Mục lục
Kẻ sĩ là ai?
- VĂN HÓA NGHỆ AN
- Thứ ba, 24 Tháng 4 2018
Đây là câu hỏi không hề mới bởi mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử đề có những bối cảnh, đặc điểm, điều kiện khác nhau quy định các hệ thống gía trị khác nhau, trong đó có giá trị, hay là phẩm chất, của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Tầng lớp trí thức ngày càng đông đảo, vị trí của họ ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội. Trí thức có phải là kẻ sĩ? Đây cũng là một câu hỏi không dễ trả lời. Và một loạt câu hỏi khác xung quanh lịch sử và vai trò của trí thức, của tầng lớp kẻ sĩ được đặt ra vì không bao giờ như bây giờ, vai trò của tri thức, của trí thức gần như đang có ý nghĩ quyết định đối với sự phát triển, đặc biệt, các kẻ sĩ, những người tiêu biểu của giới trí thức về phương diện xã hội lại vô cùng quan trọng trong bối cảnh tìm nhận con đường phát triển. Văn hóa Nghệ an đã có cuộc trao đổi với giáo sư Trần Ngọc Vương đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội để có thêm một câu trả lời cho câu hỏi trên.
Ở nước ta, bên cạnh khái niệm trí thức còn có các khái niệm danh sĩ, kẻ sĩ.Khái niệm kẻ sĩ xuất hiện từ lúc nào?
GS Trần Ngọc Vương:“Sĩ” là một danh từ chỉ người. Có thể, đó là một danh từ chung, để chỉ một nhóm xã hội, một cộng đồng người phân biệt với nhóm xã hội hay cộng đồng người khác bởi những thuộc tính đặc trưng. “Sĩ” cũng có thể là một danh từ riêng khi chỉ một cá nhân cụ thể trong sự phân biệt với một hay những cá nhân khác trong một tập hợp người nhất định.
“Sĩ” là một từ gốc Hán, xuất hiện từ rất sớm. Theo chỗ tôi biết, thì từ “giáp cốt, kim văn” (chữ trên mai rùa, xương thú, trên các di văn khảo cổ bằng kim loại như chuông khánh..) đã có chữ này. Hàng trăm năm nay các nhà Cổ Hán ngữ học vẫn còn tiếp tục phát hiện và luận giải nghĩa gốc của từ này trên các văn bản khảo cổ có niên đại sớm nhất. Các nghiên cứu cho thấy ở thời kỳ đầu nghĩa của chữ “sĩ” này chưa hoàn toàn định hình…
Về đại thể, có thể khẳng định rằng, nghĩa từ nguyên sớm nhất của chữ (cũng là “từ”) “sĩ” là người có hiểu biết, gần tương đương với nghĩa “người có chữ, người biết chữ”. Trong xã hội cổ đại khi phân hóa đẳng cấp và giai cấp chưa cao, bộ phận những người đóng vai trò lãnh đạo, nắm quyền trong cộng đồng còn là một nhóm nhỏ, đã có thể xác định vài ba mẫu người “không thể thiếu” , đó là người thủ lĩnh và những người hỗ trợ thủ lĩnh. Những người hỗ trợ có thể có hai loại: loại thứ nhất là hỗ trợ bằng sức mạnh, dùng sức mạnh để chống lại “thù trong giặc ngoài” trực tiếp, trước mắt của thủ lĩnh và / hoặc của cộng đồng, loại thứ hai, hỗ trợ bằng tri thức và kinh nghiệm, bằng “mưu mẹo”, thủ đọan để ổn định quyền lực của thủ lĩnh và qua đó, ổn định trật tự và an ninh cộng đồng. Thoạt đầu, tất cả những người hỗ trợ thủ lĩnh này đều được gọi là “sĩ”. Khi nhóm cai trị phát triển dần thành nhà nước, thì người thủ lĩnh thành vua mà một bộ phận lớn “sĩ” trở thành “quan”…Đến đây thì đã ổn định nghĩa mới của từ “sĩ”, nghĩa là ông quan, người làm quan. “Dĩ văn thủ sĩ” là châm ngôn của các triều đại đã phát triển, nghĩa là dùng “văn” làm phương tiện chọn người làm quan.
Bạn có thể hình dung nghĩa của từ “sĩ” trong chặng này như là con “sĩ” trong bàn cờ tướng ấy. Hai con Sĩ đứng hai bên, làm nhiệm vụ bảo vệ, che chắn, giúp đỡ cho con “Tướng”!
Nhưng tri thức và sức mạnh trong một cộng đồng, một xã hội càng phát triển thì càng cần thiết và được sử dụng trên mọi bình diện của tồn tại xã hội chứ không chỉ dùng để phục vụ giới cầm quyền. Từ phía khác, muốn có sức mạnh thì không thể chỉ sử dụng thứ sức mạnh “trời cho” cũng như muốn có tri thức thì không thể chỉ khai thác trí thông minh cũng của “trời cho”, mà phải học tập, phải rèn luyện! Trong các cộng đồng kém phát triển, khi năng suất lao động còn thấp hoặc quá thấp, “cung” không đủ “cầu”, thì ai cũng phải “tay làm” để “hàm nhai”! Đến một thời điểm nhất định, sự phân công lao động xã hội từng bước tách một bộ phận, và thường xuyên nhất là bộ phận nằm trong tầng lớp cai trị nhưng lại không phải thực hành việc cai trị trực tiếp, thành những người “lao động trí óc” …
Đó chính là sự hình thành tầng lớp trí thức?
GS Trần Ngọc Vương:Đúng vậy. Chính ở công đọan này cung cấp những dữ kiện quan trọng hàng đầu cho phép bàn về những điều kiện chủ yếu nhất để hình thành đội ngũ hay “tầng lớp trí thức”. Theo tôi, trí thức chỉ có thể trở nên là trí thức khi được xã hội , cộng đồng “cho phép, tạo điều kiện”, hay trong những trường hợp cực hạn, tự mình tạo ra cho mình những điều kiện và hoàn cảnh để có thể được giải phóng ra khỏi nhiệm vụ sản xuất, nghĩa là thoát ra khỏi yêu cầu phải trực tiếp tạo ra của cải vật chất. “Sản phẩm” mà họ có nghĩa vụ “hoàn trả” cho cộng đồng sẽ là những sáng tạo phẩm mang tính tinh thần và tri thức thực thụ.Cùng với tầng lớp cai trị, họ được cộng đồng “nuôi”, vì vậy họ phải có bổn phận “phục vụ” lại xã hội bằng kết quả của dạng lao động đặc thù của họ. Mạnh Tử đã nói khái quát: “Lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân” (Người “lao tâm” thì “trị người”, người lao lực thì được / bị “người trị”), mà Nguyễn Trãi cũng cùng quan điểm: “Nếu khỏi (tức không có – TNV) tiểu nhân – quân tử nhọc; Dầu chăng quân tử: tiểu nhân loàn”, là thế!
Vị trí của tầng lớp trí thức trong tương quan xã hội, giữa người cai trị và người bị cai trị?
GS Trần Ngọc Vương:Trên thực tế, trong xã hội Trung Quốc và rồi cả khu vực các quốc gia “đồng văn” truyền thống (về đại thể cho tới cuối thế kỷ XIX), “sĩ” là từ chỉ một đẳng cấp và những cá nhân thuộc về một đẳng cấp xã hội đặc thù, đóng vai trò trung gian giữa các tầng lớp, giai cấp lao động và giai cấp thống trị. Khi được tuyển dụng, họ trở thành những thành viên của giai cấp thống trị, mà khi không được “nhà nước” tuyển dụng, họ làm các nghề “lao động phi sản xuất” – các thứ “thầy” và các thứ “sĩ” :văn nghệ sĩ cũng nằm trong quỹ đạo đó!
Cần lưu ý rằng, dẫu có sự “phân hóa, tan đàn” như vậy, nhưng tất cả những ai từng là “sĩ” đều bảo lưu một số những “giá trị cốt lõi” chung, cả từ thế giới quan, xã hội quan, nhân sinh quan, hệ thống tri thức đến cả những tín niệm văn hóa, tôn giáo hay đạo đức, những thứ “đủ” để làm nên những nét khu biệt những người thuộc đẳng cấp “sĩ” với những thành phần khác trong xã hội.
Những phẩm chất nổi bật phải có của kẻ sĩ là gì? “Trí thức” và “kẻ sĩ” có là một ?
GS Trần Ngọc Vương:Theo tôi, “kẻ sĩ” là “tên ngày xưa”, còn “trí thức” là “tên ngày nay”. Có thể nói khác rằng đó là hai danh xưng thuộc về hai thời đại lịch sử của một tầng lớp người. Đó là những người mà hoạt động sống chủ yếu là lao động sáng tạo và bảo lưu những sản phẩm, những sáng tạo phẩm tri thức và tinh thần. Phẩm chất hàng đầu của họ là tạo ra và bảo lưu được những sản phẩm tri thức và tinh thần có giá trị. Cần nói rõ hơn rằng do cách hình dung thay đổi theo thời gian, “sản phẩm tri thức và tinh thần” ngày nay tiệm cận với “sản phẩm vật chất”, nhưng không vì thế mà đồng nhất. “Bắng phát minh sáng chế”, “những kỹ năng và sáng kiến” cho dẫu gần gũi với “sản phẩm vật chất” cách mấy, thì vẫn thuộc về phạm vi “sáng tạo tinh thần”.
Theo ông, ở Việt Nam xuất hiện mẫu người kẻ sĩ từ lúc nào?
GS Trần Ngọc Vương:Những người thuộc tầng lớp “sĩ” với những bằng chứng khả tín đã sống ở Việt Nam từ thời Bắc thuộc. Trong số họ, có những người gốc Hán hoặc gốc Bách Việt (thuôc Trung Quốc ngày nay) hoặc làm quan cai trị đến sống rồi định cư ở Giao Châu, hoặc chạy loạn, hoặc đến làm ăn, buôn bán. Một bộ phận khác là trí thức bản địa. Thời đó, vì là nội thuộc, chưa có sự phân biệt thật mạch lạc giữa kẻ sĩ “gốc Trung Quốc” với kẻ sĩ “gốc Giao Châu” như sau này…Tuy nhiên, với thời gian, khi ý thức dân tộc đã phát triển thành các phong trào chính trị, thành đấu tranh vũ trang, đến đỉnh cao nhất là giành lại chủ quyền và độc lập về bộ máy cai trị, các nhà cai trị cũng là các nhà lãnh đạo quốc gia dân tộc đã khá nhanh chóng quan tâm đến việc gây dựng đội ngũ trí thức quốc gia.
Ở Trung Quốc xưa, trước thời Hán, kẻ sĩ là một tầng lớp đã phát triển đông đảo và có sự phân hóa khá phức tạp. Tất cả những người có học đều được coi là kẻ sĩ, bất luận họ là tín đồ của tôn giáo hay học thuyết nào. Các học phái hay tôn giáo đều được gọi là “sĩ” , phân biệt nhau bởi cái định ngữ đặt trước: tín đồ của Nho là nho sĩ, tín đồ Đạo giáo là đạo sĩ, tín đồ của tung hoành gia là “biện sĩ”, tín đồ Mặc gia là hiệp sĩ , tín đồ Âm Dương gia là thuật sĩ v.v. Nhưng từ sau vụ “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn Nho” nổi tiếng tàn bạo của vua tôi Tần Thủy Hoàng, tầng lớp “sĩ” bị khủng bố đến tan tác. Nhưng cũng chính họ lại đã trở thành tác nhân hàng đầu phát động lên lòng căm thù đối với nền chuyên chế Pháp trị hà khắc của Tần Thủy Hoàng, dẫn đến việc lập nên liên minh chống Tần. Hán sơ, nhà nho là nhóm kẻ sĩ tăng trưởng nhanh chóng về số lượng , càng ngày càng có vai trò quan trọng bên cạnh ngai vàng, và đến Hán Vũ Dế Lưu Triệt, thì Nho gia đã đạt được địa vị độc tôn bởi một đạo đặc chiếu của chính vị Hoàng đế này. Về đại thể tuy trong hơn hai ngàn năm tiếp theo, không diễn ra thêm một vụ tiêu diệt tầng lớp trí thức nào ở quy mô lớn nhưng các học phái khác phát triển linh tán và “lẫn vào trong nhau”, chỉ có nhà Nho với số lượng đông đảo nhất và được các triều đại “tạo điều kiện” để nảy nở rườm rà nhất. Đội ngũ trí thức có số lượng đông đảo thứ hai trong suốt từ thời Hán Minh đế cho tới tận Cách mạng Tân Hợi (1911) là nhà sư, nhưng dẫu vậy không thể so sánh về số lượng với nhà nho. Vậy nên suốt hai ngàn năm đó, trong ngữ dụng đời thường, nói “sĩ nhân” “thức giả” ở Trung Quốc gần như đồng nghĩa với “Nho sĩ” hay kẻ sĩ nói chung!
Vậy thì các trí thức Phật giáo cũng có thể là “kẻ sĩ”?
GS Trần Ngọc Vương:Các nhà tu hành Phật giáo không tự gọi và cũng không “được” gọi là sĩ. Bởi họ đã có một danh xưng đặc định, là “sư” hay “tăng”, tuy nhiên trong ngôn ngữ quan phương nhiều lúc họ cũng được gọi là “tăng sĩ”!
Đó có phải là một phiên bản của văn hóa Trung Hoa hay không?
GS Trần Ngọc Vương:Đội ngũ trí thức đông đảo nhất ở Việt Nam từ năm 939 đến giữa thế kỷ XIII là nhà sư. Nhưng do nhiều nguyên nhân, mà trước hết chủ yếu là do bản chất của học thuyết trong mối quan hệ với mục đích chính trị (là xây dựng củng cố một mô hình nhà nước chuyên chế), Nho giáo dần dần chiếm ưu thế, nhà nho dần dần tăng trưởng về số lượng, bởi nhà nước chuyên chế đã sử dụng nó làm công cụ ý thức hệ thống trị. Hơn hai thế kỷ sau, vào nửa sau thế kỷ XV, Nho giáo đã được Lê Thánh Tông “chuẩn thuận” – cũng bằng một đạo đặc chiếu – để trở nên độc tôn trong đời sống tri thức – tinh thần của xã hội Việt Nam.
Đã được coi là học thuyết chính trị – đạo đức tiêu biểu cho cả khu vực văn hóa Đông Á truyền thống (trong đó có Việt Nam), dĩ nhiên Nho giáo có những yếu tố phổ quát tồn tại trong cả các quốc gia từng vận dụng nó, nhưng trong thực tế ở mỗi quốc gia, Nho giáo cũng tồn tại với những điểm mang tính đặc thù dân tộc. Tầng lớp kẻ sĩ cũng vậy, kẻ sĩ Việt Nam có những đặc điểm khác với kẻ sĩ Trung Quốc, kẻ sĩ Hàn Quốc hay khác với tầng lớp samurai Nhật Bản./.
Vĩnh Khánh thực hiện
BOX 1:
“Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/và văn hóa; Sáng tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa; Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; Dự báo và định hướng dư luận xã hội”.
“Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: Tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ; Độc lập tư duy; Hoài nghi lành mạnh; và Tự do sáng tạo. Tuy nhiên mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng”.
Chu Hảo
BOX 2:
“Kẻ sĩ” là những người có học vấn, có khí tiết, có thể bị giết chứ không chịu nhục, dẫu có lâm vào cảnh hàn vi, oan trái vẫn không nguôi hướng tới những sự nghiệp cứu dân, giúp đời. Dù là “intellectuel” ở phương Tây hay là “kẻ sĩ” ở phương Đông, người trí thức ở đâu, thời điểm nào cũng là người có học vấn cao và có ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với sự tiến bộ của xã hội mà mình đang sống”.
Phan Đình Diệu
Kẻ sĩ xưa và nay
“Kẻ sĩ” là từ dùng để chỉ những người thuộc tầng lớp trí thức trong lịch sử. Từ “kẻ” hoàn toàn là tiếng Việt, tiếng Nôm thường viết là 几, đó là chữ “kỷ” của Hán tự đọc theo âm Việt mà thành. Gọi là “kẻ” không hề biểu thị ý gì khinh rẻ cả (1). “Sĩ” là từ Hán – Việt, chữ Hán viết 士. Thời cổ đại, chữ “sĩ” vốn dùng để chỉ, quân đội, lực lượng vũ trang, thường gọi là võ sĩ, chứ không phải dùng để chỉ “trí thức” chỉ “văn nhân”. Thời cổ đại ở Trung Quốc, nước lớn (đại quốc) có “ba quân”, nước vừa (trung quốc) có “hai quân”, nước nhỏ (tiểu quốc) có “một quân”. Mỗi quân có một nghìn cỗ xe, mỗi cỗ xe có mười “sĩ” thống lĩnh, ngoài ra có nhiều lính gọi là tốt tùy tùng (2). Bây giờ ở quân đội còn gọi là “sĩ quan”, “binh sĩ”.
Về sau “sĩ” thông thường dùng để chỉ “văn” chứ không chỉ “võ” như thời cổ đại. Tại sao lại như vậy ?
Lý do như sau : thời cổ đại, nhà nước có hai việc quan trọng vào bậc nhất, đó là tế lễ trời đất và hoạt động quân sự (Quốc chi đại sự, duy tự dữ nhung). “Sĩ”, có nghĩa là người được giáo dục, huấn luyện chủ yếu là về quân sự, về sau do tình hình thay đổi, nên nội dung giáo dục, huấn luyện lại thiên về văn. Do đó, cùng là “sĩ” nhưng thời xưa chỉ quân nhân thời nay lại chỉ “tri thức”, khác nhau một trời một vực. Hiện nay, “kế thừa” lịch sử, người ta cũng gọi “sĩ” là “kẻ sĩ”, “kẻ sĩ” tức là “trí thức”, chỉ chung những người chủ yếu lao động bằng trí óc. Bao gồm : nhân viên kỹ thuật, thầy thuốc, giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học, diễn viên, luật sư, những người hoạt động văn học nghệ thuật… ví dụ như bác sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ , văn sĩ, ca sĩ…
Những người này thường được gọi là phần tử “trí thức” (3) (Intellectual), hình thành một đội ngũ, một tầng lớp trong xã hội, chứ không phải là một giai cấp.
Cũng có ý kiến cho rằng đặc điểm của “trí thức” là lao động trí óc, cho nên “trí thức” bao gồm cả những người ở tầng lớp thống trị :
“Nếu giai cấp công nhân và nông dân về nguồn gốc tồn tại đều về phía đại biểu của lao động chân tay thì tình hình đối với các đại biểu của lao động trí óc lại phức tạp hơn. Một mặt thuộc vào số này là các giai cấp thống trị mà đa số hợp thành một tầng lớp ăn bám, bóc lột lao động làm thuê (cả lao động trí óc lẫn lao động chân tay)”(4).
Như vậy những người thống trị cũng thuộc tầng lớp “trí thức” ? Thời kỳ phong kiến, chữ Hán gọi “trí thức” là “sĩ” 士, nhưng cũng gọi là quan là “sĩ”, có điều, chữ viết khác nhau một chút: 仕 (thêm bộ nhân đứng một bên). Cho nên “trí thức” và “làm quan” không xa nhau mấy. Mạnh Tử gọi tầng lớp quan lại là người “lao tâm” còn người dân lao động là “lao lực” từ đó cho rằng “người lao tâm cai trị người khác, còn người lao lực thì bị người khác cai trị” (lao tâm giả trị nhân, lao lực giả trị ư nhân, Mạnh Tử, Đằng Văn Công, thượng).
Không biết có nên xếp quan lại vào hàng ngũ “trí thức” hay không, nhưng thực ra những người mới hôm qua còn là kẻ sĩ hàn vi, hôm nay lều chõng đi thi đỗ đạt thì coi như đã thuộc về tầng lớp quan lại thống trị rồi. Điều đó nói lên rằng kẻ sĩ cũng rất gần với giai cấp thống trị. Tuy nhiên, không phải ai đi thi cũng đậu cả, ngược lại, đậu thì ít mà rớt thì nhiều. Có những khoa thi hàng ngàn thí sinh nhưng chỉ đậu được vài người, như khoa Đinh Mùi, năm Cảnh Trị thứ 5 (1667), đậu được ba người, khoa Tân Sửu, năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), đậu hai người(5). Những người thi rớt, nếu quyết tâm thì đi thi lại, nếu không thì về nhà, hoặc dạy dăm ba đứa học trò hoặc “đuổi gà cho vợ”, làm quan không được thì làm người vậy. Hoặc cũng có người thi đậu nhưng chán đời “trùm chăn” không chịu ra làm quan như Trạng Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp chẳng hạn, học hành đã vất vả rồi, lều chõng đi thi lại càng cực khổ trăm chiều:
“Vì thế, người làm ruộng, người đi buôn, cho đến người hàng thịt, người buôn bán vặt vãnh cũng đều làm đơn nộp tiền xin đi thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người chết ngay ở cổng trường”(6).
Nói chung, đại đa số kẻ sĩ thường gần với dân chúng hơn. Cho nên ngày xưa, trong thời phong kiến, kẻ sĩ được xem là một trong “tứ dân”, nhưng được “may mắn” đặt ở hàng đầu: sĩ, nông, công, thương. Trong xã hội tư bản, trí thức cũng là tầng lớp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Cho nên Mác gọi là “kẻ lao động làm thuê”, hoặc xem họ như là “giai cấp vô sản lao động trí óc” (7). Tuy nhiên từ Đông sang Tây, ở đâu thì “kẻ sĩ” cũng xuất hiện muộn hơn cả so với nông dân và thợ thủ công (tiền thân của công nhân). Trong quá trình phân công của hội loài người, vào thời kỳ đầu của xã hội nguyên thủy, phân công xã hội chủ yếu dựa vào “tự nhiên” nghĩa là dựa vào tuổi tác, giới tính chẳng hạn. Khoảng gần cuối xã hội nguyên thủy, xã hội mới bắt đầu phân chia thành chăn nuôi, trồng trọt. Khi xã hội nguyên thủy tan rã, thợ thủ công bắt đầu tách ra từ nông dân. Đến đầu chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp thương nhân xuất hiện, sau đó sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn hình thành, xã hội phân chia thành lao động trí óc và lao động chân tay. Cho nên sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay đã tuyên bố sự bắt đầu của cái gọi là “phân công xã hội”:
“Phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần” (8).
Như vậy, “kẻ sĩ” hay “trí thức” mà đặc điểm chủ yếu là lao động tinh thần hay lao động trí óc, chính là anh em sinh đôi với sự phân công lao động xã hội. Còn sự phân công lao động xã hội lại chính là cơ sở hình thành giai cấp, nguyên nhân của hiện tượng bóc lột. Cho nên sự xuất hiện của tầng lớp trí thức vừa là bước lùi vừa là bước tiến của nhân loại. Áp bức, bóc lột, phân hóa giàu nghèo là bước lùi so với xã hội nguyên thủy chưa có giai cấp. Tầng lớp trí thức không phải là nguyên nhân của những cái đó, chính nó vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm “không tự giác”. Nếu như không thể phủ nhận chế độ chiếm hữu nô lệ là một bước tiến của nhân loại thì càng không thể phủ nhận sự xuất hiện của trí thức là bước tiến cực kỳ quan trọng của xã hội. Ăng-ghen đã nhận xét rất đúng rằng:
“Mãi đến chế độ nô lệ mới có thể có sự phân công lao động trên một quy mô khá rộng lớn giữa nông nghiệp và công nghiệp, và do đó mới có thể có sự hưng thịnh nhất của thế giới cổ đại, tức là nền văn minh Hy Lạp. Không có chế độ nô lệ, thì không có quốc gia Hy Lạp. Không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp. Không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã. Mà không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được. Chúng ta không bao giờ nên quên rằng tiền đề của sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ của chúng ta là một hoàn cảnh trong đó, chế độ nô lệ là hoàn toàn cần thiết và được tất cả mọi người thừa nhận. Theo nghĩa trên đây, chúng ta có quyền nói rằng: không có chế độ nô lệ cổ đại, thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại” (9).
Đúng là “không có chế độ nô lệ cổ đại, thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại”, “không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp”, có nghĩa là không có những người lao động trí óc, thì cũng không có chế độ nô lệ cổ đại. Không có những “người khổng lồ” trí thức ở thời kỳ Phục hưng thì cũng không có thời kỳ Phục hưng… Tầng lớp trí thức đắt giá đến nỗi người ta “quên mất” giai cấp công nhân, người ta quàng cả tương lai của nhân loại lên đôi vai của đội ngũ trí thức, được gọi là “khối lịch sử” (bloc historique). Còn những người theo chủ nghĩa kỹ trị (Technocracy) thì xóa nhòa giai cấp bằng cách biến tầng lớp trí thức trở thành tầng lớp thống trị trong cái gọi là xã hội tương lai. Kêu gọi những ông chủ tư bản hãy “trao quyền” quản lý xã hội lại cho “trí thức”.
Không ai có thể phủ nhận vai trò tích cực của trí thức trong quá trình phát triển lịch sử của nhân loại. Ở Việt Nam vai trò của trí thức càng đặc biệt quan trọng trong quá trình giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Lịch sử luôn ghi nhớ chiến công lẫy lừng của Lý Thường Kiệt, càng không quên “tuyên ngôn độc lập” Nam quốc sơn hà bất hủ. Nhắc tới Trần Hưng Đạo, không thể không nhắc tới Hịch tướng sĩ. Chiến thắng quân Minh của khởi nghĩa Lam Sơn không thể tách rời khỏi mưu sĩ “trí thức” Nguyễn Trãi. Chiến thắng Đống Đa, phá gần 30 vạn quân Thanh, trong đó công lao của “văn nhân” Ngô Thì Nhậm chủ trương bỏ Thăng Long lui về Tam Điệp đâu phải là nhỏ…
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp ai cũng kết sự nghiệp và khí tiết của Phan Đình Phùng, Trương Định, Nguyễn Thông, Nguyễn Đình Chiểu và gần hơn là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà cách mạng của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời cũng là nhà trí thức yêu nước vĩ đại của dân tộc.
Cùng với giai cấp công nhân và nông dân, trí thức Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chưa nói đến đội ngũ trí thức, vấn đề liên minh công nhân và nông dân, không phải ngay từ đầu đã được chủ nghĩa Mác đề cập đến.
Mác – Ăng-ghen sau khi tổng kết kinh nghiệm của cách mạng Pháp 1948-1949, mới chỉ ra rằng cách mạng vô sản không thể thành công nếu không có sự tham gia của giai cấp nông dân. Nếu công nhân chỉ tiến hành “đơn ca” thì bài ca đó chỉ trở thành một bài “điếu văn”. Đồng thời khẳng định rằng khi chính quyền đã về tay giai cấp công nhân thì liên minh công nông chính là nguyên tắc cơ bản của chuyên chính vô sản. Khẩu hiệu “liên minh công nông” (allance of the workers and peasants) càng được Lênin phát triển trong cách mạng 1905, đặc biệt là trong cách mạng tháng Mười 11 năm 1917.
Ở đây chỉ nói đến “liên minh công nông” chứ chưa đề cập đến vai trò của “trí thức”. Có lẽ giai cấp công nhân mà Mac đã trao hết sứ mệnh vào từng bước tiến lịch sử, bản thân nó đồng thời là những người tiếp xúc với tri thức khoa học mới nhất. Cho nên tính đảng và tính khoa học thống nhất ở chính bản thân giai cấp công nhân. “Liên minh công nông”, là điều kiện “cần” và “đủ”.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân không hoàn toàn giống như giai cấp công nhân ở các nước đại công nghiệp, tuy nhiên xác định đúng đắn và đầy đủ về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân là vấn đề cốt tử đầu tiên của cách mạng :
“Giai cấp vô sản Việt Nam tuy còn non trẻ và nhỏ bé, song là một giai cấp rất kiên quyết cách mạng. Nó ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhanh chóng trở thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc, Trung, Nam. Nó lại vừa mới xuất thân từ trong nông dân lao động bị bần cùng hóa, cho nên những mối quan hệ khăng khít của nó với nông dân đã tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập khối liên minh công nông vững chắc” (10).
Khác với các nước tư bản phát triển, cách mạng Việt Nam ngay từ đầu đã tiến hành công nông liên minh. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng để bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng của giai cấp công nhân :
“Vấn đề liên minh công nông càng có tầm quan trọng đặc biệt đối với một nước như nước ta. Dưới chế độ thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp vô sản nước ta vốn nhỏ bé, song sức mạnh của nó sở dĩ vượt xa số lượng của nó, là vì ngoài nguyên nhân có đường lối cách mạng đúng đắn, còn có nguyên nhân giai cấp vô sản đã tranh thủ được người bạn đồng minh tự nhiên, rất đáng tin cậy, có lực lượng hùng hậu; có tinh thần cách mạng dồi dào, đó là nông dân. Đảng ta vừa mới ra đời đã nắm ngay quyền lãnh đạo cách mạng, bởi vì Đảng ta sớm xây dựng được khối liên minh công nông” (11).
Ở Việt Nam, nói đến liên minh công nông mà không nói đến trí thức thì hình như chưa đủ. Cho nên nói đến liên minh công nông, không thể không nói đến trí thức:
“Đặc biệt là các tầng lớp trí thức, học sinh có tinh thần yêu nước nồng nàn, thiết tha mong muốn bảo vệ truyền thống văn hóa đẹp đẽ của dân tộc, khôi phục những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam bị bọn đế quốc phong kiến chà đạp. Họ tỏ ra thức thời và rất nhạy cảm với thời cuộc. Được phong trào rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh của nhân dân, nhất là ở công nhân Việt Nam vừa non trẻ vừa không phải là công nhân của nền sản xuất đại công nghiệp, cho nên việc tiếp cận với tri thức khoa học không thuận lợi như công nhân các nước công nghiệp phát triển. Không ít công nhân lại từ nông dân mà ra, cho nên thuận lợi trong liên minh công nông nhưng cũng hạn chế vì chịu ảnh hưởng của những “thói hư tật xấu” của nông dân thành thị” (12).
Thực ra vai trò của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam không phải lúc nào cũng được đánh giá như nhau. Trí thức hầu như xuất thân từ giai cấp nào cũng có, nhưng bản thân nó không là giai cấp nào cả. Trước đây ở Trung Quốc, trí thức được xem là một giai cấp. Từ điển Từ Hải gọi là “giai cấp tri thức” (Intelligentsia), về sau không còn gọi là giai cấp nữa. Do đó, đối với “trí thức không khỏi có lúc có cách nhìn không hợp lý. Chẳng hạn quy họ về thành phần tiểu tư sản, hoặc thậm chí “nhận lầm”, họ là đối tượng của cách mạng. Thực ra, tầng lớp trí thức cũng có nhiều hạn chế, chẳng hạn lập trường bấp bênh, thoát ly thực tế, giáo điều… Đó là chưa kể đến kẻ sĩ thời xưa thuộc hạng “dài lưng tốn vải”, hữu danh vô thực, thường được gọi là “sinh đồ ba quan” mà Phan Huy Chú đã than phiền: “Từ khi kẻ nịnh thần đề nghị đổi phép thi, hạng sinh đồ ba quan đầy cả trong thiên hạ. Người trên do đó lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không biết thẹn, làm cho trường thi thành ra chỗ buôn bán” (13).
Xét cho cùng thì những “kẻ sĩ” sinh đồ ba quan này đáng thương hơn là đáng trách, bởi vì họ cũng chỉ là những sản phẩm xã hội “chợ chiều” chứ không phải là những nụ hoa của xã hội sang xuân. Giá như tình trạng nói trên chỉ là nhất thời thì Phan Huy Chú làm sao có thể cảm thán được :
“Ôi! Nếu là việc quyền nghi một thời thì còn có thể được, đến lúc thanh bình mà cũng vẫn theo như thế, có phải là điều lệ của thời thịnh đâu!” (14).
Kẻ sĩ trong lịch sử kể cũng “ba chìm bảy nổi”, tuy nhiên xã hội phát triển theo xu hướng kinh tế tri thức là điều tất yếu thì vai trò của trí thức cũng tất yếu ngày càng quan trọng. Dầu gì đi nữa thì lịch sử cũng đã chứng minh rằng một dân tộc không thể tiến lên phía trước nếu dân tộc đó không xem trọng trí thức của dân tộc mình.
Nội hàm của khái niệm “kẻ sĩ” được thay đổi trong lịch sử thì nội hàm của khái niệm “trí thức” chẳng nhẽ lại dừng ở đây ? Liệu ngày nay có nên vẫn cứ lấy tiêu chuẩn lao động trí óc và lao động chân tay để phân chia trí thức và công nông nữa chăng ?
Đương nhiên hiện nay vẫn còn khác biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay, ranh giới giữa công nhân và trí thức vẫn còn. Nhưng ranh giới này càng ngày càng thu hẹp, vừa là công nhân vừa là trí thức, vừa là trí thức vừa là công nhân. Trí thức do công nhân đào tạo ra thì tại sao lại cần phải “công nhân hóa trí thức” nữa ?
Quá trình phát triển của xã hội loài người là quá trình khẳng định sự “tách rời”” giữa lao động trí óc và lao động chân tay và cũng là quá trình phủ nhận điều đó. “Thống nhất” giữa lao động trí óc và lao động chân tay cũng là xu hướng tất yếu. Công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay sẽ là đôi đũa thần đang biến cái tưởng chừng như khả năng xa vời đó trở thành hiện thực trước sự ngỡ ngàng của nàng “lọ lem” lịch sử về hình ảnh của cái gọi là “kẻ sĩ” một thời.
Chú thích
(1)Truyện Kiều: “Bây giờ kẻ ngược người xuôi, biết bao giừ lại nối lời nước non”.
Nhị độ mai: “Rồi đây kẻ Bắc người Nam, Cành hoa xin tặng để làm của tin”.
Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa, Hà Nội, l995, tr. 461: “Kẻ cả đàn anh”.
(2) Thời ngũ đế (thế kỷ XXVI – XXII Tr.CN), “sĩ” chỉ quan coi hình ngục. Chữ “sĩ” trong Kim văn có hình cái rìu, tức là vũ khí của quan coi ngục. Xem Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 1997, mục chữ “sĩ”.
(3) Ở Trung Quốc thường gọi là “tri thức phần tử” 知 識 份 子, ở Việt Nam lại gọi là “phần tử trí thức” xin lưu ý là “trí” 智chứ không phải là “tri” 知. Từ điển Hán – Pháp (Dictionaire Chinols – Francais) thương vụ Ấn thư quán, Bắc kinh, 1959, dịch “tri” 知 là savoir, connaitre, “trí” 智 là intelligence, sagesse.
(4)Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1986, tr. 365.
(5) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, t.2, tr. 209, 214.
(6) Phan Huy chú, Sđd, tr. 169.
(7) Trích theo Triết học đại từ điển, Phùng Khiết chủ biên, Thượng Hải từ thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1991, tr. 1013.
(8)Các Mác – Phri-drichĂng-ghen tuyển tập (6 tập). Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, t.l, tr. 291.
(9) Ph. Ăngghen, Chống Duy-rinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 293.
(10)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb sách giáo khoa Mac-Leenin, Hà Nội, 1979, t.3, tr. 408.
(11)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđđ, tr. 410.
(12)Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđđ, tr. 415.
(l3) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb KHXH, Hà Nội, 1992, t. 2, tr. 170.
(14)Sđd, tr. 170.
Nhân sĩ sinh sâm
“Nhân sinh và nhân sâm thì có đó, còn nhân sĩ đâu rồi?”, một người bạn trẻ, loay hoay với bộ “Hán-Việt Tự Ðiển” trong tay, hỏi.
Lâu nay tôi vẫn hằng yên tâm rằng “nhân sĩ” là một mẫu người đứng tuổi, có học thức, có uy tín và tư cách, vượt qua hết những tranh chấp bè phái v.v… Tuy nhiên, cách hiểu lơ mơ đại khái này chẳng thể nào đáp ứng nổi những câu hỏi nặng tính duy lý và ngọn ngành của người sinh viên trẻ tuổi. “Nhân sĩ”, như một từ ngữ và một thành phần xã hội, đã hình thành như thế nào? Vai trò và tác dụng với xã hội? Với dòng biến thiên của lịch sử? Những tiêu chí ràng buộc, thành văn hay bất thành văn? Vân vân và vân vân… Thú thật, tôi bí. Và tôi hãi hùng khám phá ra rằng những gì mà tôi cùng bao nhiêu người khác nữa hằng yên tâm, thực ra rất không ổn, cần xét lại.
“Nhân sinh”, “nhân sâm”, rồi “nhân sĩ”, người bạn trẻ không mai mỉa chút nào. Trong bộ tự điển xuất bản năm 1931, cả soạn giả Ðào Duy Anh lẫn Phan Bội Châu trong vai trò người hiệu đính, đã bỏ quên lớp người này, ắt hẳn phải có lý do. Mà “nhân sĩ” càng không phải là ý niệm của lớp người xưa. “Tự điển Việt Bồ La” của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651 tại Roma, không nhắc nhở gì đến “nhân sĩ” đã đành; Huỳnh Tịnh Paulus Của, trong “Việt Nam Quấc Âm Tự Vị” xuất bản năm 1895, cũng chẳng mảy may đoái hoài gì đến lớp người khả kính này. Quên chăng, đãng trí hay chăng? Thì cứ cho là Alexandre de Rhodes soạn tự điển cho những nhà truyền giáo, nhưng với một Huỳnh Tịnh Của “tham dụng chữ Nho có giải nghĩa có dẫn chứng mượn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ” thì sao? Với hai tác giả Ðào-Phan biên soạn và hiệu đính “Hán-Việt Tự Ðiển” thì sao? Ðào Duy Anh bỏ quên đã đành nhưng tại sao Phan Bội Châu, trong vai trò người hiệu đính, cũng lơ là nốt hạng người này? Mẫu người đó mới quá, chưa lộ diện với đời nên bị sót tên chăng? Chỉ với vỏn vẹn ba bộ tự điển thì thật là khó để đi đến một kết luận chắc chắn, tuy nhiên, cứ theo lời bạt của cụ Phan trong bộ tự điển nói trên: “Gần đây gặp được người bạn thanh niên là ông Ðào Duy Anh vừa biên thành Hán Việt từ-điển, toan cống-hiến với đồng bào, bỉ nhân được tin mừng khuống, gấp tìm tuyền cảo đọc xem, thấy chú-thích tinh tường, phẫu-giải minh bạch, tóm lặt hết từ-ngữ thuộc về Hán-văn, mà Việt-văn cần phải dùng đến, cộng hơn bốn vạn điều…” thì chắc chắn là, nếu đã có mặt với đời, “nhân sĩ” đã không được tính vào “hơn bốn vạn điều” mà “Việt-văn cần phải dùng đến”. Ấy là “hơn bốn vạn”. Hơn năm, hơn sáu thì may ra chăng? Trong những bộ tự điển đời sau, “nhân sĩ” vẫn tiếp tục một số phận long đong như thế, cái sự lận đận kéo dài đến độ không thể gọi là sơ suất được. Năm 1960, Nguyễn Văn Khôn chỉ có thể nói về “nhân sĩ” một cách lúng túng, nông cạn: nhân sĩ mà chẳng có gì là nhân sĩ, nên chỉ sáu năm sau lại thẳng tay loại bỏ trong bộ Việt-Anh công phu của mình. [1] Ba năm sau, 1970, “nhân sĩ” cũng bị Lê Văn Ðức và Lê Ngọc Trụ bỏ qua một bên, không cho chường mặt trong “Tự Ðiển Việt Nam”. Xuôi ngược “nhân” và “nhơn” cùng một nghĩa như nhau, soạn giả nào cũng sâm, sanh, số, sự hay số, sự, sinh, sâm mà quên đi kẻ sĩ. Nhân sinh” và “nhân sâm” thì có đó nhưng còn “nhân sĩ” đâu rồi? [2]
Nhưng nhất định “nhân sĩ” không phải là chuyện hoang đường. Không hoang đường như thần Kim Quy có phép màu mà khoanh tay để mặc An Dương Vương mất nước hay hoang đường như Thánh Gióng có ngựa sắt phun lửa mà bỏ mặc xứ sở bị giặc Tàu cưỡi cổ suốt một ngàn năm. Cứ nhớ, ngày 2.11.1963, chỉ một ngày sau cái chết của hai anh em ông Diệm và Nhu, phái Khaki cách mạng, tức Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng, đã ưu ái dành cho “nhân sĩ” nguyên một chỗ đứng trong bản tuyên cáo năm điều: “Một Hội Ðồng Nhân Sĩ sẽ được thành lập để cố vấn cho chính phủ trong lúc chuyển đổi.”
“Nhân sĩ” như vậy là điều có thực. Có thực theo sắc lệnh ký ngày 6.11.1963. Có thực từ buổi lễ ra mắt ngày 2.1.64 tại Hội trường Diên Hồng với sự góp mặt của đâu 60 nhân vật. Có thực trong màu lụa gấm của mấy bộ khăn đóng áo dài gấm óng ả, nổi bật giữa những sắc áo Khaki võ biền như là hình ảnh của làng, của hương tề kỳ mục ngay giữa một Sài Gòn hoa lệ, giữa một lễ hội cũng tàm tạm tầm cỡ quốc gia. Và “nhân sĩ” còn có thực trong những lời thưa gởi kiểu “Kính mời quý vị thân hào nhân sĩ vui lòng an toạ…” đã quen miệng, đã thành nề thành nếp trong các lễ lạc rình rang. Thế thì tại sao họ lại bị các soạn giả tự điển, từ trẻ đến già, toa rập nhau kỳ thị? Ra đời trịnh trọng vậy mà, chỉ ba năm sau thôi, đã bị lơ là, bảy năm sau nữa, lại bị quên lãng, cái sự quên lãng chẳng thể nào giải thích nổi nếu không vin vào lời cụ Phan năm ấy: “tóm lặt hết những từ ngữ” mà “Việt-văn cần phải dùng đến”. “Nhân sĩ” vẫn, ít ra trong con mắt các soạn giả vô tư, chưa thể nào là thứ mà “xã hội cần phải dùng đến”!
Tuy nhiên không phải ai ai cũng phũ phàng thế cả, dù là khá trễ. Trong “Hán Việt Tự Ðiển” của Nguyễn Lân, do Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1989, “nhân sĩ” mới có cơ hội “cần phải dùng đến”, và “cần dùng”, theo Nguyễn Lân, như những “trí thức thuộc tầng lớp trên tham gia cách mạng, nhưng không phải là đảng viên của đảng vô sản.”
Chỉ xuất hiện trong những bộ tự điển thiếu vô tư nên “nhân sĩ” chỉ là nhu cầu của những thế lực thiếu vô tư nào đó, trong một bối cảnh rối ren và… thiếu vô tư nào đó. Phái Khaki cách mạng “cần phải dùng” nhân sĩ, và họ khai sinh “Hội đồng nhân sĩ”. Ðảng vô sản “cần phải dùng” nhân sĩ, và họ lôi kéo những “trí thức thuộc tầng lớp trên”. Vấn đề chỉ là, dù trễ, đảng vô sản thì có những bộ tự điển đầy đảng tính trong khi phái Khaki không có lấy một bộ Khaki-tính lận lưng. Tuy vậy, dẫu sao thì những nhà Khaki võ biền vẫn có thể yên tâm với cái định nghĩa nặng nề đảng tính này. Thì, “trí thức thuộc tầng lớp trên”. Thì, “tham gia cách mạng”. Thì, “không phải là đảng viên vô sản”. Cứ xem, trong những “nhân sĩ” trịnh trọng và rình rang ra mắt trong buổi lễ năm ấy có ai là đảng viên vô sản đâu? Và, cứ hỏi, họ đến đó để làm cái gì ngoài việc cùng làm cách mạng với mấy nhà võ biền? Như thế, nếu “nhân sĩ” đã có thể đem hai thế lực thù hằn xích lại gần nhau, ít ra là trên khía cạnh ngôn ngữ, nhất định, phải có một mẫu số chung nào đó ở cội rễ văn hoá!
Ðã nói đến cội rễ văn hoá thì, tốt nhất, hãy trở lại với làng. Làng ngày xưa, ít ra là cỡ năm 1931 theo tự vị của Ðào Duy Anh, chưa có “nhân sĩ”, may ra thì “hiền sĩ”, một mẫu người, theo cụ Ðào, “có đức hạnh, tài năng”. Ðấy có thể là một nhà cử nghiệp lấy việc dạy học hay bốc thuốc độ thế làm lẽ sống, đó có thể là một đại quan lánh chốn hồng trần để vui thú điền viên v.v… “Triều đình trọng tước, hương đảng trọng sĩ, gia tộc trọng tôn thống” – giữa cái xã hội nông nghiệp trọng Nho nho nhỏ đó thì đối với từ ông lý trưởng, nhà bá hộ, phú nông cho đến trung nông, tá điền, gã thiến lợn hay anh mõ, “hiền sĩ” hiện diện như một vĩ nhân siêu phàm, một biểu hiện cao cả của trí tuệ và đạo đức, một bộ óc bách khoa am hiểu tất cả và có thể giải quyết tất cả.
Thử tưởng tượng đời sống yên bình trong cái xã hội nho nhỏ đó: cái con người siêu phàm, khả kính kia là mẫu người mà ai cũng ao ước kết giao. Kỵ cưới, hỏi xin: mời cho bằng được vĩ nhân, như một niềm vinh hạnh. Tranh chấp xung đột: mời cho bằng được trọng tài vĩ nhân, chỉ để hé mở túi khôn. Nhà bá hộ thì nôn nao ao ước cái giây phút chung chiếu cọ vai với vĩ nhân để thoát khỏi mặc cảm trọc phú, anh mõ thì ao ước lọt vào con mắt hiền sĩ để thoát khỏi mặc cảm cùng đinh, bị gạt ra lề xã hội. Tuy nhiên, khi cái xã hội thu nhỏ ấy trở nên rối ren và khi con người bắt đầu bùi ngùi hoài niệm, kiểu:
Ít người sở dụng sĩ hiền như xưa…”
thì đó chính là lúc kẻ mang danh “sĩ”, vì trượng tiền, hay “trượng” bất cứ thứ gì đó mang bộ “lợi”, đã dao động nghiêng ngả, hết còn vô tư giữa những tranh giành, xung đột.
Ðấy là làng, là nơi mà những tranh chấp rối ren chỉ xoay quanh mấy miếng đỉnh chung nho nhỏ: thửa ruộng hương hỏa hay công điền tý tẹo, chút thổ phần bò xéo, cùng lắm là những thứ danh vọng phù phiếm kiểu “một miếng giữa làng” thế thôi. Xa hơn thế, trong phạm vi của nước, khi miếng đỉnh chung to tát hơn nhiều, cái trò lôi kéo kia mới còn phức tạp hơn nữa; và như thế, khi “nhân sĩ” chào đời thì đấy cũng chính là lúc quốc gia đã bị “làng hoá”.
Có lẽ trò chính trị nhân sĩ đã khởi sự một cách bài bản từ sau tháng 8.1945, trong tình thế rối ren khi thực dân Pháp lăm le trở lại và những đảng phái quốc gia hay cộng sản toát mồ hôi lạnh rình rập nhau. Như một đòn thế chính trị trong nỗ lực cạnh tranh thực lực, Việt Minh gấp rút thành lập Chính Phủ Liên Hiệp với sự góp mặt của những nho sĩ, những nhà ái quốc nổi tiếng. [3] Mười lăm năm sau, bài bản đó được lập lại lần nữa khi những trí thức miền Nam lục tục tề tựu tại bưng biền Ðồng Tháp để tô điểm cho cái gọi là Mặt trận, một thứ hình nộm do đảng vô sản nặn ra. Và, không thua, phái Khaki, tập trung trong cái Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng, cũng loay hoay lập lại cái màn trình diễn tương tự. Loè hơn, nhưng vụng hơn. Không phải ngẫu nhiên mà trong cách định nghĩa về “nhân sĩ”, vô-sản-đảng tính lại có thể tương hợp với Khaki-tính: cách mạng. Nước có lâm vào cảnh rối ren người ta mới hô hào cách mạng. Và cách mạng, đến lượt, cũng là cội nguồn của những rối ren không lường trước: nó đẩy xứ sở đi về phía trước hay kéo lại, thụt về phía sau? Cách mạng, như thế, luôn luôn đặt con người trước những lựa chọn bất an.
Nếu cách mạng ngụ ý những thay đổi bất an thì “nhân sĩ” lại ngụ ý một giá trị thuyết phục. Trước những ẩn số mờ mịt của tương lai, “nhân sĩ”, như những biểu hiện cao cả của nhân cách và trí tuệ lại ngụ ý một chọn lựa đúng đắn, hay ít ra, những chọn lựa lương thiện. Ðồng bào nghi ngờ, lưỡng lự ư? Thì, có cụ này, cụ kia tham gia, toàn… “nhân sĩ” cả! Trò lôi kéo “nhân sĩ”, như thế, chỉ là một trò quảng cáo chính trị nhằm rao bán những hứa hẹn không bảo chứng, những hứa hẹn mù mờ, những hứa hẹn phiêu lưu và liều mạng.
Tại sao khi cụ Phan Bội Châu, một nhà ái quốc và cách mạng tầm cỡ của dân tộc, bắt tay hiệu đính bộ tự điển của Ðào Duy Anh, “nhân sĩ” chẳng hề xuất hiện? Thì cũng như bao thế hệ trước đó, từ Hoàng Hoa Thám đến Phan Ðình Phùng, Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, như những “sĩ phu Văn Thân”, những nhà cách mạng, những nhà cách mạng duy tân, hết thảy đều có một mục tiêu rõ ràng, minh bạch, và có thể nói, hồn nhiên nữa: đánh đuổi thực dân để giành lại non sông.
Cũng hô hào diệt xâm lăng, cũng dương cao ngọn cờ độc lập nhưng lại lường léo bên trong, với những giáo điều nhập cảng nào đó hay với những mưu đồ cạnh tranh quyền lực nào đó. Vì lường léo nên mới loay hoay đổi tên đổi họ, từ “đảng” cho đến “hội nghiên cứu”, hay mơ hồ hơn như cái “hội” gọi là “Ðộc Lập Ðồng Minh” v.v… Và, cũng vì lường léo nên mới có cái kiểu dấn thân thật lạ đời: “tham gia” nhưng “không là đảng viên”. Tham gia mà bị loại ra khỏi hàng ngũ thành viên thì tham gia cái gì? Chỉ là đem tên tuổi và danh vị ra để bảo chứng cho những câu trả lời mà cả họ cũng không thể nào đoan chắc. Cứ nhớ lại nỗi niềm chua chát của cụ Huỳnh Thúc Kháng trong cương vị người đứng đầu Bộ Nội Vụ của cái Chính Phủ Liên Hiệp năm đó. Cứ nhớ lại hình ảnh những “nhân sĩ” miền Nam lục tục kéo về bưng biền Ðồng Tháp những năm 60 và rồi vỡ mộng ngay sau đó, hay 15 năm sau đó. Và cứ nhớ hình ảnh loè loẹt của mấy chục nhân sĩ rình rang ra mắt ở Hội Trường Diên Hồng năm ấy, họ đã bị phái Khaki rẻ rúng như thế nào, tuỳ tiện tung hứng như thể trái banh qua những đợt chỉnh lý hay đảo chính như thế nào?
“Nhân sĩ”, như thế, nhìn ở tầm vĩ mô, chỉ là một thứ trò làng hoá quốc gia hay hương thôn hóa đô thị, với cái nhìn vi mô thì đấy chỉ là một sự hiện diện chẳng để làm gì, một sự ra tay chẳng biết để làm gì mà chỉ là một sự chường mặt, với một cái danh!
Sydney 5.2002
© 2003 talawas
[1]Trong “Hán-Việt Tự Ðiển”, (1960), của Nguyễn Văn Khôn, soạn giả thường được biết đến với các bộ tự điển Anh-Việt hay Việt Anh, “nhân sĩ” được định nghĩa một cách khá hời hợt như là “người có học giữa đám dân chúng”.
[2]Chỉ có “sĩ nhơn”, định nghĩa như là “người có học”. Nhưng nếu chỉ đơn giản là “người có học” thì “sĩ nhơn” chẳng thể nào được xem là “nhơn sĩ”.
[3]Trong bài “Bọn Nhân văn-Giai phẩm” trước toà án và dư luận, Ðoàn Giỏi cho biết: “Phan Khôi vẫn được đãi ngộ ăn lương nhân sĩ, không phải làm gì cả, viết hay dịch sách thì hưởng tiền nhuận bút… ” Dẫn theo “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, trang 89-96, Hoàng Văn Chí sưu tập.