Về mặt lịch sử, ô bảo vệ an ninh do Hoa Kỳ cung cấp trong khuôn khổ Liên minh NATO là yếu tố răn đe cốt lõi ở châu Âu. Nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ, châu Âu sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, đầu tư mạnh vào quốc phòng và tăng đáng kể quân số để duy trì khả năng răn đe trước Nga, theo một báo cáo của Viện Nghiên cứu kinh tế thế giới Kiel.

Hình minh họa: Trực thăng Eurocopter Tiger của quân đội Đức trong cuộc diễn tập với quân đội Litva, ở phía bắc thủ đô Vilnius, ngày 29/05/2024. AP – Mindaugas Kulbis
Anh Vũ
Tầm mức của thách thức là gì ? Châu Âu sẽ cần phải làm gì để tự bảo vệ mình khi không có Hoa Kỳ? Đó là câu hỏi mà Viện Kiel cố gắng trả lời trong một báo cáo công bố sáng ngày 21/02, trong khi Trump từ chối gọi Nga là “kẻ xâm lược” và có những dấu hiệu cho thấy châu Âu có thể bị Hoa Kỳ bỏ rơi.
Để trả lời câu hỏi này, trước tiên cần xác định mối đe dọa quân sự từ Nga. Nhận định đầu tiên: Lực lượng vũ trang của Matxcơva hiện không còn như khi họ xâm lược Ukraina vào năm 2022. Quân đội và bộ chỉ huy của Vladimir Putin giờ đây có kinh nghiệm chiến trường vượt trội so với bất kỳ quân đội nào khác trên thế giới, ngoại trừ Ukraina, báo cáo của Viện Kiel đánh giá. Hiện có khoảng 700.000 binh sĩ Nga tại Ukraina, con số này cao hơn nhiều so với năm 2022.
Nhận định thứ hai: Sản xuất vũ khí của Nga đã tăng vọt. Chỉ riêng trong năm 2024, Nga đã sản xuất hoặc tân trang 1.550 xe tăng, 5.700 xe bọc thép và 450 hệ thống pháo các loại. Điều này có nghĩa là sản lượng xe tăng tăng 220% và 150% đối với xe bọc thép và pháo binh. Ngoài ra, quân đội Nga đã triển khai 1.800 tên lửa Lancet tầm xa, tăng 435% trong giai đoạn này.
Nguy cơ tấn công trong vòng ba đến mười năm tới
Theo các phân tích của NATO và nhiều quốc gia phương Tây, với sự gia tăng sức mạnh như vậy, Nga có thể tấn công một quốc gia thành viên NATO trong vòng ba đến mười năm tới.
Guntram Wolff và Aleksandr Burilkov, hai tác giả của báo cáo, ghi nhận : “Hơn nữa, điều này có thể xảy ra sớm hơn, khi các cuộc tập trận quân sự bốn năm một lần mang tên Zapad sẽ diễn ra tại Belarus vào mùa hè năm 2025. Các cuộc tập trận này sẽ thể hiện khả năng của Nga trong việc tổ chức các hoạt động quân sự quy mô lớn ngay cả trong thời chiến“,.
Trong bối cảnh ưu tiên hàng đầu của châu Âu là tiếp tục hỗ trợ Ukraina, thay thế vai trò của Mỹ. Về mặt tài chính thuần túy, Viện Kiel đánh giá rằng việc này là khả thi. Từ tháng 2/2022, viện trợ quân sự của Mỹ dành cho Ukraine đã lên tới 64 tỷ euro, trong khi châu Âu (bao gồm cả Anh) đã cung cấp 62 tỷ euro. Riêng năm 2024, viện trợ quân sự của Mỹ chiếm 20 tỷ trong tổng số 42 tỷ euro viện trợ cho Ukraina.
Mục lục
Cần 50 sư đoàn mới
Câu hỏi tiếp theo là làm thế nào để bảo vệ châu Âu ? Theo Viện Kiel, nếu Mỹ và Nga đạt một thỏa thuận về Ukraina, điều này có thể dẫn đến sự gia tăng sức mạnh quân sự của Nga. Khi đó, châu Âu sẽ cần mở rộng quân đội tương đương với 300.000 binh sĩ Mỹ, như thế có nghĩa là Châu Âu phải thành lập 50 sư đoàn mới, tập trung vào các lực lượng cơ giới và thiết giáp.
Tuy nhiên, sức mạnh hỏa lực của 300.000 binh sĩ Mỹ cao hơn nhiều so với 300.000 binh sĩ châu Âu rải rác trong 29 nước.Quân đội Mỹ có hệ thống chỉ huy và kiểm soát thống nhất và được hỗ trợ bởi các phương tiện như không quân, liên lạc vệ tinh và tình báo – những yếu tố mà châu Âu đang thiếu.
Một vấn đề khác là trang bị cho quân đội. Viện Kiel ước tính rằng để răn đe một cách đáng tin cậy, châu Âu cần tối thiểu: 1.400 xe tăng, 2.000 xe chiến đấu bộ binh và 700 hệ thống pháo binh (bao gồm pháo tự hành 155 mm và bệ phóng tên lửa đa nòng). Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh, ” Con số này cao hơn tổng lực lượng lục quân của Pháp, Đức, Ý và Anh gộp lại ở thời điểm hiện tại”.
Về mặt tài chính, việc mở rộng quân đội châu Âu sẽ yêu cầu tăng chi tiêu quốc phòng thêm 250 tỷ euro mỗi năm trong ngắn hạn, nâng từ mức 2% GDP hiện tại lên 3,5%. Việc này có thể được chia đều giữa ngân sách EU và ngân sách quốc gia, giúp tài trợ mua sắm chung cũng như đầu tư quốc phòng quốc gia.
Chi tiêu quốc phòng ở từng nước còn thấp
Trong bối cảnh này, vai trò của EU trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Cơ quan xếp hạng tín dụng Scope Ratings cũng đã tính toán nỗ lực tài chính cần thiết để các nước EU đạt mức chi tiêu quốc phòng lên 3% GDP. Tuy nhiên, con số này vẫn còn xa vời. Anh và Pháp (hai cường quốc hạt nhân) hiện chi dưới 2,5% GDP cho quốc phòng, tương tự như Đức. Bảy quốc gia NATO, trong đó có Ý và Tây Ban Nha, chi dưới 2% GDP. Để đạt mức 3%, các nước EU (trừ Anh) sẽ cần chi thêm trung bình 0,8% GDP mỗi năm cho quốc phòng.
« Tác động của ngân sách liên quan đến thu nhập sẽ rất khác nhau tùy theo từng quốc gia“, cơ quan này giải thích. Quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất sẽ là Tây Ban Nha, nơi chi tiêu quân sự bổ sung sẽ chiếm tới 8,8% nguồn thu của Nhà nước. Người nộp thuế ở Đức và Bỉ cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề: nỗ lực ngân sách sẽ chiếm gần 7% thu nhập công ở hai quốc gia này. Con số này cũng đáng kể ở Pháp và Ý, nhưng vẫn thấp hơn: khoảng 5%. Nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng cách ở Đức thực tế còn đáng lo ngại hơn: Berlin sẽ phải đối mặt với nhu cầu tài trợ tăng cao khi quỹ quốc phòng đặc biệt trị giá 100 tỷ euro của nước này cạn kiệt. Khoản chi tiêu sắp tới khi đó sẽ đạt tới gần 14% doanh thu ngân sách của đất nước.
Việc chuyển đổi và tăng cường năng lực quân sự của châu Âu không chỉ là vấn đề quân sự mà còn là kinh tế và chính trị. Điều này đòi hỏi một sự hợp tác và chia sẻ gánh nặng tài chính không hề dễ dàng.
Trong bối cảnh hiện nay, việc châu Âu tự đứng lên đối đầu với Nga mà không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ là một thách thức rất lớn. Điều đó đòi hỏi một sự chuyển đổi mạnh mẽ về năng lực quân sự, một hệ thống chỉ huy thống nhất, cùng với sự tăng cường đáng kể về đầu tư tài chính và hợp tác chính trị giữa các quốc gia châu Âu. Nếu mọi yếu tố này được hiện thực hóa, thì về lý thuyết, châu Âu có thể tự bảo vệ mình, nhưng đó là một chặng đường dài đầy rẫy khó khăn và đòi hỏi những quyết định chiến lược sâu sắc từ các lãnh đạo châu Âu.
(Theo Les Echos)