Seite auswählen

Trường Ca Con Đường Cái Quan

Tôi đã chủ trương những cuộc lên đường trong âm nhạc… thì còn cuộc lên đường nào thú vị hơn là đường đi vào quê hương với những trường ca ?

Trường Ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN được thai nghén từ 1954, vào lúc các cường quốc vừa chia đôi nước Việt Nam ra thành hai miền Quốc-Cộng với bản Hiệp Ðịnh Geneve. Tôi đang đi học nhạc tại Paris và bằng trường ca này, tôi phản đối sự chia cắt đó. Vào năm 1960, tôi hoàn tất phần còn lại của Trường Ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN.

Trường ca gồm 19 đoản khúc, đại đa số bài nằm trong âm giai ngũ cung và có thêm nhạc thuật chuyển hệ. Nhưng tôi cũng không ngần ngại pha trộn vào trường ca một số bài nằm trong âm giai thất cung Tây Phương.

 

Trường Ca
CON ÐƯỜNG CÁI QUAN
(tặng người bạn đường)

Trường ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan cho tới mũi Cà Mâu, đi từ ngày mới lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ xở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối lền được lòng người và đất nước.
Trường ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN gồm có ba phần :
Phần Thứ Nhất : Từ Miền Bắc, mang tính chất hào hùng của miền quê cha đất tổ.
Phần Thứ Hai : Qua Miền Trung, với tình thương yêu chan chứa niềm xót xa.
Phần Thứ Ba : Vào Miền Nam, tỏ sự vui mừng của con người đã cả thắng thiên nhiên để hoàn thành nước Việt.
Trường ca là sự tổng hợp của nhiều đoản ca mang những tên riêng biệt và có thể trình bày lẻ loi. Toàn bài còn là một nhạc cảnh, trình diễn với đầy đủ nhân vật mang sắc phục ba miền và cảnh trí phù hợp.

Phần Thứ Nhất
TỪ MIỀN BẮC

Mở đầu là tiếng hát vu vơ của một thôn nữ miền Bắc…

1. ANH ÐI TRÊN ÐƯỜNG CÁI QUAN

Cô Cắt Cỏ:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại
Dừng chân đứng lại
Cho em đây than đôi lời
Ði đâu vội mấy anh ơi…

Lữ khách trả lời…

2. TÔI ÐI TỪ ẢI NAM QUAN

Lữ Khách:
Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ
Chia đôi một họ trăm con đã lên đường
Năm mươi người ngược núi rừng
Ðã dựng vòng biên ải
Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng
Tôi theo người vượt quan san
Ơi người ơi Ơi người ơi
Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn dường giặc Hán
Tôi chưa về Ải Chi Lăng
Ơi người ơi Ơi người ơi
Dưới chiến bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn…

Người còn nhớ thương ai hơn là nàng Tô Thị lúc này đang đứng đợi người ở đầu nguồn. Nhưng người vọng phu lại khuyên người đi đừng có trở về, vì nếu người về thì nàng chẳng thành đá và chẳng còn được người đời thương mến nữa.

3. ÐỒNG ÐĂNG CÓ PHỐ KỲ LỪA

Tô Thị:
Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị (ý y a) đứng (a) chờ… đợi (ỳ) ai
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho ngàn năm được (ý y a) sống đời… vọng (a à) phu…

Người lữ khách đi trong miền thượng du. Có dân chúng vùng núi rừng hát tiễn đưa…

4. NGƯỜI VỀ MIỀN SUÔI

Dân thượng du:
Người về miền suôi đem theo tình người miền núi
Nhà sàn lả lơi đứng bên đường hoang vắng soi
Ðưa chân anh qua đồi
Cơm lam đem theo người
Lên cao anh ôm trời
Ðể dòng suối lẻ loi…
Lữ Khách:
Ðường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi
Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười
Ðường về miền suôi biết bao đò bao quán mới
Ðường dài mà vui hỡi người bạn đường nặng vai
Rồi một ngày mai có qua nhịp cầu tả tơi
Nhìn bọt bèo trôi nhớ chăng mầu tóc xanh ngời…
Hát chung:
Ðường ngược đường suôi
Nhớ nhau vì chuyện đầu môi
Tạm biệt một nơi
Thấy nhau ở cuối chân trời…

Người lữ khách về tới vùng trung du. Qua đò ngang, gặp cô lái đò…

5. NÀY NGƯỜI ƠI

Cô lái đò miền trung du:
Này người ơi ghé bến (y) sang sông
Lên đường đi tới bõ công em chèo thuyền
Mừng người đi tìm thấy tình duyên
Con đường đất nước nối liền lòng dân.
Lữ khách:
Sông Thương ơi nước chẩy đôi ba dòng
Anh về Hà Nội một lòng, lòng yêu em
Sông Thương ơi nước đục người đen
Anh về thành phố không quên cô mình.

Lữ khách đã về tới Thủ Ðô miền Bắc…

6. TÔI ÐI TỪ LÚC TRĂNG TƠ

Lữ Khách:
Ra đi từ lúc trăng tơ, trăng một miền hoa cỏ
Trăng lên đầu của ô xa vẫn chưa mờ
Im nghe lời Thủ Ðô chào, ôi lời mừng đông đảo
Ði trong lịch sử dân ta, luống nghẹn ngào.
Lữ khách và dân chúng thủ đô:
Hai bên nhà cửa thân yêu
Ơi người ơi Ơi người ơi
Ðã mấy lần để đám rêu xanh thay mầu gạch ngói
Thăng Long buồn tủi chia phôi
Tháp, Tháp Rùa ơi Tháp, Tháp Rùa ơi
Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng Hời.

Phần Thứ Hai
QUA MIỀN TRUNG

Vào tới Miền Trung, thấy một lũ bé chạy ra đón lữ khách…

7. AI ÐI TRONG GIÓ TRONG SƯƠNG

Lũ trẻ:
Ai đi trong gió trong sương ơ
Phải mau ơ phải mau để mà tới người ơi
Kẻo đường ơi, người ơi còn xa
Kẻo đường ơi, người ơi còn xa…

Và một bà mẹ đang ru con…

8. AI VÔ XỨ HUẾ THÌ VÔ

Bà mẹ:
À á ơ a a à á ơi
Ai vô xứ Huế thì vô
Chớ sợ Truông nhà Hồ, chớ sợ Phá Tam Giang à ơi
À á ơ a a à á ơi
Ngó ra quê cha đường xa sông rộng
Ngó về quê mẹ núi lộng đèo cao
À á ơ a a à á ơi
Nhưng con ơi, con ngú ngủ sâu
Chứ nối lại nhịp cầu
Chứ đã có o ó ư… người đi
À á ơ a a à á ơi.

Qua thôn xóm, gặp lúc ngày mùa, lữ khách nghe thấy tiếng hò giã gạo.

9. AI ÐI TRÊN DẶM ÐƯỜNG TRƯỜNG

Dân làng:
Hò hô hò hò ơi hò
Ai đi trên đường là dặm đường
Ði mô mà vội vã à, cùng là hò khoan
Hố hô hò khoan
Hò hô hò hò ơi hò
Khoan khoan tôi mời là mời bạn
Vui là họp đoàn đêm nay chừ là à nay
Hố hô hò khoan.
Lữ khách:
Năm tê trong lúc sang Xuân
Tôi theo Công Chúa Huyền Trân tôi lên đường
Ðường máu xương đã lắm oán thương
Ðổi sắc hương lấy cõi giang san
Tôi đi theo bước ái tình
Ði cho trăm họ được hòa bình ấm no
Ðèo núi cao nghe gió vi vu
Thổi phấn son bay tới kinh đô.
Dân miền Trung:
Hò hô hò hò ơi hò
Anh đi trên đường là gập ghềnh
Mau mau đi kẻo lỡ a truyện tình nước non
Hố hô hò khoan.
Hò hô hò hò ơi hò
Mau mau đi kẻo là kẻo lỡ
Câu chuyện tình năm xưa là tình à xưa
Hố hô hò khoan.

Lữ khách muốn được như nàng Huyền Trân khi xưa, đi vào phía Nam bằng một tấm lòng, Lữ khách nghe thấy tiếng hát của Công Chúa vẳng lên từ những Tháp Hời…
… Công chúa Huyền Trân muốn nói rằng con đường thiên lý dù sao cũng không dài bằng con đường đi vào lòng người. Nàng mong lữ khách nối tiếp công việc đi vào đất nước và lòng người của nàng khi xưa.

10. NƯỚC NON NGÀN DẶM RA ÐI

Huyền Trân Công Chúa:
Nước non ngàn dặm (à a a) ra đi
Nước non ngàn dặm (à a a ra) đi
Dù đường thiên lý xa vời
Dù tình cố lý chơi vơi
Cũng không dài bằng lòng thương mến người
Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bước đi vào lòng (ừ ư ư) muôn dân
Bằng hồn trinh nữ mơ màng
Bằng tình say đắm ơi chàng
Ước nuôi dần hòa bình trong ái ân
Nhưng ánh Tháp vàng
Cây quế giữa rừng
Chỉ một mùa tang là hương là sắc (ứ) tan
Tàn cả tình yêu
Vì hận còn gieo
Ðất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu
Mới hay tình nhẹ (è e e) như tơ
Mới hay tình nhẹ (è e e) như tơ
Mộng ngoài biên giới mơ hồ
Chẳng ngăn được sóng vỡ bờ
Với đêm mờ hồn về trên Tháp ma.

Lữ khách vội vã ra đi, và trong sớm tinh mơ nghe thấy giọng hò của cô gái Huế vẳng lên từ ngôi chùa Thiên Mụ bên sông Hương…

11. GIÓ ÐƯA CÀNH TRÚC LA ÐÀ

Cô gái Huế:
Ớ ơi hò ! Ớ hò ơi
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà điểm sương
Người về chưa ghé sông Hương
Ðã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay
Anh đi mau ơ để nối lại duyên may
Tình xưa là nghĩa cũ anh đắp xây cho thiệt bền
Ớ ơi hò ! Ớ hò ơi

Lữ khách cất tiếng hát qua đèo, vào vùng ven biển…

12. TÔI XA QUÊ NGHÈO RUỘNG NGHÈO

Lữ khách:
Hò hô hò hò ơi hò
Tôi xa quê nghèo là ruộng nghèo
Tôi leo qua cồn cát à, vượt đèo Hải Vân
Hố hô hò khoan.
Hò hô hò hò ơi hò
Tôi trông én liệng là từng đàn
Tôi gọi đàn chim ơi kià là à chim
Hố hô hò khoan.
Dân miền Trung:
Vua Lê dắt lính vô Trung
Anh theo Chúa Nguyễn vượt Cù Mông anh qua đèo
Ðể núi cao ngơ ngác trông theo
Ðễ tháp son thương nhớ trong chiều
Anh đi chân cứng đá mòn
Ði chưa thấy mỏi mà lòng còn say sưa
Biển thắm ru tiếng hát thiên thu
Làn gió xanh theo gót phiêu du.
Lữ khách:
Hò hô hò hò ơi hò
Lênh đênh ven bờ là biển sâu
Hương thơm là thoang thoảng à đất mầu miền Nam
Hố hô hò khoan
Hò hô hò hò ơi hò
Lênh đênh ven bờ là biển giàu
Nghe nhịp cầu đã nối tình là à xưa
Hố hô hò khoan.

Phần Thứ Ba
VÀO MIỀN NAM

Lữ khách vào tới miền Nam, nghe tiếng hò của một cô gái…

13. ANH ÐI ÐƯỜNG VẮNG ÐƯỜNG XA

Cô gái miền Nam:
Hò ơ ơ ớ ơ… hò
Bớ anh đi đường vắng đường xa
Dừng chân đứng lại (i ì)
Hò ơ ơ ớ ơ… hò
Nghe em đây ca đôi lời
Chiều về trên cánh Ðồng Nai
Chờ người xây đắp ngày mai…

Và lữ khách mừng rỡ hát khúc hành ca…

14. NHỜ GIÓ ÐƯA VỀ

Lữ khách:
Nhờ gió đưa về, về miền gió chan hòa
Thơm lòng đất phù sa
Trời nắng huy hoàng, trời sưởi ấm con đường
Cho ta vô miền sông nước
Chiến đấu với sình lầy
Với thú dữ ư tràn đầy
Với lũ muỗi ư đặc dầy như đám mây
Chiến đấu với rừng tràm
Ta như ong từng đàn
Lập cuộc đời trên đất rừng hoang
Vào tới xóm dừa, vào vườn chuối la đà
Ôi là mát lòng ta
Bầu vú sữa tròn và mảnh trái thơm ròn
Hương sầu riêng ngọt ngon
Có mái tóc xuề xoà, có khoé mắt thiệt thà
Ðôi môi xinh hàm răng xít xa
Có áo ngắn mặn mà, có tiếng nói đậm đà
Người yên lành như một giấc mơ…

Cô gái miền Nam muốn được đi bên lữ khách trên con đường và trong cuộc đời.

15. ÐI ÐÂU CHO THIẾP THEO CÙNG

Cô gái miền Nam:
Ði đâu cho thiếp theo cùng
Ðói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Ví dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp về…
Lữ khách:
Tới đây lạ xứ quen người
Trăm bề nhũn nhặn đừng cười tôi nghe
Ví dầu tình bén duyên thề
Thi xin kết bạn đền nghì trúc mai…

Từ biệt miền Bắc với tâm trạng của người chồng Nàng Tô Thị. Vào miền Trung với mối tình của Huyền Trân Công Chúa, nhưng tới miền Nam, lữ khách đã tìm được lương duyên ở cảnh và ở người. Lữ khách kết duyên cùng cô gái. Dân chúng miền Nam hát hò mừng đôi vợ chồng mới.

16. ÐÈN CAO CHÂU ÐỐC GIÓ ÐộC GÒ CÔNG

Dân chúng miền Nam:
Hò lơ hó lơ
Lắng tai nghe tiếng ai đang hò lờ
Hò lơ hó lơ
Ðèn nào cao cho bằng đèn Châu Ðốc
Gió nào độc cho bằng gió Gò Công
Vợ chồng son đã nuôi lòng ước mong
Thuận vợ chồng sẽ cùng tát Biển Ðông
Hò lơ hó lơ
Lắng tai nghe tiếng ai đang hò lờ
Hò lơ hó lơ.

Ðôi vợ chồng son cưỡi sóng Cửu Long Giang về miền Hậu Giang sinh sống.

17. CỬU LONG GIANG và VỀ MIỀN NAM

Ðôi vợ chồng trẻ:
Cửu Long Giang gió về vui trên sóng sông
Uốn quanh như chín con rồng ôm chặt đứa con
Người từ Tiền Giang đi về xa xăm
Cuối con đường say đắm là miền rộng thênh thang
Cửu Long Giang trôi về ôm ấp đất hoang
Thiết tha như gái yêu chồng trong chiều mênh mông
Người về Hậu Giang xây tổ uyên ương
Có cánh đồng lúa chín uốn mình trên sóng sông…
Ðôi vợ chồng trẻ và dân chúng:
Về miền Nam ôi quê hương mới ơi
Về Cần Thơ khơi kinh, khơi nước ngòi
Về Hà Tiên ta tiễn Chúa ra đảo khơi
Về Cà Mâu ta đốt biết bao lửa vui
Về miền Nam ta theo cơn gió đưa
Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa
Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta
Về miền Nam… Về miền Nam
Người về đây trong gió bình an…

Thành lập xong cuộc đời trên đất miền Nam mầu mỡ, họ hát cám ơn…

18. GIÃ ƠN CÁI CỐI CÁI CHẦY và VỀ MIỀN NAM

Ðôi vơ chồng trẻ:
Giã ơn cái cối cái chầy
Ðêm khuya giã gạo, có mầy, có tao
Giã ơn cái nhịp cầu ao
Ðêm khuya vo gạo, có tao có mầy.
Dân chúng:
Về miền Nam đem theo sương gió xưa
Về đồng khô đem cơn mưa rét về
Người về đây thương nhớ lắm con đường xa
Về miền Trung, ra xứ Bắc yêu mẹ cha
Ðường từ xa đem ta đã tới đây
Chùa chiều nay rung chuông trên luống cầy
Người gửi ơn ra bốn phía chân trời mây
Ngẩng đầu lên dâng vút đóa linh hồn say
Ðường về đây… Ðường về đây
Trời về Tây nghe gió cuồng bay…

Lữ khách đã tới cuối con đường xuyên Việt. Tạm dừng chân, người mong con đường cái quan sẽ có ngày hết ranh giới để người được mãi mãi đi trong cuộc đời và trong tình người.

19. ÐƯỜNG ÐI ÐÃ TỚI

Toàn thể nhân dân:
Ðường đi đã tới… Lòng dân đã nối…
Người tạm dừng bước chân vui người ơi
Người mơ ước tới… Ðường tan ranh giới
Ðể người được mãi
Ði trong một duyên tình dài
Con đường thế giới xa xôi
Trong lòng dân chúng nơi nơi…

Thai nghén từ 1954
Bỏ dở dang trong những năm sau
Hoàn tất 1960

Trường Ca CON ÐƯỜNG CÁI QUAN chống đối sự chia cắt đất nước sau Hoà Hội Genève vào năm 1954. Trường Ca MẸ VIỆT NAM ra đời sau đó sẽ là lời kêu gọi đoàn kết giữa những người con của đất nước, trong một giai đoạn nhiễu nhương là khoảng 1963-64, với những cuộc chỉnh lý, xuống đường và với cuộc chiến tranh giữa hai miền đã gia tăng khốc liệt.

 

Phân tích ý nghĩa của Trường ca Con Đường Cái Quan – Phần 1: Từ Miền Bắc – “Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ…”

 

2020/08/23

Nhạc Xưa Blog

Trường ca Con Đường Cái Quan là bài trường ca nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy, được khởi soạn vào năm 1954 vào lúc Việt Nam vừa bị chia đôi bằng hiệp định Geneve. Trường ca này đã được hoàn tất phần đầu tại Paris khi tác giả đang du học tại Pháp, với niềm cảm hứng đã được ấp ủ từ hơn 10 năm trước đó, vào lúc ông vẫn còn là một kẻ du ca đi dọc khắp các nẻo đường Việt Nam.

Đường Cái Quan còn gọi là đường Thiên lý, là con đường dài chạy từ miền Bắc Việt Nam đến miền Nam Việt Nam, chủ yếu đắp vào đầu thế kỷ 19. Phần lớn đường Cái Quan năm xưa nay là Quốc Lộ 1A. Con đường Cái Quan có giá trị văn hóa lớn đối với người Việt, nói lên sự thống nhất của mọi miền đất nước và lịch sử Nam tiến của dân tộc.

Trong hồi ký của mình, nhạc sĩ Phạm Duy kể về hoàn cảnh sáng tác Con Đường Cái Quan như sau:

“Nhờ những ngày đi nghe giảng về khoa nhạc ngữ, tôi thấy mình có thể phát triển những đoản khúc dân ca lên thành những bản trường ca. Trước kia, tôi chưa bao giờ theo học một lớp nhạc nào cả và chỉ vô tình đem hơn một âm giai ngũ cung vào một ca khúc. Nay tôi hiểu rõ hiện tượng métabole nghĩa là sự chuyển điệu từ ngũ cung này qua ngũ cung khác khiến cho giai điệu của bất cứ nhạc phẩm nào cũng có rất nhiều cung bậc mà nghe ra vẫn là giai điệu Việt Nam.

Sau khi nắm được hiện tượng métabole và bí quyết soạn nhạc ngũ cung của Debussy rồi, tôi soạn ra mấy khúc đầu của Trường Ca Con Đường Cái Quan.

Trường Ca này là sự phản kháng của tôi trước sự chia cắt đất nước. Dù luôn luôn chối từ đóng những vai trò chính trị viên hay chính trị gia nhưng tôi không bao giờ bỏ lỡ cơ hội dùng văn nghệ để bày tỏ thái độ chính trị của mình”.

Sau khi từ Pháp trở về đến Sài Gòn, phải đến năm 1960 thì Phạm Duy mới hoàn tất phần còn lại của tác phẩm âm nhạc đồ sộ này, nhờ được kiến trúc sư Võ Đức Diên (chủ sự của tờ báo Sáng Dội Miền Nam) khuyến khích và giúp đỡ phương tiện đi lại để nhạc sĩ đi từ Sài Gòn đến vùng địa đầu Quảng Trị nhằm lấy cảm hứng và hoàn thành tác phẩm. Trường ca được in ra đầu tiên trên báo Sáng Dội Miền Nam với bản viết tay của tác giả.

Trường ca Con Đường Cái Quan gồm có 19 đoạn khúc, mỗi đoạn khúc đều nói về một cuộc du hành của người lữ khác. Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết:

“Trường ca Con đường cái quan đưa ra một lữ khách đi trên con đường xuyên Việt, đi từ Ải Nam Quan là tỉnh đầu miền Bắc cho tới mũi Cà Mau là cuối cùng của Miền Nam, đi từ ngày mới lập quốc cho tới khi đã hoàn thành xứ sở, đi trong lịch sử và lòng dân, đi tới đâu cũng có tiếng dân chúng địa phương ca hát chúc tụng lữ khách đi nối liền được lòng người và đất nước.

Trường ca Con Đường Cái Quan gồm có ba phần:

Phần Thứ Nhất: Từ Miền Bắc, mang tính chất hào hùng của miền quê cha đất tổ. Phần Thứ Hai: Qua Miền Trung, với tình thương yêu chan chứa niềm xót xa. Phần Thứ Ba: Vào Miền Nam, tỏ sự vui mừng của con người đã cả thắng thiên nhiên để hoàn thành nước Việt…”

Hãy cùng đi vào từng phần của bài trường ca này:

Phần Thứ Nhất: Từ Miền Bắc

Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết những ca khúc mạnh mẽ trong phần 1 – Từ Miền Bắc đã diễn tả sự hào hùng của người đi khai sơn phá thạch.

Đoạn khúc 1: Anh đi trên đường Cái Quan

Bản trường ca mở đầu với tiếng hát của những cô thôn nữ đang cắt cỏ thì thấy người lữ khách đi qua, cô tạm nghỉ tay để nhắn nhủ đến người đôi lời:

Hỡi anh đi đường cái quan

Dừng chân đứng lại Dừng chân đứng lại

Cho em đây than đôi lời

Ði đâu vội mấy anh ơi…

 Đó là lời hát gợi chuyện quen thuộc trong các bài dân nhạc đối đáp ở các miền phía Bắc. Người lữ khách kia cũng không chút gì quan ngại về cuộc hành trình còn dài chỉ vừa mới bắt đầu, anh dừng chân lại bên những cô gái trẻ và vui vẻ thổ lộ tâm sự như sau trong

Đoạn khúc thứ 2 – Tôi đi từ ải Nam Quan:

Tôi đi từ ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ

Chia đôi một họ trăm con đã lên đường

Năm mươi người ngược núi rừng

Ðã dựng vòng biên ải

Năm mươi người trẩy theo sông tới khơi chừng

Tôi theo người vượt quan san

Ơi người ơi

Ơi người ơi

Vẽ lối mòn gìn giữ quê hương ngăn đường giặc Hán

Tôi chưa về Ải Chi Lăng

Ơi người ơi

Ơi người ơi

Dưới chiēn bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn…

Khởi đầu là tiếng hát vu vơ của những cô gái trẻ với âm điệu dịu dàng và thiết tha của dân ca cổ truyền miền Bắc, đến phần này đã chuyển sang âm điệu hùng hồn như một hành khúc, với những yếu tố lịch sử được lồng vào nội dung. Chàng trai kể rằng mình khởi hành từ Ải Nam Quan, cùng với 50 người ngược núi rừng, 50 người theo sông.

 Ải Nam Quan Ngay từ đầu, nhạc sĩ đã nói rằng người lữ khách đã đi trong lịch sử và lòng dân, và lịch sử ở đây chúng ta có thể nhận ra đó là truyền thuyết mẹ Âu Cơ. Lữ khách muốn đi trên một con đường để nối liền dân chúng và đất nước mà sau hàng ngàn năm, kể từ thời Âu Cơ cho đến thời Ngô đánh quân Nam Hán dành được độc lập.

 “Dưới chiēn bào người thấy băn khoăn thương ai đầu nguồn” – Câu hát này gợi mở cho đoạn khúc thứ 3 về nàng Tô Thị. Người khoác chiēn bào nhưng nhớ thương người vẫn đứng đợi ở đầu nguồn, ngàn năm đã thành đá vọng phu.

 Đoạn khúc 3:

 Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa

 Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai

 Và khuyên người chẳng tái hồi

 Cho ngàn năm được sống đời vọng phu…

Người lữ khách đã về đến thị trấn Đồng Đăng (thuộc tỉnh Lạng Sơn),  Tại đây nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa vào một câu ca dao quen thuộc mà người Việt gần như ai cũng đã thuộc lòng:

 “Đồng Đăng có phố Kỳ Lửa

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”

 Nhưng nàng Tô Thị ở đây khác trong truyền thuyết, nàng vẫn đứng chờ người ở đầu nguồn, nhưng lại khuyên người lữ khách đừng trở về (khuyên người chẳng tái hồi). Có lẽ bởi là vì trở thành đá và “sống đời vọng phu” đã như là một định mệnh của nàng, là sự chấp nhận hy sinh để chồng ra đi gìn giữ non sông bền vững.

 Đoạn khúc 4: Người về miền xuôi

 Dân thượng du:

 Ðường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi

 Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười

 Ðường về miền xuôi biết bao đò bao quán mới

 Ðường dài mà vui hỡi người bạn đường nặng vai

 Rồi một ngày mai có qua nhịp cầu tả tơi

 Nhìn bọt bèo trôi nhớ chăng mầu tóc xanh ngời…

 Hát chung:

 Ðường ngược đường xuôi

 Nhớ nhau vì chuyện đầu môi

 Tạm biệt một nơi

 Thấy nhau ở cuối chân trời…

 Người lữ khách lúc này đã tới thượng du và đi trong làng mạc của người dân bản xứ, và những người ở vùng núi rừng này cùng vui hát để tiễn đưa và ca ngợi lòng quả cảm của người lữ khách: “Lên cao anh ôm trời, để dòng suối lẻ loi…”

 Lữ khách cũng đáp trả lòng thịnh tình của dân chúng bằng sự biết ơn và những lời hát ca tụng cái đẹp của vùng thượng du đất Bắc:

 Ðường về ruộng dưới ngát hương củi rừng gạo núi

Vượt tầm đèo khơi thấy con đường lúa tươi cười …

 “Rồi một ngày mai có qua nhịp cầu tả tơi” – Nhịp cầu ở đây có thể hiểu là cầu nối của đất nước đã bị chia cắt, người lữ khách có niềm tin là sau này sẽ nối lại nhịp cầu dù đã tả tơi đi nhiều, rồi được trở về nhìn thấy lại cảnh cũ sẽ nhớ lại một thuở màu tóc còn xanh ngời, nhớ lại tình đồng bào giữa kẻ miền xuôi và người miền ngược của ngày hiện tại. Họ hẹn nhau một ngày như vậy ở cuối chân trời của ngày tương lai:

 “Tạm biệt một nơi

Thấy nhau ở cuối chân trời…”

 Đoạn khúc 5: Ngày người ơi

 Lúc này người lữ khách đã về tới trung du, qua đèo ngang và gặp một cô lái đó, nghe cô hát:

 Này người ơi ghé bến sang sông

 Lên đường đi tới bõ công em chèo thuyền

 Mừng người đi tìm thấy tình duyên

 Con đường đất nước nối liền lòng dân.

 Lữ khách:

 Sông Thương ơi nước chảy đôi ba dòng

 Anh về Hà Nội một lòng, lòng yêu em

 Sông Thương ơi nước đục người đen

 Anh về thành phố không quên cô mình.

 Miền trung du có phong cảnh trù phú, nơi có dòng sông Thương tĩnh lặng trôi êm đềm. Qua bến đò ngang, người lữ khách nghe cô lái đò ca tụng về hành trình nối liền lòng người, và nàng cũng chúc cho người lữ khách “tìm thấy tình duyên” trên hành trình “nối liền lòng dân”.

 Con sông Thương chảy qua các vùng Bắc Giang, Hải Dương. Qua con sông này sẽ về đến Hà Nội rồi, nhưng hẳn là chàng lữ khách sẽ vẫn vương vấn hoài bóng hình cô lái đò dù lam lũ nhưng vẫn giữ được nét duyên dáng và đằm thắm, sống cuộc đời quanh năm lặng lẽ cũng giống như là dòng Thương này đã ngàn năm trôi lững lờ.

 Đoạn khúc 6: Tôi đi từ lúc trăng tơ

 Lữ khách:

 Ra đi từ lúc trăng tơ, trăng một miền hoa cỏ

 Trăng lên đầu của ô xa vẫn chưa mờ

 Im nghe lời Thủ Ðô chào, ôi lời mừng đông đảo

 Ði trong lịch sử dân ta, luống nghẹn ngào.

 Lữ khách và dân chúng thủ đô:

 Hai bên nhà cửa thân yêu

 Ơi người ơi

 Ơi người ơi

 Ðã mấy lần để đám rêu xanh thay mầu gạch ngói

 Thăng Long buồn tủi chia phôi

 Tháp, Tháp Rùa ơi

Tháp,Tháp Rùa ơi

 Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng hời.

 Rời khỏi dòng sông Thương trong nỗi luyến tiếc vào lúc trời nhá nhem tối, khi trăng hãy còn tơ, lữ khách về đến Hà Nội trong nỗi mừng tủi. Về Thăng Long, nghe như vẫn còn phảng phất tiếng nói quân vương nghìn năm trước, thấy mình như đang đi trên dòng “lịch sử dân ta”, vừa tự hào, vừa luống những nghẹn nào khi nghĩ về hiện tại với những buồn tủi chia phôi.

 Từ mươi năm qua dân chúng Hà Nội ly tán khắp các vùng, nhà cửa hai bên đầy rêu xanh mảng bám. Tất cả gợi lên một không gian quạnh hiu khơi gợi nhiều kỷ niệm.

 Xin kết thúc bài phân tích phần 1 của Trường Ca Con Đường Cái Quan – Từ Miền Bắc này bằng bản thu âm năm 1965 sau đây:

 

  

Toàn bộ bản trường ca được thâu âm lần đầu tiên năm 1965 bởi Ban Hoa Xuân của Đài Phát thanh Sài Gòn (với Thái Thanh, Duy Khánh và Kim Tước, Thái Hằng, Nhật Trường, Trần Ngọc… và nhiều người khác) và ban nhạc Nghiêm Phú Phi, Y Vân, Đan Thọ cũng với sự soạn hòa âm của nhạc sĩ người Đức, Otto Soellner, và cả nhạc sĩ Phạm Duy điều khiển dàn nhạc.

 Nguyễn Minh Phước & Nhạc Xưa

 

CON ĐƯỜNG CÁI QUAN: VÀO MIỀN NAM & BÀI NHẬN XÉT CỦA GS.TRẦN VĂN KHÊ

 

 

NHÂN XEM TRƯỜNG CA “CON ĐƯỜNG CÁI QUAN” CỦA PHẠM DUY
(GS.Trần Văn Khê)

Khi tôi nhận được bản in của trường ca ”Con Ðường Cái Quan” tôi đọc một mạch và hát đi hát lại những bài, mà tôi đã được nghe Phạm Duy hát trường ca này còn trong ”thời kỳ thai nghén”. Tôi nhớ lại, vào lúc đầu năm 1955, thuở Phạm Duy sang học nhạc tại Paris, mỗi chiều thứ ba, Phạm Duy đã đến tìm tôi để cùng đi dự thính buổi diễn thuyết của Giáo sư Chailley về môn nghiên cứu nhạc. Thường, thì Phạm Duy đến sớm, và nói chuyện âm nhạc với tôi. Phạm Duy hát những điệu dân ca mà anh đã nghe hoặc đã ghi từ lâu, hay những bài nhạc mà anh định sáng tác. Câu chuyện rất lý thú, nên tôi thường để máy ghi âm giữ lại mấy điệu mà Phạm Duy hát cho tôi nghe. Ðến nay tôi vẫn giữ cuốn ”băng” ấy. Vặn lại nghe tôi rất sung sướng mà thấy rằng người lữ khách trong trường ca, từ năm 1955 ”đi từ ải Nam Quan” mới gặp cô lái đò miền Trung Du, mà ngày nay đã tới mũi Cà Mau; tôi sung sướng khi thấy bạn thực hiện một ý định, khi biết rằng nhạc phẩm vừa ra đời có một giá trị về văn nghệ.

Nhưng cũng có nhiều điểm tôi không đồng ý với tác giả. Tôi định viết thư riêng cho Phạm Duy, kế một người bạn thân, anh Ngu Í, ngỏ ý muốn tôi viết bài ”phê bình” trường ca ”Con Ðường Cái Quan”. Phê bình là một chuyện rất khó. Xưa nay tôi không thích phê bình. Trong đời không ai toàn thiện toàn mỹ. Và trong một sáng tác nào, cũng có một vài điểm mà theo ý riêng của mình, hoặc theo một nguyên tắc thẩm mỹ mình áp dụng, không làm mình thỏa mãn lắm. Nhiều khi mình lại không biết rõ thâm ý hay dụng ý của tác giả mà lại phê bình một tác phẩm ngang qua sự nhận thức của mình, tôi sợ không làm tròn phận sự với tác giả và cả với độc giả. Những người chuyên môn về khoa phê bình, đọc qua một tác phẩm thấy liền và thấy rõ những ưu điểm và khuyết điểm.

Tôi tự biết mình thường hay thấy ưu điểm rồi quên khuyết điểm chủ quan hơn khách quan, nên không thích phê bình, nhất là phê bình người bạn; liệu tôi có giữ được hoàn toàn một thái độ vô tư chăng?

Nhưng lần lữa mãi, muốn viết thư riêng cho Phạm Duy mà bận bao nhiêu việc, nên cứ ngày qua ngày, chưa thực hiện được ý định. Tôi phải nhận viết bài về nhạc phẩm ”Con Ðường Cái Quan”, để có dịp sắp đặt lại những ý kiến của tôi về nhạc phẩm ấy, không phải để ”phê bình”, mà để nói chuyện với Phạm Duy và bạn đọc về vài ”nhận xét” của tôi sau khi đọc và hát nhiều lần thiên trường ca ấy. Trường ca ”Con Ðường Cái Quan” là một nhạc phẩm có giá trị về phần ý cũng như về phần nhạc. Ai cũng muốn được như ”người lữ khách đi trên đường xuyên Việt, đi từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” (. . .) đi để ”nối liền được lòng người và đất nước”. Ai cũng mong rằng con đường ấy không có ranh giới để đồng bào trong một nước có thể nắm tay nhau mà xây đắp một ngày mai tươi sáng. Người ở ”miền xuôi” hay ”miền núi”, ở giữa ”ruộng nghèo” hay ”ven bờ biển sâu”, người ở ”Ðồng Ðăng nhớ nàng Tô Thị” hay là ”về Cà Mau, chiến đấu với rừng tràm, với lũ muỗi đặc dầy như đám mây”, đều thấy ”băn khoăn thương ai đầu nguồn”, đầu nguồn có tổ tiên chúng ta, những người đã lập nên nước Việt, đã khai phá những vùng hoang vu.

Nhân vật chánh là một lữ khách, một người Việt trong dân chúng. Có nhắc đến một trăm người con của vua Lạc Long Quân và Bà Âu Cơ là chỉ nhớ đến cội nguồn. Có nhắc đến công chúa Huyền Trân là nhắc đến sự hy sinh của một thân gái như ”cây quế giữa rừng” đem hương sắc mình đổi lấy Châu Ô, Châu Rí, mở mang thêm bờ cõi. Những nhân vật anh gặp trên đường cái quan là cô cắt cỏ, cô lái đò, một bà mẹ, và cô gái miền Nam – mà sau này trở nên người vợ lữ khách – cùng dân chúng miền Thượng Du, miền Trung và miền Nam, toàn là những người trong dân gian.

Theo mấy lời nói đầu của tác giả, thì người lữ khách ”đi trong lịch sử và lòng dân”. Về lịch sử, chúng tôi thấy rằng từ 100 người con của bà Âu Cơ, Huyền Trân công chúa, vua Lê, chúa Nguyễn, không có những ”trạm đường” khác, nơi mà lữ khách có thể dừng chân trên con đường ”nối liền đất nước” như con sông Gianh ngày xưa chẳng hạn. Nhưng trong một loạt bài hát nhỏ để làm một bài trường ca không thể nói hết những giai đoạn lịch sử đáng kể ý chánh của tác giả là ”một nhịp cầu”, ”nối lại lòng dân”.

Tác giả đã khéo gợi lại những phong cảnh của ba miền. Từ Nam Quan, vùng biên ải quan san, có núi, có đèo, có nhịp cầu tả tơi, lữ khách đi đến Thăng Long, Hà Nội, đến Thủ đô rồi vô xứ Huế có tiếng chuông Thiên Mụ, có dòng nước lờ đờ của sông Hương đi dọc theo miền duyên hải, ”leo qua cồn cát” ”vượt đèo Hải Vân” để đi vô đến ”cánh sông Ðồng Nai” đến miền Nam tận mũi Cà Mau để ”đốt ngọn lửa vui”.

Miền Bắc có nhiều di tích lịch sử như Ải Chi Lăng, như Tháp Rùa. Miền Trung thơ mộng với ngọn trúc la đà, nhưng ”ruộng còn nghèo” chẳng được phì nhiêu như giải đất ”phù sa” miền Nam với bao nhiêu cây ngon trái ngọt, xóm dừa vườn chuối. Với ”bầu vú sữa tròn, và mảnh trái thơm giòn, hương sầu riêng ngọt ngon”. Qua mỗi vùng, người lữ khách lại nghe giọng nói địa phương. Cô cắt cỏ miền Bắc gọi người đi đường bằng câu:

Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại cho em đây than đôi lời.

Trong khi cô gái miền Nam gọi:

Bớ anh đi đường vắng đường xa
Dừng chưn đứng lại nghe em ca đôi lời.

Ðến miền Trung nghe dân vùng ấy gọi:

Ai đi trên đường là dặm đường
Ði mô mà vội vã, cùng hò khoan…

Lời ca lại rất đẹp. Từ trước đến giờ, tôi chỉ thấy Mai Văn Bộ, Lê Thương và Phạm Duy là đặt lời đẹp nhất – từ năm 1950 đến giờ tôi không theo sát phong trào nhạc mới nên có thể có nhiều người khác đặt lời đẹp mà tôi chưa biết – Có điều tôi chắc là trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca dao. Những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình. Như trong bài ”Này Người Ơi” :

Này người ơi! ghé bến (ý) sang sông
Lên đường đi tới, bõ công (em) chèo thuyền.
Mừng người đi tìm thấy tình duyên
Con đường đất nước nối liền lòng dân.

Hay là trong bài ”Tôi xa quê nghèo ruộng nghèo”:

Anh đi chân đứng đá mòn
Ði chưa thấy mỏi (mà) lòng còn say sưa… …

hoặc trong bài ”Ai vô xứ Huế thì vô”:

Nhưng con ôi, con ngủ ngủ sâu
(Chứ) Nối lại nhịp cầu (chứ) đã có (o ó) người (à) đi…

Trong bài ”Nước non ngàn dặm ra đi” lời lại đặt theo thơ mới 4 chữ,
nhưng rất nhẹ nhàng, thích hợp với giọng đàn Nam lưu luyến:

Nhưng ánh Tháp vàng
Cây quế giữa rừng
Chỉ một mùa tang là hương (là) sắc tan!
Tàn cả tình yêu!
Vì hận còn gieo
Ðất nước cháy theo với ngọn lửa thiêu!

Vì Phạm Duy cẩn thận trong chi tiết lúc đặt lời, nên mỗi khi chúng tôi gặp những chữ quá mới, hoặc dùng không sát nghĩa là chúng tôi thấy buồn buồn như thấy mấy vết nhỏ trong một hạt ki cương. Có những chỗ sơ ý nho nhỏ như trong bài ”Nhờ gió đưa về”. Lúc người lữ khách vào miền Nam, ngôn ngữ địa phương đã thấy rõ trong mấy chữ ”Bớ anh”, và ”dừng chưn”, thế mà tác giả lại viết ”mảnh trái thơm ròn”, thay vì ”giòn”. Nếu là tại người sắp chữ thì tác giả nên chữa lại trong khi tái bản vì ”ròn” làm phần nào mất màu sắc đặc biệt miền Nam. Cũng như chữ ”kênh” và ”Cà Mâu” thay vì ”kinh” và ”Cà Mau” trong bài ”Cửu Long Giang” và ”giã ơn, gửi ơn” thay vì ”trả ơn và gởi
ơn” trong bài ”Giã ơn cái cối cái chày” — ”chày” chớ không phải ”chầy”.

Tác giả lại dùng những chữ, đối với tôi, rất lạ như ”khơi chừng” trong câu ”Năm mươi ngày trẩy theo sông tới khơi chừng”. Thú thật, tôi không hiểu ”khơi chừng” là thế nào và những tự điển tiếng Việt và Hán cũng không soi rõ nghĩa của hai chữ ”khơi chừng” cho tôi. Cũng như câu ”nhà sàn lả lơi”, làm tôi tự hỏi lả lơi cách nào? Lả lơi dùng để chỉ những dáng điệu không đúng đắn. (Xem trong âu yếm có nhiều lả lơi). Nghe lại cuốn băng thâu thanh bài ”Người về miền xuôi” năm 1955, tôi nghe tác giả hát câu ”Nhà sàn tả tơi” có nghĩa hơn. Trong bài ”Nhờ gió đưa về” có mấy câu: Có mái tóc xuề xòa v.v… Ðôi môi xinh hàm răng xít xa; ”xuề xòa” có nghĩa là không khó tính, thế nào cũng được: Anh ấy tính tình người ”xuề xòa”. Mái tóc thì chỉ có thể ”xòa” hay là ”xõa” mà không thể ”xuề xòa”. Chữ ”xít xa” nghe giống ”xuýt xoa” mà ”xuýt xoa” trong Nam nói là ”hít hà” — Có lẽ tác giả muốn nói đến hàm răng ”khít khao” chăng?

Trong bài ”Giã ơn cái cối cái chày” có mấy câu: ”Chiều chiều nay rung chuông trên luống cầy”, chữ ”rung” có nghĩa là lay, là lắc, là làm cho chuyển động. Nhưng rung chuông lại gợi hình ảnh một người cầm cái chuông như loại chuông mấy người bán ”cà rem”, ”bông cỏ” mà lắc, hoặc chuông có lớn lắm cũng bằng loại chuông rung trước khi mở màn sân khấu. Trong chùa thì chú tiểu ”dộng chuông”. Hay là nếu tác giả viết tiếng chuông ”ngân” trên luống cày, chúng ta hiểu hơn.

Mấy điểm nhỏ tôi vừa nêu ra, không làm giảm giá trị của trường ca ”Con đường cái quan”. Có thể Phạm Duy không để ý đến chi tiết ấy, nhưng tôi nêu ra gọi là để thảo luận với tác giả để khi tái bản trường
ca ”Con đường cái quan” không còn những chữ có thể làm lạ tai thính giả. Về phần nhạc, ai cũng nhìn nhận rằng Phạm Duy đã chịu ảnh hưởng dân ca rất nhiều, nên trong khi sáng tác hay phóng tác, Phạm Duy hoặc còn giữ lại, hoặc làm đẹp thêm nhạc khúc duyên dáng của dân ca.

Tác giả không những khéo dùng những dân ca đặc biệt mỗi vùng như điệu hát ví, hát ru, hát lượn của miền Bắc trong mấy bài ”Anh đi trên đường cái quan”, ”Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa”, và ”Người về miền xuôi”, điệu hát lý, hát ru, hò giã gạo, hò trên sông miền Trung trong các bài ”Ai đi trong gió sương”, ”Ai vô xứ Huế thì vô”, ”Ai đi trong dặm đường trường”, ”Gió đưa cành trúc la đà”, những điệu hò lơ và ru em của miền Nam trong bài, ”Ðèn cao Châu Ðốc gió độc Gò Công” và ”Giã ơn cái cối cái chày”. Có khi Phạm Duy giữ nguyên nhạc khúc ca như bài ”Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa”, ”Ai đi trong gió trong sương”. Có khi tác giả làm cho điệu dân ca phong phú hơn mà không mất dân tộc tính. Như ”Ai đi trên dặm đường trường” (Hò giã gạo). Có khi tác giả phỏng theo điệu dân ca mà sáng tác một đoạn ca khác như bài ”Ðèn cao Châu Ðốc gió độc Gò Công” phỏng theo điệu hò lơ. Ngoài ra tác giả còn phỏng theo hơi Nam trong thể ca Huế mà sáng tác bài ”Nước non ngàn dặm ra đi”. Nhạc khúc và lời đã đẹp, lạ ăn với nhau không kém những bài Nam Ai, Nam Bằng trong cổ nhạc. Có hơi Nam của nhạc Huế, có hơi Oán của nhạc miền Nam, và trong bài ”Giã ơn cái cối cái chày” có hơi Oán trong câu hát ru em.

Ðối với một nhạc sĩ biết nghề và có biệt tài như Phạm Duy mà khen câu nhạc đúng luật cân phương, khen cách chuyển cung chuyển điệu khéo là thừa. Tôi chỉ nhấn mạnh chỗ tác giả khéo sắp đặt, các đoản ca để cho sau một bài có tiết tấu rõ rệt, có một bài hát ngân nga theo nhịp tự do. Từ đoản ca này đến đoản ca khác, từ cung nọ đến cung kia, ta không thấy sự hời hợt, chắp vá. Nhiều nhạc khúc, viết theo hệ thống tứ âm (système tétratonique mi, la, si, ré) như bài ”Ai vô xứ Huế thì vô” chẳng hạn. Trong hai bài phỏng theo điệu Hò giã gạo, mấy câu ”Ðường máu xương đã lắm oan thương”, ”Ðổi sắc hương lấy cõi giang sơn” viết theo hệ thống tam âm (tritonique la, ré, mi) và hai câu ”Ðèo núi cao nghe gió vi vu, Thổi phấn son bay tới kinh đô”, cũng trong hệ thống tam âm mà trên một bực khác: mi la si. Trong bài ”Nước non ngàn dặm ra đi”, Phạm Duy dùng hơi Nam rất rõ rệt. Từ hệ thống ngũ âm (pentonique) rê, mi, xôn, la, si (hò, xự, xang, xê, cống) của đoạn đầu, nhạc sĩ chuyển sang hệ thống ngũ âm khác đô, ré, mi, xôn, la (phan, hò, xự, xang, xê), trong đoạn ”Những ánh thàp vàng…” đến
”tàn cả tình yêu” — để trở lại hệ thống đầu trong đoạn cuối. Thỉnh thoảng có nhiều thuộc hệ thống tứ âm (ré, xôn, la, đô) như câu ”chỉ một mùa tang…” đến ”ngọn lửa thiêng”. Khi nhạc khúc từ một hệ thống ngũ âm nay chuyển sang một hệ thống ngũ âm khác hay một hệ thống tứ âm tam âm, để trở về hệ thống đầu tiên, những nhà nghiên cứu nhạc bên Âu Châu gọi nhạc pháp ấy là métabole mà chúng tôi tạm dịch là ”chuyển hệ”. Chuyển hệ là một đặc điểm của các lối nhạc ở Á Châu hay là các lối nhạc trong hệ thống ngũ âm như dân ca Hung Gia Lợi chẳng hạn. Trong nhạc Việt, chuyển hệ là một đặc điểm của hơi Nam, của nhiều bài hát Chèo và Chầu Văn. Phạm Duy đã dùng các ”chuyển hệ” ấy mà viết nhạc và nhờ thế mà bài ”Nước non ngàn dặm ra đi” có rất nhiều dân tộc tính. Chúng tôi rất vui mừng khi thấy một nhạc sĩ lĩnh hội được các bí quyết để sáng tác một lối nhạc mới nhưng nền tảng và đặc điểm của cổ nhạc vẫn còn.

Riêng tôi phần thứ ba: đoạn vào miền Nam kém xa hai phần đầu và người nhạc sĩ khéo dùng dân ca cổ nhạc đã nhường chỗ cho người nhạc sĩ chịu ảnh hưởng Âu nhạc và sáng tác Việt nhạc với những nhạc khúc ngoại lai. Dầu cho Phạm Duy có dụng ý nêu lên ảnh hưởng Âu nhạc trong Việt nhạc, hay có ý định thay đổi màu sắc của bài trường ca, riêng đối với chúng tôi, những câu nhạc nửa Âu nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi ”phụ bạc dân ca” trong phần chót của nhạc phẩm.

Dù sao, với ý chánh của bài dân ca là sự nối liền nước Việt, với cách kết cấu để cho người ca sĩ có thể trình bày riêng những đoản ca hay là cả nhạc cảnh với sắc phục của ba miền với giọng nam, giọng nữ, đơn ca, hợp ca, trường ca ”Con Ðường Cái Quan” là một nhạc phẩm có giá trị, mặc dầu có 3, 4 bài đoản ca làm chúng tôi thất vọng. Nhưng hơn mười lăm bài khác ngọt ngào, duyên dáng đầy dân tộc tính cũng đủ cho chúng tôi quên những cái ”tì vết” ấy mà có mấy lời khen tặng tác giả.

(BÁO BÁCH KHOA – 1965)

Nguồn: Viện Âm nhạc