Seite auswählen

Nguyễn Đình Toàn. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)

Nguyễn Đình Toàn. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)

Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn, viết kịch, sáng tác nhạc với bút hiệu Nguyễn Đình Toàn. Thời mới lớn ở Hà Nội, ông dùng bút hiệu Tô Hà Vân, và sau 1975, để tránh rắc rối với nhà nước cộng sản, khi đưa “chui” những sáng tác của ông ra phổ biến ở nước ngoài, ông dùng bút hiệu Hồng Ngọc.

Nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn, người nổi tiếng một thời với chương trình Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài Gòn trước năm 1975, qua đời tối Thứ Ba, 28 Tháng Mười Một, tại California, hưởng thọ 87 tuổi.

 

Khuôn mặt nổi bật của Văn học Nghệ thuật Miền Nam trước 1975

Sinh ngày 6 tháng 9 năm 1936 tại huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn từ rất sớm, thời còn học trung học.

Di cư vào Nam năm 1954, ông trở thành biên tập viên của đài phát thanh quốc gia – Đài phát thanh Sài Gòn. Ông gia nhập quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1968, giải ngũ vì lý do sức khỏe, và trở lại làm việc với đài phát thanh Sài gòn.

Nguyễn Đình Toàn làm thơ, viết văn, viết kịch, sáng tác nhạc với bút hiệu Nguyễn Đình Toàn, tên thật của ông. Thời mới lớn ở Hà Nội, ông dùng bút hiệu Tô Hà Vân, và sau 1975, để tránh rắc rối với nhà nước cộng sản, khi đưa “chui” những sáng tác của ông ra phổ biến ở nước ngoài, ông dùng bút hiệu Hồng Ngọc.

Sau 1975, như các văn nghệ sĩ cùng thời bị kẹt lại Việt Nam, ông bị đưa đi ‘học tập cải tạo’, tổng cộng 6 năm.

Sang Mỹ trễ, cuối năm 1998 theo diện gia đình bão lãnh, không lâu sau, Nguyễn Đình Toàn cộng tác với Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ – VOA, trong chương trình “Đọc Sách” do Nguyễn Đình Toàn và vợ, Nguyễn Thị Thu Hồng, nghệ danh Hồng Ngọc, phụ trách. Trong chương trình này, Nguyễn Đình Toàn thường giới thiệu một tác giả hay một tác phẩm, hoặc một khía cạnh văn hóa nghệ thuật, Việt Nam hay Tây phương. Bà Thu Hồng từng là xướng ngôn viên của một chương trình phát thanh Sài Gòn trước 1975. “Đọc Sách” được phát đi đều đặn trên làn sóng VOA trong vài năm, cho tới khi Nguyễn Đình Toàn nghỉ hưu.

Văn

Tác phẩm đầu tay, “Chị em Hải”, viết ở miền Bắc thời Nguyễn Đình Toàn còn rất trẻ với bút hiệu Tô Hà Vân, được đăng từng kỳ trong báo Tự Do trước khi xuất bản năm 1961 ở miền Nam.

Sự thành công của tác phẩm này đưa ông vào nghiệp văn. Trước năm 1975, Nguyễn Đình Toàn đã xuất bản 20 tác phẩm, gồm văn và thi ca.

Được nhắc đến nhiều là “Áo Mơ Phai”, truyện, xuất bản năm 1972, đoạt giải văn học toàn quốc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa năm 1973, và “Đồng Cỏ” xuất bản lần thứ nhất tại Úc năm 1994.

Viết về hai tác phẩm dấu ấn này của Nguyễn Đình Toàn, nhà văn Ngô Thế Vinh nói: “Áo Mơ Phai là dự cảm về một thành phố Hà Nội sắp mất, Đồng Cỏ là một tác phẩm khác dự báo một Sài Gòn sắp mất. Nguyễn Đình Toàn mẫn cảm với thay đổi thời tiết cũng như với những biến chuyển của lịch sử. Dự cảm hay trực giác của nhà văn đi trước tấn thảm kịch, đi trước những đổ vỡ chia ly đã mang tính tiên tri.”

Trong một chương trình trên Jimmy Show, Nguyễn Đình Toàn cho biết ông đã dự tính viết thêm một quyển thứ 3 cho đủ bộ ba – trilogy, nhưng tuổi già, sức yếu, khiến ông không thể hoàn thành ý định.

Trong lĩnh vực báo chí, Nguyễn Đình Toàn từng cộng tác với các tạp chí Văn, Văn học… và viết “feuilleton” – truyện dài đăng nhiều kỳ – cho các tờ báo lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ: Tự Do, Chính Luận, Xây Dựng, Tiền Tuyến… Phần lớn các sáng tác in từng kỳ trên các báo ấy sau này được in thành tiểu thuyết, truyện ngắn, tập truyện. Nhưng không chỉ viết bài, tiểu thuyết feuilleton, Nguyễn Đình Toàn còn đóng góp nhiều cho sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975, trong vai trò thành viên của ban tuyển chọn sáng tác thơ, văn cho tạp chí Văn.

Nhà thơ Du Tử Lê lúc sinh thời từng nhận xét, trong văn, thơ, cũng như trong âm nhạc, Nguyễn Đình Toàn luôn tìm một ‘cách nói khác/cách viết khác’.

Thơ

Nguyễn Đình Toàn làm thơ rất sớm khi mới 16, 17 tuổi. Bài thơ đầu đời của ông, Khúc Ca Phạm Thái, để lại ấn tượng sâu đậm nơi người nghe.

Nói với VOA trước đây, nhà báo Đinh Quang Anh Thái, một người rất gần gũi với Nguyễn Đình Toàn, cho đây là bài thơ tâm đắc nhất của ông:

“Bài thơ tâm đắc nhất đối với cá nhân tôi thời còn trẻ… bởi vì cậu bé nào lớn lên cũng – nói theo nhà văn Duyên Anh, ‘mơ thành người Quang Trung’, có một tính chất gọi là… gắn liền với quê hương đất nước, thì tôi thích bài Khúc Ca Phạm Thái của Nguyễn Đình Toàn. Ví dụ như câu mở đầu:

“Ta tráng sĩ hề… lòng không mềm bằng kiếm/Ta anh hùng hề… chí khí không chứa đầy đôi mắt Trương Quỳnh Như…”

Sau này quen và thân anh Nguyễn Đình Toàn thì mới biết bài thơ này là bài thơ đầu đời của anh ấy, viết ra lúc mới 16, 17 tuổi.”

“Cái thuở của những đêm lửa trại của thanh niên Sài Gòn ngày xưa, mà được nghe Thanh Hùng ngâm Khúc ca Phạm Thái thì tuyệt lắm!”

Khúc Ca Phạm Thái là bài thơ phổ thành kịch thơ, nằm trong tập thơ “Mật Đắng” của Nguyễn Đình Toàn xuất bản năm 1962. Nhà văn Ngô Thế Vinh cho biết “Mật Đắng” được sáng tác trong “một giai đoạn đen tối, gần như tuyệt vọng” trong cuộc đời nhà thơ, lúc Nguyễn Đình Toàn mắc bệnh lao, tưởng như khó qua khỏi.

Nguyễn Đình Toàn, “người tình không chân dung”

Nhưng thơ không chỉ có trong những tập thơ, mà thơ Nguyễn Đình Toàn còn bàng bạc, phảng phất trong lời văn, trong ca từ, trong cả những lời bạt giới thiệu những ca khúc trong Chương Trình Nhạc Chủ Đề của đài phát thanh Sài Gòn trước 1975.

Chương Trình Nhạc Chủ Đề do Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An phụ trách là một hiện tượng ở Sài Gòn thời bấy giờ. Lời dẫn nhập cho mỗi bản tình ca qua giọng đọc truyền cảm của Nguyễn Đình Toàn, như “thủ thỉ” vào tai người nghe, đã giúp đài phát thanh quốc gia lôi cuốn đông đảo thính giả yêu nhạc. Mỗi lời giới thiệu, theo Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc, là một “tiểu tác phẩm”, lời văn mượt mà, ý tưởng sâu lắng, mà qua giọng đọc trầm ấm, ngọt ngào của Nguyễn Đình Toàn, như rót mật vào hồn người nghe, đi thẳng vào trái tim thính giả ngay từ lời mở đầu “Em yêu dấu”…

Viết về Nguyễn Đình Toàn, nhà thơ Du Tử Lê từng nhận định:

“Với những giới thiệu hay dẫn nhập bằng cách viết (cách nói) riêng của mình; nhất là qua giọng nói, như một thủ thỉ tư riêng giữa hai người, qua làn sóng điện, họ Nguyễn trở thành một thứ “người tình không chân dung” của rất nhiều nữ thính giả. Đồng thời, ông cũng là “người bạn thiết” của rất nhiều thính giả thuộc nam giới. Với lớp thính giả này, ông như người đã nói thay họ những điều họ muốn nói về tình yêu, âm nhạc, thời thế.”

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái, thuở mới lớn cũng từng say mê chờ đón Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn vào mỗi tối thứ Năm:

“Không gì hạnh phúc cho bằng mỗi tối thứ Năm, bận mấy thì bận cũng phải chạy vù về nhà ngồi bên cạnh cái radio nghe giọng Nguyễn Đình Toàn. Ngồi nghe cái giọng ấm của người đàn ông Hà Nội nói về nhạc chủ đề… Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi về Nguyễn Đình Toàn, rồi sau đó mới đọc sách của ông, nghe nhạc của ông, và nhất là đọc thơ của ông.”

Tình khúc thứ nhất- Nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn

Vũ Thành An, lúc 21 tuổi, vào làm đài phát thanh Sài Gòn và kết thân với Nguyễn Đình Toàn. Tình bạn và có lẽ sự đồng điệu giữa hai tâm hồn nghệ sĩ đã cho ra đời hai nhạc phẩm bất hủ: “Tình Khúc thứ Nhất” và “Em đến thăm anh đêm ba mươi,” nhạc Vũ Thành An, thơ Nguyễn Đình Toàn.

Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai
Những cánh dơi lẻ loi mù trong bóng đêm dài
Lời nào em không nói em ơi
Tình nào không gian dối
Xin yêu nhau như thời gian làm giông bão mê say

“Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai”… ý tưởng lạ, ca từ đẹp, nhạc hay, đã giúp cho hai ca khúc này trở thành ‘bất tử’, ra đời hơn 50 năm về trước mà cho tới giờ vẫn làm xúc động người nghe, những ‘fan’ mới thuộc các thế hệ đến sau.

Trong một cuộc trao đổi với VOA trước đây, nhạc sĩ Vũ Thành An nói nhà thơ Nguyễn Đình Toàn đã “thổi hồn” vào bản nhạc, đặt tựa và lời cho “Tình khúc thứ Nhất”, mà ông đã sáng tác để tặng một người bạn.

“Hồi đó tôi có người bạn gái thân muốn tôi viết bài nhạc tặng cô ấy, tôi viết xong, cũng có cả lời, rồi đưa cho anh Toàn nghe thì anh Toàn chê lời tôi viết không hay. Anh bảo để anh đặt lời cho. Hồi đó anh cũng có một người bạn cho nên cũng muốn viết một tình khúc để tặng bạn của anh. Phải nói là khi viết nhạc, tôi cũng chưa thấy được cái nét đặc biệt của tình khúc ấy, sau khi anh Toàn viết lời vào thì thấy là quả thật, nó là một bài hát rất là… có hồn. Chính anh ấy là người đặt tên cho bài này là bài Tình khúc thứ nhất, và đồng thời anh ấy cũng bảo tôi nên lấy tên thật là Vũ Thành An chứ không cần lấy tên hiệu gì cả.”

Với Tình khúc thứ nhất, nhạc sĩ Vũ Thành An xuất hiện trên bầu trời âm nhạc, mở màn cho loạt bài Không Tên, đưa tên tuổi Vũ Thành An vào lịch sử âm nhạc miền Nam.

Nguyễn Đình Toàn và Vũ Thành An còn hợp tác để thực hiện Chương Trình Nhạc Chủ Đề. Theo lời Vũ Thành An thì linh hồn của chương trình này cũng là Nguyễn Đình Toàn, chính ông nảy ra ý tưởng thành lập chương trình, kêu gọi Vũ Thành An đệ đơn xin lập chương trình, viết lời giới thiệu và đọc những đoạn dẫn nhập đó cho các ca khúc chọn lọc với những giọng ca nổi bật nhất thời đó.

Tù cải tạo

Mất Sài gòn, do dự mãi không biết nên đi hay ở, cuối cùng Nguyễn Đình Toàn bị bỏ lại, và như các văn nghệ sĩ ở lại, bị tập trung đi ‘học tập cải tạo.’

Ra tù, Nguyễn Đình Toàn sáng tác hơn 50 ca khúc với bút danh Hồng Ngọc. Có lẽ được nhiều người Việt tị nạn đồng cảm nhất là bài “Nước Mắt Cho Sài Gòn”, viết lúc Nguyễn Đình Toàn còn ở trong tù, ca khúc được tuồng ra nước ngoài qua trung gian Hồ Trường An, tới tay tạp chí Quê Mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, được Jeannie Mai trình bày đầu tiên, nhưng bản nhạc cất cánh với giọng ca Khánh Ly dưới tên “Sài Gòn, Niềm Nhớ Không Tên”, ghi tên tác giả là “Người ở lại”. Băng nhạc ‘Người Di Tản Buồn’ phát hành năm 1979 có cả “Sài Gòn, Niềm Nhớ Không Tên” và “Người Di Tản Buồn” của nghệ sĩ Nam Lộc gây tiếng vang lớn trong các cộng đồng người Việt tị nạn khắp nơi.

Tới cuối năm 1999, sau khi định cư ở Mỹ gần 1 năm, Nguyễn Đình Toàn mới chính thức ra mắt một số ca khúc sáng tác sau năm 1975 trong 3 tập nhạc: Hiên Cúc Vàng (1999), Tôi Muốn Nói Với Em (2001) và Mưa Trên Cây Hoàng Lan (2002).

Nguyễn Đình Toàn: liệu thơ có như người?

Đối với một tâm hồn nghệ sĩ mẫn cảm, những trải nghiệm cay đắng do biến đổi của thời cuộc và các trải nghiệm trong tù cải tạo, chắc hẳn phải có ảnh hưởng sâu đâm tới tác giả và tác phẩm. Đời thực của người nghệ sĩ thì sao?

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái:

“Thỉnh thoảng những người hay đến chơi với anh, ngồi hút thuốc lá, uống một tí rượu hay nghe anh nói chuyện, uống trà, cà phê… thì có lúc thấy được cái khoảnh khắc mà Nguyễn Đình Toàn cảm thấy cuộc sống này nó đáng chán, nhưng mà bình thường thì Nguyễn Đình Toàn hóm hỉnh lắm.”

Đinh Quang Anh Thái nhắc đến một bài thơ khác của Nguyễn Đình Toàn ít người biết đến mà ông và tác giả khá tâm đắc. Đó là bài “Tro Tàn”, viết năm 1984.

Ta yêu nhau trong nghèo khó
Khi quê hương tàn phá
Được mấy ngày vui trong đời
Tóc biếc ngoảnh đi đã đỏ màu phai
Ta xa nhau vào lúc xa đời
Bóng bỏ theo người
Đổ một lần cho hết cuộc rủi may
Cứ coi là mất coi là hết
Lật ngửa bàn tay mà cắt dây

“Tôi tâm đắc cái câu: ‘Bóng bỏ theo người/ Đổ một lần cho hết cuộc rủi may’. Đó là tâm tư của một Nguyễn Đình Toàn mà thảng hoặc, thấy anh như hốt hoảng trong cái cuộc sống trên cái cõi tạm này.”

Giờ bóng đã “bỏ theo người”. Người nghệ sĩ đa năng, tài hoa đã ra đi ‘vào sương đen’, những lời ông viết trong bài “Mai Tôi Đi” khi rời Việt Nam, nơi chôn nhau cắt rốn, giờ diễn tả tâm trạng của những người ở lại.

“Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc, tẩm vào người nỗi chết
Quê hương ta sống chia giòng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin

Phu nhân Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thu Hồng, trong chương trình Đọc Sách của VOA, qua đời ngày 24/2/2021, hưởng thọ 78 tuổi. Với sự ra đi của người vợ hiền mà ông đã đền đáp ân tình bằng cách tận tình chăm sóc trong nhiều năm, có lẽ không còn gì trên cõi tạm này để níu kéo ông.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn trong cuộc trò chuyện cuối

Blog RFA

Tuấn Khanh

29-11-2023

Ảnh: Nhạc sĩ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Nguồn: Báo Người Việt

Trong cái chớp mắt của cõi nhân gian, lại bàng hoàng nhận ra một cái tên lừng danh văn hoá và báo chí miền Nam nữa đã ra đi. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã rời bỏ nơi trần thế, ra đi vào lúc 7 giờ 15 phút tối Thứ Ba, 28 Tháng Mười Một, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 87 tuổi.

Năm 1998 nhà văn Nguyễn Đình Toàn đến Mỹ, góp vào khung trời ký ức mang theo của người Việt hải ngoại về một thời thi ca nhạc hoạ lẫy lừng miền Nam, có Nguyễn Đình Toàn như người kể chuyện âm nhạc độc đáo Sài Gòn, qua sóng phát thanh. Nhà thơ Du Tử Lê từng gọi ông là một nghệ sĩ như người tình không chân dung của người yêu nhạc, vì người nghe mê say cách ông trình bày một ca khúc, diễn đạt một ý niệm, mô tả về hình ảnh như du vào mộng, mở cửa vào khu vườn bí mật của mỗi tối thứ Năm, chương trình nhạc chủ đề.

Vào giai đoạn đó, nhà văn Nguyễn Đình Toàn như một người dẫn chương trình độc đáo, nâng bước cho nhiều nghệ sĩ. Về sau, nhiều bài hát hay album của những ca sĩ từng được ông giới thiệu trên đài, vẫn hay chép lại những mô tả của ông để in trên bìa băng , bài nhạc như khẳng định uy tín. Chẳng hạn, Nguyễn Đình Toàn đã từng giới thiệu về Khánh Ly, mà về sau câu nói của ông luôn được dùng lại trong các giới thiệu: “Khánh Ly – người đàn bà hát những bài tình ca không hạnh phúc”.

Nói về nghề phát thanh viên, Nguyễn Đình Toàn đã mở ra một cách thức mới mẻ, bằng tiếng nói nhỏ nhẹ, giọng Bắc 1954 êm nhẹ như ru ngủ, cộng với văn tài của ông mà về sau gần như không có ai có thể thay thế. Nhiều người vào nghề sáng tác, ca hát đã bỗng chốc quen thuộc với khán giả. Trong một cuộc trò chuyện, có người đã ví ông tài năng như Oprah Winfrey. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Đình Toàn còn vượt qua ngưỡng ấy, vì ông không là show diễn, mà dùng tiếng nói của mình chải chuốt lòng người Việt trong những giai đoạn chiến tranh điêu tàn, vượt qua những giằng co khác biệt chính trị, mở ra một khung trời thơ mộng trong đêm tối, mang hy vọng cho ngày mai.

Nhưng nói gì thì nói, Nguyễn Đình Toàn cũng không vượt qua được con mắt soi xét của chính quyền mới. Sau năm 1975, ông cùng với những bạn văn, bạn thơ, bạn nhạc… lần lượt đi vào trại giam vì bị coi là thành văn hoá đồi truỵ, những tên biệt kích văn hoá. Công an ập đến tổng cộng hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. “Họ dọn đi tất cả sách vở, tài liệu, huy chương, giải thưởng… nói là để nghiên cứu tội của tôi”, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói, giọng nhỏ nhẹ như kể chuyện trong một tiết mục trên đài. Các tác phẩm của ông bị truy vết từng con chữ để lần ra chuyện, trong ý niệm của các điều tra viên. Sau cùng thì các tác phẩm của ông bị đốt làm gương, và một số được giữ lại trong Bảo tàng Tội ác Mỹ Nguỵ như chứng tích, trong một thời gian.

Một trong những kỷ vật bị lấy đi, mà ông nhớ tiếc trong nhiều năm, đó là chiếc kỷ niệm chương Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1972-1973, trao cho tác phẩm Áo Mơ Phai – tiểu thuyết nhiều kỳ đăng trên nhật báo Xây Dựng. Tác phẩm dày 300 trang, câu chuyện qua ánh mắt của một người Hà Nội về nơi chốn của mình. Cứ tưởng đó là một câu chuyện đời, mà đó lại là câu chuyện của một Hà Nội muôn thuở sắp mất, mất mãi mãi. Một người trẻ Hà Nội đọc tác phẩm này vào năm 2021, và để lại lời nhận xét “Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu”.

Vào Nam, mang theo trong mình ký ức một thành phố yêu thương của mình, Nguyễn Đình Toàn dựng lại trong ngôn từ, dựng lại trong tiếc nhớ và dựng lại cho những người đọc về sau. Mà Không chỉ Áo Mơ Phai, trong nhiều tác phẩm khác của mình, ông đều dựng nên một không gian lạ lùng định danh Nguyễn Đình Toàn như vậy.

Nhắc về Giải Văn học Nghệ thuật, mà người ta còn gọi là tắt là giải thưởng Tổng thống Thiệu, tuyên ngôn của giải này được ghi rằng “Mục đích Giải chính là nhằm tuyên dương các nỗ lực chấn hưng văn hóa Việt Nam trong hoàn cảnh thế giới mới có những chuyển biến hết sức phức tạp, cũng là nêu cao chính nghĩa và khát vọng hòa bình, có nhiệm vụ quảng bá đặc sắc truyền thống nước Việt ra bằng hữu khắp năm châu”. Vì ý nghĩa này nên ngoài tấm kỷ niệm chương, người đoạt giải còn nhận được tiền thưởng là 600,000 đồng. Nhà văn Ngô Thế Vinh có nhắc là vào lúc ông Nguyễn Đình Toàn nhận được số tiền đó, nhà văn Nhật Tiến mua một xe hơi Renault 4CV, là xe được coi là ngon lành lúc đó, với giá có 400.000 đồng.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể, khi lục soát mọi thứ mang đi, viên công an mang ra tấm Kỷ Niệm Chương bằng đồng, lớn như miệng chén, trên đó có in nổi dòng chữ “Việt Nam Cộng Hòa – Tổng Thống”, hỏi cái này là cái gì. Ông giải thích đó là giải thưởng văn học. Không nói không rằng, viên công an đưa tấm Kỷ niệm chương vào hồ sơ tang vật.

Trải qua lần tù thứ hai, ông được về và phải trình diện với công an khu vực mỗi tuần, và không được viết cho đến lúc đi. Kỳ diệu thay, nhiều năm sau, một người Bắc rành rẽ chuyện văn chương thi hoạ miền Nam chợt nhận Kỷ Niệm Chương có khắc tên ông nằm ở hè bán hàng lạc-xoong. Mua lại với giá bằng hai chai bia, người này tìm cách gửi lại cho ông. Nghe đâu, những tang vật như vậy, sau năm 1995, người ta tìm thấy được bán rải rác ở các nơi bán đồ cũ, sưu tầm ở miền Bắc khá nhiều.

Đưa tấm Kỷ Niệm Chương cho chúng tôi xem, ông cười nói “Nó như định mệnh, mà đã là định mệnh dường như là ta dễ từ bỏ”. Lần cuối, tháng Năm 2023, đến thăm ông, lúc này ông đã yếu và quên nhiều nhưng vẫn giới thiệu lại chuyện Tấm Kỷ Niệm Chương.

Gọi con trai mình, anh Nguyễn Đình Thư, mang ra bộ sách cuối cùng của mình để ký cho chúng tôi, ông không còn giữ vững được cây bút, Chữ viết và chữ ký chồng lên nhau ngọn xanh như núi, nhìn không còn được chữ. Ký xong, nhìn lại, ông lại cười “Ừ thì đó là tôi, chữ loạng choạng như người rồi”.

Trò chuyện những giờ cuối với nhà văn Nguyễn Đình Toàn, hỏi ông nhớ gì Việt Nam. Ông thừ người chốc lát rồi nói “chỉ nhớ con đường làng”. Không biết được là ông nhớ con đường làng nào, rồi hỏi ông có buồn hay giận gì về những điều đã mất của mình ở Việt Nam không, ông lắc đầu cười nhẹ như đứa trẻ, không giận không buồn, người như đã chuẩn bị sẵn hành trang cho mình là một chuyến đi xa thật thảnh thơi.

Và rồi khi hay tin ông mất ở miền Nam Cali, mới chợt nhận ra rằng ông là người đã tạo ra khu vườn bí mật, cũ kỹ mà nao lòng, xa xôi mà rộng lớn vô cùng trong thời đại của chúng ta – những người miền Nam với mãi mãi văn hoá miền Nam. Nhưng hụt hẫng biết bao, là ông – cây cổ thụ to lớn, thâm sâu nhất trong khu vườn bí mật của ký ức của chúng ta, đã vẫy tay lìa bỏ địa đàng.

 

Nguyễn Đình Toàn, nguời mở cửa khu vườn bí mật

Tuấn Khanh

29-11-2023

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Ảnh trên mạng

 

Trong cái chớp mắt của cõi nhân gian, lại bàng hoàng nhận ra một cái tên quen thuộc nữa đã ra đi. Nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã rời bỏ nơi trần thế, ra đi vào lúc 7 giờ 15 phút tối Thứ Ba, 28 tháng 11, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 87 tuổi.

Năm 1998, nhà văn Nguyễn Đình Toàn đến Mỹ, góp vào khung trời ký ức mang theo của người Việt hải ngoại về một thời thi ca nhạc hoạ lẫy lừng miền Nam, có Nguyễn Đình Toàn như người kể chuyện âm nhạc độc đáo Sài Gòn, qua sóng phát thanh. Nhà thơ Du Tử Lê từng gọi ông là một nghệ sĩ như người tình không chân dung của người yêu nhạc, vì người nghe mê say cách ông trình bày một ca khúc, diễn đạt một ý niệm, mô tả về hình ảnh như du vào mộng, mở cửa vào khu vườn bí mật của mỗi tối thứ Năm, chương trình nhạc chủ đề.

Vào giai đoạn đó, nhà văn Nguyễn Đình Toàn như một người dẫn chương trình độc đáo, nâng bước cho nhiều nghệ sĩ. Về sau, nhiều bài hát hay album của những ca sĩ từng được ông giới thiệu trên đài, vẫn hay chép lại những mô tả của ông để in trên bìa băng , bài nhạc như khẳng định uy tín. Chẳng hạn, Nguyễn Đình Toàn đã từng giới thiệu về Khánh Ly, mà về sau câu nói của ông luôn được dùng lại trong các giới thiệu: “Khánh Ly – người đàn bà hát những bài tình ca không hạnh phúc”.

Nói về nghề phát thanh viên, Nguyễn Đình Toàn đã mở ra một cách thức mới mẻ, bằng tiếng nói nhỏ nhẹ, giọng Bắc 1954 êm nhẹ như ru ngủ, cộng với văn tài của ông mà về sau gần như không có ai có thể thay thế. Nhiều người vào nghề sáng tác, ca hát đã bỗng chốc quen thuộc với khán giả. Trong một cuộc trò chuyện, có người đã ví ông tài năng như Oprah Winfrey. Nhưng xét cho cùng, Nguyễn Đình Toàn còn vượt qua ngưỡng ấy, vì ông không là show diễn, mà dùng tiếng nói của mình chải chuốt lòng người Việt trong những giai đoạn chiến tranh điêu tàn, vượt qua những giằng co khác biệt chính trị, mở ra một khung trời thơ mộng trong đêm tối, mang hy vọng cho ngày mai.

Những tác phẩm đã bị đốt sau 1975 của nhà văn Nguyễn Đình Toàn

Nhưng nói gì thì nói, Nguyễn Đình Toàn cũng không vượt qua được con mắt soi xét của chính quyền mới. Sau năm 1975, ông cùng với những bạn văn, bạn thơ, bạn nhạc… lần lượt đi vào trại giam vì bị coi là thành văn hoá đồi truỵ, những tên biệt kích văn hoá. Công an ập đến tổng cộng hai lần và đi tù cải tạo một thời gian gần sáu năm. “Họ dọn đi tất cả sách vở, tài liệu, huy chương, giải thưởng… nói là để nghiên cứu tội của tôi”, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nói, giọng nhỏ nhẹ như kể chuyện trong một tiết mục trên đài. Các tác phẩm của ông bị truy vết từng con chữ để lần ra chuyện, trong ý niệm của các điều tra viên. Sau cùng thì các tác phẩm của ông bị đốt làm gương, và một số được giữ lại trong Bảo tàng Tội ác Mỹ Nguỵ như chứng tích, trong một thời gian.

Một trong những kỷ vật bị lấy đi, mà ông nhớ tiếc trong nhiều năm, đó là chiếc kỷ niệm chương Giải thưởng Văn học Nghệ thuật 1972-1973, trao cho tác phẩm Áo Mơ Phai – tiểu thuyết nhiều kỳ đăng trên nhật báo Xây Dựng. Tác phẩm dày 300 trang, câu chuyện qua ánh mắt của một người Hà Nội về nơi chốn của mình. Cứ tưởng đó là một câu chuyện đời, mà đó lại là câu chuyện của một Hà Nội muôn thuở sắp mất, mất mãi mãi. Một người trẻ Hà Nội đọc tác phẩm này vào năm 2021, và để lại lời nhận xét “Mỗi tác phẩm đã viết ra như que diêm đã được đốt cháy. Nhân vật chính trong tác phẩm không phải là những nhân vật được nhắc tới trong sách mà chính là thành phố Hà Nội. Ai sống ở nơi này thường có cái cảm tưởng đang sống trong một giấc mơ, có lẽ là giấc mơ không bao giờ phai nhạt với sương mù cơn mưa sướt mướt hơi lạnh của mùa thu”.

Vào Nam, mang theo trong mình ký ức một thành phố yêu thương của mình, Nguyễn Đình Toàn dựng lại trong ngôn từ, dựng lại trong tiếc nhớ và dựng lại cho những người đọc về sau. Mà Không chỉ Áo Mơ Phai, trong nhiều tác phẩm khác của mình, ông đều dựng nên một không gian lạ lùng định danh Nguyễn Đình Toàn như vậy.

Nhắc về Giải Văn học Nghệ thuật, mà người ta còn gọi là tắt là giải thưởng Tổng thống Thiệu, tuyên ngôn của giải này được ghi rằng “Mục đích Giải chính là nhằm tuyên dương các nỗ lực chấn hưng văn hóa Việt Nam trong hoàn cảnh thế giới mới có những chuyển biến hết sức phức tạp, cũng là nêu cao chính nghĩa và khát vọng hòa bình, có nhiệm vụ quảng bá đặc sắc truyền thống nước Việt ra bằng hữu khắp năm châu”. Vì ý nghĩa này nên ngoài tấm kỷ niệm chương, người đoạt giải còn nhận được tiền thưởng là 600,000 đồng. Nhà văn Ngô Thế Vinh có nhắc là vào lúc ông Nguyễn Đình Toàn nhận được số tiền đó, nhà văn Nhật Tiến mua một xe hơi Renault 4CV, là xe được coi là ngon lành lúc đó, với giá có 400.000 đồng.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn kể, khi lục soát mọi thứ mang đi, viên công an mang ra tấm Kỷ Niệm Chương bằng đồng, lớn như miệng chén, trên đó có in nổi dòng chữ “Việt Nam Cộng Hòa – Tổng Thống”, hỏi cái này là cái gì. Ông giải thích đó là giải thưởng văn học. Không nói không rằng, viên công an đưa tấm Kỷ niệm chương vào hồ sơ tang vật.

Kỷ Niệm Chương và tác phẩm Áo Mơ Phai

Trải qua lần tù thứ hai, ông được về và phải trình diện với công an khu vực mỗi tuần, và không được viết cho đến lúc đi. Kỳ diệu thay, nhiều năm sau, một người Bắc rành rẽ chuyện văn chương thi hoạ miền Nam chợt nhận Kỷ Niệm Chương có khắc tên ông nằm ở hè bán hàng lạc-xoong. Mua lại với giá bằng hai chai bia, người này tìm cách gửi lại cho ông. Nghe đâu, những tang vật như vậy, sau năm 1995, người ta tìm thấy được bán rải rác ở các nơi bán đồ cũ, sưu tầm ở miền Bắc khá nhiều.

Đưa tấm Kỷ Niệm Chương cho chúng tôi xem, ông cười nói “Nó như định mệnh, mà đã là định mệnh dường như là ta dễ từ bỏ”. Lần cuối, tháng Năm 2023, đến thăm ông, lúc này ông đã yếu và quên nhiều nhưng vẫn giới thiệu lại chuyện Tấm Kỷ Niệm Chương.

Gọi con trai mình, anh Nguyễn Đình Thư, mang ra bộ sách cuối cùng của mình để ký cho chúng tôi, ông không còn giữ vững được cây bút, Chữ viết và chữ ký chồng lên nhau ngọn xanh như núi, nhìn không còn được chữ. Ký xong, nhìn lại, ông lại cười “Ừ thì đó là tôi, chữ loạng choạng như người rồi”.

Trò chuyện những giờ cuối với nhà văn Nguyễn Đình Toàn, hỏi ông nhớ gì Việt Nam. Ông thừ người chốc lát rồi nói “chỉ nhớ con đường làng”. Không biết được là ông nhớ con đường làng nào, rồi hỏi ông có buồn hay giận gì về những điều đã mất của mình ở Việt Nam không, ông lắc đầu cười nhẹ như đứa trẻ, không giận không buồn, người như đã chuẩn bị sẵn hành trang cho mình là một chuyến đi xa thật thảnh thơi.

Và rồi khi hay tin ông mất ở miền Nam Cali, mới chợt nhận ra rằng ông là người đã tạo ra khu vườn bí mật, cũ kỹ mà nao lòng, xa xôi mà rộng lớn vô cùng trong thời đại của chúng ta – những người miền Nam với mãi mãi văn hoá miền Nam. Nhưng hụt hẫng biết bao, là ông – cây cổ thụ to lớn, thâm sâu nhất trong khu vườn bí mật của ký ức của chúng ta, đã vẫy tay lìa bỏ địa đàng.