Seite auswählen

Báo cáo tình trạng tự do tại Việt Nam năm 2025 

Báo cáo “Tình Trạng Tự Do tại Việt Nam năm 2025” được biên soạn với mục tiêu cung cấp một cái nhìn cập nhật và khách quan về thực trạng các quyền tự do căn bản tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bản báo cáo tập trung phân tích năm lãnh vực then chốt, gồm: tự do chính trị, tự do báo chí, tự do internet, tự do tôn giáo và tự do ngôn luận — vốn là những chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ và nhân quyền của một quốc gia. 

Dựa trên các tài liệu độc lập và đáng tin cậy từ Freedom House, Phóng Viên Vô Biên Giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ (USCIRF), Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cùng với các nhân chứng và chuyên gia, báo cáo cho thấy xu hướng suy thoái hoặc trì trệ trên hầu hết các chỉ số tự do tại Việt Nam kể từ năm 2020. Tình trạng kiểm soát toàn diện về chính trị, đàn áp các tiếng nói đối lập, giới hạn quyền hiệp hội và triệt tiêu các tổ chức dân sự độc lập tiếp tục được thực thi một cách hệ thống dưới hình thức hành chính và an ninh. 

Bản báo cáo này nhằm cung cấp một cơ sở dữ liệu có hệ thống để phục vụ cho đối thoại chính sách, rà soát định kỳ nhân quyền (UPR), và nỗ lực quốc tế trong việc thúc đẩy tự do, dân chủ và pháp quyền tại Việt Nam. 

Bản in của báo cáo đã được đệ trình tận tay hôm thứ Sáu, ngày 13 tháng 6 năm 2025 đến Văn Phòng Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại New York, cùng với các Đại Sứ Quán Liên Hiệp Quốc của Canada, Bỉ, Áo, Hoa Kỳ và Thụy Sĩ. Đồng thời, bản điện tử của báo cáo cũng sẽ được phổ biến đến đa số các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc để làm tài liệu tham khảo trong các kỳ họp, đối thoại song phương, cuộc bầu cử vào Hội Đồng Nhân Quyền LHQ và cơ chế rà soát nhân quyền sắp tới. 

Chúng tôi trân trọng giới thiệu bản báo cáo này đến quý vị, với kỳ vọng rằng tiếng nói của đồng bào chúng ta đang bị tước đoạt nhân quyền và dân quyền sẽ tiếp tục được chú ý, và các giá trị phổ quát sẽ luôn được cổ võ bằng sự quan tâm và hành động từ cộng đồng Người Việt Quốc Gia và cộng đồng quốc tế. 

Bản tiếng Việt: 

https://www.allianceforvietnamsdemocracy.org/home/2025-tinh-trang-tu-do-tai-viet-nam

Bản tiếng Anh: 

https://www.allianceforvietnamsdemocracy.org/home/2025-state-of-freedom-in-vietnam 

Xin cám ơn quý vị. 

Liên Minh Vì Dân Chủ Cho Việt Nam (16.06.2025)

 

 

 

Giới luật sư phản đối quy định cho chủ tịch tỉnh quyền cấp-tước thẻ hành nghề

Bắt đầu từ ngày 1/7, Chủ tịch UBND tỉnh sẽ nắm trọn quyền sinh sát đối với giới luật sư – một bước ngoặt lớn trong quản lý ngành luật.

Luật sư Trần Đình Triển, người vừa bị kết án 3 năm tù vì phát ngôn trên Facebook. (FB Trần Đình Triển)

Các luật sư ở Việt Nam đang lên tiếng bày tỏ lo ngại trước một quy định mới do chính phủ ban hành liên quan đến thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.

Hôm 11 tháng 6, Chính phủ ban hành Nghị định 121 với nội dung quy định việc phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quan lý nhà nước của Bộ Tư pháp.

Điểm đáng chú ý là nghị định này trao cho chủ tịch UBND cấp tỉnh quyền cấp chứng chỉ, thu hồi chứng chỉ, và cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư. Điều mà trước nay vốn thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp.

Nếu không có gì thay đổi, quy định mới này sẽ có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 2025, chỉ hơn hai tuần sau khi ban hành.

Trái luật

Trên thực tế, thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề cho luật sư đã được quy định chi tiết tại Luật luật sư năm 2006. Theo luật này, Bộ trưởng Tư pháp mới có quyền cấp mới, thu hồi, và cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư.

Nghị định là một văn bản do chính phủ ban hành với mục đích hướng dẫn thi hành luật. Do vậy, nội dung của một nghị định phải tuân thủ nội dung của văn bản luật.

Trong trường hợp này, Nghị định 121 đang tồn tại nội dung trái với quy định của Luật luật sư 2006, do trao thẩm quyền cấp, thu hồi, và cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư cho chủ tịch UBND tỉnh, đối tượng nằm ngoài quy định của luật.

Bình luận về hiện tượng này, Luật sư Trần Đình Dũng thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh đã viết trên trang Facebook cá nhân của ông rằng “khi nghị định vượt ra ngoài phạm vi điều luật là đảo lộn sai trái hệ thống pháp luật.” Ông kết luận “Nghị định của Chính phủ mà “phủ đầu” trên luật, thử hỏi còn đâu luật pháp của Quốc Hội ban hành?”

Đồng tình với ý kiến của luật sư Trần Đình Dũng, một luật sư đang hành nghề ở phía bắc nhận định với RFA dưới điều kiện ẩn danh rằng “về nguyên tắc văn bản luật do Quốc hội ban hành thì chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi”. Do vậy, theo vị này “việc cơ quan hành pháp ban hành nghị định sửa luật là sai thẩm quyền có dấu hiệu lộng quyền”.

Thiên vị chính quyền

Quy định mới sẽ tạo ra sự thiên vị hiển nhiên cho vị chủ tịch ủy ban nhân nhân trong các vụ tranh chấp pháp lý mà họ là bên bị.

Trao đổi với RFA, một luật sư lấy ví dụ “nếu một luật sư hành nghề ở Hà Nội nhận vụ án hành chính khởi kiện ông Chủ tịch UBND Tp Hà Nội, thì sẽ rất dễ nảy sinh tình trạng nể nang, sợ hãi do ông chủ tịch có quyền tước chứng chỉ hành nghề luật sư bất kỳ lúc nào”.

Việc chính quyền tỉnh, thành phố bị kiện không phải là hiếm.

Theo luật sư Đặng Đình Mạnh, một luật sư có nhiều năm kinh nghiệm hành nghề ở Việt Nam, thì án hành chính xuất hiện “khá nhiều” vì việc “ủy ban ra văn bản trái luật” cũng xảy ra thường xuyên.

Vị cựu thành viên của đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh cho biết “thường chính quyền ra những văn bản liên quan đến thu hồi đất đai, nhà cửa, thì chỉ cần đụng vào một khu vực thôi, có thể sẽ có hàng trăm hộ dân đâm đơn kiện”.

Nếu luật sư nào xuất thân ở cùng địa phương và nhận hỗ trợ người dân kiện chính quyền, sẽ dân đến tình trạng “sợ hãi sự trả đũa từ ủy ban”. Trong trường hợp đó thì người dân chắc chắn là bên bị thiệt.

Coi luật sư là đối tượng

Nghị định 121 và quy định cho chủ tịch UBND tỉnh quyền sinh sát đối với luật sư, thể hiện “tư duy cố hữu” của chế độ, theo một luật sư đang hành nghề ở trong nước.

Vị này cho rằng quy định trên bộc lộ bản chất của chế độ, vốn “thiên về kiểm soát”, không chấp nhận tự do và đối lập.

Còn luật sư Đặng Đình Mạnh thì cho rằng bằng việc thông qua Nghị định mới “chính quyền đang coi luật sư là đối tượng” cần phải đối phó, hơn là trợ tá pháp lý.

Trường Sơn

RFA (15.06.2025)

 

 

Bài phát biểu của cựu TNLT Huỳnh Anh Tú nhân ngày Nhân quyền cho Việt Nam 2025

Kính thưa quý vị!

Trước tiên, tôi xin cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội hiện diện tại đây hôm nay.

Thật khó để truyền tải chặng đường 14 năm tù đày chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Tôi đã ra tù gần 12 năm, có những điều đã phai mờ, nhưng cũng có những ký ức sẽ theo tôi suốt đời.

Tôi và em trai, Huỳnh Anh Trí, bị bắt đêm 30/12/1999. Ngay sau đó, chúng tôi bị tách ra và thẩm vấn riêng. Hơn mười viên an ninh thay nhau hỏi cung tôi suốt 72 giờ không ngừng nghỉ. Suốt ba ngày ba đêm, tôi không được ăn, không được ngủ. Mỗi khi mệt quá gục xuống, tôi lập tức bị họ kéo dậy bằng cách giật tóc hoặc hắt nước vào mặt.

Một trong số họ đánh tôi, những người khác thì chửi bới và đe dọa: nếu không nhận tội, tôi sẽ đối mặt với án 20 năm tù, hoặc chung thân, thậm chí tử hình.

Sang ngày thứ tư, tôi bị đưa vào buồng biệt giam rộng chừng 6 mét vuông, không cửa sổ, ăn uống và tiêu tiểu tại chỗ. Sau 72 giờ bị tra khảo liên tục, tôi tưởng rằng mình sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng vừa thiếp đi, tôi nghe thấy những âm thanh man dại, tiếng tru tréo kinh hoàng vang lên trong đầu. Tôi cố bịt tai lại, nhưng âm thanh ấy càng lúc càng rợn người. Hai mươi sáu năm đã trôi qua, đôi khi âm thanh đó vẫn bất ngờ quay lại, khiến tôi hoảng loạn.

Tôi bị biệt giam khoảng một năm rưỡi trước khi ra tòa. Tám tháng đầu, tôi liên tục bị gọi cung lúc 1–2 giờ sáng. Gần sáng họ đưa tôi trở lại buồng, và chỉ vài tiếng sau lại có nhóm khác đến tiếp tục thẩm vấn. Chúng tôi gọi hình thức này là “xa luân chiến” – một người phải đấu trí với cả chục an ninh.

Tôi từng bị chuyển qua 5 nhà tù khác nhau, chưa kể các lần chuyển buồng, chuyển trại.

Ký ức ám ảnh nhất đối với tôi là ĐÓI, RẤT ĐÓI.

Không ai có thể sống nổi ngần ấy năm tù nếu chỉ dựa vào khẩu phần ăn của nhà tù cung cấp.

Chúng tôi sống được là nhờ sự đùm bọc của các tu sĩ Công giáo – những người bị bắt sau năm 1975 chỉ vì là linh mục. Đói và thèm ăn đến mức, có hôm tỉnh dậy, tôi thấy miệng mình dính thứ gì như chất bột màu trắng. Tôi chợt nhớ, đêm trước mình đã mơ được ăn no, và trong mơ tôi đã nhai thật – điều ấy giải thích vì sao quanh miệng tôi dính chất màu trắng vào sáng hôm sau.

Kính thưa quý vị!

Tôi và em trai bị kết án 14 năm tù. Cùng vụ còn 36 người khác, bị kết án từ 2 đến 20 năm. Gần 10 người đã chết vì đói, vì lao động khổ sai, vì bệnh tật không được chữa trị. Chưa kể những người chết trong các vụ án khác, như ông Nguyễn Minh Tân – hàng ngày vẫn lao động cuốc đất, nuôi cá, gặt lúa… nhưng chết vì không có gì để ăn.

Tù chính trị và cả tù hình sự đều phải lao động khổ sai, làm các công việc nặng nhọc như khai hoang, cuốc đất, đào ao, trồng rau… nhưng những năm đầu, chúng tôi chưa bao giờ được ăn những gì mình làm ra – dù chỉ là vài cọng rau. Nhiều khi, tôi phải hái cỏ non nấu lên ăn thay rau.

Chúng tôi nhiều lần tuyệt thực để phản đối ngược đãi, yêu cầu cai tù thực thi đúng chính sách, quy định do chính nhà nước đề ra. Cuộc tuyệt thực lâu nhất kéo dài 14 ngày tại trại giam Xuân Lộc, năm 2010, với hàng chục tù chính trị tham gia. Sau sự kiện đó, chúng tôi bị chuyển trại – tôi bị đưa về An Phước, tỉnh Bình Dương.

Thưa quý vị!

Mười bốn năm tù không chỉ là sự chịu đựng bi kịch của cá nhân mình, mà còn phải chứng kiến nỗi đau của biết bao người đồng cảnh. Tôi chưa từng thấy ai bị đánh đến chết, nhưng có nhiều người chết vì bị ngược đãi một cách tinh vi và có hệ thống. Ví dụ, người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp bị cấm mang thuốc – và họ chết, như ông Lê Thân, ông Phan Văn Trước. Nguồn nước bẩn, thực phẩm ôi thiu, bồn cầu hỏng không sửa…, từng chút một hủy hoại cơ thể tù nhân.

Tù đày không chỉ là tra tấn, bệnh tật, chết chóc – mà còn là sự cô lập tinh thần. Chúng tôi bị cách ly khỏi tù hình sự, bị kiểm soát mọi giao tiếp với nhau. Vì không được sử dụng giấy bút, không đuọc nhận sách báo nên chúng tôi không thể viết, không thể đọc, không thể ghi chép lại bất cứ điều gì tai nghe mắt thấy, hoặc chỉ đơn giản là viết về những cảm xúc của chính mình.

Không ít lần tôi có ý định tự tử và từng chuẩn bị một cái chết cho mình. Nhưng có một sức mạnh vô hình mà sau này tôi tin đó là Thiên Chúa, đã nâng đỡ tôi. Tôi phải sống để chiến thắng, chí ít là để không thất bại trước thế lực tà ác.

Thưa quý vị!

Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.

Chúng tôi kể thay cho những người vẫn đang bị giam giữ – những người không có cơ hội cất tiếng nói của chính mình.

Tôi mong rằng quý vị – những tiếng nói mạnh mẽ vì tự do, vì nhân quyền – sẽ không quên những nơi còn trong bóng tối, những con người vẫn đang chịu cảnh tù đày vì tranh đấu cho tự do.

Xin chân thành cảm ơn quý vị!

 Huỳnh Anh Tú 

VNTB (13.06.2025)

 

 

 

Người dân nên chủ động thực thi công ước về các quyền dân sự và chính trị

Đòi hỏi nhà nước giải trình thông qua các định chế nhân quyền LHQ

Bộ máy quản trị mỗi quốc gia là một đối tượng quan trọng trong việc thực thi các công ước quốc tế. Đối tượng này thực thi các công ước quốc tế bằng nghĩa vụ của quốc gia đã tham gia vào mỗi công ước. 

Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên mà Liên Hiệp Quốc lại xây dựng cơ chế dành cho các cá nhân và tổ chức xã hội dân sự được nộp các báo cáo và được mời họp với các chuyên gia trong uỷ ban trước thềm mỗi cuộc rà soát một quốc gia nào đó. Bởi vì, người dân cũng là một đối tượng rất quan trọng trong việc thực thi các công ước quốc tế. Người dân thực thi công ước quốc tế bằng quyền của mình để thúc đẩy bộ máy quản trị quốc gia phải thực hiện nghĩa vụ của họ. Do vậy, người dân là đối tượng quyết định cho việc thực thi công ước quốc tế một cách đầy đủ và sâu sắc. 

Sắp tới đây, vào hai ngày 7 và 8 tháng 7 năm 2025, Liên Hiệp Quốc sẽ tiến hành phiên rà soát thuộc chu kỳ thứ tư việc thực thi Công Ước Quốc Tế Về Các Quyền Dân Sự Và Chính Trị (International Covenant on Civil and Political Rights – ICCPR) với nhà nước Việt Nam. 

Hình: Bộ Luật Công Ước về Nhân Quyền Quốc Tế với 9 công ước của Liên Hiệp Quốc. Trong đó Việt Nam đã tham gia 7 công ước

Công ước này có 53 điều được chia thành sáu phần. Các quyền dân sự và chính trị của mọi người dân được quy định tập trung trong phần hai và phần ba gồm các quyền sau đây:

– Quyền không bị phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc địa vị trong xã hội và sự bình đẳng trước pháp luật (Điều 2, 3 và 26);

– Quyền sống mà hiện nay đã được mở rộng thành Nghị Định Thư Thứ Hai với mục tiêu xoá bỏ hoàn toàn án tử hình trên thế giới (Điều 6);

– Quyền không bị tra tấn và phải được đối xử nhân đạo, cấm giam giữ tuỳ tiện và phải hạn chế sự cầm tù nếu có các biện pháp thay thế hợp lý khác, quyền phải được xét xử công bằng và không bị bỏ tù chỉ vì không hoàn thành hợp đồng dân sự, quyền không bị hồi tố (Điều 7, 9, 10, 11, 14 và 15);

– Quyền không bị bắt làm nô lệ hay nô dịch (Điều 8);

– Quyền tự do đi lại và cư trú ở quốc gia của mình và ở các quốc gia khác (Điều 12 và 13);

– Quyền được thừa nhận là một thể nhân pháp lý (Điều 16);

– Quyền bảo vệ sự riêng tư và danh dự nhân phẩm (Điều 17);

– Quyền tự do lương tâm tư tưởng và tôn giáo (Điều 18);

– Quyền tự do quan điểm, tự do biểu đạt và ngôn luận. (Điều 19);

– Quyền tự do hội họp và lập hội (Điều 21 và 22);

– Quyền kết hôn và bảo vệ tổ ấm gia đình (Điều 23);

– Quyền của trẻ em bình đẳng với người lớn (Điều 24);

– Quyền tự do về chính trị và khả năng tham gia điều hành xã hội (Điều 25);

– Quyền của người thiểu số (Điều 27). 

Như vừa trình bày, việc thực thi công ước quốc tế chỉ thực sự có ý nghĩa sâu sắc và đầy đủ khi từng người dân cần chủ động nắm lấy quyền của mình. Do vậy, từng người dân nên chủ động tìm hiểu các quyền vừa nêu trên của mình, so sánh đối chiếu với thực tế và nên theo dõi phiên rà soát để lên tiếng một cách thích hợp tự bảo vệ quyền của chính bản thân mình khi chúng bị xâm phạm. Các tổ chức xã hội dân sự sẽ là những chiếc cầu nối và chỉ có thể là chiếc cầu nối giúp cho người dân có thể lên tiếng và tìm những cách khác nhau thúc đẩy việc thực thi công ước quốc tế được hoàn thiện hơn. Do đó, mặc dù đã có 17 bản báo cáo(*) của các tổ chức xã hội dân sự nộp cho uỷ ban của công ước này nhưng chúng không thể thay thế được cho sự lên tiếng mạnh mẽ của từng người dân đòi hỏi chính quyền Việt Nam phải thực thi đầy đủ nghĩa vụ của họ. 

(*) Trong số này, BPSOS và các tổ chức thân hữu của mình đã nộp tổng cộng 9 bản báo cáo. Bản báo cáo mới nhất được nộp vào ngày 26 tháng 5 năm 2025 và một phái đoàn do BPSOS thiết lập sẽ tới Geneva – Thuỵ Sĩ vào đầu tháng 7 này nhằm cập nhật các tình hình gần đây nhất tại Việt Nam cho các chuyên gia thực hiện phiên rà soát.

BPSOS – Đề Án Dân Quyền Việt Nam

http://machsongmedia.org 

 

 

 

Dòng nữ tu Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn kêu cứu vì bị cướp đất

(BATVS)

LTS: Bài viết của anh Hà Trung Kiên, một tín hữu Công giáo, là một trong những bài viết hiếm hoi dũng cảm đưa tin về chuyện chính quyền CSVN ở Quận Bình Thạnh, Sài Gòn im lặng cướp đất của dòng tu Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn trong kỷ nguyên mới của ngài Tô Lâm.

Những ngày qua, xã hội xem chừng ra yên bình nhưng ở mảnh đất 10 Phan Đăng Lưu quận Bình Thạnh không an bình bởi lẽ chính quyền đã vi phạm công bằng với quý nữ tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn khi tự đập phá xây dựng công trình trên Đất của Nhà Dòng.

Lịch sử mảnh đất 10 Phan Đăng Lưu và tinh thần bác ái của nữ tử bác ái Thánh Vinh Sơn
Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn, một dòng tu Công giáo với sứ mệnh phục vụ người nghèo và những người cần được giúp đỡ, đã hoạt động tại Việt Nam từ nhiều thập kỷ qua.

Lấy cảm hứng từ Thánh Vinh Sơn Phaolô, các nữ tu của dòng luôn đặt tình yêu thương và sự hy sinh lên hàng đầu, thể hiện qua việc chăm sóc trẻ mồ côi, người già neo đơn, và những người gặp khó khăn trong xã hội. Tại mảnh đất số 10 Phan Đăng Lưu, phường 7, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh, các nữ tu đã xây dựng Trường Tiểu Học Bế Văn Đàn (cơ sở 2), nơi từng là mái ấm giáo dục cho nhiều thế hệ trẻ em trong khu vực. Với tinh thần bác ái, các nữ tu không chỉ cung cấp giáo dục mà còn lan tỏa tình thương, giúp các em nhỏ có cơ hội vươn lên trong cuộc sống.

Ngoài việc giáo dục, các nữ tu còn tổ chức nhiều hoạt động từ thiện khác tại đây, như hỗ trợ người nghèo tổ chức các buổi cầu nguyện cộng đồng. Mảnh đất này không chỉ là nơi thực hiện sứ mệnh giáo dục mà còn là biểu tượng cho lòng nhân ái và sự tận tụy của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn đối với cộng đồng địa phương.

Các Sơ biểu tình ngồi trước nơi đang bị đập, xây dựng ngoài ý muốn (BATVS)

Mảnh đất tại số 10 Phan Đăng Lưu, phường 7, quận Bình Thạnh, từ lâu đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn. Đây là nơi các nữ tu đã xây dựng cơ sở Trường Tiểu Học Bế Văn Đàn (cơ sở 2) nhằm phục vụ công tác giáo dục và các hoạt động bác ái. Tuy nhiên, trong một giai đoạn lịch sử, Tu Hội đã bị ép buộc phải cho mượn mảnh đất này để phục vụ mục đích giáo dục công. Dù vậy, trong những năm gần đây, khu đất hầu như không được sử dụng đúng mục đích ban đầu, chỉ còn một số hoạt động nhỏ lẻ như lớp học võ vào buổi tối. Điều này khiến Tu Hội mong muốn đòi lại quyền sử dụng mảnh đất để tiếp tục sứ mệnh bác ái và giáo dục của mình.

Gần đây, một sự việc đáng tiếc đã xảy ra khi mảnh đất bị đập phá và tiến hành xây dựng mà chưa có sự đồng ý của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn. Hình ảnh tại hiện trường cho thấy các công trình cũ bị phá bỏ, để lại đống đổ nát, trong khi Tu Hội không được thông báo hay đồng thuận về việc này. Hành động này không chỉ xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền hợp pháp của Tu Hội mà còn đi ngược lại tinh thần công bằng và tôn trọng lẫn nhau.

Biểu ngữ của chính quyền thông báo xây dựng không báo trước (BATVS)

Dự án được công bố trên bảng thông tin tại khu vực cho thấy kế hoạch xây dựng mới tại đây, nhưng việc thực hiện mà không có sự chấp thuận từ chủ sở hữu hợp pháp là một hành vi không minh bạch. Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn đã bày tỏ mong muốn được khôi phục quyền sử dụng mảnh đất, không chỉ để bảo vệ quyền lợi chính đáng mà còn để tiếp tục sứ mệnh bác ái, phục vụ cộng đồng, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội.

Mảnh đất tại số 10 Phan Đăng Lưu không chỉ là một tài sản vật chất mà còn là biểu tượng cho tinh thần bác ái và sự cống hiến của Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn. Việc bảo vệ quyền sử dụng hợp pháp mảnh đất này không chỉ là vấn đề công bằng pháp lý mà còn là cách để đảm bảo rằng sứ mệnh cao cả của các nữ tu có thể tiếp tục được thực hiện, mang lại ánh sáng và hy vọng cho những người cần giúp đỡ nhất trong cộng đồng.

Hà Trung Kiên 

Sài Gòn Nhỏ (11.06.2025)

 

 

 

Hoàng Đức Bình bị trại giam kỷ luật hành hạ không ngừng

Hoàng Đức Bình trong trại giam An Điềm (GĐCC)

Ngày 07 tháng Sáu 2025, cha mẹ tôi đi thăm gặp anh trai tôi là anh Hoàng Đức Bình. Đáng lẽ ra, hàng tháng chúng tôi được phép thăm gặp và anh Bình được gọi điện thoại về nhà mỗi tháng một lần. Tuy nhiên, theo lý do phía trại giam đưa ra, do anh Bình “thường xuyên có hành vi chống đối, không nhận tội và xúc phạm cán bộ trại giam” (anh Bình thường xuyên tố cáo trại giam tham ô, tham nhũng), nên trong nhiều năm qua, anh thường xuyên bị kỷ luật (cùm chân trong phòng kín). Kèm theo đó, anh không được nhận đồ lưu ký đúng theo quy định pháp luật, việc thăm gặp bị hạn chế chỉ còn 2 tháng một lần, mỗi lần không quá 60 phút.

Cha mẹ tôi, dù đã hơn 70 tuổi, cặm cụi nấu nướng, chuẩn bị đồ đạc từ hôm qua và bắt xe vượt hơn 500km để vào thăm con, họ lo lắng khi nghe tin từ tháng trước rằng anh Trịnh Bá Phương (người ở cùng đội với anh trai tôi) bị khởi tố trong khi đang thi hành án, do biểu tình phản đối Trung Quốc và lên án Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi làm thủ tục, cha mẹ tôi được xe chuyên dụng chở vào phòng thăm gặp.

Ba mẹ của anh Hoàng Đức Bình trong chuyến đi thăm ngày 7 Tháng Sáu (GĐCC)

Về tình hình sức khoẻ: anh Bình hiện vẫn khỏe, dù anh mắc một số bệnh trong nhiều năm qua. Về điều kiện trong trại thì rất tệ: thức ăn không đảm bảo, đồ ăn cấp cho phạm nhân thì không thể ăn được, trong khi đồ ăn do gia đình gửi vào lại bị hạn chế, trại cũng không bán thêm đồ ăn cần thiết nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Một số đồ ăn gia đình gửi cũng không được trại cho nhận.

Khi gia đình cố hỏi thêm về tình hình các anh em trong đội, phía trại giam không cho phép trao đổi. Đây là điều vô lý đã kéo dài suốt nhiều năm. Trại không cho nói những gì mà họ cho là “ảnh hưởng đến trại”, do đó gia đình hoàn toàn không thể biết được chính xác những gì đang xảy ra bên trong.

Tính đến nay, anh Bình đã bị giam cầm hơn 8 năm (án 14 năm), trải qua 2 lần tạm giam tại trại Nghi Kim và B14 trước đó. Còn khoảng 6 năm nữa, anh Bình mới được trả tự do.

Anh Bình gửi lời cảm ơn tới những người bạn đã luôn quan tâm, hỏi thăm và giúp đỡ anh cùng gia đình. Anh cũng cảm ơn các sứ quán, các cơ quan nhân quyền và các tổ chức đã theo dõi, hỗ trợ anh trong suốt thời gian qua.

Về phần anh Trịnh Bá Phương và anh Thái Văn Đường: Hiện tại cả hai vẫn ổn (dù không thể kiểm chứng được thông tin này), anh em trong đội vẫn đoàn kết. Gia đình chúng tôi muốn hỏi thêm thông tin về hai anh, nhưng phía trại không cho phép.

Cũng xin nói thêm về lý do anh Trịnh Bá Phương bị khởi tố:

Khoảng tháng 9 năm 2023, nhiều anh em tại trại An Điềm đã viết biểu ngữ lên giấy A4 với nội dung chống Trung Quốc và phản đối Đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền. Họ đồng loạt giơ biểu ngữ và hô to phản đối ngay tại phòng giam.

Sau đó, anh Phương và Hải bị đánh đập và kỷ luật, cùm chân trong phòng kín 10 ngày. Chú Trương Dũng bị chuyển trại.

Đến tháng 11 năm 2024, bạn Phan Công Hải tiếp tục bị kỷ luật, cùm chân. Các anh em trong đội 34 (tù nhân chính trị) phản đối việc trại không cho Hải nhận đồ ăn từ anh em trong đội. Phản ứng lại, phía trại đóng cửa phòng giam, không cho anh em ra ngoài sinh hoạt, lục soát buồng giam, lấy hết đồ đạc cá nhân và sách vở. Riêng anh Phương bị thu hết bút và giấy.

Trong quá trình lục soát, trại tìm thấy vài tờ giấy A4 ghi biểu ngữ chống Trung Quốc xâm lược và phản đối Đảng Cộng sản. Các biểu ngữ này được cho là do các anh em viết từ nhiều năm trước.

Đến Tháng Tư 2025, cơ quan an ninh điều tra tỉnh Quảng Nam ra quyết định khởi tố anh Phương theo khoản 1, điều 117 Bộ luật Hình sự (Tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”).

Tôi cho rằng đây là một sự việc hoàn toàn phi lý và là hành động trả thù hèn hạ của trại giam An Điềm, nhằm đối phó với những hành vi phản kháng trước đó của các tù nhân chính trị. Ngoài ra, các anh em tù nhân chính trị đã nhiều lần tố cáo trại giam về tham ô, tham nhũng và phản đối chế độ đối xử hà khắc, nên bị trù dập, đàn áp. Việc khởi tố lần này chỉ nhằm vào một mình anh Phương.

Tôi tha thiết kêu gọi cộng đồng trong và ngoài nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các đại sứ quán, các tổ chức xã hội dân sự… hãy quan tâm, giúp đỡ, lên tiếng để bảo vệ quyền con người, hỗ trợ cho các tù nhân chính trị, và phơi bày bộ mặt thật của chế độ cộng sản để toàn thế giới đều biết.

Mong các tù nhân chính trị chân cứng đá mềm, luôn mạnh mẽ kiên cường chốn lao tù, chờ ngày được tự do trở về với gia đình.

Xin cảm ơn và mong nhận được sự giúp đỡ, lên tiếng của tất cả mọi người.

Sài Gòn Nhỏ (10.06.2025)