đấu tố thầy… Chính quyền kiểm soát chặt chẽ từng nhà dân. Điều này giúp họ dễ dàng huy động quân lính để đưa vào chiến trường miền Nam. Chính quyền vẫn tiếp tục dùng đất đai để làm mồi nhử cho những người nông dân đáng thương. Anh Thái đã xúc động khi nhắc đến một lá thư của một người bộ đội trong chiến trường Miền Nam gởi về cho cha, hỏi rằng ở nhà họ đã phát đất cho gia đình mình chưa!
Ngày thứ hai là hội thảo về đề tài cuộc di cư 1954, còn được gọi là “cuộc bỏ phiếu bằng chân” của những người trốn chạy chủ nghĩa cộng sản đi đến bến bờ tự do. Phần hội thảo được điều hợp bởi TS. Phan Quang Trọng.
Mở đầu, nữ minh tinh điện ảnh Kiều Chinh đọc lại phần hồi ký đầy cảm xúc, khi một thiếu nữ 15 tuổi bất ngờ phải một mình di cư vào Nam, bỏ lại người cha, người anh yêu quí của mình. Theo kế hoạch, cả ba cha con sẽ cùng vào Nam. Thế nhưng trong đêm cuối cùng trước khi rời Hà Nội, người anh quyết định ở lại tham gia kháng chiến. Hôm sau, khi bố đưa con gái ra phi trường. Ra đến máy bay, ông nhấc bổng con mình để đưa vào đoàn người đang chen lấn vào trong, nhưng ông không lên theo. Ông nói vội với con gái rằng con vào Nam trước, bố ở lại tìm anh rồi sẽ vào sau. Cô gái tuổi trăng tròn làm kẻ lưu vong đơn độc ngay trên quê hương, đi đến một nơi xa lạ mà không có một người thân nào bên cạnh…
Nhà văn Trần Phong Vũ kể lại kinh nghiệm di cư của một người Công Giáo. Cả gia đình bên nội và bên ngoại của ông đều di cư vào Nam, vì các họ đạo miền Bắc được các cha giải thích rõ ràng rằng chủ nghĩa cộng sản không thể tồn tại cùng với tôn giáo.
Gs. Phi-Vân Nguyễn qua màn ảnh trực tiếp từ Université de Saint-Boniface đã trình bày nghiên cứu công phu của Bà về khía cạnh quân sự, chỉ ra những chiến lược quân sự của Pháp, so sánh việc quân Pháp rút khỏi Bùi Chu Phát Diệm (trước ĐBP) và rút khỏi miền Bắc (sau Geneva) đã ảnh hưởng như thế nào đến người dân và cuộc di cư.
Gs. Jason Picard (trực tiếp qua màn hình từ VinUniversity) nói về đề tài tái định cư. Ông dùng khu tái định cư Cái Sắn để chứng minh rằng người di cư từ Miền Bắc đã khó khăn, cực khổ như thế nào sống và trải qua giai đoạn đầu khi chính quyền QGVN chưa sẵn sàng để tiếp nhận một số lượng người quá lớn từ Bắc vào, và họ thực sự đã đóng góp lớn lao cho sự phát triển của Miền Nam như thế nào.
Gs. Hoàng Anh Tuấn trình bày về tình hình khó khăn và những giới hạn của cộng đồng Công Giáo ở Bắc Việt trước 1954 dẫn đến cuộc di tản khổng lồ của cộng đồng Công Giáo vào Nam và ảnh hưởng cộng đồng di cư đối với xã hội Miền Nam, đặc biệt là vai trò của người di cư theo Thiên Chúa Giáo, với hình ảnh của các tạp chí công giáo từ Bắc vào Nam là những minh họa sống động.
Gs.Trần Huy Bích tâm tình với khán giả lý do vì sao ông quyết định một mình di cư vào Nam khi chỉ mới 18 tuổi. Ông kể lại câu chuyện người cán bộ tuyên truyền trước dân chúng về sự văn minh tiến bộ của Liên Xô, chế tạo một cái máy bỏ một con lợn vào đầu này, đầu bên kia cho ra các hộp jambon, xúc xích! Sau đó Gs. Bích đã đặt một câu hỏi tưởng chừng vô hại về chữ nghĩa, nhưng lại bị người cán bộ này ghi lại tên để trình lên cấp trên. Trước viễn cảnh cả mạng sống và quyền tự do bị đe dọa, Gs. Bích, chàng trai trẻ 18 tuổi đã quyết định chọn con đường sang bên kia bến bờ tự do của đất nước.
Nhiều khán giả đặt câu hỏi về vấn đề làm sao để nội dung của hai buổi hội thảo này đến với những người đang sống ở Việt Nam, cũng như giới trẻ gốc Việt đang sinh sống ở Mỹ? Làm sao để đưa những nội dung này vào trường học cho các em học sinh gốc Việt? Ban tổ chức nói rằng đó cũng là mục đích của công trình này, nhằm đưa sự thật lịch sử đến với tất cả mọi người trên khắp thế giới, người Mỹ cũng như người Việt, ở hải ngoại cũng như ở Việt Nam… Buổi hội thảo được truyền hình trực tiếp trên mạng xã hội, người Việt khắp nơi trên thế giới đều có thể theo dõi. Gs Vũ Tường, Alex Thái cũng nhắc đến những kế hoạch tạo ra những buổi thuyết trình về đề tài này tại các trường học có nhiều học sinh gốc Việt vùng Little Saigon và những nơi khác. Ban tổ chức kêu gọi cộng đồng hãy ủng hộ bằng cách tham gia và hỗ trợ cho những sinh hoạt lịch sử tương tự trong tương lai.
Thông điệp mà ban tổ chức nhắc lại nhiều lần trong hai ngày triển lãm và hội thảo: đừng để người khác viết lại, bóp méo lịch sử của chính mình. Nếu những người Việt tị nạn không làm gì cả, sự thật lịch sử của chúng ta sẽ bị đánh tráo. Gìn giữ lịch sử không phải để hoài vọng quá khứ, mà là cho hiện tại và tương lai.
Cải cách Ruộng đất, lịch sử đẫm máu trong sự hờ hững hiện đại
Joaquin Nguyễn Hòa
Gửi tới BBC News Tiếng Việt từ San Jose, California, Hoa Kỳ
Chính quyền Việt Nam dù đã thừa nhận sai lầm của Cải cách Ruộng đất nhưng vẫn che giấu phần lớn sự thật lịch sử. Ở hải ngoại, đang có nhiều nỗ lực để đưa những trang sử bị chôn vùi này đến với các thế hệ công chúng người Việt.
Trong hai ngày 17 và 18 tháng 8/2024, tại Bảo tàng Bowers, thành phố Santa Ana, miền Nam California (Mỹ) đã diễn ra hội thảo mang tên: Cải cách Ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam và Di cư 1954, hai sự kiện thay đổi lịch sử Việt Nam hiện đại (North Vietnam’s Land Reform and the 1954 Exodus: Two Life-changing Events in Modern Vietnamese History).
Triển lãm và hội thảo này do Bảo tàng Di sản người Việt (Vietnamese Heritage Museum), Trung tâm Việt Nam Trường đại học Texas Tech và Trung tâm Việt Mỹ Trường đại học Oregon đồng tổ chức.
BBC News Tiếng Việt đã có bài viết về sự kiện này của tác giả Bùi Văn Phú.
Soi rọi một lịch sử đẫm máu bị chôn giấu
Người thực hiện phần lớn nội dung cuộc triển lãm và hội thảo này là Giáo sư Alex-Thái Võ từ Trung tâm Việt Nam, Đại học Texas Tech.
Điều đặc biệt trong nghiên cứu về cải cách ruộng đất của giáo sư Alex-Thái Võ là các kết luận được được rút ra từ chính tài liệu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc Việt Nam), trong đó có tập hợp các văn kiện Đảng dài hàng ngàn trang.
Chính trong các tài liệu văn kiện Đảng này mà ông đã phát hiện ra lá thư của viên cố vấn Trung Quốc La Quý Ba, người cố vấn cho Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn 1951-1976) về Cải cách Ruộng đất.
Ông Alex-Thái Võ cũng có trong tay một bức thư, trong đó người bộ đội miền Bắc ở chiến trường hỏi gia đình mình có được chia đất hay chưa. Tức là Cải cách Ruộng đất cũng được sử dụng để khuyến khích thanh niên nông dân ở miền Bắc đăng lính.
Điều này cũng từng được nhắc tới trong một hồi ký của đại tướng Võ Nguyên Giáp về trận đánh Điện Biên Phủ (Những năm tháng không thể nào quên), trong đó ông có ghi lại sự sung sướng của người bộ đội, đang ở chiến trường và nghĩ về gia đình mình đang được chia ruộng đất ở hậu phương. Cải cách Ruộng đất đã được Đảng Lao động Việt Nam thực hiện trong các vùng đất do họ kiểm soát trong thời kháng chiến chống Pháp.
Theo nghiên cứu của Giáo sư Alex-Thái Võ, số người bị giết trong Cải cách Ruộng đất là hơn 170.000 người, trong đó có hơn 70% bị “nâng thành phần” lên thành “địa chủ cường hào ác bá”.
Ông Alex-Thái Võ nói với tôi rằng vào năm 1956, chính quyền miền Bắc đã công nhận có nhiều sai lầm trong Cải cách Ruộng đất, nhưng Đảng Cộng sản vẫn cho rằng việc phát động cải cách ruộng đất là đúng.
Theo ông, việc nhìn nhận sai lầm lúc đó là để đối phó với tình hình hỗn loạn của khối cộng sản, vào thời điểm có sự phê phán của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushchev đối với sự sùng bái cá nhân Joseph Stalin, phong trào nổi dậy của công nhân và trí thức tại Ba Lan và Hungary, chiến dịch Trăm hoa đua nở tại Trung Quốc…
Sự tiếp nhận của công chúng
Vào tháng 9 năm 2014, Bảo tàng lịch sử quốc gia của Việt Nam có tổ chức Triển lãm Cải cách Ruộng đất 1946-1957.
Báo chí trong nước thoạt tiên hoan nghênh việc tổ chức cuộc triển lãm.
Tờ VnExpress gọi thời kỳ Cải cách Ruộng đất là “một giai đoạn bi thương và xáo trộn, trong bài có nhan đề Khoảng lặng bên trong triển lãm Cải cách Ruộng đất.
Tờ Tuổi Trẻ đăng bài Triển lãm Cải cách Ruộng đất: Cần sòng phẳng với lịch sử.
Cuộc triển lãm được dự định kéo dài đến hết năm đó, nhưng chỉ sau 4 ngày mở cửa đã đóng cửa, viện lý do kỹ thuật và không mở cửa trở lại.
Cuộc triển lãm ấy có bốn chủ đề: Chủ trương, Thực hiện, Sai lầm và Thắng lợi. Tuy nhiên, chủ đề Sai lầm chỉ được nói thoáng qua. Báo Tuổi Trẻ trích lời ông Nguyễn Thủy Chung, cháu nội bà Nguyễn Thị Năm, người có công lớn với Đảng Cộng sản nhưng bị đem ra đấu tố và xử bắn đầu tiên. Ông Chung nói: “…Nội dung thứ ba (Sai lầm) quá khiêm tốn, nhạt nhòa.”
Điểm qua các bài báo được viết trong những ngày đó ở Việt Nam, thì những người đến xem và được trích lời đều là những người lớn tuổi.
Trong các tài liệu được trưng bày tại cuộc triển lãm ở Santa Ana, có cả một số tác phẩm về cải cách ruộng đất do các tác giả trong nước viết và xuất bản trong nước, như Tô Hoài, Tạ Duy Anh, Phan Thúy Hà.
Ông Tô Hoài (1920-2014), một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam thời cận đại, tác giả tác phẩm Ba người khác, kể lại câu chuyện của chính ông, một cán bộ của Đảng thực hiện Cải cách Ruộng đất. Quyển sách này được ông viết vào năm 1992, nhưng đến năm 2006 mới được xuất bản.
Đáng chú ý là hiện nay có một tác giả trẻ tuổi trong nước là Phan Thúy Hà (sinh năm 1979), với tác phẩm Gia đình, kể lại những chuyện thật mà cô hỏi những nhân chứng còn sống, hoặc con cháu của những nhân chứng, về những gì xảy ra thời kỳ cải cách ruộng đất.
Tuy nhiên, giáo sư Alex-Thái Võ nói với tôi rằng giới trẻ trong nước hiểu biết rất sơ sài về Cải cách Ruộng đất.
Điều này có lẽ cũng dễ hiểu, vì trong thời gian đằng đẳng 70 năm qua, Cải cách Ruộng đất chỉ được công khai nói với dân chúng trong duy nhất một cuộc triển lãm, bị dẹp bỏ ngay sau bốn ngày. Sách giáo khoa lịch sử trong nước, nếu có đề cập đến Cải cách Ruộng đất, thì chỉ vỏn vẹn một vài dòng, như: “Có một số sai lầm khi tiến hành cải cách.” Tối giản đến mức tối nghĩa.
Trong cuộc hội thảo tại Santa Ana, California, hai ngày 17 và 18/8/2024, có câu hỏi rằng làm thế nào để người Việt trẻ tuổi trong nước biết được về câu chuyện Cải cách Ruộng đất 70 năm trước. Ông Châu Thụy, Giám đốc Bảo tàng di sản người Việt, nói rằng hoạt động hội thảo được truyền trực tiếp trên mạng xã hội.
Nhưng còn công chúng người Việt hải ngoại, người Việt ngay tại Little Saigon, miền Nam California, nơi không có sự kiểm duyệt gì cả, thì thế nào?
Quan sát số người đến xem triển lãm và vào nghe hội thảo tại Santa Ana, tôi thấy có khoảng 150 lượt người đến, và rằng dù số người trẻ tuổi có đông hơn so với các sinh hoạt hội đoàn thường thấy, nhưng vẫn là rất ít so với số người ở độ 60 tuổi trở lên.
Họa sĩ Ann Phong có nêu một câu hỏi là làm thế nào để đưa những kiến thức lịch sử như thời kỳ Cải cách Ruộng đất và Di cư 1954 vào chương trình học cho các em nhỏ người Việt lớn lên ở Mỹ. Bà được trả lời là người Việt tại các khu học chánh đang cố gắng làm điều đó.
Trong vài năm gần đây, các giáo sư Vũ Tường, Alex-Thái Võ, cùng các đồng nghiệp trẻ, là những người Mỹ gốc Việt nghiên cứu về Việt Nam, đã có nhiều cố gắng, liên tục tổ chức các cuộc hội thảo về Việt Nam, Chiến tranh Việt Nam, về Việt Nam Cộng hòa,… và mới nhất chính là cuộc triển lãm và hội thảo tại Santa Ana, nhằm mục đích truyền lại những kiến thức lịch sử ấy cho thế hệ trẻ lớn lên ở Mỹ. Bước đầu đã có một số thành công nhỏ, như đưa được vài chương trình về người Mỹ gốc Việt vào các học khu miền Nam California, xuất bản được một số sách.
Nhưng có lẽ khó khăn vẫn còn rất lớn. Nguyên nhân của những khó khăn này có thể có nhiều, chẳng hạn như là khoảng cách thế hệ với văn hóa khác nhau. Những người Việt lớn lên ở Mỹ có những lo lắng, quan tâm khác về nước Mỹ, chứ không phải Việt Nam, huống hồ gì là lịch sử Việt Nam. Những người trẻ ấy sống trong một khung cảnh hoàn toàn khác với không gian ký ức mà cha ông họ vẫn đang sống trong đó, dù đang ở Mỹ.
Một người dự hội thảo cho biết rằng gia đình ông đã trải qua cuộc di cư vào Nam vào năm 1954, và sau đó chính ông lại bỏ chạy sang Mỹ. Tuy nhiên, khi ông nói với các con ông về Việt Nam Cộng hòa thì họ rất thờ ơ, tệ hơn nữa khi ông nói về quân đội Việt Nam Cộng hòa thì họ lắc đầu ngao ngán. Ông hy vọng câu chuyện về Cải cách Ruộng đất và những cuộc di cư khổ ải đó sẽ làm cho những người Việt trẻ tuổi hiểu rõ lịch sử hơn, xuất phát từ tình yêu thương gia đình.
Trong hai ngày hội thảo, vào dịp cuối tuần tại Santa Ana, nơi được xem là thủ đô của người Việt hải ngoại, với rất đông người Việt đảm nhận các chức vụ dân cử từ khu học chánh, thị trưởng, hội đồng thành phố, cho tới nghị sĩ tiểu bang California, nhưng tôi không thấy có vị dân cử nào đến dự. Không rõ tôi có bỏ sót không, hay là họ đến tham dự nhưng quá im lặng?!
Tại cuộc triển lãm ở Việt Nam vào năm 2014, ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia, nói với báo Tuổi Trẻ rằng: “Có những mất mát không thể nào bù đắp và trở thành nỗi đau kéo dài rất lâu. Và những giá trị bài học ấy luôn có tính thời sự.”
Trong buổi sáng ngày thứ hai của cuộc hội thảo tại Santa Ana vào năm 2024, sau khi sơ lược về cuộc di cư của gần một triệu người miền Bắc vào Nam năm 1954, ông Alex-Thái Võ nói rằng không ngờ là sau đó, vào năm 1975, lại có một cuộc di cư thứ hai, lần này tàn khốc hơn.
Ông xúc động mạnh khi nói điều đó và kết luận rằng mục đích của các nhà nghiên cứu như ông, khi trình bày lại lịch sử không phải là để kích động sự hận thù, mà để nhìn rõ lịch sử, như những gì thật sự đã xảy ra.
Cải cách Ruộng đất và sự thay thế bộ tứ lãnh đạo Việt Nam
Giáo sư Alec Holcombe
Đại học Ohio, Hoa Kỳ
Cải cách Ruộng đất xảy ra trong bối cảnh nào? Tại sao bộ tứ lãnh đạo Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp lại dần bị giải thể, cùng với đó là sự trỗi dậy của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ?
Việt Nam vừa trải qua một cuộc chuyển giao quyền lực. Vào ngày 19/7, vị tổng bí thư lâu năm của Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng qua đời. Ông Trọng đã già yếu, nên trong một thời gian dài, có rất nhiều suy đoán về việc ai sẽ kế nhiệm ông làm lãnh đạo Đảng.
Như thường lệ đã xảy ra nhiều lần dưới chế độ cộng sản, không rõ việc chuyển giao quyền lực thực sự diễn ra như thế nào. Đã có các cuộc thảo luận không chính thức trên khắp các diễn đàn về những phe phái quyền lực khác nhau trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Tuy nhiên, cuối cùng chúng ta vẫn không biết rõ làm thế nào mà ông Tô Lâm lại trở thành người quyền lực nhất.
Trong bài viết này, tôi muốn quay ngược đồng hồ về một quá trình chuyển giao quyền lực quan trọng của giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam trong quá khứ. Cuộc chuyển giao quyền lực đó chứng kiến sự giải thể dần dần bộ tứ lãnh đạo: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp trong khoảng thời gian ba năm từ 1956 đến 1959.
Bốn người này đã thành lập một trong những nhóm lãnh đạo Đảng mạch lạc và hiệu quả nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản. Họ đã lãnh đạo Đảng kéo dài từ năm 1941, khi Hồ Chí Minh chính thức hội nhập trở lại phong trào Cộng sản Việt Nam.
Nhưng mười lăm năm sau, vào năm 1956, một phản ứng dây chuyền xảy ra, chỉ trong vài năm đã dọn đường cho sự trỗi dậy của hai lãnh đạo khác là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Hai người họ sẽ lãnh đạo Đảng trong 27 năm tiếp theo.
Tại sao và làm thế nào việc chuyển giao quyền lực đó diễn ra?
Một số cách giải thích
Lời giải thích điển hình thường có hai phần.
Phần đầu tiên tập trung vào chiến dịch Cải cách Ruộng đất đầy bạo lực được thực hiện từ năm 1953 đến năm 1956 ở miền Bắc Việt Nam. Theo lý thuyết đó, những lãnh đạo Đảng gắn bó chặt chẽ nhất với Cải cách Ruộng đất đều phải bị kỷ luật vì đã để cuộc cải cách diễn ra một cách “thái quá”. Khi Hồ Chí Minh “biết được” những điều xấu xảy ra trong chiến dịch, “Người” đã can thiệp và kỷ luật những người có trách nhiệm.
Có nhiều người nhận án kỷ luật, ở đây tôi chủ yếu nói về Tổng Bí thư Trường Chinh, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Văn Lương và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Hoàng Quốc Việt.
Khi Trường Chinh bị buộc phải từ chức Tổng Bí thư, Hồ Chí Minh đã lên thay chức vụ của Trường Chinh và chính thức nắm giữ trong 4 năm tiếp theo. Trong khi đó, ông Hồ chắc chắn đã quyết định để Lê Đức Thọ thay Lê Văn Lương làm Trưởng Ban Tổ chức trung ương Đảng. Đó là một vị trí quan trọng để giành quyền lực vì Lê Đức Thọ có ảnh hưởng lớn đến việc ai được đề bạt vào chức vụ cấp cao nào trong Đảng.
Phần thứ hai của cách giải thích tập trung vào yếu tố địa lý. Hồ Chí Minh biết chiến trường lớn tiếp theo của Đảng là miền Nam Việt Nam nên muốn đưa người có kinh nghiệm hoạt động ở miền Nam, nói cách khác là “người từ Nam ra” lên làm lãnh đạo. Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phù hợp với yêu cầu đó.
Trong bài viết này, tôi sẽ đưa ra một vài ý kiến khác với cách giải thích trên.
Tôi sẽ lập luận rằng Cải cách Ruộng đất (1953-1956) là điều kiện quan trọng dẫn tới sự chuyển giao quyền lực này nhưng nguyên nhân thực sự của sự thay đổi là do Đại hội lần thứ 20 của Liên Xô.
Đại hội 20 diễn ra vào tháng 2 năm 1956. Đấy là dịp nhà lãnh đạo tương đối mới của Liên Xô Nikita Khrushchev đọc “Diễn văn bí mật” huyền thoại của mình. Trong bài phát biểu nhan đề “Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó”, Khrushchev đã dành hơn ba giờ để thảo luận về triều đại 28 năm tàn bạo của Joseph Stalin. Đại hội lần thứ 20 cũng chứng kiến sự tiến bộ khi đưa ra ba đường lối chủ đạo dành cho các đảng cộng sản anh em trên khắp thế giới: 1) Chống sùng bái cá nhân 2) Tăng cường dân chủ trong đảng, 3) Áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Đối với các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam, bối cảnh diễn ra Đại hội 20 – đầu năm 1956, tức là ngay giữa làn sóng cải cách ruộng đất lớn nhất – là một bối cảnh đặc biệt tồi tệ.
Cần khẳng định Cải cách Ruộng đất là một chính sách trong phong trào Cộng sản Việt Nam. Nhiều tài liệu (phần lớn nằm trong bộ Văn kiện đại hội Đảng toàn tập) cho thấy Cải cách Ruộng đất – chính sách cưỡng chế, tịch thu, chia lại ruộng đất để giành sự ủng hộ của nông dân – là khát vọng tiêu biểu của Cộng sản Việt Nam trong suốt phong trào của họ những năm 1920 và 1930. Vấn đề không phải là Đảng có thực hiện Cải cách Ruộng đất hay không mà là khi nào sẽ thực hiện và Đảng sẽ dùng nó làm mục đích tuyên truyền để lôi kéo giai cấp nông dân thế nào.
Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa Lenin chính thống ở chỗ ông tin tưởng mạnh mẽ vào công thức cách mạng hai giai đoạn của Lenin đối với các nước thuộc địa. Cách tiếp cận hai giai đoạn đó cho rằng Đảng Cộng sản trước tiên nên tập trung sức lực vào việc chống lại và tiêu diệt quyền lực thực dân. Để đạt được mục đích đó, những người Cộng sản nên sử dụng lý tưởng của chủ nghĩa dân tộc để chiêu mộ giai cấp tư sản bản địa yêu nước vào sự nghiệp chống thực dân. Đây là giai đoạn chống đế quốc.
Sau khi chính quyền thực dân bị đánh đuổi, người cộng sản sẽ bắt đầu giai đoạn thứ hai. Đó là giai đoạn chống phong kiến, phản tư sản, khi Đảng giám sát đấu tranh giai cấp trong nước, giúp đỡ nông dân và công nhân lật đổ giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp tư sản bản địa.
Khi Hồ Chí Minh trở lại châu Á vào năm 1938 và dần dần tái khẳng định mình là người lãnh đạo phong trào Cộng sản Việt Nam, ông đã tổ chức Đại hội Đảng vào năm 1941. Hồ Chí Minh điều chỉnh cương lĩnh của Đảng theo hướng chủ trương cách mạng phù hợp hơn với công thức hai giai đoạn của Lenin. Do đó, ông đã chỉ đạo các đồng chí của mình như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng loại bỏ hầu hết những đề cập đến đấu tranh giai cấp khi tuyên truyền về Mặt trận Việt Minh cho dân chúng.
Về cơ bản, ông đã chỉ đạo đồng chí của mình bám sát các khẩu hiệu dân tộc chủ nghĩa cùng một số lý tưởng xã hội tiến bộ cơ bản. Những chính sách và mục tiêu khác vẫn chưa bị bỏ rơi, chỉ là chúng không phù hợp với tình hình lúc đó, khi Việt Nam cần tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Bài toán lương thực
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chính thức bắt đầu vào tháng 12 năm 1946 khi giới lãnh đạo Cộng sản rời Hà Nội rồi mở cuộc tấn công vào các đơn vị Pháp ở thủ đô và những vùng xung quanh tại miền Bắc. Người Pháp không có đủ binh lính để giành quyền kiểm soát toàn bộ Việt Nam một cách hiệu quả. Phần lớn miền Trung và Tây Bắc bị người Pháp bỏ lại. Đây trở thành những khu vực mà Cộng sản sẽ hoạt động để thành lập bộ máy nhà nước của họ.
Các tài liệu mà tôi nghiên cứu về giai đoạn này cho thấy, tại các vùng do nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, lãnh đạo Đảng rất cần sự đóng góp về lương thực, lao động và binh lính. Trong ba thứ đó, lãnh đạo Đảng gặp khó khăn nhất là vấn đề làm sao để có được gạo.
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần một lượng lớn gạo để nuôi các quan chức và quân đội ngày càng tăng của mình. Khi chiến tranh tiếp diễn, nhu cầu về gạo ngày càng tăng và nhiệm vụ thu mua gạo ngày càng khó khăn.
Để giải quyết vấn đề này, những người Cộng sản đã đưa ra đủ loại biện pháp nhằm kích thích tăng sản lượng nông nghiệp. Họ thử nghiệm các chiến dịch thi đua yêu nước – mọi người phải cùng nhau ra đồng và thách thức nhau làm việc chăm chỉ hơn. Họ cố gắng thuyết phục các lãnh đạo Đảng ở địa phương đưa ra một loại hợp đồng nông nghiệp với nông dân địa phương. Về cơ bản, nông dân sẽ nộp kế hoạch canh tác và sau đó ký tên đồng ý sản xuất một số lượng gạo nhất định. Họ cũng chia lại cho nông dân đất đai thu được từ giới thượng lưu đã trốn khỏi nông thôn lên thành phố.
Tuy nhiên, đất đai không hoàn toàn được trao cho nông dân. Nó chỉ được tạm thời trao cho họ và với điều kiện là phần lớn sản lượng canh tác phải được chuyển cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều nông dân phản đối rằng sản lượng từ mảnh đất được chia này không đủ lớn để trang trải chi phí canh tác và đóng thuế nặng nề.
Cuối cùng, đối với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không có biện pháp nào trong số này giải quyết được vấn đề làm thế nào để huy động đủ lượng gạo đóng góp cho chiến tranh.
Năm 1949, triển vọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong cuộc chiến đã được nâng cao đáng kể nhờ chiến thắng của phe Cộng sản Trung Quốc (trong Nội chiến Quốc-Cộng) và sau đó là việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức được Trung Quốc, rồi Liên Xô và các nước khối Cộng sản khác, công nhận. Stalin quyết định rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ được cố vấn bởi Trung Quốc, nước sẽ điều phối việc cung cấp vũ khí của Liên Xô và Trung Quốc cho quân Bắc Việt.
Ngay sau đó, các nhóm cố vấn Trung Quốc đã đến cùng với số lượng lớn vũ khí. Không có gì ngạc nhiên khi nhóm cố vấn Trung Quốc kỳ vọng sẽ có quyền kiểm soát lớn đối với các hoạt động của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hồ Chí Minh có lẽ cảm thấy rằng ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc chiều theo những cố vấn kiểm soát viện trợ đó.
Số vũ khí viện trợ lần đầu tiên được đưa vào sử dụng trong Chiến dịch biên giới thu đông (1950). Trận chiến là một chiến thắng vang dội của quân Hồ Chí Minh và khiến quân Pháp rơi vào khủng hoảng tinh thần. Nhưng sau đó, trong khoảng một năm rưỡi, quân của ông Hồ đã bế tắc với quân Pháp và đồng minh tại những vùng do nhà nước Việt Nam cai quản.
Đồng thời, tình hình kinh tế ở các khu vực do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát tiếp tục xấu đi. Chính quyền đã trở nên cực kỳ khó khăn trong việc huy động sự đóng góp vật chất bằng gạo và các thực phẩm cần thiết để nuôi sống năm sư đoàn bộ binh. Và cố vấn La Quý Ba của Trung Quốc đã gây áp lực buộc lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải sử dụng cải cách ruộng đất để giải quyết các vấn đề lương thực.
Tôi nghĩ Hồ Chí Minh có niềm tin thực sự rằng cần phải tuân theo công thức hai giai đoạn chính thống của chủ nghĩa Lenin, rằng cải cách ruộng đất nên được hoãn lại cho đến sau khi chiến tranh kết thúc. Vì vậy, tôi nghi ngờ rằng ông Hồ đã thất vọng khi ông tới Moscow vào cuối năm 1952 và Stalin cũng nói với ông rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải tiến hành cải cách ruộng đất.
Thế là, với mong muốn có thêm viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã đồng ý thực hiện chương trình cải cách ruộng đất của La Quý Ba ngay trong chiến tranh, phản lại hai bước của Lenin.
Vở kịch kinh hoàng
Sau nhiều năm suy nghĩ về Cải cách Ruộng đất, tôi thấy chiến dịch này giống như một màn trình diễn kinh hoàng do nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp đặt lên toàn bộ người dân nông thôn. Đó là chương trình yêu cầu mọi người trong cộng đồng phải đóng một vai trò nào đó. Để vở kịch có hiệu quả, mỗi làng phải có đủ số đối tượng để tố cáo và trừng phạt. Nói cách khác, phải có đủ số lượng “nhân vật” địa chủ.
Thực tế ở nông thôn Việt Nam không có nhiều người đủ tiêu chuẩn “làm địa chủ”.
Trong nghiên cứu của mình, tôi tìm thấy một cuộc điều tra dân số được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào năm 1951, khoảng một năm rưỡi trước khi bắt đầu Cải cách Ruộng đất. Cuộc điều tra dân số được thực hiện tại hai xã thuộc tỉnh Nghệ An. Số địa chủ ở hai xã điển hình đó chỉ chiếm 0,3% dân số. Trong khi các nhà lãnh đạo Bắc Việt đặt ra hạn mức địa chủ là 5,68% dân số và gây đủ mọi áp lực lên các cán bộ thực hiện Cải cách Ruộng đất để đảm bảo rằng họ tìm được đủ số lượng địa chủ, để chương trình diễn ra như kế hoạch.
Sự kết thúc của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất gây ra hai khó khăn cho cuộc Cải cách Ruộng đất.
Thứ nhất, Hiệp định Genève rõ ràng cấm cả hai bên thực hiện hành vi trả thù người dân trên lãnh thổ của họ.
Thứ hai, Hiệp định tuyên bố rằng, trong thời hạn 300 ngày, về cơ bản, từ mùa hè năm 1954 cho đến mùa xuân năm 1955, bất kỳ người dân nào ở Việt Nam đều được tự do di chuyển đến khu vực Bắc hay Nam tùy theo lựa chọn của mình.
Để tiếp tục Cải cách Ruộng đất mà không bị gắn mác vi phạm Hiệp định Genève, các nhà lãnh đạo Đảng đã chuyển chiến dịch sang các vùng xa bờ biển hơn, nơi người dân khó trốn vào Nam hơn. Họ cũng điều chỉnh ngôn ngữ chính thức của chiến dịch để nó không trực tiếp nhắm vào những người được xem là chống cộng.
Các nhà lãnh đạo Đảng đã tổ chức Cải cách Ruộng đất thành 5 đợt liên tiếp với quy mô càng ngày càng lớn, đợt sau lại lớn hơn tất cả các đợt trước gộp lại. Điều này có nghĩa là làn sóng thứ năm và cũng là làn sóng cuối cùng, diễn ra từ tháng 1 năm 1956 cho đến mùa hè năm đó, là thời kỳ có số lượng người dân trải qua Cải cách Ruộng đất lớn nhất.
Làn sóng cuối cùng rộng lớn này trùng với Đại hội lần thứ 20 của Liên Xô, được tổ chức từ ngày 14 đến ngày 25 tháng 2 năm 1956.
Trường Chinh ‘bị tế thần’
Hồ Chí Minh quyết định cử Tổng Bí thư Trường Chinh và Ủy viên Bộ Chính trị Lê Đức Thọ dự Đại hội 20. Họ lên đường đến Moscow vào đầu tháng 2 năm 1956. Nói cách khác, Trường Chinh không phải là công cụ quan trọng thực hiện Cải cách Ruộng đất đến mức cần thiết phải ở lại để lãnh đạo chiến dịch khổng lồ khi hơn một nửa dân số miền Bắc bị tiến hành cải cách. Chi tiết này đặt ra câu hỏi về mức độ trách nhiệm sau này của Trường Chinh đối với những “sai lầm” được cho là của chiến dịch.
Tại Đại hội 20, vào tối muộn ngày 24 tháng 2, Khrushchev đã đọc “Diễn văn bí mật” huyền thoại tố cáo tội ác của Stalin. Về cơ bản, mọi điều tồi tệ mà các nước tư bản nói về Stalin – rằng ông là nhà độc tài phù phiếm, hoang tưởng và độc ác – đều được Khrushchev khẳng định.
Đối với Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng Việt Nam khác, có ba khía cạnh đặc biệt đáng lo ngại trong “Diễn văn bí mật”.
Đầu tiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rõ ràng đã có sự sùng bái cá nhân toàn diện, điều này là trái ngược với tư tưởng của Marx và Lenin.
Thứ hai, các nhà lãnh đạo Đảng tại Việt Nam lúc bấy giờ đã tự do phát huy vai trò lãnh đạo vĩ đại của chính mình. Áp dụng vào “Diễn văn bí mật”, họ trông giống như các nhà độc tài hoang tưởng, kẻ giết người, kẻ vụng về tai hại trong những ngày đầu của Thế chiến II.
Thứ ba, “sự vi phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa” của Stalin mà Khrushchev mô tả cũng tương tự như những thực tiễn mà các lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam khi đó đã áp dụng trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất. Đó là thúc đẩy quan điểm cho rằng “kẻ thù” rình rập trong mọi cộng đồng, ép buộc nhận tội thông qua đe dọa và tra tấn, từ bỏ những thủ tục tư pháp thông thường và gây áp lực chính thức lên các tòa án Cải cách Ruộng đất để đưa ra các bản án có tội nhanh chóng.
Những thực tế trên đi ngược lại với ba khẩu hiệu mà Khrushchev đã đưa ra để làm kim chỉ nam cho chính sách của khối cộng sản: 1) Không sùng bái cá nhân, 2) Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, 3) Tăng cường dân chủ trong đảng.
Hàng ngàn bản sao “Diễn văn bí mật” của Khrushchev đã được cung cấp cho các chi bộ cộng sản trên khắp Liên Xô và cả cho đại diện các đảng cộng sản anh em tại Đại hội, trong đó có Trường Chinh và Lê Đức Thọ.
Tình hình này gây ra đủ loại bất ổn trong giới lãnh đạo Đảng tại Việt Nam. “Diễn văn bí mật” về mặt lý thuyết được cho là “bí mật”, điều đó khiến các nhà lãnh đạo Đảng có cớ để không nói gì về nó trong một thời gian. Thật không may cho họ, tin tức về nội dung “Diễn văn bí mật” đã nhanh chóng bị rò rỉ ra thế giới không Cộng sản. Báo chí Việt Nam Cộng hòa đã có vài ngày sục sôi với sự kiện này.
Trong khi đó, cuộc Cải cách Ruộng đất đang đi những bước cuối cùng, khi làn sóng khổng lồ của chiến dịch được tiến hành. Sự lục đục, thiếu nhất quán của giới lãnh đạo Đảng năm 1956 đã khiến họ chần chừ một chút trước sự xuất hiện của một vài ấn phẩm độc lập, trong đó nổi tiếng nhất là tờ Nhân văn và tạp chí văn học Giai phẩm. Hồ Chí Minh và các thành viên Bộ Chính trị hẳn đã cảm thấy rằng việc đàn áp các tạp chí định kỳ đó có thể bị nhóm cố vấn Liên Xô giải thích là coi thường các chính sách hiện hành của Moscow.
Tại thời điểm nhạy cảm này, các nhà lãnh đạo Đảng đã cho phép một điều gì đó giống như một cuộc thảo luận thực sự về Cải cách Ruộng đất diễn ra. Nói cách khác, lãnh đạo Đảng đã mất quyền kiểm soát thông tin tuyên truyền và không thể tiếp tục giả vờ rằng mọi việc đều ổn.
Vào cuối tháng 10, Hồ Chí Minh đã quyết định rằng cần phải có một số nỗ lực để trấn an công chúng và cứu vãn danh tiếng của ban lãnh đạo Đảng. Do đó, “một câu chuyện” đã được tạo ra, trong đó Ủy ban Cải cách Ruộng đất được miêu tả giống như một cơ quan chính phủ lừa đảo. Và Trường Chinh, với tư cách là tổng bí thư, phải chịu trách nhiệm nặng nề về bạo lực và bất công của chiến dịch. Điều này xảy ra bất chấp thực tế là ông Chinh đã ở Liên Xô để dự Đại hội 20 trong một tháng, cùng thời gian diễn ra đợt cải cách quan trọng và bi thảm nhất của chiến dịch.
Để tránh xa hệ lụy không hay từ Cải cách Ruộng đất, Hồ Chí Minh tuyên bố sẽ giữ chức vụ tổng bí thư, sau khi lôi Trường Chinh ra làm con dê tế thần. Hàm ý là “tôi đây rồi, tôi đã là tổng bí thư rồi, tôi sẽ giải quyết vấn đề, đừng lo, mọi chuyện sẽ ổn thôi”.
Đó là vết nứt lớn đầu tiên trong bộ tứ.
Nhân tố Lê Duẩn
Trong suốt năm 1957, Hồ Chí Minh quyết định phát huy sự lãnh đạo của Lê Duẩn, người có lợi thế là có mối liên hệ với nửa phía Nam của đất nước, nơi sẽ diễn ra cuộc đại chiến tiếp theo.
Trong khoảng thời gian từ 1957 đến 1958, Lê Duẩn đã có những bước đi vững chắc để tập trung quyền lực vào tay và hóa giải các mối đe dọa. Chẳng hạn, Võ Nguyên Giáp là người có uy tín và được nhiều người biết đến, một “nguy cơ” cho con đường chính trị của Lê Duẩn. Suốt những năm sau đó, Lê Duẩn đã theo đuổi Giáp bằng nhiều cách khác nhau để đảm bảo rằng ông không nắm được quyền lãnh đạo Đảng. Và Lê Duẩn dường như cũng đã làm giảm bớt ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Với Phạm Văn Đồng, người rõ ràng có tính cách mềm mỏng, đã không bị Lê Duẩn coi là mối đe dọa nghiêm trọng nên được giữ lại làm thủ tướng.
Như vậy, nhìn vào quá trình chuyển giao quyền lực của bộ tứ Cộng sản cuối năm 1956, thì “Diễn văn bí mật” của Khrushchev và các chính sách kèm theo của Liên Xô đã tạo điều kiện để một sự kiện lớn như Cải cách Ruộng đất có thể trở thành động lực cho thay đổi.
Trong một vài tháng, các nhà lãnh đạo Đảng đã mất quyền kiểm soát câu chuyện mà họ định tuyên truyền về Cải cách Ruộng đất và do đó buộc phải thực hiện một số nỗ lực để bù lại sự tàn phá mà nó đã gây ra.
Nếu không có “Diễn văn bí mật”, tôi tin rằng Trường Chinh sẽ tiếp tục làm Tổng bí thư Đảng và có thể trở thành nhà lãnh đạo số một của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi tuổi tác và sức khỏe buộc Hồ Chí Minh phải rút lui.
Di sản quan trọng của “Diễn văn bí mật” là chỉ ra những mối nguy hiểm liên quan đến tệ sùng bái cá nhân. Việc Khrushchev dỡ bỏ giáo phái Stalin đã gây ra làn sóng chấn động trong khối cộng sản và dẫn đến những thay đổi ở Ba Lan và Hungary.
Trong suốt lịch sử, các nhà lãnh đạo Đảng ở Việt Nam chưa bao giờ nghiêm túc xem xét việc từ bỏ “đạo” Hồ Chí Minh. Tôi tin rằng họ biết được mối nguy hiểm tiềm ẩn đối với chế độ của họ nếu từ bỏ nó. Ở thời điểm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 ấy, mặc dù Lê Duẩn và Lê Đức Thọ có lẽ đã gạt ông Hồ ra ngoài lề trong nhiều vấn đề đại sự, nhưng họ vẫn cẩn thận duy trì sự sùng bái “Bác”. Có thể nói, họ đã củng cố một truyền thống quan trọng về bảo tồn tín ngưỡng sùng bái cá nhân mà chúng ta vẫn thấy ở Việt Nam ngày nay.
- Tác giả Alec Holcombe có bằng cử nhân văn chương tại Đại học Brown, bằng tiến sĩ lịch sử tại Đại học UC Berkeley, hiện là giáo sư – viện trưởng Viện Lịch sử đương đại của Đại học Ohio. Bản tiếng Việt được hoàn thành với sự giúp đỡ của Miracle Vũ