Seite auswählen

Từ 17 đến 20 tháng 10 năm 1988 Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ 6 đã bầu ông Xuân Cang tổng biên tập báo Lao Động vào ban lãnh đạo Tổng Liên đoàn, phụ trách trưởng ban tuyên giáo. Tổng Liên đoàn Lao động tổ chức thăm dò chọn tổng biên tập mới bằng hình thức bỏ phiếu kín. Có lẽ vì tôi đã làm tốt cuộc đấu tranh với Tổng Cục trưởng Tổng cục Cao su, nên số đông cán bộ, phóng viên báo Lao Động bỏ phiếu chọn tôi làm tổng biên tập. Ông Phạm Thế Duyệt chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động đã vào Sài Gòn gợi ý tôi ra Hà Nội nhận trách nhiệm tổng biên tập báo Lao Động. Khóa trước, tôi đã từ chối, nhưng lần này tôi muốn nhận vì để chứng tỏ, dù ông Nguyễn Văn Linh quyết “đánh” cho chết, tôi vẫn sống đàng hoàng. Từ đại hội VI, không khí dân chủ đã đem lại hy vọng sáng tạo. Tôi cũng muốn nhân dịp này góp phần đổi mới báo lao động, đưa nó ra khỏi ngăn kéo của cán bộ công đoàn, góp mặt trên các sạp báo cả nước.

Tại đại hội 6, Lê Đức Thọ muốn tranh chức tổng bí thư với Trường Chinh, để nội bộ Đảng được yên, người ta chọn phương án Nguyễn Văn Linh. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thi thố tài năng ra sao mọi người đã biết. Ở đây chỉ xin kể đôi việc ông chỉ đạo tổ chức công đoàn.

Ông Mai Văn Bảy chủ tịch Liên hiệp Công đoàn thành phố Hồ Chí Minh cho biết, vì ông đã tích cực bảo vệ tôi, chống lại chỉ thị của Nguyễn Văn Linh là phải khai trừ đảng và khởi tố tôi, do đó ông Linh đã gây mọi áp lực buộc Mai Văn Bảy phải rời khỏi mọi chức vụ ở thành phố. Bà Hoàng Thị Khánh là người được đề cử lên thay Mai Văn Bảy. Ông Linh cũng không đồng ý. Nhiều người cho rằng chỉ vì Hoàng Thị Khánh tính thẳng thắn, dám nói trái ý ông. Ông Linh chỉ đạo đưa ông Nguyễn Văn Tư, ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Cục trưởng Tổng cục Đường sắt về làm chủ tịch công đoàn thành phố. Đây là chuyện chưa từng có trong việc chọn người cho chức vị này. Được Tổng bí thư giới thiệu, ông Nguyễn Văn Tư đắc cử chủ tịch công đoàn thành phố, rồi đi dự Đại hội Công đoàn toàn quốc và đắc cử Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động ngoài ý muốn của cả ông và ông Linh. Vậy là bà Hoàng Thị Khánh lên thay ông Tư ngoài dự liệu của ông Linh.

Ở Đại hội Công đoàn toàn quốc, ông Nguyễn Văn Linh cho rằng những cán bộ đang có trong hệ thống công đoàn không có ai xứng đáng lên ghế chủ tịch. Ông chỉ thị đưa ông Nguyễn Văn An, ủy viên Trung ương Đảng, Phó Ban Tổ chức Trung ương ứng cử chức chủ tịch. Ông đến đại hội thuyết phục đại biểu bầu cho ông Nguyễn Văn An. Đại hội chia tổ thảo luận, 100 % số tổ không đồng ý chọn Nguyễn Văn An làm chủ tịch với lý do: ông này chưa bao giờ làm công tác công đoàn. Cuối cùng ông Linh phải cho rút ông An và chỉ thị đại hội bầu một người trong các phó chủ tịch nhiệm kỳ vừa qua. Ông hứa sẽ đưa người đắc cử chức chủ tịch bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 6. Một lần nữa, đại hội cũng không bỏ phiếu theo chỉ đạo của ông mà bỏ phiếu bầu ông Nguyễn Văn Tư làm chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động. Sau này dư luận cho rằng ông Nguyễn Văn An là người may mắn nhất trong vụ Đại hội Công đoàn bác chỉ thị của ông Linh, bởi vì nhờ bị thất cử mà ông không bị kẹt ở Công đoàn, có cơ hội để đến Đại hội 7 được bầu vào Bộ Chính trị làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, rồi kế tiếp là chủ tịch Quốc hội!

Sau khi tôi ra Hà Nội làm tổng biên tập báo Lao Động khoảng nửa tháng thì có cuộc họp của ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đến huấn thị về công tác công đoàn thực hiện nghị quyết của Đảng. Đứng trên lễ đài nhìn xuống cử tọa, chạm mắt tôi đang ngồi cạnh chủ tịch Nguyễn Văn Tư, ông cau mày, nói như hụt hơi. Tuy biết ông đang khó chịu, nhưng tôi không thể ngờ ông tiếp tục ra “đòn thù dai” đối với tôi. Sau khi nói chuyện với hội nghị, ông gặp riêng chủ tịch Nguyễn Văn Tư chỉ thị: “Có lẽ các đồng chí không biết rõ tay Tống Văn Công nên đã bổ nhiệm hắn làm tổng biên tập cơ quan ngôn luận của tổ chức giai cấp tiên phong. Tôi đề nghị cho người khác có quan điểm giai cấp công nhân thật vững vàng để thay ngay anh ta”.

Ngay hôm sau, ông Nguyễn Văn Tư triệu tập đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động phổ biến chỉ thị của tổng bí thư. Tất cả đều kinh ngạc vì thấy vô lý, nhưng chưa biết phải đối phó thế nào. Ông Định Gia Bảy, ủy viên đảng đoàn, trưởng ban tổ chức là người có trách nhiệm về nhân sự, phát biểu: “Ngay sau khi có chỉ thị của tổng bí thư, chúng ta đã họp bàn cách giải quyết. Như vậy tức là chúng ta rất nghiêm túc thực hiện chỉ thị của đồng chí ấy. Tuy nhiên, việc đánh giá cán bộ trong tổ chức của mình thì chắc chắn chúng ta có điều kiện để hiểu rõ hơn đồng chí ấy. Do đó, theo tôi chúng ta có trách nhiệm làm cho đồng chí ấy hiểu vì sao chúng ta đã quyết định chọn Tống Văn Công làm tổng biên tập”. Trừ ông bí thư Đảng đoàn Nguyễn Văn Tư, tất cả những người còn lại đều quen biết tôi không dưới 5-10 năm. Phó bí thư đảng đoàn, ủy viên trung ương Cù Thị hậu quen biết tôi từ khi bà còn là cô thợ dệt, tôi với tư cách nhà báo đã gặp gỡ bà ở xí nghiệp, đến thăm gia đình, hỏi chuyện và viết nhiều bài đăng báo, in sách. Bà nói: “Anh Công là nhà báo đi sát công nhân và tổ chức công đoàn. Anh đã viết rất nhiều điển hình của ngành dệt và ở các ngành nghề khác. Anh là người sáng lập và đồng sáng lập hai tờ báo của công đoàn. Chúng ta chọn một người như vậy làm tổng biên tập là đúng đắn. Về chuyện riêng, ai cũng biết là cuộc hôn nhân đầu tiên anh không có hạnh phúc”. Anh Dương Xuân An từng trả lời phỏng vấn của tôi thì anh là chủ tịch công đoàn ngành xây dựng kể: “Tống Văn Công có quan hệ rất tốt với các công đoàn ngành và các cơ sở, tìm hiểu mọi chuyện rất cặn kẽ. Một lần tôi được phỏng vấn, nghe cách đặt vấn đề, tôi biết tay này đã nắm chắc mọi chuyện ở đây, ta phải hợp tác cùng mổ xẻ những mắc míu, chứ không thể nói xuôi chiều”. Chị Hoàng Thị Khánh quen biết tôi khi chị còn làm chủ tịch Công đoàn Quận 10, tôi làm trưởng ban tuyên giáo kiêm tổng biên tập báo. Mỗi người nêu một chuyện để chứng minh rằng Tống Văn Công có năng lực và tinh thần trách nhiệm trong công việc, không phải là người xấu. Tất cả các ý kiến phát biểu được đi vào biên bản, cuối cùng tổng hợp lại thành bản báo cáo kính gửi đồng chí tổng bí thư. Mấy hôm sau, chủ tịch Nguyễn Văn Tư cùng với trưởng ban tư tưởng văn hóa Trần Trọng Tân đến gặp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trình các văn bản nói trên. Theo chủ tịch Nguyễn Văn Tư kể lại, suốt buổi làm việc hôm đó tổng bí thư chỉ nghe, không hỏi, cũng không có ý kiến nhận xét. Từ đó cho tới hết nhiệm kỳ, ông Nguyễn Văn Linh không có ý kiến gì về báo Lao Động và cá nhân tôi. Đến năm 1993 khi có Tám Đăng (phó tổng biên tập, nguyên trợ lý báo chí của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh) vu cáo tôi làm bình phong cho một âm mưu diễn tiến hòa bình do Lý Quý Chung (nguyên bộ trưởng trong chính phủ Dương Văn Minh) cầm đầu, ông mới gửi thư “cố vấn” cho Đỗ Mười chỉ đạo Tổng Liên đoàn Lao động buộc tôi “về vườn”.

Thời chống Pháp, tôi có nhiều năm công tác ở Sở Giao thông Liên lạc Nam bộ, sau đó là Đội Thông tin Liên lạc thuộc Phòng Tham mưu Bộ Tư lệnh Nam bộ, những nơi có điều kiện để biết tên tuổi, chức vụ, địa chỉ của các nhà lãnh đạo, vậy mà tôi chưa hề nghe tên ông Nguyễn Văn Cúc (tên cúng cơm của Nguyễn Văn Linh). Đến thời chống Mỹ, tôi được biết Nguyễn Văn Linh là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (bí thư là Nguyễn Chí Thanh, sau năm 1968 là Phạm Hùng). Năm 1969 trong lễ tang cụ Hồ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông Linh, người trẻ nhất trong những ông ủy viên Ban Chấp hành Trung ương ở lễ truy điệu tại hội trường Ba Đình. Sau 30-4-1975, ông lên làm bí thư thành ủy Sài Gòn. Lúc này tôi làm tổng biên tập báo Lao Động Mới của Liên hiệp Công đoàn Giải phóng miền Nam do ông Nguyễn Hộ làm chủ tịch. Bạn tôi, anh Trương Quang Lộc (tức Trương Tấn Đức phụ trách Trường Báo chí của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) bảo tôi: “Mày ơi, ông Nguyễn Văn Linh làm to vậy chứ dốt lắm. Đến bất cứ cuộc hội nghị nào ổng cũng chỉ nói ‘thế giới chia làm hai phe, có bốn mâu thuẫn’”. Tháng ba năm 1982 ông Linh bị thất sủng, rời khỏi Bộ Chính trị khóa Đại hội 5, xin về làm bí thư thành ủy Sài Gòn thay ông Võ Văn Kiệt được điều ra Trung ương. Ở đây ông hưởng kết quả “xé rào” của ông Võ Văn Kiệt. Chính môi trường này tạo cơ hội để ông trở thành tổng bí thư ở Đại hội 6. Nhưng đó là một trong những lý do khiến ông tìm cớ dìm ông Võ Văn Kiệt.

Năm 1990 phong trào dân chủ nổi lên mạnh mẽ ở các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Ở trong nước, Trần Xuân Bách đòi đổi mới chính trị, văn nghệ sĩ đòi tự do tư tưởng, tự do sáng tác. Nguyễn Văn Linh đã dùng mọi thủ đoạn nhằm bảo vệ sự độc quyền của đảng Cộng sản: đi Thành Đô cầu hòa với địch, cách chức Trần Xuân Bách, chỉ đạo cách chức nhà văn Nguyên Ngọc, giữa hội trường Ba Đình dịp mừng ngày quốc khánh năm 1990 ông ta công khai gọi “con Dương Thu Hương chống Đảng, thằng Nguyễn Quang Sáng hư hỏng”. Báo Lao Động Chủ Nhật ngày 9 tháng 9 năm 1990 đã phê phán hành vi vô văn hóa này bằng bài tiểu phẩm có tựa đề “Hai năm, ba chữ” của nhà báo Nguyễn An Định. Bài báo kể chuyện Bưu điện tỉnh Quảng Ninh Phải mất 2 năm mới huấn luyện các nhân viên tổng đài điện thoại nói được ba chữ “dạ, tôi nghe” khi trả lời khách gọi tới thay cho cách trả lời trước đây “muốn gặp ai?”, “gọi gì đó?” Bài báo kết luận “dù phải mất hai năm chỉ được có ba chữ, nhưng ta hãy cứ mừng, bởi ngay bây giờ đây, trên diễn đàn công khai, người ta còn văng thằng nó con kia cơ mà”! Báo phát hành hôm trước, hôm sau anh Hoàng Trọng Đỉnh Nguyên phó tổng biên tập báo Lao Động đã nghỉ hưu đến thăm tôi, vừa khen, vừa tỏ ra lo lắng: “Các cậu to gan, liều lĩnh quá! Đọc bài này ai cũng biết là phê bình tổng bí thư. Xóm cán bộ về hưu chúng mình xôn xao bình luận, nói chung là đồng tình với các cậu”. Sau đó ít lâu, từ Sài Gòn nhà thơ Nguyễn Duy viết bài thơ Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ có hai cầu “tức cảnh”: “Ta nhờn nhợn cái há mồm vĩ nhân tôm cá. Khạc đủ nghề thằng nọ con kia”.

Đọc bài trước: Từ theo cộng đến chống cộng (47): Nhân vụ học trò đánh thầy giáo

Đọc bài tiếp theo: Từ theo cộng đến chống cộng (49): Ngày nhận việc được gặp các bạn văn nổi tiếng