Seite auswählen

Lê Nguyễn Duy Hậu

 

 

[Thật khó để viết về chính trị Mỹ trong thời điểm này mà không bị một trong hai phe (hoặc cả hai) công kích. Nhưng những bài học sinh động, sâu sắc về cách mà một nền dân chủ hoạt động và những quan điểm, ý thức hệ đối chọi lẫn nhau của nước Mỹ lại quá hấp dẫn để cưỡng lại được ham muốn viết một cái gì đó về nó, bất kể rằng có thể những kết luận, thông tin, quan sát còn nông cạn, định kiến, hay sai lầm. Dẫu vậy nó cũng đáng để người viết chấp nhận rủi ro]

Đã bốn năm kể từ khi Donald J. Trump trở thành Tổng thống, chưa phút giây nào nước Mỹ ngưng tiếng chỉ trích, phản đối (nhưng kì thực, 8 năm của Obama cũng không bình yên gì với sự nổi lên của Tea Party). Chỉ tay vào lỗi của cả hai bên là quá đơn giản, và cũng thật dễ khi gán cho những người ủng hộ Trump là “cuồng”, là “chậm tiến”, hay chụp lên đầu những người phản đối là “cánh tả”, là “thổ tả”… Nhưng nền dân chủ vốn dĩ không phải là để hai phe xem nhau như kẻ thù như vậy, mà là một platform giúp cho tôi có thể làm việc với anh ngay cả khi chúng ta ghét bỏ lẫn nhau. Điều đáng buồn là ngay cả khi tháng 11 này kết thúc với một vị tổng thống mới hoặc cũ, có lẽ tình hình cũng không khá hơn. Là người Việt Nam, chúng ta không có bất kỳ tiếng nói gì cho cuộc đua kỳ thú này, nhưng chúng ta có thể học từ nó. Điều quan trọng là cần phải hiểu chuyện gì đã xảy ra, sai hay đúng từ đâu, và có thể làm gì để sửa chữa hoặc phát huy nó.

Ngày hôm nay, mục Ý kiến của Wall Street Journal có đăng một bài với tựa đề là “Will Democrats Accept Another Trump Victory?” (Liệu Đảng Dân Chủ có Chấp nhận nổi Một chiến thắng nữa của Trump không?). Mục ý kiến của WSJ thì vốn dĩ có khuynh hướng “bảo thủ” nhưng điều đó không có nghĩa là những gì họ nói là vô lý hay “cuồng” Trump. Trong bài, tác giả chỉ ra rằng suốt nửa thế kỷ qua, trừ hai lần mà các Tổng thống đảng Cộng hoà thắng cử với tỷ lệ cực đậm (landslides – 49 bang), đảng Dân chủ luôn tuỳ mức độ mà cáo buộc chiến thắng của Đảng Cộng hoà là không chính danh. Kết luận lại, tác giả vẽ ra một kịch bản rằng nếu lỡ như Trump có thắng trong kỳ bầu cử tháng 11 này (tác giả thừa nhận Trump rất có thể thua), thì liệu Đảng Dân chủ có thể ngừng đổ lỗi cho các tác nhân bên ngoài như Putin, Trung Quốc, Coronavirus, đàn áp người đi bầu… mà thẳng thắn nhìn nhận rằng họ thua vì thế trận chính trị của họ không đủ sức thắng Trump? Tất nhiên đây là một câu hỏi gợi mở và không hẳn ai cũng có thể đồng tình. Đồng thời cũng không có một thống kê tương tự cho những lần đảng Dân chủ thắng.

Từ thời điểm phòng chờ xem kết quả bầu cử Mỹ của tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn im lặng như đưa đám khi CNN công bố Trump là Tổng thống đắc cử, người ta vẫn không ngừng hỏi nhau là điều gì đã xảy ra (thậm chí Hillary Clinton còn phải ra một tự truyện để cố gắng trả lời câu hỏi này). Có nhiều lý thuyết được đưa ra và nổi bật nhất (và được cả Trump xem là hợp lý) chính là việc người ta cho rằng tồn tại trong lòng nước Mỹ một “đám đông im lặng” (silent majority). Đám đông im lặng chỉ những thành phần cử tri không quá nổi bật, năng nổ trong hoạt động chính trị nhưng lại đóng vai trò then chốt trong các cuộc bầu cử. Trump luôn tin rằng ông đã có, và sẽ có sự hậu thuẫn của đám đông này, vì nếu không thì làm giải thích cho chiến thắng của ông khi các cuộc thăm dò bầu cử luôn cho thấy Trump sẽ thua với cách biệt lớn.

Tờ Economist gián tiếp trả lời cho câu hỏi này trong bài báo hồi tuần trước, đánh giá khả năng thắng cử lại của Trump là khó hơn nhiều so với 4 năm trước. Economist nằm trong số các tờ báo đã đoán sai kết quả bầu cử năm 2016, và kể từ đó đến nay luôn hết sức cẩn trọng trong việc đưa ra các dự đoán. Tạp chí này nhận định rằng kết quả của cuộc bầu cử năm 2016 dựa trên nhiều yếu tố cùng kết hợp lại, trong đó thấy rõ nhất là việc “tỷ lệ không thích” Trump lẫn Clinton cao ngất ngưỡng, cao vượt trội so với các cuộc bầu cử khác. Có lẽ chính điều này đã khiến cho phần trình diễn của Clinton không được như ý muốn. Một trong những cách bỏ phiếu ở Mỹ khi bạn không thích ứng cử viên nào hết đó là… ở nhà. Và rất nhiều cử tri của phe Dân chủ đã chọn ở nhà thay vì đến hòm phiếu (tất nhiên cũng có nhiều lý do vì sao họ ở nhà, mong sẽ phân tích trong một dịp khác). Trên thực tế thì các cuộc thăm dò tiền bầu cử không sai khi nói rằng đa số cử tri sẽ ủng hộ Clinton, chỉ là tỷ lệ không quá cách biệt như họ dự đoán. Vì như thế nên tuy rằng Clinton thắng đến 2-3 triệu phiếu nhưng lại thua Trump ở phiếu đại cử tri. Có thể hình dung rằng một đội bóng được đánh giá cao hơn (Clinton) lẽ ra đã có thể thắng dễ dàng, nhưng lại thi đấu không đúng phong độ và để thua trên chấm 11m. Nhưng ngay cả khi Clinton thi đấu không đúng phong độ thì lẽ ra Trump không nên được nhiều phiếu bầu như vậy mới phải (Trump có phiếu cao hơn hai ứng viên Cộng hoà trước là Romney và McCain – có thể là do dân số Mỹ tăng lên). Đám đông im lặng đã lên tiếng như Trump nói? Cứ giả định rằng đám đông im lặng có tồn tại, thì câu hỏi là vì sao họ im lặng? Vì sao một hệ thống báo chí, truyền thông, điền dã tối tân như Mỹ mà lại không thể nắm bắt được ý kiến của công chúng? Đám đông im lặng chả phải chỉ phù hợp tồn tại trong những năm 70 80 hay sao?

Một trong những điều mà chiến dịch của Clinton bị chỉ trích nhất và cho đến nay vẫn là một điểm yếu của các ứng cử viên Đảng Dân chủ đó chính là identity politics (chính trị bản sắc). Thật ra bản sắc là thứ mà cả hai ứng cử viên đều sử dụng, chỉ là hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Một bên lợi dụng bản sắc là “người Mỹ” thông qua khẩu hiểu America First để vận động cho lá phiếu của mình, còn một bên thì cổ suý cho những bản sắc mang tính cá nhân hơn (bạn thuộc cộng đồng LGBT, bạn là phụ nữ, bạn là người da màu… thì bạn nên bầu cho tôi vì tôi sẽ làm luật cho cộng đồng bạn). Phe nào cũng tìm cách phỉ báng những người chống lại bản sắc của mình. Như các cổ động viên của Trump reo hò phản đối người nhập cư hay không ngần ngại ủng hộ trật tự vai vế trong gia đình, sắc tộc, còn những người ủng hộ Clinton thì xem bất kỳ ai không ủng hộ quyền của người LGBT, chống phá thai, có phát ngôn được cho là phân biệt chủng tộc là những kẻ chậm tiến, cần được dạy dỗ, thậm chí là tẩy chay. Để chiều lòng các cổ động viên thì đi đâu Trump cũng nói về các bức tường ngăn cách, về giá trị Mỹ truyền thống… khiến cho những ai coi trọng bản dạng của mình cảm thấy bị bỏ rơi, còn Clinton thì, như thị trưởng một thành phố nhỏ ở Mỹ thốt lên, “chỉ rao giảng cho chúng tôi phải sử dụng toilet nào” trong khi cái chúng tôi quan tâm là kinh tế thì lại mờ nhạt. Có vẻ như cùng một cách làm nhưng những bản sắc mà Clinton thông điệp đến người Mỹ đã không đủ hấp dẫn bằng Trump. Với một số người, cái bản sắc mà Clinton cổ vũ lại không phải ưu tiên hàng đầu của họ (“tôi là phụ nữ, tôi sẽ cảm ơn nếu có luật giúp phụ nữ tốt hơn nhưng tôi quan tâm đến việc làm và nước Mỹ hơn. Mà tôi thấy ổn với việc đàn ông được coi trọng hơn phụ nữ mà?”) Điều này có lẽ cũng có nguyên do của nó.

Những mầm mống của sự trỗi dậy chống lại chủ nghĩa toàn cầu, chống lại sự đa dạng văn hoá và các tư tưởng cấp tiến, thế giới đại đồng… đã có từ rất lâu nhưng có lẽ bị che mờ bởi những chiến thắng liên tiếp của các tư tưởng này (“năm 2015 tươi đẹp”). Khi Trudeau trình diễn một nội các với đủ thành phần, sắc tộc, màu da, đa dạng cơ thể và trả lời có phần trịch thượng câu hỏi của phóng viên: “Vì đó là năm 2015” (đọc là: “năm 2015 thì đương nhiên phải vậy, hỏi thừa”), thì ít ai nghĩ rằng một năm sau thôi, nước Anh rời khỏi EU một cách đáng kinh ngạc và Jordan Peterson bắt đầu lên tiếng chống lại thói “phải đạo chính trị” (political correctness). Jordan Peterson có lý của ông ta khi nói rằng Nhà nước đừng can thiệp vào việc tôi nói gì, cho dù là nhân danh dân quyền. Jordan Peterson cũng cho rằng nếu anh cảm thấy bị xúc phạm bởi hành vi của tôi thì hãy tranh luận với tôi thay vì mượn bàn tay của Nhà nước để triệt hạ ngôn luận.
Cái giá của việc nhờ vả Nhà nước bảo vệ bạn chính là tự do của bạn. Peterson thách thức cái ông gọi là “phải đạo chính trị”, cho rằng xã hội bây giờ bị cấp tiến làm cho thái hoá đến mức bất kỳ câu nói nào cũng có thể bị coi là kì thị, là phân biệt chủng tộc, là làm cho cuộc sống của những người thiểu số khó khăn hơn.
Không rõ những gì Peterson nói có đúng hay không nhưng có vẻ như nó được khá nhiều người đồng tình, ủng hộ, thậm chí cả những người trước nay tin rằng tự do, bình đẳng, bác ái là thứ đáng quý nhưng cảm thấy rằng nó phải được chính bản thân đoạt lấy chứ không phải được thi hành bởi Nhà nước. Ít ai có được cái dũng cảm và độ đanh đá như Peterson, và khi đám đông không dám lên tiếng nói rằng “well, thật ra tôi cũng không dám chắc là LGBT là tự nhiên đâu” hay “thật ra tôi cũng không hiểu lắm những khái niệm về giới mà anh/cô vừa nói đâu” vì sợ rằng bị xem là chậm tiến, là bảo thủ, là kì thị… họ có vẻ đã quyết định im lặng và lên tiếng bằng phiếu bầu. Điều này có lẽ đã làm cho đảng Dân chủ kinh ngạc và báo giới sững sốt. Nhưng đó cũng chẳng phải lý do duy nhất. Một trong những công cụ của chính trị bản sắc theo kiểu cấp tiến đó là việc phải gắn cho được những yếu tố đạo đức vào con người vị tổng thống, vì chẳng phải tổng thống đang khuyến khích người ta “sống đẹp” hơn sao – trong khi chính trị bản sắc của phe cộng hoà chỉ nhắm đến tính thực dụng, như cách một ông bố người Việt bầu cho Trump đã viết cho con trai mình sau khi Trump thắng cử: “Trừ khi một người muốn tham chính, hoặc muốn con cái họ tham chính, không có lý do gì người đó dạy con cái mình phải xem chính khách là khuôn mẫu sống. Nếu con cần phải tìm những khuôn mẫu cho cuộc sống của mình, ngay cả khi con muốn trở thành chính khách, con nên tìm ở nơi khác, trong tôn giáo, trong nhà trường, trong các không gian sáng tạo và cống hiến chẳng hạn… Khi nào con nghe ai đó nói về chính khách nào đó như một đại diện cho các giá trị đạo đức của họ thì con nên bày tỏ sự thương hại đối với người đó; người này chưa vượt ra khỏi tuy duy bộ lạc…”. Vì thế, những vết nhơ đạo đức có vẻ gây thiệt hại cho ứng cử viên đảng Dân chủ cao hơn của đảng Cộng hoà. Khi các chính trị gia Dân chủ bị tấn công, nó càng làm củng cố niềm tin cho “đám đông im lặng” kia, rằng những giá trị mà cấp tiến đang rao giảng chỉ là lời nói suông, không có giá trị.

Trump có lẽ đã chiến thắng bằng cách đó. Chính cái tưởng như là thế mạnh của đảng Dân chủ đã là gót chân Achilles khiến cho đảng này thất bại. Thực tế 4 năm sau, khi những giá trị cấp tiến bị tấn công toàn diện, đã minh chứng cho điều đó.

Nhưng liệu Trump có phải là lời giải tốt cho những vấn đề trong nội bộ chính trị nước Mỹ? Rất khó để nói.

Được sự cổ vũ bởi chiến thắng của Trump, ngày càng có nhiều người trước đây vốn im lặng hoặc ít được để ý trở nên mạnh dạn hơn trong việc nói ra các quan điểm bảo thủ của mình. Giờ đây, người ta có thể công khai coi khinh người da đen mà vẫn có một lượng người ủng hộ đông đảo (bên cạnh những người phản đối). Người ta sẵn sàng kì thị nhập cư và tự do di chuyển và xem đó là hành pháp bình thường. Tất nhiên số lượng người phản đối cũng đông đảo không kém số lượng người ủng hộ và cũng không chắc rằng cái gọi là “đám đông im lặng” còn tồn tại khi tất cả đều trở nên ồn ào. “Phải đạo chính trị” vốn dĩ bị coi là đè nén tự do ngôn luận bị thay thế bằng tự do ngôn luận ở cấp độ cao nhất, kể cả ngôn luận kì thị. Vì sao tôi phải xin lỗi vì đã kì thị anh khi chính bản thân tổng thống cũng bắt chước người khuyết tật và trăng hoa với phụ nữ? Có lẽ đó là lần đầu tiên người cấp tiến bị thách thức, bị gọi là cái đồ… “cấp tiến”, bị mắng rằng những giá trị họ theo đuổi chỉ là đạo đức giả, là không đúng đắn. Nó như một cái tát vào mặt người cấp tiến.

Nhưng xin chớ quên, đảng Dân chủ không phải là lực lượng chính trị đầu tiên chống lại sự trỗi dậy của Trump. Chính đảng Cộng hoà và những chính trị gia cộm cán của nó chính là những kẻ “cuồng chống Trump” đầu tiên, trước khi họ quay sang ủng hộ Trump sau tháng 11 năm 2016 (Còn ai nhớ đến các cuộc bỏ phiếu nội bộ năm 2015-16 khi số cử tri Cộng hoà cứ dứt khoát bầu Trump còn chính trị gia thì phỉ báng Trump bằng những ngôn từ còn kinh khủng hơn bây giờ nữa?).

Người ta chống Trump, cũng như nhiều người bây giờ không thích Trump, vì họ lo sợ một con người có tính cách độc tài có thể trở thành Tổng thống. Vốn dĩ, quan điểm chính trị của Trump có phần độc đoán hơn cả những chính khách Cộng hoà vốn quyết liệt nhưng không đến mức phân cực (cũng đừng quên cái gọi là cánh tả của Mỹ chỉ ở đâu đó trung tả theo chuẩn Châu Âu và cánh hữu của Mỹ cũng chỉ là cải lương so với cực hữu của lục địa già) Tính cách độc tài thể hiện qua cách ông sử dụng executive orders cho các hoạt động của mình, thực hiện các đường lối ngoại giao không tham vấn Quốc hội, đe doạ sa thải những người chống lại mình hoặc làm không có lợi cho mình… Hợp pháp không? Có thể. Nhưng độc tài thì vẫn là độc tài (mà bây giờ độc tài cũng không còn là tính cách xấu nữa). Dù muốn dù không, hậu quả của 4 năm vừa qua là một nền chính trị không thể phân cực hơn. Không phải lỗi Trump hoàn toàn nhưng ông cũng không thể vô can tuyệt đối. Nhưng Trump thì vốn mãi là Trump và không ai thay đổi được ông ấy. Vấn đề là ở những người dân bình thường. Câu chuyện già néo đứt dây khiến cho lần đầu tiên kể từ sau Nội chiến Mỹ, những người cấp tiến nhất của đảng Cộng hoà đã bảo thủ hơn cả những người bảo thủ nhất của đảng Dân chủ.

Điều này khiến cho cuộc tranh đấu chính trị ở Mỹ dần dần mang một màu sắc ý thức hệ, thay vì là một cuộc tranh đấu về cách thức vận hành chính quyền thuần tuý như trước kia, và đe doạ sự khoẻ mạnh của nền dân chủ tự do ở Mỹ. Những người bạn cũ thì trở mặt, như cách Lindsey Graham mới mấy năm trước còn khóc khi nói về người bạn Joe Biden thì nay đã không ngần ngại kêu gọi điều tra nhau. Nền dân chủ lung lây là khi đảng cầm quyền và đảng đối lập coi nhau như kẻ thù thay vì coi nhau như những đối thủ chính trị thuần tuý. Sự bất tín đó khiến cho nhiều người ủng hộ Trump tin rằng coronavirus là đòn thù của phe Dân chủ còn những người phe Dân chủ thì coi ai ủng hộ Trump cũng là kẻ ngu si, bất chấp thực tế không có gì chứng minh cho các kết luận đó. Hậu quả nhãn tiền là trong khi các ổ dịch trên thế giới đều ổn định thì Mỹ vẫn loay hoay với một chính sách chống dịch hiệu quả.

Dù gì đi nữa, sự thật vẫn là nước Mỹ đang có một tổng thống sẵn sàng thách thức các giá trị tự do, dân chủ, và gần đây là đa dạng vốn dĩ đã trở thành quyền lực mềm khiến nước Mỹ hấp dẫn trong mắt thanh niên thế giới. Rất nhiều người vẫn yêu quý nước Mỹ mặc dù họ sẵn sàng ghét Trump vì lẽ đó. Nhưng một sự thật khác đó chính là dường như trong quá trình thúc đẩy những giá trị đó, người cấp tiến đã đi quá nhanh đến mức họ bỏ rơi những người “chưa theo kịp họ” và chính bản thân họ cũng không thể hiện được bản thân mình có thể sống như những giá trị đó. Có thể xem sự trỗi dậy của Trump như một bài học cho điều đó và tuy nghĩa vụ của người cấp tiến là phải phản bác lại những gì Trump nói, Trump làm mà họ tin rằng đang gây hại cho nước Mỹ, cho thế giới, thì cũng không được quên rằng khi một đảng cầm quyền thất cử, lỗi đầu tiên thuộc về đảng đó, thuộc về các cách thức làm chính trị mà đảng đó theo đuổi. Những thông điệp cấp tiến cần phải gần gũi, bình dân hơn và được phổ cập từ từ, kiên nhẫn hơn, với thái độ cầu tiến, sẵn sàng xem xét lại. Những chương trình hành động cần phải cẩn trọng và có suy xét hơn (ví dụ, defund the police có nghĩa là gì, phải nói rõ ra, phải giải quyết các lo ngại chính đáng của những người khác…). Cần phải nhìn vào và giải quyết các thông điệp thay vì dán nhãn người phát ngôn và bỏ qua luôn cả thông điệp đó (ví dụ, chả cần nghe cũng biết là JKR kì thị người chuyển giới nên đích thị lần này bà cũng vậy). Cần phải chấp nhận rằng phạm trù đạo đức không thể ép buộc và phải sẵn sàng phản tỉnh thay vì khư khư với độc quyền giá trị. Nếu vẫn muốn theo đuổi chính trị một cách nghị trường thì đó là cách duy nhất, như cách mà Công đảng của Anh và chính đảng Dân chủ của Mỹ đã cải tổ để tốt hơn, thực tế, gần gũi hơn sau thập niên 1980 thua tan nát. Còn nếu nghĩ rằng phe bên kia chỉ toàn kẻ xấu và không có thời gian tranh luận vì tình hình đã quá cấp bách rồi, thì chỉ còn cách làm cách mạng, làm theo những người Jacobin ở Pháp hồi 300 năm trước: tuyên bố tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng và chém đầu những người không đồng ý.

Tất nhiên, phe cấp tiến ở Mỹ nhận ra điều đó. Và họ cũng hiểu được giá trị và điểm yếu của hệ tư tưởng của họ (dành vài lời cho những ai cho rằng chính trị cánh tả chỉ có thể khiến cho đất nước lụn bại – đừng quên tổng thống vĩ đại nhất nước Mỹ Franklin Roosevelt là một người của đảng Dân chủ và chính sách kinh tế New Deal của ông rất can thiệp. Nước Mỹ dưới 4 nhiệm kỳ tổng thống của ông đã thoát khỏi đại suy thoái, đánh thắng thế chiến thứ 2, và trở thành một siêu cường). Nhưng quyết định lựa chọn cách nào để giải quyết tình trạng hiện tại là rất khó. Liệu có nên chọn một ứng viên ôn hoà đến mức tẻ nhạt như Joe Biden – để rồi không đủ sức trị Trump, hay một người cấp tiến đến mức nguy hiểm cho phiếu bầu như Bernie Sanders – để rồi lại càng lúc phân cực chính trị Mỹ? Có vẻ như đảng Dân chủ đã có câu trả lời. Còn đảng Cộng hoà, mình vẫn rất tiếc nếu Trump là lựa chọn tốt nhất. GOP có thể làm tốt hơn như vậy nếu họ có 1 tổng thống ôn hoà và có nguyên tắc hơn.

Dù kết quả như thế nào, cuộc bầu cử tháng 11 sắp đến cũng sẽ rất lịch sử.

Là người Việt Nam, chúng ta rất đỗi chập chững với những tranh luận chính sách và quan điểm phức tạp như thế này. Cuộc sống của chúng ta không thoát khỏi hình bóng Trung Quốc, đến mức chúng ta ủng hộ bất kỳ ai chống Trung Quốc và sẵn sàng tuyên bố bản thân đi theo các giá trị khác của người đó mà mình đồ rằng ta không hiểu nó là gì. Nên cách tốt nhất vẫn phải là học hỏi và quan sát cách nước Mỹ giải quyết vấn đề của nó. Giá trị của nước Việt do người Việt định hình, chứ không nằm ở câu hỏi ai chống Trung Quốc.

 

Bầu cử Mỹ: Vì sao thành phần bảo thủ ủng hộ Tổng thống Trump?

Tác Giả:Nguyễn Quang Du

 

Hai mặt của đồng tiền. Ảnh mang tính minh họa

Đồng tiền còn có 2 mặt, nói chi một xã hội tự do và đa nguyên nhất thế giới như nước Mỹ, hôm nay xin tiếp tục giải thích về thành phần bảo thủ tại Mỹ.

Giá trị Mỹ bị đảo ngược…

Vào những năm cuối thập niên 1950, nhà xã hội học Michael E. Harrington, người khai sinh tổ chức Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ, nhận xét có hai nước Mỹ, một của người giàu và một của người nghèo.

Quyền lực kinh tế và chính trị đều nằm trong tay người giàu, vì vậy chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng, người đã giàu lại càng giàu hơn.

Muốn thay đổi xã hội phải dứt khoát từ bỏ đấu tranh giai cấp do Karl Marx đề ra, phải thực hiện đấu tranh chính trị, phải tái cấu trúc hệ thống các đảng chính trị và phát động cuộc chiến chống lại nghèo khó ngay trên đất Mỹ.

Tư tưởng nói trên ảnh hưởng đến chính sách của Tổng thống John Kennedy (1961-63), một kế hoạch chống lại nghèo đói và bất công đã ra đời, và đã được Tổng thống Lyndon Johnson (1963-69) tiếp tục thực hiện.

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa, các phong trào bình đẳng giới tính, bình đẳng sắc tộc, chống chiến tranh Việt Nam trong thập niên 1960 làm đảo lộn mọi giá trị truyền thống của người Mỹ.

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa dần dà không chỉ trở thành chính sách của đảng Dân Chủ, mà còn ảnh hưởng đến chính sách của đảng Cộng Hòa, và ảnh hưởng đến nước Mỹ.

Những người trưởng thành trong thập niên 1960 và thập niên 1970 trở thành những nhà báo, nhà làm phim, nhà hoạch định chính sách, nhà hoạt động xã hội và chính trị, nhà giáo dục…, ảnh hưởng đến xã hội và đến thế hệ trẻ hơn.

Bởi thế ngay cả Hiến Pháp và các giá trị truyền thống Mỹ những người trẻ ít được biết đến, họ được giáo dục, được đọc sách, đọc báo, xem phim ảnh, theo quan điểm của người cấp tiến xã hội chủ nghĩa.

Bảo thủ là thế nào?

Nước Mỹ theo thể chế Cộng Hòa, công dân Mỹ phải trung thành với Hiến Pháp, nhưng mỗi người hiểu Hiến Pháp mỗi khác.

Tối Cao Pháp Viện là cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, tuyên bố các đạo luật liên bang, đạo luật tiểu bang là vi hiến, hoặc tuyên bố các hoạt động của hành pháp liên bang và tiểu bang là vi hiến.

Tối Cao Pháp Viện gồm chín thẩm phán do Tổng Thống bổ nhiệm trọn đời và Thượng viện phê chuẩn chấp nhận.

Các thẩm phán theo khuynh hướng bảo thủ giải thích Hiến Pháp và các đạo luật theo nghĩa gốc ban đầu tạo ra chính nó.

Còn các thẩm phán theo khuynh hướng cấp tiến giải thích ý nghĩa của Hiến Pháp theo hoàn cảnh, theo thời gian hoặc theo các tài liệu chứng cứ xung quanh việc ban hành đạo luật.

Tối Cao Pháp Viện có khi do phía cấp tiến nắm giữ và có lúc do phía bảo thủ quyết định.

Thành phần bảo thủ như vậy là những người muốn duy trì giá trị truyền thống do những nhà lập quốc Hoa Kỳ truyền lại trong Hiến Pháp.

Quyền phá thai

Án lệ Roe v. Wade về quyền phá thai là án lệ gây tranh cãi và chia rẽ trong suốt 40 năm qua.

Án lệ được thành phần cấp tiến nhiệt tình ủng hộ vì nó đáp ứng quyền riêng tư và nữ quyền, nhưng đã phạm vào niềm tin và tín ngưỡng của thành phần bảo thủ.

Án lệ được Tối Cao Pháp Viện phán quyết ngày 22/1/1973, theo Tu Chính Án số 14 của Hiến Pháp Hoa Kỳ, người phụ nữ có quyền phá thai và quyền này được quy định trong suốt thời gian người phụ nữ mang thai.

Nhưng Tối Cao Pháp Viện đồng thời lại cho phép các tiểu bang ấn định khi nào bào thai có khả năng tồn tại độc lập, vì thế ở một số tiểu bang bảo thủ quyền phá thai gần như không được thi hành.

Quan điểm bảo thủ…

Những người có tín ngưỡng tin rằng bào thai là nguồn sống được Thượng đế ban cho con người và đất nước Hoa Kỳ, nên không ai được quyền tước đi mạng sống của người khác.

Những người bảo thủ còn tin rằng việc phá thai, sẽ dẫn đến việc xa rời đức tin tôn giáo, phá bỏ truyền thống gia đình và xã hội.

Trong khi những người cấp tiến tin vào kế hoạch hóa gia đình, thì người bảo thủ lập luận việc phá thai khiến nước Mỹ bị lão hóa phải nhận thêm di dân, càng đông di dân càng hủy hoại giá trị truyền thống của người Mỹ.

Vào năm 1995, bà Norma McCorvey người tạo ra án lệ Roe v. Wade trở thành một tín hữu Tin Lành, bà nhìn nhận khi còn trẻ bị hoàn cảnh đưa đẩy dẫn đến án lệnh này.

Bà McCorvey rất hối hận nên đã trở thành một nhà hoạt động chống phá thai, bà đã từng điều trần trước Quốc Hội chống lại việc phá thai.

Phán quyết đổi chiều…

Vào đầu tháng 6/2019, Tối cao Pháp viện Mỹ bất ngờ ủng hộ một điều luật của tiểu bang Indiana là tất cả các bào thai dù bị sẩy thai hoặc phá thai đều phải được chôn cất hoặc hỏa táng.

Quyết định này được xem là bước đầu công nhận bào thai không phải là chất thải y tế, mà là con người khi mất phải được đối xử trang nghiêm.

Khi đã xem bào thai là con người, bước kế tiếp là bào thai có quyền được sống được hưởng mọi thứ quyền mà công dân Hoa Kỳ được hưởng.

Nhưng các thẩm phán Tối cao Pháp viện cẩn thận đưa ra một phán quyết khác là trong một số trường hợp phụ nữ ở tiểu bang Indiana tiếp tục có quyền phá thai.

Người có tín ngưỡng ủng hộ ông Trump

Tổng thống Trump chống lại việc phá thai, nhưng lại đồng ý trong trường hợp người phụ nữ bị hãm hiếp, hay loạn luân, hay để bảo vệ cuộc sống của người mẹ, người phụ nữ có quyền phá thai.

Mặc dù, quan điển này không được giới chống phá thai đồng ý, nhưng họ đều biết chính nhờ ông Trump đã bổ nhiệm 2 thẩm phán bảo thủ nên mới có được kết quả nói trên.

Ngay sau đó đã có tới mười tiểu bang ban hành các quy định phá thai và cấm phá thai nhằm thách thức Tối cao Pháp viện phải xét lại quyền phá thai.

Con số phá thai đã giảm rất nhiều, nhiều phòng khám phá thai đã phải đóng cửa, tiểu bang Missouri không có phòng khám phá thai nào…

Theo khảo sát được Democracy Institute/Sunday Express công bố ngày 14/7/2020, đa số người Mỹ có tín ngưỡng ủng hộ Tổng thống Trump tái đắc cử.

Đặc biệt, 90% người theo Công giáo Phúc âm (Evangelical Christians) bày tỏ ủng hộ ông Trump, chỉ có 8% nói họ sẽ bỏ phiếu cho ông Joe Biden.

56% người theo Tin lành ủng hộ ông Trump, 42% bỏ phiếu cho ông Biden.

Còn người theo Công giáo Roma 52% ủng hộ ông Trump, 44% ủng hộ ông Biden.

Ông Biden nhận được sự ủng hộ của đa số người theo Do Thái giáo (61%) và những người vô thần (90%).

Xóa bỏ chủ nghĩa tư bản …

Ngày 9/7/2020, ông Joe Biden, ứng cử viên đảng Dân Chủ, tại Dunmore, tiểu bang Pennsylvania đã công khai kế hoạch tranh cử Tổng thống trong đó có việc “chấm dứt kỷ nguyên chủ nghĩa tư bản cổ đông” (era of shareholder capitalism).

Ông cho biết sẽ thay thế bằng một hệ thống quản trị xí nghiệp dựa trên quyền lực của các nghiệp đoàn lao động và dựa trên các cộng đồng người da đen, da màu và người Mỹ bản địa.

Ông định mức lương tối thiểu 15 Mỹ kim một giờ và dự định tăng thuế thu nhập công ty từ mức thuế 21% hiện nay lên 28%, trở lại mức thuế thời Tổng Thống Obama.

Việc Tổng thống Trump vào năm 2017 giảm thuế công ty xuống còn 21%, đã vực dậy nền kinh tế Mỹ, giảm thất nghiệp đến mức thấp nhất trong vòng mấy chục năm, nhất là giảm thất nghiệp trong cộng đồng người Mỹ gốc da đen.

Những chính sách của ông Biden tương tự với ý tưởng của Thượng Nghị Sĩ Bernie Sanders, một người cực tả, có lập trường đối nghịch với thành phần bảo thủ kinh tế những người tin vào kinh tế tự do, chính phủ không can thiệp vào hoạt động xí nghiệp, giảm thiểu thuế công ty.

Bảo thủ chống chủ nghĩa xã hội

2 thí dụ trong bài nói lên sự khác biệt về xã hội và kinh tế giữa thành phần bảo thủ và thành phần cấp tiến theo xã hội chủ nghĩa tại Mỹ.

Ngay từ thời Tổng thống John Kennedy (1961-63), những cuộc tranh cử Tổng thống và tranh cử giữa kỳ tại Mỹ, đều là những cuộc giao đấu chính trị giữa hai khuynh hướng bảo thủ và xã hội chủ nghĩa.

Những đề tài chính trị khác, như bình đẳng giới tính, bình đẳng sắc tộc, bảo vệ môi trường, toàn cầu hóa, thương mãi Mỹ-Trung, mở cửa phục hồi kinh tế sau đại dịch…, sẽ là những đề tài tranh cãi giữa các ứng cử viên trong cuộc tranh cử 2020 sắp tới.

Cuối cùng khối cử tri trung dung, thầm lặng quan sát, cân nhắc và quyết định kết quả cuộc bầu cử.

Melbourne, Úc Đại Lợi

17/07/2020

Nguyễn Quang Duy

Nguồn: Đàn Chim Việt