Seite auswählen

Niall Ferguson, Times Literary Supplements, 2/7/2021

Đỗ Kim Thêm dịch

Đoàn kết dưới chủ nghĩa Cộng sản – Chúng ta có thể đánh bại phương Tây, bản khắc gỗ do chính phủ Trung Quốc sản xuất, 1950|© Buyenlarge/Getty Images

“Đoàn kết dưới chủ nghĩa Cộng sản – Chúng ta có thể đánh bại phương Tây”, bản khắc gỗ do chính phủ Trung Quốc sản xuất, 1950|© Buyenlarge/Getty Images

 

Cuộc chiến bùng nổ thì thường là rõ ràng. Việc xâm lược hoặc hủy diệt sẽ khởi đầu ngay cả khi không có lời tuyên chiến chính thức. Sự bộc phát của chiến tranh có thể được xác định vào năm tháng nào, thậm chí ngày giờ nào. Điều này không đúng với cuộc chiến tranh lạnh.

Nay chúng ta nhớ lại bài diễn văn có mang nhiều tiên đoán của Winston Churchill tại Fulton, Missouri vào ngày 5 tháng 3 năm 1946, trong đó Churchill đề cập đến một “bức màn sắt” đang hạ xuống khắp lục địa châu Âu “từ Stettin ở Baltic cho đến Trieste ở Adriatic”. Thực ra, Churchill chỉ đơn giản đặt một cái tên sống động cho những gì đã xảy ra.

Tuy nhiên, vào thời điểm đó, rất ít người Mỹ chia sẻ sự bi quan của Churchill về các ý định của Liên Xô. Bài bình luận của New York Times về lời phát biểu có ngụ ý rằng Hoa Kỳ phải lựa chọn giữa một liên minh với Khối Thịnh vượng chung của Anh hoặc một liên minh với Liên Xô, làm cho việc này có vẻ như là một sự lựa chọn quân bình.

Và chỉ vài ngày trước bài diễn văn, Nghị sĩ Đảng Cộng hòa Arthur Vandenberg, người sau này đóng một vai trò chủ yếu trong việc thành lập khối NATO, sẵn sàng cung cấp cho Stalin “một hiệp ước phòng thủ hỗ tương trực tiếp, dưới sự lãnh đạo của Liên Hiệp Quốc”, và khẳng định niềm tin của ông là Hoa Kỳ và Liên Xô có thể “chung sống trong sự hài hòa hoàn hảo”.

Chỉ dần dần về sau, hầu hết người Mỹ mới thấy rõ rằng “chiến tranh lạnh” mà George Orwell đã tiên đoán sớm nhất vào tháng 10 năm 1945, một “nền hòa bình phải là không hòa bình” kéo dài vô thời hạn, là thực tế.

Phải chăng chúng ta hiện nay đang ở trong thời Chiến tranh Lạnh giai đoạn II với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thay thế cho Liên Xô?

Hầu hết các học giả về các mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc không thích sự suy luận tương tự đó. Tuy nhiên, ngay cả Henry Kissinger, người đã bắt đầu công việc tạo ra mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh trong tháng này của năm mươi năm trước, cũng thừa nhận vào tháng 11 năm 2019 rằng, hai chính phủ hiện đang “ở trong giai đoạn chuẩn bị của một cuộc chiến tranh lạnh”.

Ngay cả khi họ thích dùng các thuật ngữ khác hơn (“chiến tranh lạnh”, “hòa bình nóng”), ngày càng có nhiều nhà bình luận ngầm chấp nhận điều này – có nghĩa là, họ chấp nhận rằng Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình đang hành xử theo những cách gợi lại các đặc điểm của Churchill về “các khuynh hướng mở rộng và cố gắng thu phục” của Liên Xô dưới thời Stalin. Không phải chỉ mọi thứ ở phía Đông bức màn sắt bị nằm dưới sự kiểm soát của Moscow; ở Tây Âu, đạo quân thứ năm của Cộng sản hoạt động miệt mài, trong khi các tham vọng của Stalin cũng đe dọa Thổ, Iran và Trung Quốc. Như Churchill đã nói, Liên Xô không muốn chiến tranh “nóng”. Họ muốn hòa bình nhưng theo cách “bành trướng vô thời hạn về quyền lực và giáo điều của họ”.

Cảnh báo của Churchill rằng Trung Quốc có một chiến lược quy mô cho sự thống trị thế giới hiện nay đang là đề tài gây thu hút cho các nhà xuất bản. Một ví dụ tiên khởi và có gây ảnh hưởng của thể loại này là tác phẩm The One Hundred Year Marathon: China’s Secret Strategy to Replace America as the Global Superpower (2015) của Michael Pillsbury thuộc Hudson Institute. Sách này, cùng với Chinas Vision of Victory (2019) của Jonathan T. Ward, đã cung cấp cho chính quyền của Donald J. Trump một lý luận thuyết phục hơn cho chính sách mới và mang tính chiến đấu hơn đối với Trung Quốc so với chủ trương bảo hộ kỳ lạ của Tổng thống. Đóng góp mới nhất là của Dan Blumenthal, ông thuộc phe cánh hữu Mỹ trong American Enterprise Institute, trong sách in The China Nightmare: The Grand Ambitions of a Decaying State (American Enterprise Institute; paperback, £14.95) ông lập luận rằng, “một trật tự thế giới của Trung Quốc sẽ trông… giống như [Đảng Cộng sản Trung Quốc]” – “ác tính”, “đàn áp” và “dựa vào các công cụ kiểm soát xã hội, cưỡng chế và đàn áp”.

Có lẽ điều đáng chú ý nhất về những lập luận như vậy là, vào thời điểm phân hoá đảng phái trở thành các đặc điểm chính cho hầu hết mọi khía cạnh của sinh hoạt Mỹ, những công cụ kiểm doát như thế cũng có khả năng được Đảng Dân chủ như Cộng hòa thực hiện. Cuốn sách mới của Rush Doshi: The Long Game: China’s Grand Strategy to Displace American Order (Oxford University Press; £21.99), bắt đầu với các đề xuất rằng: “Hiện nay, Trung Quốc đặt ra một thách thức không giống bất cứ thách thức nào mà Hoa Kỳ từng đối phó” và “mục tiêu tối hậu của Bắc Kinh là thay thế trật tự của Hoa Kỳ trên toàn cầu… trở thành quốc gia thống trị thế giới vào năm 2049”. Trong số tất cả các cuốn sách thuộc về chủ đề này xuất bản vào năm 2021, đây sẽ là cuốn sách được đọc kỹ nhất, vì Doshi hiện là Giám đốc về Trung Quốc trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Joe Biden và là người được Kurt Campbell, “Sa hoàng châu Á” của Biden, bao che.

Bản chất của việc thách thức của Trung Quốc là gì? Rõ ràng, vấn đề là hoàn toàn khác biệt trong một số khía cạnh khi so với thách thức của Liên Xô vào cuối những năm của thập niên 1940. Stalin tin là khi áp đặt sự kiểm soát của Liên Xô đối với các nước láng giềng bằng cách thành lập các chế độ bù nhìn và ủng hộ họ với lực lượng Hồng Quân.

Như Doshi ghi nhận, điều đó không phải là phong cách của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước khi Tập lên nắm quyền rất lâu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, kinh hoàng trước ba cảnh của quảng trường Thiên An Môn, chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất và sự sụp đổ của Liên Xô, đã bắt đầu làm cho các mũi nhọn của bá quyền Mỹ bớt nguy hiểm hơn. Đây là điểm thực sự trong câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình về Thao Quang Dưỡng Hối (“giấu khả năng và chờ thời”). Trung Quốc đã đầu tư vào các “sát thủ giản” [杀手 锏, chùy sát thủ, chỉ loại vũ khí lợi hại – Văn Việt] bất đối xứng như tàu ngầm, mìn và tên lửa. Trung Quốc đã tìm cách tham gia và đồng thời làm suy yếu các tổ chức khu vực, đặc biệt là Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Và Trung Quốc quyết tâm theo đuổi sự hội nhập kinh tế của mình trong trật tự thương mại toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo, đỉnh điểm là việc được thu nhận vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001.

Giai đoạn hai diễn ra khi có cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, dường như nó tạo cơ hội để xây dựng các ảnh hưởng trong hình thức mới, để “Tích cực hoàn thành một cái gì đó”, nói theo như lời của Hồ Cẩm Đào. Hải quân Trung Quốc đã mua các tàu hàng, có khả năng vừa trên đất liền và vừa dưới biển và các căn cứ ở hải ngoại. Trung Quốc đã thành lập các định chế quốc tế mới, đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (Asia Infrastructure Investment Bank). Và Sáng kiến Vành đai và Con đường (Belt and Road Initiative, BRI) của Tập bắt đầu dự phóng các nguồn lực, quyền lực mềm và tuyên truyền của Trung Quốc vượt ra ngoài Đông Á.

Gần đây nhất, trong cuốn sách mới, Doshi lập luận là trong bối cảnh “những thay đổi trọng đại chưa từng thấy trong một thế kỷ” (Brexit, cuộc bầu cử của Trump và đại dịch Covid-19), giới lãnh đạo Trung Quốc đã khởi đầu việc bành trướng công khai trên toàn cầu, “tiến gần hơn đến trung tâm của chính trường thế giới”, như Tập đã đưa ra trong bài diễn văn trước Đại hội Đảng lần thứ 19 vào tháng 10 năm 2017. Điều này đã tự thể hiện rõ nhất trong phong cách “chiến binh sói” mới của nền ngoại giao Trung Quốc, nhưng những thay đổi thực chất bao gồm cố gắng tạo ra một “đội quân đẳng cấp thế giới”, cố gắng kiểm soát các thể chế thiết lập tiêu chuẩn quốc tế (như Liên minh Viễn thông Quốc tế, International Telecommunication Union), đầu tư quy mô vào công nghệ của “cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư” (ví dụ: trí tuệ nhân tạo và điện toán lượng tử) và biến BRI trở thành một chương trình toàn cầu thực sự có thể so sánh được với chiến lược nội chiến của Mao là “từ nông thôn bao vây thành thị”.

Không giống như nhiều nhà nghiên cứu khác của phương Tây về chiến lược Trung Quốc, Doshi dựa trên kiến thức sâu xa về các cuộc thảo luận nội bộ và công khai của Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Tiếp thu kiến thức như vậy là không dễ dàng. Nhà Trung Quốc học người Bỉ quá cố Simon Leys đã có lần so sánh việc đọc các bài phát biểu và văn kiện hướng dẫn của Đảng với việc “nuốt mùn cưa bằng xô”). Nhưng Doshi nói có đúng không? Hoặc là lập luận của ông chỉ là một phiên bản đích thực được nghiên cứu nghiêm túc và nặng về học thuật hơn là các phiên bản của Pillsbury, Ward và Blumenthal.

Odd Arne Westad, nhà sử học của Đại học Yale, một tiếng nói bất đồng chính kiến quan trọng, thừa nhận các khuynh hướng bành trướng của Trung Quốc từ Tây Tạng đến Hồng Kông, Biển Đông, nhưng thấy “rất ít có bằng chứng là chế độ này đang phá hủy hệ thống quốc tế được thiết kế và vẫn còn bị còn chi phối bởi các cường quốc phương Tây”.

Gần đây, trong tại chí Foreign Affairs, số ra ngày 28 tháng 5 năm 2021, Elizabeth Economy, đồng nghiệp của tôi tại Viện Hoover, đã lập luận rằng, trên thực tế, Trung Quốc yếu hơn nhiều so với ngoại diện, chi tiêu nhiều hơn 30 tỷ đô la cho an ninh nội địa so với Quân đội Giải phóng Nhân dân, cái giá phải trả của việc giữ một số dân ngày càng bất công và phân hoá dưới sự kiểm soát của Đảng. (Xem sự mô tả đáng kinh ngạc của Scott Rozelle và Natalie Hell về sự bất bình đẳng Trung Quốc ngày nay trong tác phẩm Invisible China: How the Urban-Rural Divide Threatens China’s Rise – University of Chicago Press; £22, đây là một tác phẩm không thể bỏ qua.)

Và trong một bài chuyên mục cho hãng thông tấn Bloomberg (ngày 27 tháng 5 năm 2021), Bùi Mẫn Hân của Claremont McKenna đã lưu ý rằng, xét về mặt sự thịnh vượng và khả năng quân sự (đặc biệt là hạt nhân), Trung Quốc vẫn thua xa Mỹ. Theo quan điểm của ông, “những điểm yếu thuộc nội bộ rất đa dạng, từ suy thoái dân số nhanh chóng đến bất ổn xã hội, xung đột sắc tộc và hệ thống tư bản nhà nước không hiệu quả… sẽ hạn chế sự phát triển của sức mạnh Trung Quốc”.

Trung Quốc cũng bị cô lập về mặt ngoại giao, và bị trầm trọng hơn là do sai lầm trong đợt bùng phát ban đầu của Covid-19 cũng như tiếp theo sau đó là những nỗ lực vụng về khi phủ nhận trách nhiệm và che khuất những gì thực sự đã xảy ra ở Vũ Hán. Đó là một dấu hiệu của thời đại mà Ian Williams, một nhà báo kỳ cựu người Anh theo cánh tả, trong cuốn sách mới Every Breath You Take: China’s New Tyranny (Birlinn; paperback, £16.99), phải mô tả đất nước dưới thời Tập là “một cường quốc hung hăng và bành trướng không chỉ đàn áp người dân của mình mà hiện nay còn là mối đe dọa lớn nhất đối với nền dân chủ phương Tây, các đồng minh cùng chí hướng của họ và các giá trị dân chủ nói chung”.

Luke Patey, thuộc Viện Nghiên cứu Quốc tế Đan Mạch, cho rằng, điều chính xác là loại cảm xúc này không chỉ ở có Anh mà còn ở châu Âu, nó sẽ khiến Trung Quốc thua trong việc giành quyền thế giới – “không phải vì thiếu sức mạnh trong toàn cầu … nhưng vì những hành động và tầm nhìn của các nhà lãnh đạo đã gợi ra … đẩy lùi trên toàn thế giới”.

Nghiên cứu của Eyck Freymann về BRI, One Belt One Road: Chinese Power Meets the World (Harvard University Press; £48.95) tiết lộ một loạt các dự án được bao bọc trong rất nhiều tuyên truyền, đôi khi mất tiền, đôi khi việc mất bạn cũng nhanh như khi được bạn, mặc dù Freymann vẫn nghĩ rằng nó “tiêu biểu cho một mô hình hoạt động cho một khối địa chính trị trong tương lai do Trung Quốc lãnh đạo, được cấu trúc theo các đường lối của một hệ thống triều cống hiện đại”.

Trung Quốc là một con hổ giấy, lập luận này thật là thu hút. Sẽ rất là thuận tiện khi cho rằng thách thức của Trung Quốc chỉ đơn giản biến nhanh trong sự sụp đổ đột ngột của nhà nước đế chế độc đảng. Trong tác phẩm China Coup: The Great Leap to Freedom (University of California Press; £18.99), Roger Garside, một nhà ngoại giao Anh hồi hưu, hình dung ra một phiên bản của cuộc khủng hoảng nội bộ Liên Xô năm 1991, so sánh với việc Lý Khắc Cường hợp lực cùng Vương Kỳ Sơn lật đổ Tập để đối phó với một cuộc khủng hoảng do các lệnh trừng phạt tài chính của Mỹ gây ra. Việc này không nằm ngoài giới hạn của khả năng và đó là một chuyên gia ngu ngốc đã không học được từ việc Liên Xô đột ngột sụp đổ. Mặt khác, Gordon Chang đã xuất bản The Coming Collapse of China vào năm 2001. Một hợp tuyển tất cả các bài báo dự đoán sự sụp đổ của Trung Quốc trong hai mươi năm qua sẽ là một cuốn sách phong phú.

Cách duy nhất để hòa giải hai lập trường mâu thuẫn rõ ràng – “Trung Quốc là một mối đe dọa” và “Trung Quốc yếu đuối” – là lập luận, cùng với Blumenthal, rằng “những điểm yếu trong nội bộ ngày càng tăng của Trung Quốc”, trên thực tế, đây là “thúc đẩy các tham vọng chiến lược lớn lao của họ”. Trung Quốc vừa “thù địch vừa bất ổn”. “Thất vọng” với các vấn đề nội bộ “dẫn đến đánh nhau”. Điều này cũng không phải là một lập luận để được bác bỏ một cách dễ dàng. Các cuộc chiến tranh thế giới bắt đầu không phải vì các cường quốc đang trỗi dậy – Đức, sau này là Nhật Bản – cảm thấy tự tin, mà bởi vì họ cảm thấy không an toàn và thấy các cửa sổ chiến lược của họ về cơ hội đóng lại.

Một năm trước, trong tạp chí National Interest (số ra ngày 11 tháng 6 năm 2020), Graham Allison, tác giả của tác phẩm có ảnh hưởng rất lớn là Destined for War (2017), đã vẽ ra một sự song song giữa bốn lệnh trừng phạt kinh tế của Mỹ đối với Nhật Bản trước trận Trân Châu Cảng và các biện pháp hiện tại nhắm vào Trung Quốc – không giống quá nhiều qua các biện pháp thuế quan của Trump như các biện pháp nhắm vào các doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc như Hoa Vi.

Trung Quốc chi nhiều tiền cho việc nhập khẩu các chất bán dẫn như họ đã làm đối với nhập khẩu dầu và Mỹ kiểm soát các trọng điểm của ngành công nghiệp chip, bao gồm thiết bị sản xuất chất bán dẫn và quyền sở hữu trí tuệ. Trung Quốc không thể thiết kế chip tiên tiến mà không sử dụng phần mềm tự động hóa thiết kế điện tử của Mỹ. Trung Quốc không thể sản xuất chúng nếu không có các máy in thạch bản cực tím được sản xuất bởi ASML, doanh nghiệp Hà Lan. Và không có chất bán dẫn nào do Trung Quốc sản xuất có thể cạnh tranh với chip 5 nanomet được sản xuất bởi TSMC của Đài Loan. Như một chính trị gia kỳ cựu của Mỹ đã nói trong năm ngoái: “Trung Quốc sẽ ăn trưa phần của chúng ta? Thôi nào, bạn. Ý tôi là, các bạn biết đấy, họ không phải là những người xấu. Nhưng hãy đoán xem? Họ không phải là đối thủ của chúng ta”.

Joe Biden (vì chính ông) đã rất vội vàng thay đổi giọng điệu của mình khi được giải thích là, nếu ông muốn thắng cử tổng thống, đối với Trung Quốc, ông phải diều hâu hơn Trump, không ít hơn. Có thể nói rằng, sự thay đổi trong tình cảm của dân chúng mà chính Trump đã xúc tác, đã buộc Biden phải thay đổi, nhưng nói chính xác hơn, Biden chỉ hơi muộn đối với việc chống Trung Quốc.

Các thành viên khác trong chính quyền của Barack Obama hiện đang phục vụ dưới thời Tổng thống mới – không chỉ Kurt Campbell mà cả Ngoại trưởng Antony Blinken và Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan – đều đã thay đổi giọng điệu về Trung Quốc trước chiến dịch tranh cử năm 2020. Bây giờ đường lối được thiết lập vững chắc. Như Biden nói với các phóng viên vào tháng 3, Trung Quốc sẽ không trở thành “quốc gia đứng đầu, giàu có nhất và quyền lực nhất thế giới” trong sự theo dõi của ông.

Đó là một điều để đưa ra một lời tuyên bố như vậy; điều khác là để hoạch định một chính sách nhất quán, có khả năng ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc với một cái giá có thể chấp nhận được về mặt chính trị.

Các lựa chọn chiến lược của Mỹ chính xác là gì, khi giả sử rằng Trung Quốc không phải sụp đổ trước? Vẫn còn có những người (như Robert Zoellick hoặc Henry Paulson) tin rằng, tinh thần xưa cũ của “đối thoại chiến lược” và “ngoại giao đôi bên cùng có lợi” bằng cách nào đó có thể được hồi sinh (xem TLS, ngày 29 tháng 1 năm 2021), nhưng họ là một ban nhạc hết thu hút ở Washington, nếu không phải trên Phố Wall.

Sau đó, có những người chẳng hạn như Peter Beinart (xem The Atlantic, ngày 16 tháng 9 năm 2018) và Stephen Wertheim (xem Foreign Affairs, tháng 3/ 4 năm 2020), dường như sẵn sàng đáp ứng sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong một số vấn đề, và việc “thương thảo quan trọng” là sẽ từ bỏ Đài Loan cho Bắc Kinh, thừa nhận quân bình nếu không muốn nói là ưu tiên đối với Trung Quốc trong khu vực mới được đổi tên gần đây là “Ấn Độ – Thái Bình Dương”.

Như trong những năm của thập niên 1930, sự xoa dịu thường được trình bày như là chiến lược của giới duy thực. Theo lời của Richard Hanania của Đại học Columbia (xem Tập san Defense Proirities, tháng 5 năm 2021), bất kỳ nỗ lực nào của Mỹ để chống lại sự trỗi dậy của Trung Quốc “sẽ thất bại và tăng khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thảm sát”. Những lập luận như vậy không được nhiều người trong Toà Bạch Ốc của Biden thích.

Đối với chính quyền, những lập luận về kinh tế khó thay đổi để làm sao cho phù hợp với chương trình nghị sự ở trong nước. Trong The Great Decoupling: China, America and the Struggle for Technology Supremacy (Hurst; £25) Nigel Inkster, một giới chức lão luyện của tình báo Anh hiện đang làm việc tại International Institute for Strategic Studies, lưu ý rằng, sự khác biệt lớn nhất giữa Chiến tranh Lạnh và hiện tại là mức độ tương thuộc kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc, điều mà các biện pháp thuế quan của Trump được dự đoán là sẽ không giảm. Như Inkster lưu ý, một sự suy luận tương tự tốt hơn có thể là so với Vương quốc Anh và Đức trước Thế chiến thứ nhất. Nếu như vậy, cao độ về thương mại và đầu tư song phương tự nó không thể ngăn ngừa xung đột; việc tách rời đã được tiến hành (xem các biện pháp của chính quyền Trump nhằm chống lại Hoa Vi) và có thể dễ dàng tăng tốc trong một cuộc khủng hoảng.

Hệ luỵ của việc tách rời là sự khôi phục cơ sở sản xuất của Mỹ đã bị xói mòn rất nhanh trong thời đại mà Moritz Schularick và tôi gọi là “Chimerica”.

The World Turned Upside Down: America, China, and the Struggle for Global Leadership (Yale University Press; £25) của Clyde Prestowitz đề xuất một danh sách dài các biện pháp và thể chế mới được thiết kế để khôi phục Hoa Kỳ trong việc độc lập kinh tế và chiếm ưu thế: phí tổn để thâm nhập thị trường đối với tất cả các khoản đầu tư từ nước ngoài; chương trình trẻ trung hóa cho nước Mỹ; việc sát nhập Hội đồng Kinh tế và An ninh Quốc gia; bộ phận cạnh tranh; việc đối phó với Hoa Vi do nhà nước tài trợ; ủy ban phát triển quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền.

Đôi khi, các mô hình bắt ngưồn từ quá khứ của Mỹ (ví dụ như Woodrow Wilson thành lập Radio Corporation of America để cạnh tranh với Marconi, một chi nhánh của Anh, hoặc Đạo luật Giáo dục Quốc phòng năm 1958); đôi khi chúng có nguồn gốc từ châu Âu (chẳng hạn như đề xuất tái cấu trúc mô hình các công ty cổ phần kiểu Đức (Aktiengesellschaft) thành công ty đa quốc gia của Mỹ với tổ chức công đoàn lao động được có đại diện trong Hội đồng giám sát).

Độc giả nên suy ngẫm lại về việc bất kỳ điều nào trong số này sẽ thực sự ngăn cản cách mà Trung Quốc, thí dụ như việc xâm lược Đài Loan như thế nào.

Sự khác biệt lớn lao giữa chiến lược về Trung Quốc của Biden và Trump dường như là ngoại giao hơn là kinh tế. Như Campbell và Doshi đã tranh luận trước buổi lễ nhậm chức của Biden (Foreign Affairs, ngày 12 tháng 1 năm 2021), “để ngăn chặn sự phiêu lưu của Trung Quốc… Washington sẽ phải làm việc với những phe khác”.

Tuy nhiên, thay vì thành lập một liên minh lớn tập trung vào mọi vấn đề, Mỹ nên theo đuổi các cơ quan hoặc đặc biệt tập trung vào các vấn đề riêng biệt, chẳng hạn như D-10 do Vương quốc Anh đề xuất (các nền dân chủ G-7 cộng với Úc, Ấn Độ và Hàn Quốc) [hoặc] … cái gọi là Bộ Tứ hiện bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ.

Doshi tin rằng Mỹ và các đồng minh nên áp dụng các phương pháp làm suy yếu và xây dựng của Trung Quốc, ví dụ như sao chép cách tiếp cận “chống tiếp cận/từ chối khu vực” của Trung Quốc đối với phòng vệ. Vấn đề đặt ra là những phương sách này có thể tạo ra một cái gì đó có hiệu quả rất mơ hồ như NATO trong thời Chiến tranh Lạnh. Châu Á không phải là châu Âu và Thái Bình Dương không phải là Đại Tây Dương. Trung Quốc hiện ra rộng lớn hơn nhiều ở Đông Á so với Liên Xô đã hiện ra ở Tây Âu, và San Francisco cách Đài Bắc gấp đôi so với New York đến Paris. Một quan chức Nam Hàn gần đây đã so sánh sự cần thiết phải chọn phe trong một cuộc tranh chấp Mỹ-Trung với việc “hỏi một đứa trẻ liệu xem là bé thích bố hay mẹ”.

Phần I của Chiến tranh Lạnh đã có các cuộc khủng hoảng Berlin, Cuba và Trung Đông. Phần II của Chiến tranh Lạnh có tiềm năng biến đổi tất cả thành một cuộc khủng hoảng duy nhất tại Đài Loan. Hòn đảo có ý nghĩa biểu tượng của thủ đô Đức, sự nhạy cảm về địa lý của đảo Caribbean và trung tâm kinh tế của Vịnh Ba Tư. Không ai nên có bất cứ nghi ngờ nào khi chấm dứt quyền tự trị và dân chủ trên thực tế của Đài Loan là mục tiêu tối hậu của Tập, cũng như Trung Quốc đã biểu hiện đe doạ sức mạnh không và hải quân trong năm qua.

Oriana Skylar Mastro, Elbridge Colby, Jim Mitre, Philip Zelikow và Robert Blackwill: danh sách các chuyên gia cảnh báo về một cuộc chiến tranh ở Đài Loan kéo dài hơn mỗi tháng. Con số đang tranh luận (với Patrick Porter và Michael Mazar; xem báo cáo của họ cho Viện Lowy, ngày 20 tháng 5 năm 2021) rằng trận đấu không đáng để cho cả hai phía bỏ công, vì là nhỏ hơn.

Chính trong bối cảnh này, tiểu thuyết 2034 (Penguin; $ 27) của Elliot Ackerman và James Stavridis rất đáng đọc. Stavridis tưởng tượng một cuộc bao vây bất ngờ của hải quân Trung Quốc tại Đài Loan là một trong những mưu đồ mở đầu của Thế chiến thứ Ba. Trong cuộc hải chiến sau đó, Hoa Kỳ chịu tổn thất nặng nề đến mức bị thúc đẩy để tấn công Trạm Giang (ở tỉnh Quảng Đông) bằng vũ khí hạt nhân, dẫn đến việc xóa sổ San Diego và Galveston.

Westad đã lập luận: “Đối với Trung Quốc, chiếm Đài Loan bằng vũ lực sẽ hơi giống như muốn bay và nhảy ra khỏi vách đá để chứng minh rằng điều đó là có thể: cuộc chiến sẽ xảy ra sẽ là thảm sát cho Trung Quốc và thế giới”. Nhưng Norman Angell đã đưa ra những lập luận tương tự về bản chất ảo tưởng của sự xâm lược của Đức chỉ năm năm trước năm 1914.

Như Hal Brands gần đây đã chỉ ra (trong Bloomberg, ngày 7 tháng 6 năm 2021), vấn đề là năm 2034 có thể là một ngày xa cách thiếu thực tế cho một cuộc hạ màn Trung-Mỹ.

Một ngày hợp lý hơn, nói theo sự cân bằng tương đối của các lực lượng, có thể là năm 2025. Nhà đầu tư công nghệ Peter Thiel đã gợi ý rằng, một động thái của Trung Quốc đối với Đài Loan có thể đến sớm nhất là vào năm tới, sau Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh (giống như Nga xâm lược Ukraine sau Thế vận hội 2014 ở Sochi).

Không phải là Mỹ thiếu nguồn tài chính để ngăn chặn Trung Quốc mạo hiểm xâm lược xuyên eo biển (hoặc thậm chí là việc chiếm giữ ít rủi ro hơn các đảo xa xôi Kim Môn và Mã Tổ). (Như Michael Beckley đã chỉ ra; xem Foreign Affairs, ngày 12 tháng 6 năm 2021) nhiều hơn rằng Lầu Năm Góc đang chi tiền nhiều hơn cho những điều sai trái – chiến hạm lớn và máy bay chiến đấu tầm ngắn hoạt động từ các căn cứ phơi bày, thay vì một “bãi mìn” công nghệ cao của các bệ phóng hoả tiển đã định vị trí trước, máy bay không người lái có vũ trang và cảm biến.

Khi Churchill mô tả thế giới bị chia cắt bởi một bức màn sắt, đó là việc phải bán cho người Mỹ ý tưởng về một “mối quan hệ đặc biệt” giữa Hoa Kỳ và Khối Thịnh vượng chung và Đế quốc Anh. Ông lập luận, sự sụp đổ của liên minh thời chiến đã đánh bại các cường quốc phe Trục sẽ cung cấp cho Liên Hiệp Quốc mới “những nghị lực của hòa bình” cần thiết để ngăn chặn chủ trương bành trướng của Liên Xô. Trong khi vấn đề Đế quốc được giải toả và Tây Âu phục hồi, thay vì thế là một liên minh xuyên Đại Tây Dương thành hình. Nhưng NATO đã làm công việc này đúng như Churchill dự định, ngay cả khi cần đến George Kennan gọi công việc đó là “ngăn chặn”.

Các giới khoa bảng, báo chí và ngoại giao, tùy theo những cách khác nhau của họ, khao khát trở thành Kennan của Chiến tranh Lạnh lần thứ II. Tuy nhiên, không có cuốn sách nào được điểm ở đây đạt đến sự trong sáng của Kennan trong bài “The Source of Soviet Conduct”, được xuất bản trên tạp chí Foreign Affairs một năm sau bài phát biểu về Bức màn sắt của Churchill. Hiện nay, bài báo này đáng được đọc lại.

Kennan hỏi: “Ai có thể nói chắc rằng ánh sáng mạnh mẽ vẫn được Điện Kremlin soi rọi vào dân chúng bất mãn của thế giới phương Tây không phải là ánh sáng nóng rực còn lại của một chòm sao mà trong thực tế là đang suy yếu?… khả năng tồn tại… là sức mạnh của Liên Xô… mang bên trong mầm giống của sự suy tàn, và những hạt giống nảy mầm tốt”.

Một số người có thể đặt câu hỏi tương tự về Trung Quốc ngày nay. Tuy nhiên, Kennan đã bốn mươi ba tuổi khi viết những lời đó và tám mươi bảy tuổi khi Liên Xô cuối cùng đã bị giải thể vào tháng 12 năm 1991.

Cũng giống như không ai có thể đoan chắc khi một cuộc chiến tranh lạnh bắt đầu, cũng không thể có bất kỳ sự chắc chắn nào về thời gian kéo dài của một cuộc chiến như vậy. Chỉ vì Chiến tranh Lạnh lần thứ I kéo dài khoảng bốn mươi năm không đảm bảo rằng điều tương tự cũng sẽ đúng với Chiến tranh Lạnh lần thứ II. Những người thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ ngày nay phải hy vọng điều tốt nhất nhưng chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất. Nó thực sự có thể là một trò chơi lâu dài.

***

Cuốn sách mới nhất của Niall Ferguson là Doom: The Politics of Catastrophe, 2021

Văn Việt

Bài liên quan: Trung Quốc và Hoa Kỳ nên cạnh tranh như thế nào* Thế chiến tương lai sẽ bùng nổ vào năm 2034  Sự thuần lý trong cạnh tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ