Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Đức
George Trakl (1887 – 1914)
Một Tối Mùa Đông
Khi tuyết rơi dày lên các ô cửa sổ,
Và tiếng chuông chiều vang vọng hồi lâu,
Bàn đã bày sẵn cho những kẻ đến sau
Trong căn nhà nhỏ gọn gàng, tươm tất.
Trên những lối đi đêm đen dày đặc
Một lữ khách tìm đến trước cổng nhà.
Cây ân phước trong bóng tối đơm hoa
Từ chất sáp sâu trong lòng đất lạnh.
Người lữ khách bước vào trong im lặng;
Qua bậc cửa hóa đá bởi niềm đau.
Ánh sáng thanh khiết chiếu xuống từ trên cao
Trên chiếc bàn tròn: bánh mì và rượu đỏ.
Ein Winterabend
Wenn der Schnee ans Fenster fällt,
Lang die Abendglocke läutet,
Vielen ist der Tisch bereitet
Und das Haus ist wohlbestellt.
Mancher auf der Wanderschaft
Kommt ans Tor auf dunklen Pfaden.
Golden blüht der Baum der Gnaden
Aus der Erde kühlem Saft.
Wanderer tritt still herein;
Schmerz versteinerte die Schwelle.
Da erglänzt in reiner Helle
Auf dem Tische Brot und Wein.
*
Vào Mùa Đông
Trên cánh đồng sáng một màu trắng lạnh
Dưới bầu trời cô quạnh và mênh mông
Lũ quạ đen trên ao nước bay vòng
Đám thợ săn âm thầm đi xuống núi.
Niềm thinh lặng trên ngọn cây buổi tối
Lửa chập chờn trong mái lá hắt ra
Chuông tuần lộc vọng đến từ nơi xa
Trăng xám ngắt đang mọc lên chậm rãi.
Hươu nằm chết bên ruộng nương êm ái
Quạ vẫy vùng trong những rãnh máu tanh
Hơi khói vàng xao động đám cỏ tranh
Tiếng bước chân dẫm trong khu rừng vắng.
Im Winter
Der Acker leuchtet weiß und kalt.
Der Himmel ist einsam und ungeheuer.
Dohlen kreisen über dem Weiher
Und Jäger steigen nieder vom Wald.
Ein Schweigen in schwarzen Wipfeln wohnt.
Ein Feuerschein huscht aus den Hütten.
Bisweilen schellt sehr fern ein Schlitten
Und langsam steigt der graue Mond.
Ein Wild verblutet sanft am Rain
Und Raben plätschern in blutigen Gossen.
Das Rohr bebt gelb und aufgeschossen.
Frost, Rauch, ein Schritt im leeren Hain.
*
Mùa Hè
Buổi chiều lặng tiếng thở than
của chim cu trong rừng vắng.
Hạt lúa chín nặng cúi mình
bông anh túc đỏ thắm.
Có tiếng sấm đen rúng động
trên ngọn đồi xa.
Bài ca của con dế nhỏ,
chết trên đồng rộng bao la.
Gió về trong tán cây dẻ
bỗng dứt tiếng thì thào.
Váy áo ai kêu sột soạt
phía cầu thang cao.
Cây nến chiếu sáng im lìm
trong căn phòng kín;
bàn tay bằng bạc vươn ra
dập tắt ánh nến;
đêm không sao, lặng gió.
Sommer
Am Abend schweigt die Klage
des Kuckucks im Wald.
Tiefer neigt sich das Korn,
der rote Mohn.
Schwarzes Gewitter droht
über dem Hügel.
Das alte Lied der Grille
erstirbt im Feld.
Nimmer regt sich das Laub
der Kastanie.
Auf der Wendeltreppe
rauscht dein Kleid.
Stille leuchtet die Kerze
im dunklen Zimmer;
eine silberne Hand
löschte sie aus;
windstille, sternlose Nacht.
*
De profundis (*)
Có một cánh đồng trơ rạ, nơi cơn mưa đen đổ xuống.
Có một cội cây nâu thẫm, đứng đó lẻ loi.
Có một cơn gió rít, xoay quanh căn chòi trống –
Sao buồn quá chiều nay.
Bên kia xóm nhỏ
Cô gái mồ côi dịu dàng còn mót những bông lúa cuối.
Mắt cô tròn xoe và vàng rỡ trong buổi hoàng hôn
Và lòng cô ngóng đợi tình lang từ chốn thiên đường.
Khi trở lại nhà
Những người chăn cừu bắt gặp tấm thân yêu kiều ấy
Rữa nát trong đám bụi gai.
Tôi là chiếc bóng cách xa xóm làng tăm tối.
Và tôi uống lấy
Sự thinh lặng của Thượng đế từ giếng nước trong rừng.
Trên trán tôi tụ thành kim khí lạnh.
Những con nhện lùng kiếm trái tim tôi.
Làn ánh sáng, trong miệng tôi đã tắt.
Đêm tôi thấy mình nằm trên bãi đất hoang,
Cứng đơ cùng rác rưởi và bụi mờ tinh tú.
Trong bụi cây hạt dẻ
Lại lanh canh những thiên sứ pha lê.
(*) Tiếng La-tinh, có nghĩa ‘’Từ vực thẳm’’
De profundis
Es ist ein Stoppelfeld, in das ein schwarzer Regen fällt.
Es ist ein brauner Baum, der einsam dasteht.
Es ist ein Zischelwind, der leere Hütten umkreist –
Wie traurig dieser Abend.
Am Weiler vorbei
Sammelt die sanfte Waise noch spärliche Ähren ein.
Ihre Augen weiden rund und goldig in der Dämmerung
Und ihr Schoß harrt des himmlischen Bräutigams.
Bei ihrer Heimkehr
Fanden die Hirten den süßen Leib
Verwest im Dornenbusch.
Ein Schatten bin ich ferne finsteren Dörfern.
Gottes Schweigen
Trank ich aus dem Brunnen des Hains.
Auf meine Stirne tritt kaltes Metall.
Spinnen suchen mein Herz.
Es ist ein Licht, das meinen Mund erlöscht.
Nachts fand ich mich auf einer Heide,
Starrend von Unrat und Staub der Sterne.
Im Haselgebüsch
Klangen wieder kristallne Engel.
*
Sinh Nở
Những rặng núi: bóng đen, im lặng và tuyết trắng.
Người thợ săn đỏ leo xuống từ khu rừng;
Ôi, ánh nhìn rêu cỏ của loài dã thú.
Dưới tán linh sam thẫm tối, bà mẹ nằm im
Bàn tay mơ màng mở ra trong giấc ngủ,
Khi mặt trăng tối nay hiện ra mục rữa.
Ôi, sự sinh nở của con người. Mỗi đêm
Dòng nước xanh rạt rào dưới vực thẳm;
Một thiên thần sa đọa thở dài khi thoáng thấy bóng mình,
Dáng hình xanh xao thức dậy trong căn buồng ẩm
Hai mặt trăng
Đôi mắt rọi sáng của người đàn bà già hóa đá.
Tiếng thét đau đớn phút lâm bồn. Với đôi cánh đen
Đêm vuốt ve thái dương đứa bé,
Tuyết nhẹ nhàng rơi xuống từ đám mây đỏ tía.
Geburt
Gebirge: Schwarze, Schweigen und Schnee.
Rot vom Wald niedersteigt die Jagd;
0, die moosigen Blicke des Wilds.
Stille der Mutter; unter schwarzen Tannen
Offnen sich die schlafenden Hande,
Wenn verfallen der kalte Mond erscheint.
0, die Geburt des Menschen. Nachtlich rauscht
Blaues Wasser im Felsengrund;
Seufzend erblickt sein Bild der gefallene Engel,
Erwacht ein Bleiches in dumpfer Stube.
ZweiMonde
Erglanzen die Augen der steinernen Greisin.
Weh, der Gebarenden Schrei. Mit schwarzem Fliigel
Riihrt die Knabenschlafe die Nacht,
Schnee, der leise aus purpurner Wolke sinkt.
*
Trên Mặt Trận Phía Đông
Đàn Organ của bão táp mùa đông vang lên điên loạn
Hệt như cơn thịnh nộ tăm tối của con người,
Những cơn sóng máu của chiến trận vỡ tung,
Cánh rừng sao, trụi lá.
Mang vầng trán bị tàn phá và đôi cánh tay màu bạc
Đêm vẫy gọi những người lính chết.
Trong bóng cây tần bì mùa thu
Những vong hồn than thở.
Hoang mạc gai vây bộc quanh thành phố.
Trăng bò lên vũng máu trên những bậc thang
Đuổi theo đám đàn bà trong dáng vẻ kinh hoàng.
Bầy sói hoang nhảy bổ qua cánh cổng.
Im Osten
Den wilden Orgeln des Wintersturms
Gleicht des Volkes finstrer Zorn,
Die purpurne Woge der Schlacht,
Entlaubter Sterne.
Mit zerbrochnen Brauen, silbernen Armen
Winkt sterbenden Soldaten die Nacht.
Im Schatten der herbstlichen Esche
Seufzen die Geister der Erschlagenen.
Dornige Wildnis umgürtet die Stadt.
Von blutenden Stufen jagt der Mond
Die erschrockenen Frauen.
Wilde Wölfe brachen durchs Tor.
*
Grodek
Vào buổi chiều tối những khu rừng mùa thu rền vang
tiếng hung khí chết người, những cánh đồng vàng óng
và ao hồ xanh thẫm, trên cao là vầng nhật
lăn về chân trời tối đen; đêm bủa vây
những chiến binh hấp hối, tiếng kêu than hoang dại
từ những chiếc mồm rách bươm
Nhưng trên bãi trống âm thầm tích tụ
đám mây đỏ tía nơi trú ngụ một hung thần
máu tràn ra sóng sánh, trăng khuya thấm lạnh;
tất cả nẻo đường đều dẫn về mục rữa tối tăm.
Dưới tán lá lấp lánh tinh tú và đêm đen
bóng người em gái lướt qua khu vườn vắng
đón chào hồn ma những người anh hùng, đầu tóc đẫm máu
và nhẹ nhàng vút lên trong đám lau sậy những ống sáo tăm tối của mùa thu.
Ôi, nỗi đau buồn kiêu hãnh hơn! điện thờ bằng đồng lạnh giá
ngọn lửa nóng bỏng của tinh thần hôm nay được dưỡng nuôi bởi đớn đau mãnh liệt
những thế hệ không bao giờ được sinh ra.
Grodek
Am Abend tönen die herbstlichen Wälder
von tödlichen Waffen, die goldnen Ebenen
und blauen Seen, darüber die Sonne
düster hinrollt; umfängt die Nacht
sterbende Krieger, die wilde Klage
ihrer zerbrochenen Münder.
Doch stille sammelt im Weidengrund
rotes Gewölk, darin ein zürnender Gott wohnt
das vergoßne Blut sich, mondne Kühle;
alle Straßen münden in schwarze Verwesung.
Unter goldenem Gezweig der Nacht und Sternen
es schwankt der Schwester Schatten durch den schweigenden Hain,
zu grüßen die Geister der Helden, die blutenden Häupter;
und leise tönen im Rohr die dunkeln Flöten des Herbstes.
O stolzere Trauer! ihr ehernen Altäre
die heiße Flamme des Geistes
nährt heute ein gewaltiger Schmerz die ungebornen Enkel.
Grodek là bài thơ cuối cùng của thi sĩ Georg Trakl, được ông sáng tác năm 1914. Trakl từng là lính quân y trong Đệ Nhất Thế Chiến, những ám ảnh kinh hoàng tại chiến trường Grodek (hồi đó thuộc đế quốc Áo-Hung) khiến ông trở nên điên dại, mất tự chủ và nhiều lần đòi tự sát bằng súng. Sau một thời gian chấn thương tâm lý và những cơn trầm cảm liên hoàn, ông tìm đến cái chết bằng cách sử dụng thuốc phiện quá liều tại bệnh viện quân sự Cracow (Krakau) vào ngày 3 tháng 11 năm 1914, ở tuổi 27. Grodek có lẽ là bài thơ quan trọng nhất và được biết đến nhiều nhất của Trakl.