Seite auswählen

“bây giờ nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng cộng sản, luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là „ánh sáng“ (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ.”

 

Nguyễn Thông 

 

 

Nhà thơ Việt Phương nói: “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ biết lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ khăng khăng không thừa nhận cũng đành chịu, chả cãi họ được.

 

“Sự kiêu ngạo cộng sản” – Những chữ trên không phải do tôi nghĩ ra, cũng không phải do thế lực thù địch nào vu cáo, mà là chữ dùng của ông Phan Diễn. Ông Diễn người Quảng Nam, con cụ Phan Thanh – một nhân vật nổi tiếng thời Mặt trận Dân chủ 1936-1939. Ông Diễn từng là Ủy viên Bộ Chính trị, đóng đến chức Thường trực Ban Bí thư (tức nhân vật số 2 của đảng, chỉ sau Tổng bí thư). Họ hàng ông Diễn còn có những người là yếu nhân của chế độ, chẳng hạn ông Phan Bôi (tức Hoàng Hữu Nam), em ông Phan Thanh, ông Bôi là Thứ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền sau Cách mạng tháng 8, Chánh văn phòng chính phủ, người được cụ Hồ hết sức tin cậy; mẹ ông là bà Lê Thị Xuyến từng là Phó chủ tịch Trung ương Hội LHPN Việt Nam… Kể qua như vậy để nói rằng phát ngôn của ông Diễn không phải dạng ai đó nói vu vơ, nói lấy được, mà là rất có trọng lượng. Đó là nhận xét của người trong cuộc, „ở trong chăn…“ chứ không phải bị kích động, xúi giục, nhẹ dạ gì (làm sao mà kích động nổi những người như ông Diễn, nay ông vẫn còn sống và mạnh khỏe, sáng suốt, ai không tin thì cứ hỏi ông).

 

Trong bài trả lời báo điện tử VnExpress đăng ngày 17.12.2016, ông Diễn chắc thấm nhuần tư tưởng của Lenin, người thầy của cách mạng vô sản thế giới, đưa ra nhận định “Tôi cho rằng, chúng ta ít nhiều đã có sự chủ quan, có thể gọi là “kiêu ngạo cộng sản” sau chiến thắng 1975. Việc này có thể hiểu là xuất phát từ những điều tự hào về lý tưởng và thành công của mình trên con đường cách mạng, nhưng rồi đi quá đà đến xu hướng chủ quan”(trích nguyên văn). 

 

Cũng trong bài trả lời này, ông cựu nhân vật số 2 còn cho biết chi tiết rất đáng quan tâm đối với những người chép sử, ông bảo “Trước giải phóng, mỗi năm kinh tế miền Nam được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng xấp xỉ như thế” (trích nguyên văn). 

 

Nếu đúng như ông Diễn nói thì với 1 tỷ đô như vậy, ở miền Nam ngoài chi cho phương tiện chiến tranh, tiền viện trợ còn được biến thành nền kinh tế “phồn vinh giả tạo”, dân thực sự được nhờ, được sung túc, chứ 1 tỷ ở miền Bắc bị chuyển hóa hết thành vũ khí đạn dược để “giải phóng miền Nam”, nên dân chịu đói khổ thiếu thốn kéo dài suốt mấy chục năm.

 

Phải nói rằng, trong gầm trời này, từ thời thượng cổ đến nay, nếu nói về sự kiêu ngạo thì có thể nói rằng người cộng sản là số 1. Người đời vẫn nhắc với nhau một “tấm gương” điển hình về kiêu ngạo, đó là Quan Vũ (còn gọi là Quan Công, Quan Vân Trường) thời Tam quốc. Ông ta đứng đầu ngũ hổ tướng của Lưu Bị, tài giỏi, công lao khó ai bì, chỉ có điều kiêu ngạo quá lắm. Thiên hạ có thể khen ông nhiều điều, cho qua chuyện ông xem thường Mã Siêu (và cả Hoàng Trung, Triệu Vân nữa, những “đồng chí” của ông, tài giỏi chẳng kém ông, thậm chí còn hơn ông) nhưng chỉ với việc ông khước từ sự cầu hôn của nhà Ngô, họ muốn gả con trai vua Tôn Quyền lừng lẫy đất Giang Nam cho con gái ông để hai nhà liên kết, nhưng bằng thói kiêu ngạo ngấm trong máu, Quan Vũ thẳng thừng “con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho con loài chó à”, thì với chính thái độ đó ông đã phết chữ „tử“ vào sự nghiệp của mình cũng như sự tồn tại của nhà Thục. Thói kiêu ngạo đã giết chết ông ta và nhà nước của ông chứ không phải nguyên nhân gì khác, dù Lã Mông rất giỏi. Ở đây cũng phải kể thêm cái “tội” của Khổng Minh, đã biết không thể tin cậy Quan Vũ trong việc giữ Kinh Châu mà vẫn cứ giao, bởi mấy chữ khuyên “Đông hòa Tôn Quyền, bắc cự Tào Tháo” đối với một kẻ kiêu ngạo chả có ý nghĩa gì, chả là cái đinh gì. Về vụ dùng người này, Khổng Minh kém Tư Mã Ý xa.

 

Kiêu ngạo là gì? Kiêu là sự ngạo mạn, không chịu phục tùng. Kiêu ngạo là thái độ khoe khoang, ngạo mạn. Kẻ kiêu ngạo thường tự cho mình hơn người, thậm chí mình là nhất. Kiêu căng ngạo mạn, trên đời không ai bằng mình. Kiểu Chí Phèo, „anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta“. Từ đó dẫn đến coi thường người khác, coi thường tất cả. Việc gì mình làm cũng hay cũng đúng. Mình chả bao giờ sai. Luôn nhìn đời bằng nửa con mắt. Nếu có ai phê phán phản đối thì lấy làm khó chịu, nhẹ thì chê bai dè bỉu người ta, nặng thì dùng quyền lực tìm cách vùi dập. Trong mênh mông thế sự, kẻ kiêu ngạo luôn sống cô độc với vòng hào quang mà nó tự tô vẽ.

 

Nói cho công bằng, không phải ai cũng có thể sinh thói kiêu ngạo. Những hạng ngu đần, an phận, rụt rè, kém bản lĩnh, thiếu tài năng, tầm thường thì không thể là kẻ kiêu ngạo. Những người cả đời không lập công, không thành đạt thì lấy gì để kiêu ngạo. Phải có khí chất nhất định của kẻ anh hùng, phải hơn người mới có thể kiêu ngạo. 

 

*

 

Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản với cốt lõi là tư tưởng Marx – Lenin và học thuyết đấu tranh giai cấp được du nhập vào Việt Nam hồi nửa đầu thế kỷ 20, người cộng sản đã dần tìm được chỗ đứng trong đời sống chính trị bởi họ khá khôn ngoan. Họ biết lợi dụng và dựa vào dân nghèo, nhất là nông dân, lực lượng đông nhất ở một xứ thuộc địa. Những ông tổ của cộng sản, khi truyền bá học thuyết đấu tranh giai cấp đã khẳng định “ai nắm được công nông, người ấy sẽ chiến thắng”. Lý luận ấy từng chính xác ở nơi nào thì tôi chưa rõ lắm, nhưng xứ ta trước năm 1945 thì quả đúng như vậy.

 

Sau khi đã trở thành lực lượng chính trị quan trọng, người cộng sản VN từng bước giành thắng lợi. Đó là nghệ thuật biết thắng từng bước, dù họ thừa hiểu phải giá đắt bằng máu và nước mắt của dân. Dấu mốc lịch sử quan trọng vẻ vang nhất là họ khơi dậy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng, khơi mối căm thù giai cấp bóc lột, hô hào nhân dân đứng lên làm cuộc lật đổ nhà nước thực dân – phong kiến, cướp chính quyền (chữ “cướp” được người cộng sản trước kia hay dùng, sau có lẽ thấy chối quá mới âm thầm bỏ), thiết lập được bộ máy cầm quyền mới vào tháng 8.1945.

 

Theo dòng lịch sử, trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1945-1954), cuộc nội chiến Bắc-Nam để thống nhất đất nước (1954-1975), cuối cùng người cộng sản đã đoạt chiến thắng chung cuộc. Đánh ván cờ xương máu, họ đã thắng. Đó là thực tế lịch sử. Bao nhiêu đau thương mất mát, biết bao bi kịch ám vào số phận từng cá nhân, từng gia đình, từng vùng đất và cả đất nước này ròng rã mấy chục năm trời để có ngày toàn thắng. 

 

Tiếp theo nữa, gần nửa thế kỷ, suốt từ năm 1975 đến nay, người cộng sản hãnh diện mình đã có công trời biển thu non sông về một mối. Bộ máy tuyên truyền của họ hằng năm bắt mọi người phải nhớ ơn cái công lao được xây bằng núi xương, sông máu của hàng triệu con người. Sang năm, 2025, họ kỷ niệm 50 năm tròn cho sự kiện này. Non sông thu về một mối, nhưng lòng người, sự hòa giải hòa hợp thì không biết tới khi nào mới thành, nếu vẫn kiểu kỷ niệm „khắc sâu mối thù Mỹ Ngụy“ như vậy.

 

Trong chiến tranh, do cần lợi dụng sức dân, người cộng sản đã khéo léo tô vẽ được hình ảnh về chiến sĩ hết lòng vì nước vì dân, hy sinh quyền lợi cá nhân, bình dị gần gũi, chan hòa với quần chúng, không ngại gian khổ không sợ hy sinh… Họ đầy ham muốn, nhưng lúc cần che giấu vẫn biết khôn khéo lui xuống vị trí cần thiết để tạo nên hình ảnh có lợi trong mắt dân. Có lẽ chính vì thế mà trong cộng đồng dân tộc những năm đầy ác liệt, người cộng sản được số đông dân chúng tin cậy, giao phó sứ mệnh chèo lái mà ít mảy may nghi ngờ, lăn tăn. 

Đội ngũ văn nghệ sĩ “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nghệ thuật” hoặc với tấm lòng ngây thơ, hoặc có dụng ý, ăn cây nào rào cây ấy, đã thỏa sức làm thơ, kẻ nhạc, dựng kịch, đóng phim, viết tiểu thuyết… ca ngợi người cộng sản, nâng họ thành “tên quân cảm tử đi tiên phong”, “như cánh chim trời không biết mỏi, mỗi bước đi biết mấy yêu thương”.

 

Những hình tượng, hình ảnh đẹp nhất, có sức lôi cuốn nhất ở trên đời được ví, được gắn với người cộng sản. Đó là vầng thái dương, đuốc soi đường, nguồn ánh sáng, đỉnh cao chói lọi, người cầm lái vững vàng, ngọn cờ bách chiến bách thắng, chiến sĩ tiên phong…, tất cả được báo chí, đài phát thanh, cán bộ tuyên huấn hằng ngày ra rả phong tặng cho người cộng sản. Nói một cách khách quan, công bằng, không phải toàn bộ cộng sản ở xứ này, không phải tất cả mọi thành viên (đảng viên) của tổ chức chính trị đòi độc quyền lãnh đạo xứ này đều xứng đáng đeo những tấm huân huy chương bốc trời ấy, nhưng thực sự trong đội ngũ họ có những người như vậy, chỉ có điều rất ít, rất hiếm hoi.

 

Đừng quá đòi hỏi cao ở người cộng sản. Thực ra họ cũng là người chứ không phải thánh nhân siêu nhân, dù có lúc họ là đấng bậc. Người đứng đầu của họ, cụ Hồ, từng dạy họ phải có đủ cả tài đức, „có tài mà không có đức là người vô dụng/có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó“. Người ta đang ca ngợi một nhân vật với những chi tiết đức độ, nhưng nếu cứ theo „chuẩn“ của cụ Hồ thì người ấy không chỉ „làm việc gì cũng khó“ mà còn gây ra biết bao tai hại. Vậy mà đám đông được bộ máy đương thời giáo dục rèn luyện vẫn cứ ca ngợi lên mây. Ông bạn tôi bảo, giả sử Tố Hữu – siêu chuyên gia ca ngợi có sống lại cũng phải chắp tay tôn hậu sinh làm sư phụ, bậc thầy.

 

Một trong những sai lầm và định kiến khó chữa nhất của người cộng sản là họ luôn cho mình đúng. Họ xem cộng đồng xã hội như một cơ thể, mà họ là bộ óc. Óc chi phối tất cả, điều khiển mọi hành vi. So với tim gan phèo phổi mắt mũi chân tay thì chỉ óc mới là lý trí. Có sai cũng vẫn lý trí hơn tim gan phèo phổi. Độc quyền nghĩ, độc quyền đúng; Không chịu lắng nghe; Ít phục thiện, ít sửa chữa. Từ đó phát sinh ra những hệ lụy khủng khiếp. Khi sự kiêu ngạo đã thấm vào từng tế bào thì „mục hạ vô nhân“, chả có gì lọt vào mắt họ, ngoài chính họ.

 

Sinh thời, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, người nổi tiếng với câu nói „Ấy, cái xứ ta nó thế“, đã viết rằng, những nhà cai trị của chế độ này cần đọc Luận ngữ của Khổng tử. Đừng vội cho rằng tư tưởng, lý luận của ông Tàu hủ nho đó thì đọc làm gì. Bài Trung chống Tàu (cộng) không có nghĩa là sổ toẹt hết. Cái nào đúng, đã được thử thách giá trị qua thời gian thì chả tội gì phải bỏ. Thiển nghĩ rằng, thứ cần bỏ ngay bây giờ không phải những lời răn của Khổng tử hoặc Hàn Phi tử mà chính là học thuyết Marx – Lenin, nhất là sự xúi giục đấu tranh giai cấp và lý luận về một chủ nghĩa xã hội không tưởng của mấy ông này, và đừng kiên định đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội nữa, bởi chúng đã quá lỗi thời. Lỗi thời từ khi mới ra đời.

 

Trở lại cuốn sách nho nói trên. Trong sách đó có thuyết „Tử tứ tuyệt“ gồm: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. Đáng chú ý, “vô ý” có nghĩa là trong bất kỳ xã hội hoặc thể chế nào, không được dành đặc quyền cho ý kiến quan điểm nào cả, đừng tuyệt đối hóa nó, bởi nếu như thế sẽ khiến ta (nhất là người cầm quyền) không nhìn thấy những ý khác, điều khác có thể còn đúng, còn hay hơn ý của ta, kể cả những ý kiến trái chiều, đối lập. Chỉ một cái “vô” đó thôi, chúng ta đã thấy người xưa tiến bộ như thế nào, cách nay cả hơn hai nghìn năm.

 

Vậy mà bây giờ nhà cai trị nước này, xã hội này, nhất là đảng (cộng sản), luôn cho mình đúng, là đỉnh cao chói lọi. Mỗi nghị quyết của họ đều được họ hãnh diện gọi là „ánh sáng“ (dưới ánh sáng nghị quyết của đảng), có nghĩa sánh ngang với mặt trời. Họ độc quyền, độc tôn chân lý, chỉ riêng mình là đúng. Vênh váo thế nên họ xem thường tất cả mọi ý kiến quan điểm trái chiều, khác suy nghĩ, không chấp nhận những ai nói ngược họ. Ai nghĩ khác họ, họ quy là thế lực thù dịch, gắn mác „tự suy thoái“, „tự diễn biến“, tìm cách loại bỏ. Khi còn quyền lực trong tay thì họ trấn áp, đe dọa, vùi dập, nhưng liệu trong dòng chảy cuộc sống đang biến đổi tích cực từng ngày từng giờ thì liệu có dậm dọa được mãi không?

 

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng „chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại“, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới “theo chim én về”, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.

 

Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều cho là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn phò cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng. 

 

Trước hết, có thể thấy rõ thói kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày ta luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. 

 

Đi đâu người ta cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lê Nin bách chiến bách thắng vô địch muôn năm; Đảng Lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ Lao động bằng chữ Cộng sản); Đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng; Chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta; Tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững; Tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… 

 

Hồi gần nửa thế kỷ trước, tôi đi xe lửa qua Nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau năm 1991, nó mất đi lúc nào không biết. 

 

Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc còn bị sứt mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược, thích duy ý chí, biết sai vẫn cứ làm, chứ không phải do u mê lú lẫn mà làm.

 

Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Những Lenin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả Phật, cả Chúa. Không cho ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa nhơ nhỡ ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh… tới dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày mất cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm, tượng đài nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là Thánh chứ không phải người. 

 

Cả dân tộc đâu phải chỉ „đói nghèo trong rơm rạ“ mà còn khổ sở bởi sự hoang tưởng, kiêu ngạo, tôn sùng cá nhân của họ. Khi đã cố tình coi cá nhân như Trời như Thánh thì họ lờ đi tất cả những điều tầm thường, xấu xa, tội lỗi; chỉ khai thác, lần mò, đào bới, ca tụng những siêu việt của cá nhân, thậm chí còn bịa ra cho siêu nhân được hoàn chỉnh hoàn hảo để lừa đám quần chúng ngây thơ cả tin. Cộng sản nơi đâu cũng vậy, từ trước tới nay, nên mới có những Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành… tỏa hào quang chói lọi.

 

Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm (1954-1975), người cộng sản giành phần thắng nên càng sinh kiêu ngạo. Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. 

 

Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự thật (nhà xuất bản riêng của Đảng), xuất bản tháng 8.1975.

 

Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng, kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.

 

Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế nếu ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, nghèo bền vững, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay“, “dân chủ đến thế là cùng”…

 

 Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì đang tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì lãnh đạo xã hội.

 

Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, khiến họ rất khó coi, trở thành lố lăng, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố: “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”; hay như nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan: “dân chủ của ta hơn gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.

 

Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương, “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, nay chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ mong muốn họ biết lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này. Còn họ khăng khăng không thừa nhận cũng đành chịu, chả cãi họ được.

 

Nguyễn Thông 

 

Nguồn: FB Nguyễn Thông