„Năm mươi năm sau ngày chiến tranh kết thúc, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, người dân vẫn chưa có đầy đủ các quyền căn bản như tự do biểu đạt, tự do hội họp, lập hội, ứng cử dù Việt Nam đã phê chuẩn các công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự và chính trị.“
Bùi Văn Phú

Ngày 27/5 vừa qua, trên mạng xã hội, nhiều người đã đăng lời chúc mừng sinh nhật gửi tới tù nhân Phạm Đoan Trang.
Trước đó vài tuần, một tù nhân nổi tiếng khác là Trịnh Bá Phương đã bị khởi tố thêm tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” khi đang ở tù.
Những dòng tin này nhắc nhở rằng tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là những vấn đề nhức nhối tại Việt Nam, 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.
Trại tù, cải tạo thời hậu chiến

Nguồn hình ảnh,Bùi văn phú,Người Việt lên tiếng kêu gọi bãi bỏ tù cải tạo trong cuộc xuống đường ở San Francisco năm 1981
Chiều ngày 29/4/1975 tôi theo gia đình người anh con bác rời Việt Nam bằng tàu. Ba tháng sau được định cư ở California.
Đầu năm 1976, chúng tôi nhận được lá thư đầu tiên từ quê nhà, gửi qua người bạn ở Nhật nhờ chuyển lại vì liên lạc bưu chính giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã bị cắt đứt sau ngày 30/4/1975.
Thư đem tin vui là người thân không có ai chết trong những ngày sau cùng của cuộc chiến. Tin buồn là bố của các anh chị, anh của mẹ tôi, là trung úy cảnh sát, đã đi học tập cải tạo nửa năm rồi mà nhà không biết giam ở đâu và bao giờ mới được về.
Những thư sau có tin nhiều bà con của gia đình và những người hàng xóm cũng đã đi học tập cải tạo cả năm rồi mà chưa thấy về.
Mùa thu 1977 tôi được nhận vào Đại học U.C. Berkeley. Ở đây tôi gặp bà Laola Hironaka, sinh viên ban tiến sĩ ngành Á châu học và cũng là trưởng nhóm của Amnesty International – Campus Network (Ân xá Quốc tế – Mạng lưới Đại học). Bà quan tâm đến tình hình Việt Nam sau năm 1975 và muốn tìm hiểu về các trại học tập cải tạo giam giữ cựu quân cán chính của Việt Nam Cộng hòa.
Khi còn ở quê nhà tôi đã biết Ân xá Quốc tế thường lên tiếng yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trả tự do cho những thanh niên, sinh viên tranh đấu bị giam tù như Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Thị Quế Hương, Đoàn Văn Toại. Nay tổ chức này tiếp tục can thiệp cho tù chính trị tại Việt Nam nên tôi tham gia sinh hoạt vì tin rằng sau chiến tranh người Việt cần có tự do để đóng góp cho quê hương.
Trong những buổi sinh hoạt, tôi chia sẻ thông tin về bác tôi, về những người thân quen còn trong trại học tập, về văn nghệ sĩ đang bị cầm tù và tin tức về đời sống quê nhà dưới chế độ cộng sản qua những lá thư gia đình.
Nhân quyền tại Việt Nam được thế giới chú ý khi ca sĩ Joan Baez đã cùng 80 trí thức, văn nghệ sĩ Mỹ ký tên vào một thư ngỏ gửi cho Hà Nội, đăng ngày 30/5/1979 trên 5 nhật báo lớn tại Hoa Kỳ, kêu gọi lãnh đạo Việt Nam tôn trọng nhân quyền vì đang giam giữ mà không xét xử hàng trăm nghìn quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng hòa và nhiều văn nghệ sĩ.
Ca sĩ Joan Baez và lãnh đạo của Ân xá Quốc tế là bà Ginetta Sagan đã gặp nhiều cựu tù nhân bị giam sau ngày 30/4/1975 và đã thoát khỏi Việt Nam, trong đó có Đoàn Văn Toại, cựu lãnh đạo của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn; nhà văn Nguyễn Hữu Hiệu, bác sĩ Trần Xuân Ninh.
Tháng 11/1979, AI Campus Network và Hội Sinh viên Việt Nam, mà tôi là thành viên trong ban chấp hành, tổ chức biểu tình tại Sproul Plaza, Đại học Berkeley là nơi nổi tiếng với những cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam trong quá khứ. Hàng nghìn sinh viên đã đến nghe cựu tù nhân-bác sĩ Trần Xuân Ninh, ca sĩ Joan Baez, giáo sư chính trị học Karl Jackson, nhà thần học William Buckley nói chuyện về một nước Việt Nam hết chiến tranh nhưng thiếu nhân quyền nên nhiều người Việt phải bỏ nước vượt biển ra đi.
Tôi đã cùng bà Laola Hironaka xuống miền Nam California tiếp xúc với những nhà văn, nhà báo, quan chức cũ của Việt Nam Cộng hòa để tìm hiểu về trại tù cải tạo, về những vụ bắt giam văn nghệ sĩ. Chúng tôi gặp nhà văn Võ Phiến, nhà văn kiêm đạo diễn Đỗ Tiến Đức, bà dân biểu Nguyễn Thị Hai, gia đình cố dược sĩ Nguyễn Cao Thăng.
Ngoài hàng trăm nghìn người bị giam trong các trại học tập cải tạo còn có nhiều trí thức văn nghệ sĩ bị giam tù như vợ chồng nhà văn Nhã Ca và thi sĩ Trần Dạ Từ, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ, Dương Hùng Cường, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương, là những tác giả tôi thích đọc khi còn ở quê nhà.
Năm 1980, sinh hoạt văn học của người Việt hải ngoại sôi nổi lên với tập thơ của Ngục Sĩ, là một thi sĩ miền Bắc đã bị giam tù nhiều năm vì làm thơ chỉ trích Đảng Cộng sản và chế độ Hà Nội. Tác giả từng bị cầm tù vài lần, đến năm 1979, ông đã chạy vào sứ quán Anh để nhờ chuyển tập thơ ra nước ngoài, kết cục là ông lại bị bắt và kết án nhiều năm tù. Phạm Duy phổ thơ của ông thành 10 bài ngục ca.

Nguồn hình ảnh,Bùi Văn Phú, Biểu tình cho nhân quyền Việt Nam và thuyền nhân vượt biển tại Đại học Berkeley năm 1979
Năm 1981, dịp tưởng niệm ngày 30/4, Hội Sinh viên Việt Nam tại Đại học Berkeley đã tổ chức một đêm đọc thơ Tiếng vọng từ đáy vực, hát Ngục ca và sinh viên đã mời một số cựu tù cải tạo đến nói chuyện về đời sống trại tù.
Cùng năm, Trung tâm Nghiên cứu Đông Á (Institute of East Asian Studies) của trường cho xuất bản sách After Saigon Fell (Sau ngày Sài Gòn thất thủ) của Nguyễn Long, một cựu sinh viên Đại học Berkeley, tốt nghiệp bằng tiến sĩ chính trị học năm 1973, về nước làm giám đốc học vụ của Đại học Vạn Hạnh. Sau năm 1975, các đại học tư đóng cửa, đầu năm 1979, ông vượt biển và được định cư tại Mỹ.
Tác giả ghi lại sự kiểm soát chặt chẽ của công an qua chính sách hộ khẩu. Người dân không được tự do lưu trú, ra khỏi địa phương phải có giấy phép tạm trú, tạm vắng. Việc vận chuyển hàng hóa, thực phẩm cũng phải có giấy phép của nhà nước. Sài Gòn không còn biểu tình như trước. Tác giả từng có cảm tình với Mặt trận Giải phóng Miền Nam, ở lại sau ngày 30/4/75, ông mới nhận ra bộ mặt thực của cộng sản và quyết định vượt biển vào năm 1979.
Sau khi bà Laola Hironaka rời trường, năm 1982, tôi gặp Steve Denney, thành viên của Amnesty International – Nhóm 64, phụ trách về Đông Nam Á. Thời sinh viên ở Đại học Oregon, Steve từng tham gia phong trào chống chiến tranh và lúc bấy giờ đang quan tâm đến nhân quyền tại Việt Nam. Anh làm phụ tá cho ông Douglas Pike, Giám đốc Indochina Archive tại Đại học Berkeley.
Steve làm chủ biên tập san nhân quyền Indochina Journal mà tôi đã cộng tác với anh, mỗi số phát hành được gửi đến các vị dân cử Mỹ trong các ủy ban về châu Á tại Quốc hội, các giáo sư đại học chuyên ngành Đông Nam Á, các cơ quan từ thiện hoạt động tại Việt Nam và những ai quan tâm đến Việt Nam.
Khi có diễn giả đến trường nói chuyện về Việt Nam thời hậu chiến, như Don Luce, John Spragen, Christine White, Steve đã cùng sinh viên chất vấn diễn giả về trại học tập cải tạo, về việc bắt giam các lãnh đạo tôn giáo, văn nghệ sĩ, thành phần trí thức.
Hạn chế tự do để bảo vệ chế độ

Nguồn hình ảnh,Getty Images,Hòa thượng Thích Quảng Độ (1928-2020) đã trải qua nhiều năm bị giam và quản thúc khi không gia nhập giáo hội do nhà nước quản lý
Amnesty International và Human Rights Watch (tổ chức Theo dõi Nhân quyền) trong các báo cáo đã lên tiếng về vi phạm nhân quyền của Hà Nội.
Lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là các nhà sư Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị Hà Nội chỉ định quản chế. Giáo hội này bị cấm từ năm 1981, khi nhà nước cho thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam trực thuộc Mặt trận Tổ quốc, tu sĩ bị ép buộc tham gia, nhiều người phản đối đã bị quấy nhiễu hay lãnh án tù.
Các nhà sư Thích Tuệ Sỹ và Thích Trí Siêu, những học giả uyên bác về Phật học, đã bị nhà nước kết án tử hình với tội danh hoạt động “lật đổ chính quyền nhân dân” sau khi bị bắt vào năm 1984, mà các tổ chức nhân quyền quốc tế đều cho là Hà Nội áp đặt nhằm tiêu diệt những tu sĩ không theo giáo hội do nhà nước lập ra. Với sự lên tiếng can thiệp của thế giới, Hà Nội đã giảm án xuống còn 20 năm tù.
Công giáo cũng chung số phận với nhiều tu sĩ bị quản chế dài hạn hay giam tù như Giám mục Nguyễn Văn Thuận, các linh mục Trần Hữu Thanh, Đinh Bình Định, Nguyễn Công Đoàn, Nguyễn Văn Lý.
Tin lành có mục sư Nguyễn Tự Cường bị án tù 10 năm tù.
Nhiều tu sĩ đã chết trong tù, trong đó có Hòa thượng Thích Thiện Minh, Linh mục Vũ Khánh Tường.
Cuối năm 1986, Đại hội 6 Đảng Cộng sản đưa ra chính sách Đổi mới, chuyển kinh tế tập trung sang tự do kinh doanh nhiều thành phần. Việt Nam mở cửa đón du khách phương Tây. Dân được tự do buôn bán và những nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư. Đời sống của dân trở nên khá hơn vì được tự do kinh doanh.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cho “cởi trói văn nghệ” nên văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm được thế giới biết đến: Dương Thu Hương với Những thiên đường mù, Trần Mạnh Hảo với Ly thân, Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Trần Văn Thủy với phim Chuyện tử tế.
Vài năm sau, tự do sáng tác bị xiết lại trước làn sóng dân chủ hóa ở Đông Âu mà Hà Nội lo sợ sẽ lan đến Việt Nam.
Nhà văn Dương Thu Hương, một người lên tiếng chỉ trích nhà nước, đã bị bắt vào tháng 4/1991 với cáo buộc chuyển bí mật nhà nước ra hải ngoại mà thực tế là bản thảo Tiểu thuyết vô đề của bà. Sau nhiều tháng bị giam, bà đã được thả ra mà không hề qua xét xử.
Những ai lên tiếng đòi cải cách chính trị, mở rộng không gian thảo luận về những vấn đề của đất nước đều bị trấn áp hay bỏ tù.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế sáng lập Cao trào Nhân bản vào ngày 11/5/1990 thì chỉ một tháng sau đã bị công an bắt giam và sau đó bị kết án tù 20 năm.
Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị bắt sau khi gặp gỡ những người Mỹ để tham vấn cho họ trong việc mở công ty tại Việt Nam, nhưng lý do chính cho việc bắt giữ là việc ông kêu gọi tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ông bị kết án tù 12 năm với tội danh liên quan đến “tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa”.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bị bắt vào tháng 11/1990 khi cho xuất bản tờ báo chui Diễn đàn Tự do với những bài viết kêu gọi tự do dân chủ cho Việt Nam và bị kết án 20 năm tù, cùng với các cộng sự Phạm Đức Khâm bị án tù 16 năm và Nguyễn Văn Thuận 12 năm.
Trước làn sóng dân chủ ở Đông Âu, Bộ trưởng Công an Bùi Thiện Ngộ trong bài viết Một số vấn đề chiến lược An ninh Quốc gia trong giai đoạn mới trên Tạp chí Cộng sản đã đưa ra lời cảnh báo rằng sau cuộc cách mạng nhung 1989 ở Đông Âu, kẻ thù của Việt Nam, trong và ngoài nước, đang nắm lấy cơ hội để đòi đổi mới chính trị theo kế hoạch “diễn biến hòa bình”, vận động cho đa nguyên, đa đảng nhằm chấm dứt sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đã có những nhân vật cấp cao lên tiếng đòi dân chủ hóa đất nước như Ủy viên Bộ Chính trị Trần Xuân Bách, Trung tướng Trần Độ, Giáo sư Phan Đình Diệu.
Trung tướng Trần Độ muốn có một xã hội đa nguyên, không độc quyền theo một chủ thuyết và lãnh đạo phải thật sự là của dân, do dân và vì dân.
Những đề xướng của Trung tướng Trần Độ, cựu Thứ trưởng Bộ Văn hóa và cũng là Phó Chủ tịch Quốc hội, đã không được Bộ Chính trị đồng tình. Ông đã bị trù dập, bị khai trừ đảng vào năm 1999. Khi qua đời, đám tang của ông còn bị an ninh quấy nhiễu.
Lên tiếng trong kỷ nguyên internet
Đầu thiên niên kỷ, khi mạng thông tin toàn cầu trở nên phổ biến thì công an bắt đầu trấn áp và giam giữ những ai dùng internet để phát tán những tài liệu, thông tin về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Theo Amnesty International và Human Rights Watch, nhiều người dùng internet để vận động cho nhân quyền đã bị giam tù.
Lê Chí Quang, 32 tuổi, bị bắt tại một quán cà phê ở Hà Nội vào tháng 2/2002. Ông đã phát tán trên mạng thông tin lên án nhà nước ký hiệp ước biên giới với Trung Quốc và bị kết án 4 năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước.”
Doanh nhân Nguyễn Khắc Toàn, 48 tuổi, bị bắt vào tháng 1/2002 vì đã dùng internet để chuyển ra nước ngoài những thông tin về các cuộc biểu tình của nông dân phản đối nhà nước thu hồi đất. Ông bị kết án 12 năm tù.
Luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân năm 2007 bị kết án tù vì lên tiếng cho tự do tôn giáo. Luật sư Lê Quốc Quân lãnh án tù 30 tháng vì hoạt động “nhằm lật đổ chế độ”. Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy bị kết án tù 3 năm vì làm báo “chui” Tổ quốc và là thành viên của Khối 8406, một tổ chức vận động cho dân chủ.
Năm 2012, “Điếu Cày” Nguyễn Văn Hải, cựu bộ đội Quân đội Nhân dân Việt Nam, bị kết án 12 năm tù với tội “tuyên truyền chống nhà nước.”
Năm 2014, “Anh Ba Sàm” Nguyễn Hữu Vinh, sinh năm 1956, cựu sĩ quan an ninh, bị kết án 5 năm tù khi cho đăng trên Blog Anh Ba Sàm, có hàng vạn người vào đọc mỗi ngày, những thông tin, bình luận từ quốc nội và quốc tế liên quan đến Việt Nam.
Từ năm 2000, những người lên tiếng phản kháng chế độ gồm nhiều người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc Việt Nam. Sau nhiều thập niên sống dưới chế độ cộng sản, họ cũng đã nhận ra những bất công và sự thiếu tự do dân chủ trên quê hương.
Không chỉ những người tranh đấu cho công bằng xã hội, cho dân oan mà nhà báo, nghệ sĩ cũng bị bắt giam. Việt Khang Võ Minh Trí, 34 tuổi, bị kết án tù về tội danh “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999 khi sáng tác các ca khúc kêu gọi nhà nước trả lại cho dân những quyền tự do căn bản.
Ngày 14/12/2021, Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978, nhà báo, người làm xuất bản sách, cũng bị cáo buộc vi phạm Điều 88 vì “Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và bị kết án 9 năm tù. Bà là đồng sáng lập viên của Luật Khoa tạp chí và tác giả của nhiều tác phẩm về xã hội và nhà tù ở Việt Nam.
Phạm Đoan Trang muốn “khai dân trí” qua nhiều tác phẩm, điển hình như Chính trị bình dân, Phản kháng phi bạo lực, Cẩm nang nuôi tù để người dân hiểu được những quyền căn bản của mình.
Tiến sĩ Nguyễn Sơn Lộ – bút danh Minh Đường, Giám đốc của viện nghiên cứu SENA – chủ trương “khai quan trí” qua những tập sách nghiên cứu và đề nghị chính sách ông chỉ gửi đến những ủy viên Trung ương Đảng, thành viên Quốc hội. Năm 2023, ông bị bắt và kết án 5 năm tù theo Điều 331 Bộ luật Hình sự: “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Nguồn hình ảnh,Getty Images,Biểu tình trước Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco năm 2012
Đầu năm 2025, nhà báo Huy Đức Trương Huy San cũng bị buộc tội theo Điều 331 và bị kết án 30 tháng tù.
Luật hình sự của Việt Nam ngày nay vẫn còn những điều luật không rõ ràng và tùy tiện, cho phép nhà nước giải thích và áp đặt để giam tù những ai lên tiếng trong ôn hòa chỉ trích các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam: Điều 109 về âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân; Điều 117 về tuyên truyền chống nhà nước; Điều 331 về lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền, lợi ích của nhà nước, tổ chức hay cá nhân.
Năm mươi năm sau ngày chiến tranh kết thúc, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, người dân vẫn chưa có đầy đủ các quyền căn bản như tự do biểu đạt, tự do hội họp, lập hội, ứng cử dù Việt Nam đã phê chuẩn các công ước của Liên Hợp Quốc về các quyền dân sự và chính trị.
Thái Bá Tân, sinh năm 1950, tốt nghiệp đại học ngoại ngữ Moscow, là một giáo sư thường sáng tác những vần thơ châm biếm chế độ và nói lên những suy nghĩ của ông về đất nước, như bài thơ “Gửi bác Trọng” có những câu sau đây:
Nước khác không cộng sản,
Nên không có chiến tranh.
Cũng không có cái chết
Của nhiều triệu dân lành.
Ta, rừng vàng biển bạc,
Dân thông minh, anh hùng.
Nhưng cũng vì cộng sản
Mà thua kém nhất vùng…
Hôm 3/4/2025, trong một bài đăng trên trang Facebook của mình, ông cho biết công an đã nhắc nhở ông ngừng phát tán những bài thơ “nhạy cảm” – phê phán chế độ – và ông đã đồng ý vì không muốn rắc rối cho bản thân và gia đình.
Nhân quyền Việt Nam, nhìn từ bên ngoài biên giới
Báo cáo năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ ghi nhận Việt Nam hiện còn giam giữ ít nhất 187 tù nhân hoạt động cho nhân quyền.
Tổ chức Freedom House năm 2024 đặt Việt Nam vào nhóm quốc gia không có tự do, với số điểm 4/40 cho tự do chính trị và 15/60 cho những quyền tự do dân sự.
Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ có nhiều dân biểu đứng ra bảo trợ cho những tù nhân lương tâm tại Việt Nam và thường xuyên đưa vấn đề vi phạm nhân quyền của Hà Nội ra trước diễn đàn Quốc hội.
Năm 1994, được Quốc hội đồng thuận và Tổng thống Bill Clinton ký thành luật chọn ngày 11/5 hằng năm là Ngày Nhân quyền cho Việt Nam. Ngày này năm 1990, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã khai sinh ra Cao trào Nhân bản khiến ông bị giam tù nhiều năm.
Năm 2023, lập pháp viện tiểu bang California, nơi có đông người Việt sinh sống, cũng đã chọn ngày 11/5 là Ngày Nhân quyền cho Việt Nam.
Trong cuộc phỏng vấn với bác sĩ Trần Xuân Ninh vào năm 1979 khi ông đến Đại học Berkeley nói chuyện, tôi đã đặt câu hỏi là người Việt hải ngoại có thể làm gì để giúp cải tiến nhân quyền trên quê hương, ông trả lời:
“Những người đi từ năm 1975 hay đi sau này mà còn thương những người ở nhà thì còn phải lên tiếng mạnh mẽ, đánh động thế giới, buộc lương tâm họ phải thức giấc và chú ý đến Việt Nam nhiều hơn nữa, nhất là quan tâm đến bản chất tàn ác của chế độ Hà Nội và những vi phạm nhân quyền của chế độ ấy… Áp lực như thế tối thiểu mình đã giúp đỡ dân tộc bớt đi phần nào những đau khổ hàng ngày.” (Bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại số 85, 1-15/12/1980)
Tháng 2/2025, cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển từ Đức đến San Jose, California nói chuyện về tình hình nhân quyền Việt Nam.
Ông Truyển tranh đấu cho tự do tôn giáo, cho quyền của người dân tộc thiểu số và đã bị kết án nhiều năm tù, với tội “tuyên truyền chống nhà nước” và “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. Nhờ can thiệp của quốc tế, ông và vợ đã được Đức nhận cho tị nạn vào tháng 9/2023. Ông Truyển cho biết có nhiều người bị tù vì lên tiếng phản biện chính sách của nhà nước, con số có thể là hàng nghìn, cao hơn nhiều so với những con số vài trăm do các tổ chức nhân quyền đưa ra.
Hỏi ông người Việt hải ngoại có thể làm gì giúp cho những tù nhân lương tâm, ông nói: “Những người còn trong tù ở Việt Nam rất hy vọng và khích lệ khi biết rằng nhân dân trên thế giới không quên họ. Sự quan tâm của chúng ta sẽ giúp họ trải qua những ngày khó khăn, đem lại hy vọng họ sẽ được trả tự do và tiếp tục tranh đấu cho những quyền căn bản của dân tộc Việt Nam.”
Bùi Văn Phú (Berkeley, California)
BBC (31.05.2025)
Tác giả Bùi Văn Phú là giảng viên đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, Hoa Kỳ.