MỸ-Robin Hauser, bác sĩ nhi khoa ở Tampa, bang Florida, nhiễm nCoV vào tháng hai, 7 tuần sau khi tiêm đầy đủ hai liều vaccine Pfizer-BioNTech.
“Tôi rất sốc”, Hauser nói. “Tôi nghĩ: ‘Cái quái gì vậy? Sao điều này có thể xảy ra?’ Bây giờ tôi khuyên tất cả mọi người, bao gồm cả các đồng nghiệp, không được lơ là sau khi tiêm vaccine”.
Khi ngày càng nhiều người Mỹ được tiêm chủng mỗi ngày, một số lượng nhỏ nhưng ngày càng tăng đang phải đối mặt với trải nghiệm đáng lo ngại khi nhiễm nCoV mặc dù đã tiêm một mũi hoặc thậm chí hai mũi vaccine.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) cho biết ít nhất 5.800 người đã nhiễm nCoV hoặc có kết quả xét nghiệm dương tính với nCoV từ hai tuần trở lên sau khi tiêm hai liều vaccine Pfizer-BioNTech hoặc Moderna. Hơn 95,9 triệu người Mỹ đã được tiêm chủng đầy đủ.
Những trường hợp virus né được vaccine này xảy ra ở mọi lứa tuổi. Hơn 40% ở những người hơn 60 tuổi và 65% xảy ra ở phụ nữ. Theo CDC, 29% số người như vậy không có triệu chứng, nhưng 7% phải nhập viện và chỉ 74 người tử vong, tức 1%.
Giới chức y tế công cộng cho biết họ đã lường trước những trường hợp như vậy, vì các nhà sản xuất đã nhiều lần cảnh báo vaccine không bảo vệ được 100%. Vaccine Pfizer và Moderna đã liên tục được chứng minh là có hiệu quả trên 90% trong ít nhất 6 tháng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chúng có hiệu quả gần 100% trong việc đảm bảo rằng nếu vẫn nhiễm virus sau khi tiêm, người nhiễm sẽ không có triệu chứng nghiêm trọng hoặc phải nhập viện.
Tuy nhiên, mọi người thường bị sốc và bối rối khi rơi vào trường hợp đó. Sau nhiều tháng lo sợ và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, người dân thường cảm thấy an toàn và nhẹ nhõm sau khi tiêm phòng. Việc vẫn nhiễm nCoV là gáo nước lạnh với họ.
Hauser, 52 tuổi, đã nghỉ làm để chăm sóc hai con 21 và 16 tuổi, cả hai đều nhiễm nCoV. Bà tự tin rằng mình đã được bảo vệ sau khi tiêm vaccine. Bà cũng chăm sóc người cha bị ung thư. “Thật là một phép màu khi tôi không lây cho ông ấy trước khi tôi nhận ra mình cũng nhiễm nCoV”, Hauser nói. Điều đặc biệt là Brian, chồng của Hauser, người chưa được tiêm phòng, không nhiễm nCoV.
Masha Gessen, biên tập viên tờ New Yorker, đã tiêm xong hai mũi vào giữa tháng hai. Một tháng sau, Gessen nhiễm nCoV, khi cả con trai và bạn gái, Julia Loktev, đều mắc Covid-19. “Trải nghiệm này thật đáng lo ngại, thậm chí là có chút đau thương”, Gessen nói.
“Tôi suy sụp tinh thần khi nhiễm nCoV sau một năm đã phòng tránh rất cẩn thận và tiêm vaccine. Mất khoảng ba tuần cảm xúc của tôi mới bình thường trở lại”, Gessen nói.
Kami Kim, giám đốc bộ phận bệnh truyền nhiễm và y học quốc tế tại Đại học Nam Florida ở Tampa, cho biết các bác sĩ cũng lo lắng không kém khi những trường hợp này xảy ra. “Tuy có thể dự đoán trước, những ca như vậy chắc chắn khiến cả bác sĩ và bệnh nhân bối rối và bực bội”, Kim nói. “Tất cả chúng tôi đều vẫn đang vừa làm vừa rút kinh nghiệm và đưa ra đánh giá về điều gì tốt nhất cho bệnh nhân và chính chúng tôi”.
Các nhà sản xuất vaccine thì nói thống kê của CDC không đáng ngạc nhiên. Người phát ngôn của Moderna, Colleen Hussey, cho biết phân tích mới nhất của hãng về dữ liệu thử nghiệm lâm sàng vaccine cho thấy 900 người đã nhiễm nCoV sau khi tiêm chủng, phù hợp với tỷ lệ hiệu quả hơn 90% mà họ đã báo cáo.
Phát ngôn viên của Pfizer Jerica Pitts cho biết công ty sẽ theo dõi những người tham gia thử nghiệm trong hai năm sau khi tiêm liều thứ hai để tìm hiểu thêm về khả năng bảo vệ của vaccine Pfizer.
CDC xác định trường hợp virus né vaccine là người tiêm bị ốm hoặc dương tính với nCoV từ hai tuần trở lên sau khi tiêm chủng đầy đủ. Nhưng hàng chục nghìn người vẫn nhiễm nCoV sau khi tiêm mũi đầu tiên hoặc chưa đầy hai tuần sau khi tiêm mũi thứ hai.
Dữ liệu của Pfizer và Moderna cho thấy vaccine của họ có khả năng bảo vệ lên đến 80% trong hai tuần hoặc lâu hơn sau mũi đầu tiên. Nhưng hầu hết chuyên gia tin rằng khả năng bảo vệ dao động trong khoảng 50-80%, tùy thuộc vào khoảng thời gian sau khi tiêm và tùy vào từng người.
Mũi tiêm thứ hai giúp tăng cường khả năng miễn dịch hơn nhưng phải sau vài ngày nó mới phát huy công hiệu và hiệu quả ngày càng tăng lên trong vòng hai tuần. Nhưng điều này cũng có thể khác nhau tùy vào từng người.
Leslie Fratkin, 60 tuổi, nhiếp ảnh gia tự do ở New York, đã tiêm mũi Pfizer thứ hai vào ngày 12/3. Vì vậy, bà đã rất ngạc nhiên khi các triệu chứng rõ ràng của Covid-19 xuất hiện vào ngày 24/3 và bà đã cảm thấy khá mệt mỏi trong ba ngày trước đó.
“Cô không thể đăng nổi những lời tôi thốt ra vào thời điểm đó đâu”, bà nói với phóng viên.
CDC khuyến cáo người nhiễm nCoV sau mũi đầu tiên nên sớm tiêm mũi thứ hai sau khi hồi phục, không quy định thời gian chờ đợi tối thiểu. Đó là sự thay đổi so với khuyến cáo phổ biến hồi tháng 12/2020 và tháng một, khi một số sở y tế của bang khuyên mọi người nên đợi 90 ngày sau khi hồi phục để tiêm mũi đầu tiên hoặc mũi thứ hai, đặc biệt là mũi thứ hai.
Yếu tố thúc đẩy thay đổi quan trọng này là bằng chứng từ các nghiên cứu và kinh nghiệm chỉ ra rằng khả năng miễn dịch nhờ vaccine có thể “ổn định” hơn theo thời gian so với miễn dịch vì hồi phục sau khi nhiễm virus.
Michael Osterholm, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Chính sách về Bệnh Truyền nhiễm tại Đại học Minnesota ở Minneapolis, cho biết cần phải khẩn trương nghiên cứu thêm và hướng dẫn y tế cộng đồng tốt hơn. Nhiều câu hỏi được đặt ra như liệu liều thứ hai có cần thiết với những người nhiễm nCoV sau mũi đầu tiên hay không. Nếu cần tiêm mũi thứ hai thì khoảng thời gian chờ đợi tối ưu nên là bao lâu?
“Đây là những câu hỏi thực tế quan trọng cần được ưu tiên”, Osterholm nói. “Giờ chúng tôi đang dò dẫm trong bóng tối” .
Các quốc gia triển khai mũi thứ hai theo cách khác nhau. Tại Anh, giới chức quy định thời gian chờ giữa hai mũi lên tới 12 tuần, nhằm kéo dài nguồn cung cấp vaccine và ưu tiên tăng số người được tiêm một mũi. Tại Canada, một ủy ban cố vấn về vaccine của chính phủ ngày 7/4 khuyến cáo rằng thời gian chờ có thể lên đến 4 tháng.
Tại hai cuộc họp báo trong tháng này, Anthony S. Fauci, Giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia và là cố vấn về nCoV cho Tổng thống Joe Biden, nói rằng số ca né vaccine ở Mỹ hiện không phải là vấn đề đáng báo động và chính quyền sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ.
Một hướng điều tra quan trọng là biến chủng nCoV đóng vai trò thế nào trong các trường hợp này. Nghiên cứu cho thấy các loại vaccine hiện tại có thể kém hiệu quả hơn đối với một số biến chủng mới.
Phát ngôn viên của CDC Martha Sharan cho biết cơ quan đang thúc giục các bang sử dụng giải trình tự gene để kiểm tra các mẫu nCoV từ những trường hợp né vaccine. Tại bang Washington, 8 biến chủng đã được phát hiện trong trình tự gene của 9 ca nhiễm được ghi nhận cho đến ngày 3/4.
Chính quyền Biden thông báo sẽ chuyển 1,7 tỷ USD từ ngân sách cứu trợ Covid-19 sang giúp CDC và các bang phát hiện, theo dõi các biến chủng virus bằng cách tăng cường nỗ lực giải trình tự gene. CDC cũng đã lập ra một cơ sở dữ liệu để theo dõi những trường hợp này, trong đó các sở y tế bang có thể lưu trữ và quản lý dữ liệu.
“Chúng ta đang bị tụt hậu trong việc giải trình tự gene”, Osterholm nói. “Công việc đó sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin giá trị”./.
Phương Vũ (Theo Washington Post)
VNExpress