“Đạo Tin Lành được phụ nữ H’mông ủng hộ rất nhiều. Phụ nữ H’mông có tác động mạnh đối với tín ngưỡng của chồng mình… Chúng tôi đã vận động người dân bỏ rượu, bạo hành [trong gia đình] bao nhiêu năm rồi mà không có kết quả, còn bây giờ, đối với người H’mông theo đạo, họ tự bỏ chứ không được vận động.”
Đây là trích lời một lãnh đạo chính quyền địa phượng, huyện Bảo Thắng.
Từ cuối những năm 1980, ước tính 300.000 trong số một triệu người H’mông sống ở Việt Nam đã chuyển đổi sang đạo Tin Lành, mặc dù đáng ngạc nhiên là không có nhà truyền giáo nào ở vùng cao Việt Nam để truyền giáo cho họ vào thời điểm đó.
Hiện tượng này đã có nhiều tác động xã hội quan trọng: những người cải đạo người H’mông đã từ bỏ phong tục truyền thống của họ và tiếp xúc với những ý tưởng mới về không chỉ đời sống tinh thần mà cả cuộc sống gia đình và thái độ kinh tế.
Khi làm như vậy, các tín đồ cũng đã cắt đứt quan hệ với những người không theo đạo Tin Lành và từ chối những người lớn tuổi và pháp sư truyền thống, gây ra nhiều xung đột trong cộng đồng người H’mông, làm chia rẽ bản làng và đôi khi cả các gia đình. Để đối phó với tình trạng bất ổn xã hội như vậy, các chính sách nhà nước nặng tay nhằm mục đích khuyến khích người H’mông cải đạo từ bỏ đạo Tin Lành đã dẫn đến sự đàn áp và di cư tôn giáo nghiêm trọng đến các vùng khác của Việt Nam và hơn thế nữa.
Để giải thích cho sự thành công của đạo Tin Lành trong người H’mông ở Việt Nam, nơi có những ảnh hưởng chính trị và xã hội quan trọng như vậy, vai trò lịch sử của phụ nữ không thể được coi nhẹ. Trước tiên, chúng ta cần hiểu vai trò giới trong xã hội H’mông truyền thống.
Mục lục
Văn hóa của người H’mông
Trước khi chúng ta xem xét các tín ngưỡng và tập quán truyền thống về mặt giới tính, điều quan trọng là phải nhận ra rằng đây không phải là vấn đề về sự ‘lạc hậu’ hay các nhóm sắc dân thiểu số ‘mê tín, dị đoan’. Thay vào đó, chế độ phụ hệ thực sự phổ biến ở hầu hết các xã hội trên toàn thế giới, nhưng có vẻ khác nhau ở các nền văn hóa khác nhau.
Thế giới quan truyền thống của người H’môngcó thể được mô tả là ‘duy linh’ – tức là niềm tin vào một loạt các linh hồn vô hình thấm vào cuộc sống hàng ngày, bao gồm tổ tiên, linh hồn trên rừng, linh hồn ở nhà và lình hồn của cá nhân bạn.
Xã hội của người H’mông được tổ chức theo các họ tộc, tương ứng với các dòng họ (ví dụ: Vương, Giàng, Sùng, v.v.) và người H’mông luôn kết hôn bên ngoài gia tộc của họ. Ở cấp địa phương, các gia tộc được lãnh đạo bởi những người lớn tuổi có uy tín, những người có thể được mời để giải quyết tranh chấp trong các gia tộc.
Tìm hiểu đôi lứa và hôn nhân
Dấu hiệu đầu tiên của sự bất bình đẳng giới là trong khi một chàng trai người H’mong tự do chọn người mà anh ta muốn kết hôn, cô gái thường ít có tiếng nói về vấn đề này và quyết định được đưa ra bởi cha cô ta. Phong tục hứa hôn của người H’mong [‘kéo vợ’] có thể được xem là một minh chứng trực quan cho sự mất cân bằng quyền lực này, mặc dù thường thì ‘bắt giữ được cả hai người yêu thích nhau lên kế hoạch trước, với sự đồng thuận của cô gái.
Trong các nghi lễ hôn nhân truyền thống, cô dâu mất đi tinh thần dòng tộc cha mẹ của mình và phải chuyển đến nhà của gia đình chồng, nằm dưới quyền của hệ thống cấp bậc mới của gia tộc. Thông thường bằng cách chuyển đến một ngôi làng khác, các bà vợ mất liên lạc với bạn bè và gia đình cũ của họ có thể là một viễn cảnh đau thương. Vì vậy, cô dâu người H’mông không phải lúc nào cũng rất hạnh phúc trong ngày cưới!
Đổi lại với việc mất con gái của họ cho một gia tộc khác, gia đình của cô dâu được trả một khoản gọi là ‘tiền thách cưới’, được coi là để bồi thường cho cha mẹ vì đã nuôi nấng cô. Là một phần của thỏa thuận, cô dâu theo dự kiến sẽ được trao đầy đủ cho chồng của cô và gia đình anh ta.
Sau đó, nếu có bất kỳ tranh chấp hay mâu thuẫn hôn nhân nào, thì họ hàng nhà chồng chịu trách nhiệm giải quyết – điều này thường dẫn đến việc ưu tiên cho phía người chồng đổi lại cho sự an toàn của người vợ.
Trong trường hợp bạo lực gia đình hoặc lạm dụng nghiêm trọng, người vợ có thể chạy về nhà bố mẹ cô ấy, nhưng nếu người chồng đến yêu cầu người vợ trở về thì cuối cùng bố cô gái sẽ giao lại cô. Điều này là do người cha không muốn hoàn trả cho con rể của ông khoản tiền (thách cưới) đã được nhà trai trả giá để có cô dâu, chưa kể các chi phí cho lễ cưới mà con rể đã phải trả.
‘Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô’
Giống như người Kinh, người H’mông có một câu nói truyền thống: Chín con gái không xứng đáng bằng một con trai. Hầu hết các gia đình người H’mông sẽ tiếp tục sinh thêm con cho đến khi họ có con trai – dẫn đến một tình huống phổ biến, theo đó có một vài cô con gái lớn và một đứa con trai út trong một gia đình.
Rất hiếm khi tìm thấy một gia đình người H’mông không có con trai, vì con trai bắt buộc phải ở nhà và chăm sóc cha mẹ khi họ già. Mặt khác, các cô con gái được đưa ra ý tưởng rằng nhà của bố mẹ họ chỉ là tạm thời, vì họ dự định sẽ kết hôn và rời khỏi gia đình trong tương lai.
Hầu hết các bậc cha mẹ người H’mông sẽ nói rằng họ yêu cả con trai và con gái của họ như nhau, nhưng trong thực tế, chúng được nuôi dưỡng theo các tiêu chuẩn khác nhau. Con gái dự kiến sẽ làm nhiều việc nhà và chăm sóc trẻ nhỏ hơn, trong khi chỉ có con trai được dạy cách tiến hành các nghi lễ truyền thống và thổi ‘khèn’.
Mặc dù trong những năm gần đây, tỷ lệ đi học đang được cải thiện ở các trẻ gái H’mông, nhiều phụ huynh vẫn ưu tiên và đầu tư vào việc giáo dục cho con trai của họ. Hơn nữa, đất đai và quyền thừa kế theo truyền thống được phân chia giữa các người con trai nhưng không phải là con gái, điều này kéo dài sự bất bình đẳng giới cho thế hệ tiếp theo.
Phân công lao động
Các vai trò giới truyền thống quy định rằng đàn ông làm những công việc ‘nặng nhọc’ nhưng bất thường của cuộc sống nông thôn như chặt cây, xây nhà, buôn trâu hay gặt lúa, trong khi phụ nữ làm những công việc ‘nhẹ nhàng’ hàng ngày là dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc trẻ em và gieo hạt giống.
Tuy nhiên, trên thực tế, một số nhiệm vụ ‘nặng nề’ của đàn ông không đòi hỏi nhiều về thể chất, như bán trâu, trong khi hầu hết các nhiệm vụ của phụ nữ không hề ‘nhẹ nhàng’ – như bất cứ ai nuôi dạy con cái đều có thể cho bạn biết!
Du khách đến các khu du lịch như Sapa và Hà Giang đã quan sát cách phụ nữ H’mông dường như làm mọi thứ – kiếm sống bằng nghề bán hàng rong với em bé trên lưng – trong khi không thấy đàn ông đâu.
Một lý do cho điều này là đàn ông H’mông thường xuyên tham gia các nghi lễ truyền thống kéo dài hàng ngày hoặc các cuộc tụ họp không chính thức – cả hai đều có việc uống rất nhiều rượu. Điều này không chỉ tạo gánh nặng lớn cho người vợ khi thực hiện cả hai nhiệm vụ ‘nhẹ’ và ‘nặng nề’ khi người đàn ông vắng mặt, mà việc say rượu ở nam giới cũng làm tăng nguy cơ bạo lực nhắm vào phụ nữ.
Tất nhiên, không phải tất cả đàn ông H’mông đều như vậy – nhiều người là những người chồng yêu vợ con và những công dân có trách nhiệm. Nhưng những phong tục và cấu trúc xã hội này khiến một số người đàn ông có thể lười biếng hoặc bạo lực, đồng thời cũng gây áp lực cho hầu hết phụ nữ phải làm việc vất vả hơn.
Phụ nữ H’mông kinh doanh
Bất chấp những rào cản mà họ phải đối mặt, phụ nữ H’mông không chỉ là nạn nhân thụ động mà còn tìm cách thương lượng hoặc thách thức bất bình đẳng giới.
Một số phụ nữ đã làm điều này là bằng cách nắm lấy ngành công nghiệp du lịch hoặc cơ hội kinh doanh tại các thị trường địa phương, điều này làm tăng thu nhập của họ và do đó mang lại cho họ nhiều quyền lực hơn trong gia đình. Tuy nhiên, những cơ hội này không có sẵn cho phần lớn các cộng đồng người H’mông sống ở những vùng xa xôi, hẻo lánh cách xa tuyến đường du lịch.
Một viễn ảnh rộng rãi hơn (và có lẽ đáng ngạc nhiên) của việc kinh doanh ở phụ nữ H’mong trong những năm gần đây là cách họ dẫn đầu trong việc cải giáo sang đạo Tin lành.
Cải sang đạo Tin lành
Trong các phiên lễ nhà thờ trên khắp vùng cao nguyên Việt Nam, phụ nữ H’Mông vượt trội hơn đàn ông và thường được coi là trung thành hơn trong các hoạt động tôn giáo. Họ cũng thường là những người đầu tiên chuyển đổi trong gia đình của họ và gây ảnh hưởng đáng kể đến thành phần còn lại của gia đình để đi theo họ.
Chẳng hạn, bà Mai từ tỉnh Lào Cai chuyển sang đạo Tin Lành sau khi có tin nói rằng bà đã được chữa lành một cách siêu nhiên từ một căn bệnh lâu niên sau khi nhận được lời cầu nguyện.
Sau đó, bà nói với người chồng là ông Sai: “Tối nay tôi theo Chúa rồi đấy. Anh theo Chúa không? Anh không theo Chúa thì thôi, tôi theo Chúa đấy. Anh thích theo bố mẹ hay là theo tôi?”
Sai có phần mất cảnh giác và không biết cách phản ứng nên anh quyết định theo vợ và cũng trở thành một người theo đạo Tin lành! Lời chứng này rất phổ biến trong cộng đồng Tin Lành của người H’mông, với phụ nữ thậm chí còn mang tiếng là thường xuyên cằn nhằn chồng cho đến khi họ cải đạo!
Hơn nữa, phụ nữ có nhiều cơ hội tham gia các hoạt động tôn giáo hơn phong tục truyền thống của người H’mông do nam giới thống trị. Những người phụ nữ mù chữ trước đây, những người không bao giờ có cơ hội đến trường học, tự dạy mình cách đọc chữ H’mông và sau đó đọc Kinh Thánh cho con cái họ.
Các mục sư và nhà truyền giáo chính thức vẫn chủ yếu là đàn ông, nhưng có những vai trò khác cho phụ nữ H’mông như hát thánh ca, cầu nguyện chung, nghiên cứu Kinh Thánh trong các nhóm nhỏ, v.v.
Hơn nữa, nhiều học viên nữ đang theo học các trường Thần học ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn) và các học viên này đang đặt câu hỏi về vai trò giới trong lãnh đạo nhà thờ.
Cuộc sống gia đình
Có lẽ tác động sâu sắc nhất của đạo Tin Lành đối với quan hệ giới của người H’mông là ở hộ gia đình, nơi giải quyết một số bất bình đẳng giới nói trên.
Thứ nhất, sự phân công lao động đã thay đổi. Không giống như trước đây, khi chỉ có đàn ông H’mông tham dự các nghi lễ truyền thống, phụ nữ Tin Lành có thể tận hưởng ngày Chủ nhật không phải làm việc, vì đó là ngày nghỉ ngơi và hoạt động tôn giáo của Tin lành.
Quan trọng nhất, đàn ông Tin Lành bị cấm uống rượu và không được khuyến khích chi tiền cho thuốc lá hoặc cờ bạc. Vì các bài giảng của nhà thờ cũng khuyến khích đàn ông làm việc hiệu quả và đầu tư vào gia đình của họ, giờ đây phụ nữ có nhiều quyền lực hơn để thúc đẩy chồng họ đảm nhận nhiều công việc hơn.
Uống rượu trong cộng đồng là một hình thức bắt buộc của nam giới và nhiều người đàn ông H’mông rất khó bỏ rượu – một số đàn ông cải đạo nhưng sau đó ‘thay đổi trở lại’ và lại uống rượu với thân quyến của họ, để lại tình trạng các gia đình mà trong đó vợ con thì theo Tin lành, còn chồng thì không.
Tuy nhiên, đối với những người nỗ lực và bỏ được rượu, việc này có tác động rất tích cực đến các quan hệ gia đình. Ngay cả chính quyền địa phương, những người nghi ngờ hoạt động của đạo Tin lành, đã thừa nhận rằng bạo lực gia đình đã giảm trong cộng đồng Tin Lành của người H’mông kể từ khi rượu bị cấm.
Đám cưới và con cái
Phong tục thách cưới của nhà gái được duy trì trong hầu hết các cộng đồng Tin lành, tuy nhiên nó thường có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với các đám cưới truyền thống. Các đám cưới Tin Lành cũng ngắn hơn và rẻ hơn vì không có rượu, giúp các gia đình nghèo kết hôn dễ dàng hơn.
Hầu hết các gia đình Tin Lành vẫn coi việc có ít nhất một con trai là điều cần thiết, mặc dù một số mục sư đang cố gắng thuyết phục các cộng đoàn, hội chúng của họ rằng con gái và con trai đều quan trọng như nhau.
Một nhà lãnh đạo Tin Lành có ảnh hưởng chỉ có hai cô con gái (và không có ý định sinh thêm con) đang dạy người khác rằng mục đích của cuộc sống là đóng góp cho xã hội, chứ không phải để duy trì dòng tộc của bạn – đây là một giáo lý khá phản văn hóa.
Một mục sư khác hoàn toàn từ chối chấp nhận tiền cho thách cưới khi con gái ông lấy chống, và thậm chí đã trả một nửa chi phí cho đám cưới – điều mà trước đây chưa từng thấy trong xã hội của người H’mông.
Trao quyền cho giới thông qua tôn giáo?
Trong hai hoặc ba thập kỷ qua, các phong trào tôn giáo hiện tại và mới trên khắp Việt Nam đã phát triển và thu hút nhiều tín đồ hơn. Dường như phụ nữ đông hơn đàn ông trong hầu hết các hoạt động tôn giáo của Việt Nam, không chỉ ở vùng cao. Có phải phụ nữ một cách nào đó về mặt tự nhiên tỏ ra ‘tâm linh hơn’ hay nhạy cảm hơn để dẫn dắt một cuộc sống tinh thần so với đàn ông?
Nhưng lịch sử gần đây của đạo Tin Lành ở người H’mông cho thấy rằng có một cuộc đấu tranh ẩn giấu trong các mối quan hệ quyền lực giới liên quan việc chuyển đổi tôn giáo. Phụ nữ H’mông, những người bị loại ra khỏi vương quốc tôn giáo truyền thống, đã lặng lẽ đóng một vai trò hàng đầu trong việc chuyển đổi gia đình của họ cải sang một tôn giáo tương đối giải phóng đối với họ.
Cũng như các thời kỳ khác của lịch sử Việt Nam, vai trò của phụ nữ có thể không rõ ràng khi thoạt nhìn, nhưng cái nhìn kỹ hơn cho thấy khả năng ảnh hưởng của họ đem lại những hệ quả theo những cách thức tích tiểu thành đại.