Mục lục
VIỆT NAM – 2 năm vụ công an tấn công xã Đồng Tâm
Đồng Tâm: “Sự thật” đã được chế biến như thế
Y Chan
10-1-2022
Danh sách dài những sự kiện bị bôi tẩy có thêm cái tên Đồng Tâm.
Hòn đá rơi xuống hồ, mặt nước sẽ gợn sóng. Hòn đá càng to, sóng càng lan xa. Đó là hiện tượng tự nhiên mà một đứa trẻ cũng biết.
Những sự kiện xã hội cũng vận hành theo quy luật tương tự. Sự kiện càng chấn động, dư âm của nó càng kéo dài.
Cuộc tấn công Đồng Tâm vào những ngày đầu năm 2020 là một sự kiện chấn động như vậy.
Theo lẽ thường, nó sẽ còn được nhắc đến rất nhiều lần, đặc biệt trong những dịp kỷ niệm.
Nhưng đó là lẽ thường, một thứ xa xỉ trong xã hội Việt Nam đương đại.
Vào những ngày đánh dấu tròn hai năm sự kiện Đồng Tâm, người dân không tài nào tìm thấy bất kỳ thông tin gì về nó trên hàng trăm tờ báo nhà nước.
Một sự kiện “khủng bố”, như cách chính quyền gọi tên, bỗng dưng mất tích một cách khó hiểu. [1]
Một vụ án có tới 29 người dân bị truy tố, trong đó hai người bị kết án tử hình, bỗng nhiên không còn được báo đài trong nước nhắc tới. [2]
“Ba chiến sĩ công an hi sinh trong khi làm nhiệm vụ” với những chiếc huân chương chiến công hạng nhất được ký tặng siêu tốc, chỉ một ngày sau khi cuộc tấn công diễn ra, giờ đây cũng biến mất khỏi ký ức của dư luận. [3]
Những người ủng hộ nhiệt thành câu chuyện được biến tấu nhiều lần của chính quyền liệu có bao giờ tự hỏi vì sao một sự kiện rúng động như vậy lại nhanh chóng rơi vào quên lãng? [4]
Vì sao chính quyền đến giờ này vẫn ra điều kiện, buộc gia đình ông Lê Đình Kình phải chấp nhận ông chết ngoài cánh đồng Sênh thay cho sự thật là ông bị bắn chết tại nhà? [5]
Vì sao người anh hùng bắn chết “kẻ khủng bố”/ ông già tật nguyền gần 90 tuổi Lê Đình Kình đến nay vẫn không dám xuất đầu lộ diện trước công chúng để kể về chiến công hiển hách của mình?
Vì sao khi các phiên tòa xét xử đã kết thúc từ lâu, số tiền phúng điếu hơn nửa tỷ đồng của người dân gửi cho gia đình ông Kình vẫn bị ngân hàng Vietcombank phong tỏa mà không có bất kỳ lời giải thích nào? [6] Nếu đó là tiền của “khủng bố” như Bộ Công an tuyên bố lúc đầu, vì sao họ không dám công khai đường hoàng xử lý theo luật? [7]
Quá nhiều câu hỏi vì sao đều dẫn về một câu trả lời: chính quyền đã nói dối.
Phiên bản lịch sử (đã bị chỉnh sửa nhiều lần) mà họ dựng nên về Đồng Tâm là một phiên bản dối trá.
Nếu ví cuộc đời như chiếc thuyền, sự thật là dòng nước, thì mỗi lời nói dối giống như việc tự đục thủng thuyền. Càng nói dối, thuyền càng nhiều lỗ thủng, và người trên thuyền càng phải ra sức bịt các lỗ thủng đó.
Chính quyền lựa chọn cách im lặng để không phải tiếp tục bỏ công sức ra bịt thêm những lỗ thủng/ lời dối trá mới.
Bằng cách đó, họ hy vọng dư luận sẽ nhanh chóng quên đi. Và sau này khi có nhớ lại, dư âm sẽ chỉ còn là những phiên bản lịch sử đã bị cải biên của họ.
“Sự thật” được xuất bản theo những cách thức như thế.
Đó hoàn toàn không phải là điều mới mẻ gì.
Đây là công thức xuất hiện trong mọi sự kiện xung đột lớn nhỏ của chính quyền với người dân. Những vụ cưỡng chế đất đai như tại Dương Nội, Thủ Thiêm hay Vườn Rau Lộc Hưng; các phiên tòa bỏ túi xét xử những người bất đồng chính kiến; những chiến dịch thanh trừng kiểu Cải cách Ruộng đất trước kia; và thông tin về các cuộc chiến tranh trong những thập niên qua – tất cả đều bị nhào nặn dưới bàn tay của chính quyền với mong muốn tạo ra một thế hệ mất trí (nhớ). [8]
Đồng Tâm không chỉ là một cái tên thêm vào danh sách dài dằng dặc những sự kiện lịch sử bị bôi tẩy.
Đồng Tâm, cùng với mỗi một sự kiện đó, là một chiếc kính chiếu yêu.
Để mỗi khi nhắc đến nó, yêu quái đều phải hiện hình.
Còn với những ai nhìn vào câu chuyện của người dân Đồng Tâm mà chỉ thấy hình ảnh quái vật, họ nên xem kỹ lại. [9]
Thứ họ đang thấy là gương mặt mộc trần trụi của chính mình.
_____
*Chú thích:
1. V. (2020, January 20). “Quốc tế hóa” vụ việc Đồng Tâm – một âm mưu gian trá, vô lương tâm. https://www.qdnd.vn. Retrieved 2022, from https://web.archive.org/web/20220109215435/https://www.qdnd.vn/phong-chong-dien-bien-hoa-binh/quoc-te-hoa-vu-viec-dong-tam-mot-am-muu-gian-tra-vo-luong-tam-608274
2. Yên Khắc Chính. (2021, March 8). Tổng hợp các thông tin cần biết về vụ án Đồng Tâm. Luật Khoa Tạp Chí. Retrieved 2022, from https://www.luatkhoa.org/2021/03/tong-hop-cac-thong-tin-can-biet-ve-vu-an-dong-tam
3. Báo Tuổi Trẻ. (2020, January 11). Truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất cho 3 chiến sĩ hi sinh tại Đồng Tâm. TUOI TRE ONLINE. Retrieved 2022, from https://web.archive.org/web/20200111080401/https://tuoitre.vn/truy-tang-huan-chuong-chien-cong-hang-nhat-cho-3-chien-si-hi-sinh-tai-dong-tam-20200111131749048.htm
4. Team, L. K. (2020, September 25). “Báo cáo Đồng Tâm”: Bạch hóa và lưu trữ. Luật Khoa Tạp Chí. Retrieved 2022, from https://www.luatkhoa.org/2020/09/bao-cao-dong-tam-bach-hoa-va-luu-tru
5. May. (2022, January 8). Đồng Tâm sau hai năm: Công an vẫn chưa cấp giấy chứng tử cho ông Lê Đình Kình. Luật Khoa Tạp Chí. Retrieved 2022, from https://www.luatkhoa.org/2022/01/dong-tam-sau-hai-nam-cong-an-van-chua-cap-giay-chung-tu-cho-ong-le-dinh-kinh
6. Xem [5]
7. Báo Pháp Luật. (2020a, January 17). Tài khoản “phúng điếu” ông Kình bị phong tỏa? PLO. Retrieved 2022, from https://web.archive.org/web/20200117154633/https://plo.vn/thoi-su/tai-khoan-phung-dieu-ong-kinh-bi-phong-toa-884449.html
8. Y Chan. (2021, March 14). Gạc Ma: Lời nhắc nhở về chứng mất trí (nhớ) tập thể. Luật Khoa Tạp Chí. Retrieved 2022, from https://www.luatkhoa.org/2021/03/gac-ma-loi-nhac-nho-ve-chung-mat-tri-nho-tap-the
9. May. (2022a, January 8). Ba người phụ nữ Đồng Tâm và 730 ngày phải sống. Luật Khoa Tạp Chí. Retrieved 2022, from https://www.luatkhoa.org/2022/01/ba-nguoi-phu-nu-dong-tam-va-730-ngay-phai-song
“Báo cáo Đồng Tâm để lưu lại tội ác của Chính quyền Cộng sản và để vận động quốc tế cho cuộc điều tra độc lập”
2020.09.29
Báo cáo Đồng Tâm, được thực hiện bởi nữ nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang và Will Nguyễn, một người Mỹ gốc Việt, từng bị Chính quyền Việt Nam bắt giữ trong đợt người dân trong nước biểu tình chống hai Dự luật Đặc khu và An ninh mạng hồi tháng 6/2018.
Nhà báo Phạm Đoan Trang dành cho RFA một cuộc phỏng vấn ngắn về ấn bản thứ 3 của “Báo cáo Đồng Tâm”. Trước hết, cô Phạm Đoan Trang cho biết về mục đích công bố ấn bản thứ 3 của Báo cáo Đồng Tâm, sau phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án Đồng Tâm kết thúc.
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Mục đích của Will Nguyễn và tôi khi làm báo cáo này là chúng tôi tin rằng Chính quyền Cộng sản, hay các nhà nước độc tài nói chung, thì họ luôn luôn ghét văn bản. Chúng tôi hay nói đùa rằng “Nhà Sản sợ văn bản”. Tức là, cái gì được ghi lại thì họ ghét và sợ. Bởi vì, họ quen với mọi thứ bằng miệng, chỉ đạo miệng hay bằng tin nhắn, lệnh miệng…mà không phải bằng văn bản để dễ chối tội sau này. Đặc biệt họ rất ghét những hành động sai trái của họ, thậm chí là những tội ác của họ bị ghi chép lại. Ghi lại mà dù chưa bao giờ được công bố thì họ cũng ghét và sợ.
Chính vì thế mà chúng tôi muốn làm báo cáo này. Mục đích đầu tiên là có tác dụng lưu trữ. Họ càng không muốn bị ghi lại (vụ án Đồng Tâm) thì chúng tôi ghi nó lại. Và, ghi lại bằng một ngôn ngữ phổ biến là tiếng Anh để cho người đọc trên thế giới biết đến vụ án. Đồng thời, báo cáo cũng được ghi lại bằng tiếng Việt để cho người Việt Nam đọc. Mục đích báo cáo bằng song ngữ là vậy.
Thứ hai nữa, chúng tôi rất mong đây có thể trở thành một bộ hồ sơ, một công cụ để những người có thể có năng lực và có quan tâm thì có thể đi vận động quốc tế cho vấn đề Đồng Tâm để giúp đỡ cho bà con Đồng Tâm; ít nhất là họ tránh được án tử hình và chấm dứt việc họ bị khủng bố, đe dọa triền miên như thế này.
Chúng tôi rất mong đây có thể trở thành một bộ hồ sơ, một công cụ để những người có thể có năng lực và có quan tâm thì có thể đi vận động quốc tế cho vấn đề Đồng Tâm để giúp đỡ cho bà con Đồng Tâm; ít nhất là họ tránh được án tử hình và chấm dứt việc họ bị khủng bố, đe dọa triền miên như thế này.
Chúng tôi rất muốn quốc tế có thể lên tiếng đề nghị để Nhà nước Việt Nam đồng ý cho phía quốc tế mở một cuộc điều tra độc lập về vụ án Đồng Tâm. Tôi biết trên thế giới có những tổ chức có thể làm những chuyện đó một cách độc lập. Thật sự, tôi nghĩ vấn đề Đồng Tâm cũng chẳng cần để chuyên gia quốc tế điều tra độc lập. Bởi vì, những sai phạm của công an đã quá rõ ràng trong quá trình tố tụng. Cho nên, thậm chí họ chỉ cần cho phép điều tra độc lập ở trong nước thôi thì cũng tìm ra được sự thật rồi. Hồi ngày 13/1, Tạp chí Luật Khoa đã gửi một bản câu hỏi đến Bộ trưởng Công an Tô Lâm. Tôi nghĩ rằng Bộ trưởng Tô Lâm hay Bộ Công an mà trả lời trung thực một trong những câu hỏi đấy thì cũng đầy thông tin. Nghĩa là đối với điều tra độc lập, tôi nghĩ về mặt chuyên môn hay kỹ thuật thì không khó và không cần đến quốc tế. Thế nhưng, chắc chắn khi quốc tế đề nghị thì may ra Nhà nước Việt Nam còn cân nhắc, chứ trong nước thì người dân không thể nào đối thoại với nhà cầm quyền cả.
RFA: Trong nội dung của bản báo cáo có những câu hỏi và câu trả lời. Vì sao lại chọn hình thức báo cáo như vậy ?
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Như vừa mới nói là chúng tôi muốn báo cáo được lưu trữ lại và có thể tiếp cận đông đảo độc giả. Chúng tôi cũng muốn báo cáo được viết một cách đảm bảo nguyên tắc khoa học, tức là phải chính xác dựa vào sự thật, bằng chứng…nhưng phải được viết bằng cách dễ hiểu, ai đọc cũng hiểu. Tức là, những người không hiểu biết gì về pháp luật, không cần có hiểu biết gì về lịch sử tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm, không cần quan tâm đến quy trình là nhà nước đã đền bù chưa…mà chỉ cần đọc báo cáo này thì có thể hiểu toàn bộ vụ án đấy. Bằng nhận thức thông thường là có thể hiểu toàn bộ bản chất vấn đề vụ án Đồng Tâm.
RFA: Chúng tôi thấy có một điểm nhấn mạnh trong báo cáo mà dường như truyền thông cũng không được biết nhiều. Nhờ chị Đoan Trang cho biết thêm chi tiết, qua báo cáo, khi vụ việc Đồng Tâm xảy ra vào đêm rạng sáng ngày 9/1/2020 thì có những thông tin nào được tiết lộ để cho biết rằng đây là một kế hoạch quy mô của Bộ Công an và Chính quyền Việt Nam tấn công Đồng Tâm?
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Theo như trong báo cáo, chúng tôi cũng đã vạch ra một điểm cho thấy rằng là không hề có chuyện công an đi đến bảo vệ việc xây dựng hàng rào Miếu Môn, rồi sau đó bị người dân từ trong làng kéo ra tấn công và công an tấn công ngược lại, truy sát và tiêu diệt các đối tượng, đồng thời vô hiệu hóa cuộc tấn công của bà con trong làng Đồng Tâm. Không có chuyện đó, mà tất cả là kế hoạch gọi là tác chiến đã được công an chuẩn bị từ lâu và họ chuẩn bị trên cả phương diện quân sự, vũ khí, số lượng quân lẫn phương tiện truyền thông.
Tôi nghĩ ít nhất đã có một cuộc diễn tập từ trước. Vào ngày 2/1, một người dân ở làng Đồng Tâm đã quay được một video clip diễn tập của công an giống y như buổi tấn công vào làng Đồng Tâm. Người quay clip đã gửi clip đó cho người dân làng Đồng Tâm. Sau đó, anh này cũng đã bị bắt. Trong cáo trạng có nêu chuyện đó. Clip này đã được gửi từ ngày 2/1, có nghĩa là công an đã tập dượt từ trước. Ngoài ra, còn rất nhiều các điểm khác cho thấy đã có sự chuẩn bị trước đó. Ví dụ như trên phương diện truyền thông chẳng hạn, họ đã hạn chế nội dung của một số facebooker nổi tiếng như Bùi Văn Thuận bị báo cáo hạn chế nội dung vào đúng ngày 8/1, trước khi xảy ra tấn công một ngày. Những facebooker khác thường hay nhận những lời kêu cứu từ dân làng Đồng Tâm như Phan Văn Bách, ở Hà Nội hay Bùi Thị Minh Hằng, ở Vũng Tàu cũng đều bị khóa facebook ngay trước giờ họ tấn công. Thật ra từ lúc buổi tối thì không khí đã rất căng thẳng, đã có rất nhiều tín hiệu SOS từ trong làng Đồng Tâm báo ra và tiếp theo là các trang web của làng Đồng Tâm đều bị đánh sập. Và, từ 3 giờ sáng đã có một làn sóng dư luận viên trên mạng chửi bới bà con Đồng Tâm rồi. Nếu không phải dư luận viên hay những người có nhiệm vụ thì chẳng ai thức từ 3 giờ sáng cả. Tức là đã có sự chuẩn bị từ trước rất kỹ càng.
RFA: Qua diễn tiến tại phiên tòa sơ thẩm, báo cáo nhấn mạnh những điểm nào để cho thấy phiên tòa này là không hợp pháp?
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Ngay từ đầu phiên tòa này đã không hợp pháp vì đã không đảm bảo quyền được xét xử công bằng (right to fair trial) của các bị cáo. Bởi do tất cả các lời khai mà phía công an có được nhờ vào ép cung và tra tấn. Chỉ vì điều đó thì đã khiến cho những lời khai trở thành vô giá trị rồi. Thế nhưng chúng ta cũng thấy rằng họ vẫn tiến hành phiên tòa, thậm chí là đây là phiên tòa độc nhất vô nhị trong lịch sử (tư pháp) của thế giới vì phiên tòa kết tội dựa vào phim tài liệu.
Ngay từ đầu phiên tòa, họ đã cho chiếu một phóng sự tài liệu. Không biết đơn vị sản xuất phóng sự tài liệu đó là đơn vị nào, nhưng nó có đủ cắt ghép, dàn dựng, biên tập, lồng cả âm thành và nhạc vào để mô tả lại buổi tấn công-trận đánh của các chiến sĩ công an tối hôm đó. Có cả những nhân vật không rõ mặt ném cái gì đó cháy sáng từ trên xuống. Sau đó nửa cuối phóng sự, mô tả bi kịch của 3 gia đình chiến sĩ bị sát hại với nước mắt của vợ con họ…Đại khái đó là một phóng sự tài liệu và chẳng có tòa án nào trên thế giới dựa vào phóng sự tài liệu được biên tập cẩn thận như thế để kết tội người ta.
Về luật sư, cứ hễ luật sư muốn biện hộ cho bị cáo thì người ta cho chiếu ngay một cái clip nhận tội của bị cáo. Bị cáo nào cũng có clip nhận tội hết. Và họ nhận tội trong bộ dạng mặt mày bị sưng húp hay hình hài biến dạng bị teo tóp, gầy sọp. Nói chung nhìn qua là biết tất cả bị tra tấn.
Ngoài ra còn một điểm nữa chúng tôi nhấn mạnh trong báo cáo là công an vi phạm tố tụng ngay từ đầu, cụ thể đã vi phạm Điều 49 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tức là, khi công an là một bên gây án, tấn công vào làng, gây ra cái chết cho cụ Lê Đình Kình và công an cũng là bên điều tra.
Chúng ta không thể nào có được kết quả điều tra chính xác vì kẻ gây án lại chính là kẻ phá án, thì làm sao độc lập được? Biên bản được công an lập thật là nực cười, tức là người nổ súng bắn chết cụ Kình thì được gọi là “bị hại” và người đó là cảnh sát hình sự của Công an Hà Nội. Nói chung, tôi không thể hiểu nỗi tại sao lại trắng trợn và trơ trẽn đến như vậy?
RFA: Trong bản báo cáo, chúng tôi cũng thấy tại khoản X liệt kê một số điều cho thấy Chính quyền Việt Nam đang vi phạm nhân quyền qua vụ án Đồng Tâm và phiên tòa xét xử vụ án này. Chị Đoan Trang có thể nêu lên một cách chi tiết về các điều minh chứng vi phạm nhân quyền đó?
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Vụ án này là một điển hình rất rõ ràng vi phạm những chuẩn mực tố tụng, vi phạm quyền xét xử công bằng cũng như vi phạm rất nhiều quyền khác, nhân quyền căn bản từ những việc bao gồm đánh đập, tra tấn, ép cung, biệt giam cho đến việc gọi là sử dụng truyền thông để tấn công và bôi nhọ các bị cáo, định hướng dư luận ngay từ đầu. Một trong những cơ quan tham gia tố tụng gồm cả điều tra và xét xử, thậm chí là bên gây án và dấu hiệu bất công đã quá rõ ngay trong phiên tòa. Như là luật sư của bào chữa cho các bị cáo, họ tranh tụng kiểu gì thì tòa án cũng không quan tâm, không trả lời, phớt lờ đi. Họ cứ đưa các clip nhận tội ra để làm bằng chứng rằng đã nhận tội rồi thì còn gì để nói nữa.
Còn phía luật sư của “bị hại”, tức là luật sư của 3 cảnh sát được cho là đã chết trong vụ Đồng Tâm thì nói gì cũng được tòa đồng ý, hưởng ứng và ủng hộ.
Do đó, không chỉ vi phạm những điều về nhân quyền căn bản mà còn vi phạm một cách gọi là trơ trẽn, không màng che đậy. Và đến ngày 10/9 là ngày đỉnh điểm, khi công an và an ninh mặc thường phục có hành động sách nhiễu và tấn công luật sư. Họ đẩy luật sư từ trên cầu thang xuống đất.
Nếu phân tích thêm thì còn nhiều vi phạm lắm. Nhưng trong báo cáo thì chúng tôi chỉ nêu được một số vi phạm căn bản đối với luật pháp Việt Nam cũng như đối với luật pháp quốc tế.
RFA: Dưới góc độ của một nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, chị Đoan Trang nhìn nhận qua vụ việc Đồng Tâm và phiên tòa Đồng Tâm diễn ra cho thấy điều gì tại đất nước Việt Nam? Và, nếu vụ án Đồng Tâm trong những ngày sắp tới không được xét xử một cách nghiêm minh thì kết quả sẽ thế nào?
Nhà báo Phạm Đoan Trang: Vụ án Đồng Tâm, tôi nghĩ đó là một vụ án cực kỳ nghiêm trọng nhưng không phải theo nghĩa nghiêm trọng của nhà cầm quyền nói.
Nhà cầm quyền gọi đó là “vụ giết người và gây rối trật tự công cộng” ở thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Tức là, nhắm vào việc buộc tội những người nông dân đã giết người và gây rối trật tự công cộng.
Tôi thì cho là vụ án nghiêm trọng theo một cách khác. Vụ án này nghiêm trọng vì vụ án có đầy đủ dấu hiệu của việc giết người, cướp của. Ở đây, tài sản của gia đình cụ Lê Đình Kình bị cướp, đặc biệt trong đó có giấy tờ liên quan quá trình tranh chấp đất đai giữa người dân Đồng Tâm với nhà nước. Toàn bộ bằng chứng giấy tờ đó đều bị lấy sạch. Thậm chí, TV và tủ lạnh ở nhà cụ Kình cũng bị công an khuân đi. Tôi cho rằng đây là một vụ án giết người, cướp của và diệt khẩu.
Không phải ngẫu nhiên mà họ cố tình ngay lập tức biệt giam những người ở làng Đồng Tâm. Tất cả 29 người Đồng Tâm bị bắt thì lập tức họ bị biệt giam ngay từ đầu. Họ không được tiếp xúc với bất kỳ ai. Tức là trong quá trình thẩm vấn, họ bị biệt lập, bị tra tấn và đặc biệt không ai trong số họ được biết những người còn lại ra sao. Họ chỉ có thể nhìn thấy mặt nhau tại phiên tòa. Đương nhiên là họ không được gặp gia đình. Luật sư cũng chỉ được gặp họ trong thời gian cực kỳ ngắn trước khi phiên tòa diễn ra. Thật sự thì luật sư không thể nào làm được gì cả. Đấy cũng là điều vi phạm tố tụng vì luật sư không được tạo điều kiện để làm việc liên quan vụ án.
Còn tác động lâu dài từ vụ án Đồng Tâm đến tình hình chính trị ở Việt Nam từ nay trở đi, tôi nghĩ rằng vụ án Đồng Tâm có một tác hại rất lớn đối với Đảng Cộng sản cầm quyền. Tức là, đối với họ thì có tác dụng tốt ở điểm vì thật sự đã gây ra một sự sợ hãi. Tôi tin rằng toàn bộ làng Đồng Tâm từ giờ phút diễn ra cuộc tấn công cho đến giờ là bà con sống trong sợ hãi, bà con bị đe dọa và khủng bố triền miên, bà con bị chia rẽ, phân hóa…Và những người sống sót được, tôi nghĩ họ bị sang chấn tâm lý và không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ từ bây giờ cho đến cuối đời.
Với những người không phải là dân làng Đồng Tâm, dân chúng trong cộng đồng và toàn xã hội nói chung thì rõ ràng vụ án này cũng đã gây ra một nỗi khiếp sợ, ngay cả giới hoạt động nhân quyền, tôi nghĩ rằng họ cũng sợ. Bởi vì không ai có thể tưởng tượng được một nhà nước giết dân.
Tác dụng của vụ án Đồng Tâm đối với nhà cầm quyền đúng là đã gây ra sự sợ hãi thật. Nhưng tôi nghĩ rằng sau vụ này thì lòng tin của một bộ phận khá đông dân chúng vào Đảng cầm quyền và vào luật pháp của Việt Nam bị sụt giảm đáng kể. Bởi vì, người dân thấy rằng bao giờ kẻ mạnh cũng thắng và chính quyền luôn thắng. Bất cần lý lẽ, chính quyền cứ mang súng và mang còng đến là xong. Cho nên, họ không tin vào Đảng và không tin vào luật pháp nữa. Chẳng có luật nào xử người dân cả. Chẳng có tòa án nào công minh để cho họ dựa vào. Hay chẳng có luật sư nào có thể tranh tụng cho họ. Tóm lại, lòng tin của một bộ phận khá đông trong dân chúng, đặc biệt là các đảng viên bị giảm sút. Đó là thiệt hại đối với Đảng CSVN cầm quyền.
RFA: Cảm ơn chị Phạm Đoan Trang dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này với Đài Á Châu Tự Do.
Báo cáo Đồng Tâm (PDF)
Bài thơ Đồng Tâm
Nguyễn Đức Tùng
11 Tháng Một, 2022
1.
Trời mưa suốt ngày ở Đồng Tâm
Khi chúng tôi đưa ông về với đất
Về với cánh đồng, một người nông dân nói
Sau này nhớ lại, không biết mưa hay nước mắt
Khi lắng nghe bản nhạc cầu hồn
Chúng ta nghe ngàn bước chân dồn dập
Hay tiếng thì thầm
Tiếng đập cửa nửa đêm
Như ngày chiến tranh xưa
Khi những ngả đường chưa giăng bẫy
Chúng ta đến đây sau mưa nhìn đồng Sênh chảy máu
Cho anh nắm tay em
Vị nồng chát mùa xuân nung nấu đất trời
Trong hạt thóc rơi
Trong khói đốt cỏ lác bay mờ ngoài đồng
Trong tiếng kèn xung trận
Tiếng vĩ cầm, cello thánh thót
Làng quê bị vây hãm
Bản nhạc buồn réo rắt năm xưa
Một ngàn người chết qua một đêm
Trong tuyết
Vì súng đạn, vì dịch hạch, vì cúm, vì đói khát
Người ta chỉ đếm những con số giới hạn
Không phải lòng yêu nước
Chỉ đếm những cái tên
Không phải máu, nước mắt
Chỉ đếm những phát súng
Bắn vào tim, vào đầu
Biết chắc nạn nhân sẽ chết
Không tính những phát súng bắn vào chân vào tay vào đầu gối
Những báng súng vào vai vào háng vào ngực
Cuộc chiến tranh với nông dân: không bắt tù binh
Đây là thời gian
Tất cả sẽ bắt đầu
Chúng đánh vào dân tộc những đòn đau nhất
Vào mùa dịch Vũ Hán lấp ló chân trời
Khi thế giới hoảng loạn
Đánh vào tim, đánh vào ngày Tết
Vào ngày giỗ chạp, tiết thanh minh
Vào cô Kiều đi xem lễ hội
Vào ngày rằm trăng sáng mênh mông
Đánh vào dĩ vãng chiến tranh buồn thương, dĩ vãng ngọt ngào
Trên bãi bồi, chim chào mào, tu hú
Đánh vào mùa lúa mùa khoai mùa bắp
Vào người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời
Đánh tan tác tình nghĩa cha ông
Sau chiến tranh, chúng ta lại có hoà bình
Sau những năm mất mùa, chúng ta lại được mùa
Anh mất em, anh lại trở về
Tình yêu bén lửa
Trong mùi phù sa sông Hồng
Nơi anh chưa từng đi qua một lần
Mà đã nhớ
2.
Trời mưa suốt ngày ở Đồng Tâm
Khi chúng tôi đưa ông về với đất
Về với cánh đồng, một người nông dân nói
Không biết mưa hay nước mắt
Trên mặt những đứa trẻ lấm bụi đứng hàng dài
Khi chiếc quan tài đi qua
Mặt chúng khô như mặt ruộng nứt nẻ
Nhiều ngày không mưa
Trên mặt những người trẻ tuổi cúi gập người đưa tiễn
Chân trần, móng chân bết bùn đen ruộng lúa
Trên mặt người đàn bà ngẩng đầu lên
Nhìn trời mây đen vần vũ, lo âu, không sợ hãi
Chờ một người đến cứu
Một người chắc chắn sẽ đến
Ngày mai
Từ bên kia cánh đồng
Sau cơn mưa, gió thổi ngoài đê vắng
Mùi lúa, mùi nhựa cây, mùi phân trâu
Mùi xác chết thối rữa
Mặt trăng lên cao nhìn xuống khổ đau
Của dân tộc, muốn biết vì sao
Mời bạn đến đây
Tám ngàn khuôn mặt héo gầy sau tám ngàn cánh cửa
Chờ đợi, bàng hoàng, hoảng sợ
Câu hỏi trên mặt người cúi xuống
Nước mắt nhỏ trên đường quê lặng lẽ
Bụi bay mờ lòng thù hận
Mọi thứ nay đã dần yên tĩnh
Người bị đóng đinh trên thập giá
Vẫn chưa về
Cơn dông bão đã qua
Lũy tre thức giấc
Tiếng đập cửa
Lựu đạn cay
Thuốc mê
Khói xông vào nhà
Tất cả đã tắt
Mùi khét lẹt bay trong vạt áo
Những tên chỉ điểm xông xáo nhất
Cũng đã trở về nhà
Ngày mai trời sẽ mưa trở lại
Con đường vào làng bụi bay trắng xóa
In nghiêng bóng núi
Xa xa dòng sông chảy qua
Một con mèo vào mùa động dục
Kêu réo, nhảy ba bước xuống tường qua rào gai kẽm sắc
Như trong cơn mộng dữ
Khi chúng nổ súng bắn vào ngực cụ Lê Đình Kình
Ba giờ sáng, trước bình minh
Bắn vào trái tim Việt Nam
Ruộng đồng Việt Nam chảy máu
Máu không chảy ngoài đường
Anh đừng mời nhân loại đến xem
Chúng tôi làm gì sang trọng thế
Như trong thơ Pablo Neruda
Đọc ra rả trên quảng trường
Trong các liên hoan thơ Á Mỹ Âu này nọ
Không có đâu
Máu chảy khi chúng tôi cầu nguyện
Trong góc nhà
Nơi người mẹ cho con bú
Nơi người già đang ngủ
Máu chảy trên giường
3.
Ngày đoàn viên hồng hào như mái ngói
Nỡ nào anh lại ra đi
Anh đứng bên kia cánh đồng xanh
Từ Hà Nội nhìn về hướng ấy
Về Đồng Tâm, Mỹ Đức
Cách Hà nội ba mươi lăm cây số Tây Nam
Chúng ta thử xem trong mười lăm giây cái gì hiện ra
Đây là những thông tin ai cũng biết
Nếu muốn biết
Hơn chín ngàn người
Hai ngàn rưỡi nóc nhà
Thôn Đồng Mít, thôn Hoành, mười bốn xóm
Nhưng nhiều người không biết
Bây giờ, ở đây
Anh và em ở đây
Hoa trái vào mùa
Bầy ong đi làm mật
Anh tập đánh vần câu nói của em
Gió bấc, mưa rào, rì rào thóc giống
Bờ ao dâu bèo chuồn chuồn bay lên đậu xuống
Nơi ngày xưa công chúa đến rửa mặt
Vua Trần tuốt gươm
Ngày quân Pháp bắn vào làng hàng cau cháy xém
Tuổi thơ yên ngủ
Hai cuộc chiến tranh, ba cuộc chiến tranh
Những đúng và sai lẫn lộn
Những giả và thật lẫn lộn
Sông lặng thầm tiếng chảy
Núi Tam đảo đứng thừ người suy nghĩ trong mây
Không tìm ra chân lý
Chân lý là tiếng vạc kêu sương
Xác tôm cá phơi đầy mặt đất
Trên bãi biển chiều
Người vượt biển ra đi mang theo mùi cá
Mang theo quả vải đầu mùa, đỏ như huyết cầu
Nghĩ ngợi chẳng ăn thua, hối hận chẳng nhằm nhò
Cãi nhau dở cười dở khóc
Anh em bữa ăn bỏ đũa đập bàn
Nội chiến: những người chết oan
Lại chết thêm lần nữa
Dân tộc ném vào lửa chiến tranh
Những năm cuối cùng đại học
Những sinh viên sĩ quan chưa ra trường
Mỗi ngày một đại đội qua sông
Nhiều người không biết bơi
Trên chiếu bạc Thượng hải kẻ chơi xì phé đánh ván bài cuối cùng
Chúng ta chưa kịp trở tay
Thì chúng đến
Tội ác đến
Giữa những vì sao rạo rực
Anh chưa kịp hôn em
Thì chúng đến
Màn cửa hồng đào đã kịp mở ra đâu
Ong chưa kịp bay giữa nhành dâu tím biếc
Người nông dân chưa kịp rửa chân, lên giường, ngủ thiếp, mí mắt
Còn rung trong giấc mơ
Người vợ mới cưới hãy còn e lệ
Đi qua trước mặt mẹ chồng
Chưa có giờ trang điểm phòng the
Sau đám mây trăng vừa lu vừa tỏ
Sao Thần nông lấp ló đợi chờ
Thì chúng đến
Chúng ở cách chúng ta một cánh đồng
Bên kia thành phố
Mà ở cách ta ngàn dặm
Ở cách ta ngàn năm lịch sử
Chúng sinh ra từ nhân dân
Nhưng không phải là nhân dân
Trong những ngày chúng ta yêu nhau tha thiết
Hồn nhiên cười nói rỡ ràng
Chúng âm thầm nằm im trong bụi rậm
Không phải bụi rậm, mà trong những tòa nhà cao sang
Gái non chuốc rượu, thi sĩ chầu hầu đọc thơ, bàn mưu tính kế
Trước ao sen mùa hạ
Đặt nhân dân vào hỏa điểm
Ngắm như ngắm quân thù
Mà bắn
Chỉ mười hai giờ nữa đạn sẽ xuyên qua đây
Bức tường này
Gặm hết da thịt
Nuốt hết hương hoa
Giật lấy những giọt lệ riêng tây
Của anh và em
Chúng ta non dại
Không nhìn thấy vết thương bầm tím bầu trời
Trí thức bạc đầu còn ngủ mê như trẻ
Người nông dân ngàn năm hiền lành
Niềm tin yêu ngờ nghệch
Nằm trên mộ người chết như con chó nhỏ
Trên ngọn đồi
Mùa dâu vàng rực rỡ
Không biết rằng chúng sẽ đến nữa
Sau khi bị đánh cho tan tác
Nỗi thù hận đắng ngắt
Chảy bừng bừng trong máu huyết
Khi ta nhìn đời toàn thấy những cành tơ
Chúng chỉ thích mùi khói bay khét lẹt
Em ơi ngày mới đến
Chồi xanh lại ra hoa
Chúng ta bằng lòng mà không mấy khi tự hỏi
Tổ quốc thu về một mối là đâu
Ngôi làng nhỏ, một cánh đồng
Ven bờ phất phơ lau trắng
Tiếng trẻ học bài
Sắc hoa đào im lặng trong mưa bay
Hoa gạo cuối trời
Bến đò đưa em đi học
Những chàng trai cười trong nắng sớm
Ma trơi bay ngoài nghĩa địa
Con nai cuối cùng lững thững bước qua sương mù
Sẽ bị đốn hạ ngày mai
Quê hương trở mình nhức nhối
Chúng tàn phá, tàn phá, tàn phá mãi
Những kẻ quen thói hung hăng
Bắt đầu biết sợ
Thanh gươm của chúng ta không phải là gươm
Chỉ là lời nói thật
Đã đóng hồ sơ ngăn nắp gói kỹ càng trong giấy báo, bọc ni lông
Để trong két sắt
Để yên lòng thế hệ mai sau
Tài sản cha ông, cháu con giữ lấy
Từ đêm tối đến bình minh
Hết tháng chạp trời rét căm căm đến tháng năm mùa sen trẩy hội
Tổ quốc gọi thì đi
Đâu biết cái gì là tổ quốc
Thời đại những kẻ lừa đảo đi đầy đường
Đại bác của lòng tham gầm vang trong biệt thự
Trong tiếng thì thào
Bên gối
Chúng ta nói quá nhiều về biển đảo, núi sông, rừng vàng biển bạc
Nói quá nhiều về tình yêu bảng đen phấn trắng
Về thánh Gióng, vua Hùng
Riết rồi thành bọn nói dối như nhau
Thờ cúng chính mình
Thấy hương hoa chân dung trên bàn thờ mà tưởng thật
Đi lầm đường trật lất cứ tưởng sắp về nhà
Xin lỗi em, nhà ở đâu
Con đường đầy cỏ lau, sim dại, ngọn đèn khêu mãi
Không hết đêm
Giương mắt buồn nhìn nhau sao không chịu ngắm chân trời
Nơi bầy sói đã về rồi
Hú rộn trong đêm, bụi tung mù trời, mờ hướng sao rơi
Chúng lùng sục khắp nơi
Tìm tiền, tìm của
Phật trên chùa cũng bán
Chúa cũng khiêng đi
Sá gì một cánh đồng một khoanh đất mà mong
Những thế hệ máu đổ dài bước chân Nam tiến
Lũ lụt, người chết
Đê vỡ, mất mùa
Trong những đám tang
Lòng tham vẫn không chểnh mảng
Thức dậy đúng giờ, sớm hơn thượng đế
4.
Anh đi giữa mùa hoa xoan
Hỏi hội chèo làng Đặng
Em cười hỏi anh ở đâu về
Mà đi tìm quê Nguyễn Bính
Một dân tộc bị cái đói hành hạ
Nay lại bị đồng tiền hành hạ
Một dân tộc bị lời nguyền rủa của đồng tiền
Cướp đất, cướp biển, cướp làng
Thân tàn ma dại
Hãy nhớ
Những người mắc trong kẹt cửa
Những người nổ tung lên trời
Những người nằm suốt ngày trong hang tối
Chờ đợi mặt trời không đến
Hãy nhớ những giấc mơ của họ
Những phép lạ chỉ có trong thời tiền sử
Chúng dệt mãi lòng thù hận trong bóng tối khi chúng ta đã quên
Như dòng sông chứa đầy xác chết chảy quanh co trong rừng
Cướp đất và trả thù
Trả thù và cướp đất
Cái nào quan trọng hơn
Em đừng hỏi quá nhiều
Không có câu trả lời
Trong nắng chiều tà giới trí thức tinh hoa tàn tạ
Trong những dạ hội thâu đêm suốt sáng cốc thủy tinh vỡ liên hồi
Linh cửu một người già đi qua
Người bị đóng đinh trên thập giá
Dưới bầu trời ảm đạm
Ông có trở thành bất tử không
Đến khi chết vẫn không ngờ được
Người giết mình là ai
Dưới các tầng trời sao thiên thần bay đi đâu
Trong quả thị vàng bà tiên xưa đã chết
Em vặn ngọn đèn thấp xuống
Thì thầm thức thâu đêm
Máu của đêm chảy ra từ cánh cửa nhà tù
Nơi chúng tra tấn những người sống sót
Con cháu của làng Hoành
Của cánh đồng Sênh
Tát vào mặt người đàn bà
Tra tấn đòn roi người chết
Sau lưng, sau ót, bắn vỡ đầu gối
Máu chảy trên các sườn đồi
Tiếng cười man rợ của mặt trời buổi sáng
Máu chảy trong tiếng rú gào của bầy sói
Máu chảy trên cán cuốc
Trên những vết đạn ghim đầy tường
Trên nỗi buồn của chúng ta, anh và em
Máu chảy trong tim những người xa tổ quốc
Dân tộc bàng hoàng tỉnh giấc
Máu chảy từ mặt trăng cuối lũy tre làng
Máu chảy trên thềm nhà, trên ghế xô pha, trên cầu thang gác
Mùi xăng khét lẹt, máu chảy trên màn vô tuyến truyền hình
Trên ngực đứa trẻ sơ sinh ba tháng tuổi
Trên môi người góa phụ Dư Thị Thành
Trên mái tôn
Trong lòng giếng trời
Của những người làm kiếp thiêu thân oan ức chết
Máu dẫn chúng ta qua ngõ hẹp
Đi qua lũy tre xanh
Đi qua thời gian
Đi qua những hạt lúa chín vàng
Sợi dây điện vứt lại bên hàng rào
Kíp nổ, lựu đạn, tàn thuốc lá, ly cà phê uống dở, tách trà tan vỡ, giọt máu đọng trên tấm mạng nhện
Trên đuôi con chó nhỏ sợ hãi nằm yên sau cửa, máu chảy trên sữa trẻ con
Trên linh hồn người tỉnh thức
Trên tuổi trẻ chúng ta buồn bã
5.
Không tội ác nào sinh ra trong một ngày
Chúng đã sinh ra từ hôm ấy
Từ những lỗi lầm đầu tiên
Từ ngã rẽ bất ngờ dại dột
Không tội ác nào là bất ngờ
Chúng đã đến đây nhiều lần
Buổi sáng buổi chiều buổi trưa
Giữa vợ và chồng, chúng nằm xuống
Giữa những vần thơ
Tội ác bám vào chúng ta như đĩa trên chân người bộ hành
Chúng hút máu chúng ta và thay máu khác
Từ trong mùi thơm của biển tội ác lớn lên
Từ trong ánh điện đầu tiên ngày hòa bình tội ác lớn lên
Từ trong nỗi sợ hãi mà chúng ta gieo cho nhau tội ác lớn lên
Chúng đi cày ruộng lấm láp
Chúng đi xe hơi Audi bóng loáng
Chúng ngồi bên xị rượu đế
Chúng ngồi bên cốc rượu vang sang trọng, Chivas 18, Chivas 25
Chúng choàng khăn phula đỏ
Trong những bài xã luận dối trá
Trong vần thơ ba xạo
Trong tiếng đàn ghi ta dạo quán hớt tóc
Trong mũ mão vua quan
Trong áo đại cán
Trong tà áo lụa học trò bay phấp phới còn trinh
Qua trường Đồng Khánh cũ
Trường Trưng Vương Hà Nội
Marie Curie
Trường Bưởi
Tội ác sinh ra nơi không ngờ được
Giữa miệng nói cười
Trong bữa tiệc sang trọng
Bên nồi canh rau mác
Làng quê
Từ kẻ nô lệ đến bọn đè đầu cưỡi cổ
Tội ác sinh ra mà chúng ta không biết
Chúng chỉ đòi một thứ, đòi mải miết, đòi quyết liệt
Dần dà, tương cà, muối mắm
Xe hơi, nhà lầu, thiệp cưới, phong bì
Tiếng thì thầm bên rào tường vi, cái bắt tay lạnh lẽo
Cái ôm hôn nồng ấm, lau vội rồi đi
Chúng đòi một thứ: sự thỏa hiệp
Và ngụy biện, ngụy biện, ngụy biện.
Tôi ác bắt người trí thức phải thuộc bài
Không những thuộc bài, anh còn trở nên sáng tạo
Còn nghĩ ra thêm nhiều trò cho chúng
Như Ba người khác của Tô Hoài
Đã chết rồi vẫn còn sợ hãi
Khi chúng giẫm bàn chân kiêu ngạo lên ngực đồng bào
Anh ta nghĩ đó là hoa sen đất Phật
Khi chúng vặt lông những con chim cuối cùng
Anh ta nghĩ đó là phép chữa bệnh
Khi chúng phá nát cánh đồng, chặt những cành cây sai quả
Anh ta nghĩ đến những lâu đài rực rỡ
Mà những lâu đài quả thực cũng mọc lên
Phấp phới ngọn cờ thiêng
Vẽ hình đồng tiền ở giữa
Quả thực đó là những ngôi nhà sang cả
Người ở một đêm ba trăm đô, năm trăm đô, một ngàn
Làm anh quên mất thuở anh trèo dừa chạy chơi bên bờ sông
Thuở trời xanh tha thiết
Làm anh quên mất cứ tưởng muốn làm giàu thì phải giết
Muốn hạnh phúc thì phải chà đạp lên người khác
Muốn khôn ngoan phải biết chạy thoát quê nghèo
Không phải đi tìm vị thuốc cứu người
Mà đi tìm vị thuốc trường sinh cho chính mình
Hay cho vợ con mình
Hay cho con bồ nhí
Lông nhiều
Đêm ngày thỏ thẻ: ôi anh yêu
Vì nó
Anh sẵn sàng bịt mắt
Mà không có nó
Anh cũng bịt mắt bịt tai
Quê hương la đà những tổ chim, chúng hót cho ai?
Gió nồm, gió chướng, gió lào, gió bấc
Hoa tím luống khoai, mặt đất cày phơi ải
Dàn bầu xưa của mẹ
Mùi hoa lý đêm đêm
Em về
Những thèm khát thời mới lớn
Đồng quê thanh bình
Đã chết theo viên đạn đầu tiên bắn vào trái tim
Của một người đàn nông dân tám mươi ba tuổi
Vô tội, hiền lành, chất phác
Một phát đạn trúng tim các bạn
Thưa các bạn
Những đứa trẻ chạy chơi chang chang nắng ngoài đồng
Những người già sắp xuống lỗ
Những người ngọn đèn thầm vặn nhỏ
Ở Paris
Những người vì đâu xa đất nước
Người thắng cuộc, người thua
Chúng bắn một người hôm qua
Khi mới hết canh ba, đầu canh tư
Chúng bắn bằng đạn gì không ai biết
Mặt đầu mờ sương mù
Chúng bắn bằng súng gì không ai biết
Chúng mổ bụng lấy đi
Những tang chứng cuối cùng
Không phải tang chứng về cái chết
Mà tang chứng về sự sống
Về sự hồi sinh rực rỡ
6.
Cuối cùng, sau tất cả mọi chuyện, điều còn lại trong căn nhà
Là những vết đạn, bức chân dung một cụ già
Nụ cười hiền từ, chòm râu trắng xóa, bức ảnh ngày đám cưới
Người vợ trẻ hơn hai mươi tuổi, điều cuối cùng
Sau tất cả mọi chuyện là cái giếng trời, không sâu lắm
Đủ giết ba người, ngọn lửa bí mật, thây cháy thành than
Một giáo sư toán
Về thăm, đo đi tính lại, vẫn không giải thích được, máu và nước mắt
Mọi thứ bắt đầu ra sao, những kẻ nào đứng trong bóng tối
Nửa đêm tấn công người vô tội, oán hận ngất trời
Năm 2020 mở đầu, ngay trước tết, dùng cái chết
Bắt người nông dân cúi đầu, dùng khổ đau
Dẫn đường dân tộc, một trăm năm trước
Con đường bắt đầu từ Saint Petersburg
Hay từ năm mươi năm trước, cuộc cách mạng văn hóa
Dân tộc ngã vào hố thẳm. Càng đi càng lạc đường
Một dân tộc đầy lòng yêu thương đã trở nên thù hận
Hung hãn, sau tất cả mọi chuyện, mưa bắt đầu rơi
Xuống cánh đồng, máu đã lau xong, đất rơi vào tay chúng
Đất vàng đất bạc
Kẻ độc ác thoát khỏi tòa án dư luận
Căm hận lắng xuống, đọng lại như trầm tích
Thèm mồi lửa, chờ ngày bốc cháy
Anh tập ngủ một mình với đêm
Tập nhìn sao trời đổi ngôi
Để nhận ra em
Sự hào nhoáng phục kích chúng ta
Giai cấp thượng lưu mà chúng ta xua đuổi phục kích chúng ta
Phép hùng biện điêu ngoa phục kích chúng ta
Không phải chúng mà hồn ma của chúng
Gái đẹp phục kích chúng ta
Anh làm sao biết lá bàng
Rơi vào nhà hàng xóm
Tâm hồn trống rỗng còn chỗ không
Cho ngày về
Có gì đâu mà đợi
Nhớ nhau lời hẹn chín rưỡi lần đơn sai
Nỗi buồn dài dằng dặc lũy tre
Người nông dân bơ vơ gốc rạ
Lang thang không nhà
Bị gậy phương xa
Con gái làm điếm nước ngoài
Con trai buôn lậu Đông Âu
Câu quan họ gầy như cánh vạc
Thắt lưng hoa đào ngơ ngác chốn thị thành
Ban mai rạn nứt
Đồng ruộng vắt kiệt mình nuôi những đứa con
Tình yêu chỏng chơ ngày về
Con thuyền không người, sắp cập bến
Bóng ma đầu ngọn cây
Bị giết giữa khuya không thể về nhà
Muối trộn vào cơm rắc phong long đầy đường
Chúng vẫn canh chừng như ăn trộm
Trong bụi sả, bụi dâu, chúng nằm suốt đêm
Mặc mưa tầm tã, nắng chang chang
Ngậm sâm Tàu mà chống lại nhân dân
Ăn hạt lúa trời mà rạch trời rạch đất
Tìm vàng bạc
Những đam mê lú lẫn váng vất ngả đường
Anh về Hà Nội, chẳng thấy mùi hương
Của sen hồng mới nở
Chiếc mo cơm ngày đói khát
Chúng giấu biệt đi đâu sau bức tường
Những người đàn bà gò lưng gánh hoa về chợ
Vành nón kéo sụp xuống giấc mơ tan vỡ
Nắm lạc nắm vừng mẹ gói cho con
Ngày ra ga
Hoa bưởi rụng trắng trời xa thương nhớ
Anh về đây nhìn người dân Thăng Long im lặng
Dân tộc võ vàng
Bầy chó con bên hồ Tây ngỡ ngàng đi tìm mẹ
Mẹ chúng đã chết
Nằm trên bàn tiệc
Họng súng bốc khói
Cha lang thang khắp cánh đồng
Trên mảnh đất có máu xương những tiền nhân mở nước
Người với người nhìn nhau vô cảm
Cơn mưa rơi nhẹ trước hiên nhà
Sao không rơi vào song sắt xà lim
Tắm mát cho người tù tội
Người tù vô tội nhớ cánh đồng xa xôi
Nhớ trời sao lấp lánh, tiếng hát nghẹn ngào trong ngực
7.
Tôi hỏi anh
Tưởng tượng một người đàn bà cần phải làm gì
Khi chị bị lột hết quần áo
Bị lôi vào bụi rậm
Họ phải làm gì
Khi một gã đàn ông sực mùi rượu
Cúi xuống trên ngực họ
Họ phải làm gì
Khi xong việc gã lăn ra ngáy khò khò
Lưỡi gươm tuốt trần rơi bên cạnh
Uất hận
Người đàn bà phải làm gì nếu không cầm lên
Đâm vào ngực lút cán
Dù mang tội sát nhân
Kìa người phụ nữ đang đứng trước tòa
Tòa án chính chúng ta lập ra
Chiếc khăn voan trên mặt đã tháo rồi
Nhưng em không nhìn thấy anh
Dân tộc mất đi những đứa con đẹp nhất
Đường phố mất đi quán cà phê thơ mộng nhất
Bọn chúng cần gì kỷ niệm?
Không còn chiếc lá nào lành đùm bọc cho nhau
Tội ác gạt nhân dân về hai phía
Ngẫu nhiên như cái gạt nước
Trên mặt kính xe hơi, một bên là bụi, bên kia lá vàng ly biệt
Bạn chọn bên nào?
Một ngày chúng ta qua sông
Không ai chết
Những người lính bị pháo dập
Vẫn sống sót
Cùng với củi rều
Nhưng chiếc nhẫn đánh rơi
Không tài nào nhặt được
Anh yêu xứ sở này như anh yêu em
Ăn chén cơm nguội cuối cùng
Ngồi nhìn trăng mọc
Trong vườn một đóa hoa côi cút
Càng chết càng lớn lên
Ngoài trời ba cây hương cháy rực
Sao anh không về
Nhân gian càng sống càng bé lại
Nhà càng to càng chật chội
Chim phượng hoàng bay qua biển Đông
Không có nơi mà đậu
Hoàng Sa đã mất
Khi chúng ta còn tất bật đánh nhau
Anh tưởng ngày ngây dại đã qua
Tưởng vẫn còn Trường Sa ư?
Khi bạn thưởng thức pháo hoa trên sông Sài gòn
Thì chúng tới ngoài khơi
Những kẻ không muốn hòa bình
Chỉ muốn cướp giật
Không muốn cởi trói hận thù dân tộc
Chỉ muốn buộc chặt
Đạo lý đại đoàn kết sao không dùng
Luật nhân quả nhà Phật không dùng
Đang ngồi xử nhân dân
Mùa cướp đất bắt đầu
Mùa hoa ban nở trắng đồi Tây Bắc
Không làm trái tim chúng thắt lại
Câu quan họ cất lên
Có thể làm em rơi nước mắt
Chúng ta nghèo lắm
Một cành hoa cũng nhặt lên
Một câu hò bay qua giơ tay mà nắm lại
Thế mà chúng cần gì đẳng cấp
Cần gì phẩm chất
Có biết ghê sợ là gì
Trên cành mai bỡ ngỡ chúng treo chiếc quần lót
Trên cành đào e ấp chúng treo thanh gươm
Trên ngôi mộ tổ ngày xưa không ai vào đấy
Chúng hò hẹn nhau suốt ngày
Rậm rịch
Mùa lúa chín thơm đòng làm chúng ngứa ngáy
Đất bùn, cỏ dại, chúng căm ghét
Tháng ngày thương nhớ hóa thành xi măng
Kỷ niệm tang tóc phải biến mất
Cuộc đời phải là một trò vui
Mọi thứ là một trò chơi
Ngày nào cũng là ngày tết
Không phải ngày tết của dân tộc
Ngày tết của chúng
Mỗi phong bao lì xì cho khách qua đường một triệu
8.
Xin lỗi em, sự giận dữ này
Trời mùa xuân rây mưa nhỏ lệ
Chúng ta đứng bên này sông
Bên kia là cánh đồng
Anh nhìn không chớp mắt
Lũy tre xanh, tàu lá chuối non
Bình minh ló dạng
Người chết có trở lại không
Em hỏi
Người lão nông có sống lại không
Quê hương như tình ái
Người dân có cần vĩ đại bao giờ
Tiếng trẻ con học bài không làm anh khuây được
Mái tóc em dài không làm anh khuây được
Người già, nắm đất
Cái chết đau đớn, ngất trời
Oan khiên giặc dã
Giấc ngủ lấm tấm sao rơi
Anh vòng tay, cúi đầu
Có thể thanh bình đang trở lại
Có thể chúng ta không trả lời mà chỉ hỏi
Em ơi đừng cười anh khóc nhiều thế
Trước cái chết của một người xa lạ
Như một đứa bé phải nhảy vào lửa
Anh thèm sự sống
Thèm chiếc vòng đeo tay màu xanh thiên lý của em
Mẹ mua ở Châu đốc Long xuyên
Không gian tĩnh lặng trong rừng
Sông Hồng cuồn cuộn
Thèm được nghe em hỏi: anh muốn làm gì em?
Hơn là đứng ở đây chờ đêm xuống
Đêm đã xuống trên đất nước chúng ta
Trăng lên vàng vọt
Lá vàng từ biệt giữa mùa xuân, tiễn người ra đi, người ở lại
Em đưa anh về ngày thơ dại
Cho anh được khóc, được cười
Một đêm nay nữa
Ngày mai anh đi xa cánh đồng sương khói
Bầu trời rưng giọt lệ
Ngày tháng nhớ thương đã đến kia rồi
Người con trai miền Nam ra thăm Kinh Bắc
Tháng Giêng
Lần đầu tiên
Cho anh cầm lấy tay em
Được em tặng một giải thắt lưng vàng
Buộc đời mình vào trăng sáng
Buộc anh vào cái chết
Vào sự sống
Chúng ta bỏ lại một dòng sông
Bỏ lại cánh đồng Sênh
Bỏ lại một người già đã chết
Tim đập liên hồi như trống trận
Không nhìn thấy gì
Không nghe thấy gì
Mùa xuân im phắc
Chúng ta ra đi
Mang theo nỗi buồn hôm nay
Mang theo đàn trẻ thơ hôm nay
Mang theo tình yêu hôm nay
Rồi sẽ có một ngày chúng ta trở lại
Em yêu, em đừng sợ hãi
Thuốc độc đã rưới vào gốc cây
Hãy để mưa làm sạch lại
Mưa cần có thời gian
Như người đàn bà cần có thời gian để xinh đẹp
Ngọn lửa cần thời gian để dập tắt
Trái tim cần thời gian tập hợp
Em đi cùng anh, kết cỏ ngậm vành
Hát bài ca tình yêu đất nước
Tập ăn cơm trưa ngoài đồng như người cày cuốc
Tập khóc như trăng
Tập đứng trên một chân
Nhớ thương người anh đã khuất
Ngày mai cơn gió lành sẽ về thổi mát ngày giỗ chạp
Vượt qua đêm tan nát
Vượt qua ngày đê vỡ, lũ sông Hồng, mùa đạo lý mất trắng không
Chúng ta sẽ về
Đi trong lòng Hà Nội
Ngồi trước thềm Văn miếu
Đi trên phố Tràng tiền
Nghe lại một lần bản nhạc cầu hồn của Igor Stravinski
Bầy chim ngói bay đi mà anh không hiểu
Ngồi giữa cánh đồng
Ngực thơm mùi mồ hôi của cha
Tóc thơm mùi hương cau của mẹ
Những người yêu nhau không thể nào không đứng lại mà hôn nhau dưới trời mưa
Nước mưa hay là nước mắt
Nước mắt ngày càng khó khăn
Để chảy
Sống mà không cần niềm tin yêu
Hay bất cứ một điều gì anh có thể bám lấy
Một chiếc thuyền buộc vào thân cây
Nhờ một chiếc dây bập bềnh trên sóng
Ngày càng có nhiều những chọn lựa
Áo quần lụa là gấm vóc
Người già cần săn sóc con trẻ cần học hành
Nhà cửa cần sửa sang
Bạn đánh mất mình trong hơi nóng của mùa hè, trong gió bấc
Trong hoang mang những ngày chạy loạn
Đói khát, không phải bây giờ, bây giờ bạn đã quá giàu sang, quá tiện nghi, mà trong giấc mơ
Bạn cần gì, chúng trở lại, gào rú trên những bãi tha ma
Gọi bạn trèo qua cửa sổ nửa đêm
Đi tìm một bóng ma áo trắng, không phải
Con ma mà bạn đã giết
Bằng đạn tiểu liên, bằng hơi cay, thuốc nổ, độc dược, chiến tranh yêu nước, lý tưởng giả vờ, kẻ ngây thơ bị đẩy từ lầu cao
Mà giấc mơ của bạn, sao bơ vơ không về
Thế giới là ngôi nhà đóng kín cửa
Anh càng sống càng hiểu
Về dòng sông về cánh đồng
Chúng ngày một lớn lên trong trí nhớ của anh
Ngày một đen đúa, u sầu, xanh xao buồn bã
Đàn chó sói đêm đêm về canh cửa, cho anh ngủ
Bốn mươi lăm năm đã trôi qua
Kể từ ngày chúng ta có hòa bình
Hoa lê trắng rụng biết bao lần
Trên những đồi cỏ xanh
Bây giờ mùa xuân đôi khi một nửa
Của anh còn ở lại
Một nửa đã ra đi mãi
Thành câu chuyện của đất trời
Trong cơn sốt, mùi mồ hôi, mùi lá sả, lá hành, ngải cứu
Bay lên từ nồi xông hơi của mẹ
Cái chết hóa trang như tuổi trẻ
Xông vào các tình yêu, giữa hai trái tim, cướp lấy ngọn đèn
Trên căn gác nhỏ, mà đêm đêm
Một người đang đi trên đường quay nhìn lại
Thời hôm nay, những người yêu nhau vẫn còn sợ hãi
Càng yêu nhau càng sợ hãi
Khuôn mặt Thượng Đế lùi dần
Tiếng vỗ của một bàn tay
Trên gác chuông ngày nọ
Vang lừng sóng nước hồ Tây
Khi anh sinh ra mùi mít mật đã thơm lừng
Chim cu bay từng đôi
Con diều bay lững thững trên trời
Anh sinh ra sông Hồng đã cuốn đi người đàn bà trên nước lũ
Để lại người chồng và bầy trẻ nhỏ chiều chiều trên đê Yên Phụ
Chúng ta còn bao nhiêu mùa xuân
Mà để mất dần
Trên sông Hương cầu Tràng Tiền gãy nhịp chiến tranh
Em ơi gà gáy sớm
Mà bức thư tình anh chưa kịp kết
Nắm cơm cho cụ Lê Đình Kình ướt nhẹp ngoài đồng
Ước gì chúng ta lại được về thăm
Ngủ một đêm với những người nông dân
Ngồi bên đống lửa
Nghe kể chuyện, uống tách trà thơm, cho anh vuốt tóc em
Tóc em vẫn còn xanh
Ngày chúng ta trở lại
Miễn là ước mơ đừng lặng quá
Máu đã khô
Dù vết thương chưa lành
Tay anh viền quanh miệng chén
Nghe âm thanh như sóng biển như gió núi vi vu trong lòng tay
Âm nhạc của tình yêu dạo ấy
Lá thư ố vàng đọc lại trong đêm, giữa chừng dừng lại
Em đứng lên, đời sống dễ dàng hơn, trăng sáng hơn
Người rửa chân bên giếng nước
Người ngủ mê thức dậy giữa chừng
Tình yêu đa mang đi qua hàng chè tàu
Nhấp nhô lồng đèn
To tiếng cãi nhau, bỗng im lặng lắng nghe mùi hoa lý
Trên đường này, nơi cánh đồng xưa, mọi người đứng lại
Ngước nhìn lên
Chỗ đất cát chính là nước mắt
Nỗi đời éo le dừng lại, trong rễ cây, màu hoa tím
Tình yêu đi qua những tháng ngày khắc nghiệt
Không ai biết
Gió biển mặn hơn hay môi người mặn hơn trong những ngày bất trắc
Làng quê lên đèn, đom đóm bay, thời gian quay đầu
Cây nêu thời gian mọc cao hơn sương mù
Người chết trở về đi qua cánh đồng, đang rảo bước
Về phía chúng ta.
Văn Việt
Giỗ cụ Lê Đình Kình: Nghĩ về vòng xoáy tội ác — Vòng xoáy đau thương
Phạm Đình Trọng
16-1-2022
15 tháng Chạp năm Kỷ Hợi – 15 tháng Chạp năm Tân Sửu (9.1.2020 – 17.1.2022)
1. Ra đời từ nạn đói năm 1945, không một hạt gạo, không một xu dính túi, nhà nước cộng sản của Hồ Chí Minh được người đàn bà goá bụa Nguyễn Thị Năm, chủ doanh nghiệp Cát Hanh Long mở lượng hải hà nghiêng nhà, nghiêng cửa dốc của cải, tiền bạc cả đời tần tảo, nhạy bén kinh doanh tích lũy của mẹ goá con côi ra nuôi nấng, chăm bẵm từ người đứng đầu nhà nước cộng sản đến người lính để nhà nước cộng sản làm cuộc kháng chiến chống Pháp giữ chính quyền.
Cuộc chiến tranh chống Pháp chỉ là cuộc chiến tranh giữ chính quyền cộng sản cũng như cuộc chiến tranh Nam – Bắc chỉ để áp đặt chính quyền cộng sản trên cả nước chứ không vì độc lập của nước, không vì tự do của dân. Cho đến nay nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn bị cột chặt vào nước cộng sản đàn anh trong thế giới cộng sản thì làm gì có độc lập thực sự. Cho đến nay người dân vẫn không có những quyền tự do đương nhiên của con người, không có những quyền tự do đương nhiên của công dân thì làm gì có tự do.
Nuôi chính phủ, nuôi quân, nuôi cả cuộc kháng chiến đầu tiên của nhà nước cộng sản. Khi cuộc kháng chiến cuồn cuộn thế tiến công đến thắng lợi, chính quyền cộng sản được củng cố vững mạnh, nhà nước cộng sản liền vu cho người đàn bà nuôi nhà nước cộng sản từ thuở trứng nước là địa chủ, lôi người đàn bà ân nhân, lôi người đàn bà là Thánh sống cứu sinh của chính quyền cộng sản ra bắn trong cánh rừng âm u của bầy thú thời hồng hoang.
Ngày 9 tháng bảy năm 1953 tiếng súng tội ác của nhà nước cộng sản bắn chết người đàn bà tài năng, giỏi làm giầu chính đáng và rộng lớn lòng yêu nước thương nòi Nguyễn Thị Năm.
Người dân đều biết CB là bút danh quen thuộc của ông Hồ Chí Minh trong nhiều bài viết đăng trên tờ báo đảng của ông. Mười hai ngày sau khi bắn bà Thánh Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, ngày 21 tháng bảy năm 1953, trên báo đảng lại có bài viết của CB: Địa Chủ Ác Ghê, bịa đặt, vu khống cho người đàn bà tài hiền, lòng Phật những tội do bộ máy vu khống chuyên nghiệp của đảng tạo ra. Địa Chủ Ác Ghê là những ngụm máu phun vào người đàn bà có tấm lòng Phật Nguyễn Thị Năm:
Mụ địa chủ Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
– Giết chết 14 nông dân.
– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-Hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến . . .
Địa Chủ Ác Ghê là sự vu khống vô cùng đê tiện, hèn hạ như giọng điệu của đám dư luận viên hạ đẳng ngày nay.
2. Phát động cuộc chiến tranh Nam – Bắc bằng nghị quyết trung ương 15/1959 nhằm áp đặt thể chế cộng sản trên cả nước, nhà nước cộng sản lại vét sức dân, vét máu dân làm cuộc nội chiến đẫm máu. Anh thanh niên nông dân Lê Đình Kình hăng hái nhập ngũ cầm súng đi vào cuộc nội chiến. Từ mặt trận cuộc nội chiến trở về đồng ruộng, người lính xuất ngũ Lê Đình Kình liền được trao trách nhiệm lo cho màu xanh cánh đồng, lo cho cuộc sống người dân làng xã. Lần lượt đảng viên Lê Đình Kình gánh vác: Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp toàn xã Đồng Tâm. Trưởng công an xã. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã. Bí thư đảng uỷ xã.
Từ đó, cuộc sống người dân Đồng Tâm là cuộc sống gia đình đảng viên Lê Đình Kình. Sự được, mất của mùa màng Đồng Tâm là niềm vui, nỗi buồn của lương tâm Lê Đình Kình. Sự tồn tại của mảnh đất Đồng Tâm là sự tồn tại của cuộc đời, sự nghiệp con người Lê Đình Kình.
Sau gần suốt cuộc đời gắn bó máu thịt với mảnh đất Đồng Tâm, trí nhớ minh mẫn và văn bản nhà nước về mảnh đất Đồng Tâm có đầy đủ trong tay, lão nông Lê Đình Kình thuộc địa phả Đồng Tâm như gia phả nhà mình. Biến động của đất nước, đất sống của Đồng Tâm cứ hao hụt là nỗi lo, nỗi bận tâm Lê Đình Kình.
Năm 1961 Đồng Tâm phải cắt 300 ha trong 406,3 ha đất cánh đồng Sênh cho quân đội làm trường bắn của sư đoàn 308, nay là trường bắn quốc gia Miếu Môn.
Năm 1981, sân bay đã chiến Miếu Môn được qui hoạch. 47,3 ha đất phía Đông đồng Sênh lại nằm trong 208 ha đất sân bay Miếu Môn. Một lần nữa Đồng Tâm lại phải cắt đất đồng Sênh giao cho bộ Quốc phòng. Dân Đồng Tâm chỉ còn 59 ha đất Tây đồng Sênh.
Đất sống của Đồng Tâm hao hụt hàng trăm ha, xót xa lắm nhưng nhà nước thu hồi đất đúng pháp luật thì phải chấp hành. 59 ha đất phía Tây đồng Sênh còn lại của tổ tiên người dân Đồng Tâm kéo địa giới Đồng Tâm vào tới chân dãy núi Găng, giáp đường Hồ Chí Minh đã xác định hình hài, tầm vóc Đồng Tâm, đã xác định vị thế chiến lược Đồng Tâm trong thế chiến lược của đất nước. 59 ha đất đồng Sênh còn lại của lịch sử, của sự sống Đồng Tâm, đầm đìa mồ hôi, đầm đìa khát vọng người dân Đồng Tâm càng vô cùng quí giá đến thiêng liêng.
Nhưng qua thời bần cố nông lộng hành. Qua thời bộ máy vu khống chuyện nghiệp tạo dựng lên những bần cố nông vu khống, đấu tố, buộc tội và giết hại bà Thánh Nguyễn Thị Năm lại đến thời tư bản hoang dã lộng hành. Quyền lực đồng tiền của tư bản hoang dã kết cấu với quyền lực nhà nước cộng sản sử dụng bộ máy vu khống chuyên nghiệp vu khống, buộc tội và sử dụng bạo lực nhà nước cướp đất dân.
Cho đến nay không có bất cứ một văn bản hợp pháp nào của nhà nước thu hồi 59 ha đất Tây đồng Sênh của dân Đồng Tâm. Nhưng lòng tham của tư bản hoang dã mang tên doanh nghiệp quân đội Viettel đã nhòm ngó mảnh đất Tây đồng Sênh thì dân Đồng Tâm phải mất đất Tây đồng Sênh. Như dân Văn Giang, Hưng Yên phải mất 500 ha đất bờ sôi ruộng mật, như dân Dương Nội, Hà Đông phải mất mảnh đất sống cho tư bản hoang dã chiếm làm đất kinh doanh thu lợi nhuận tư bản. Bộ máy vu khống chuyên nghiệp liền lu loa hô biến 59 ha đất Tây đồng Sênh của dân Đồng Tâm thành đất quốc phòng.
Làm kinh tế là hoạt động sản xuất kinh doanh tư bản. Quân đội làm kinh tế đã biến những tướng tá quân đội ở những đơn vị làm kinh tế thành những nhà tư bản thời tích luỹ tư bản, thời tư bản hoang dã, lòng dạ và tâm địa chỉ vì lợi nhuận. Biến người lính ở những đơn vị làm kinh tế thành những lao động không công cho những tướng tá kinh doanh tư bản. Như những nô lệ da đen lao động không công cho những tư bản da trắng thời nước Mỹ làm công nghiệp hoá.
Quân đội làm kinh tế biến nhiều tướng tá thành tư bản hoang dã, hối hả săn tìm lợi nhuận. Lợi nhuận bất chính đã dẫn dắt nhiều ông tướng vào con đường phạm pháp, tù tội, từ thượng tướng thứ trưởng bộ Quốc phòng đến trung tướng tư lệnh Cảnh sát biển. Quân đội làm kinh tế làm hư hỏng quân đội, tàn phá sức mạnh quốc phòng của đất nước và biến quan hệ quân dân cá nước thành quan hệ đối kháng. Đối kháng giữa tư bản hoang dã cướp đất phi pháp với người dân giữ đất hợp pháp, chính đáng.
Lão nông, đảng viên Lê Đình Kình quyết giữ chính đáng 59 ha đất Tây đồng Sênh cho người dân Đồng Tâm đã phải đối đầu với sức mạnh đồng tiền của tư bản hoang dã, đối đầu sức mạnh chính trị lực lượng vũ trang của đảng, đối đầu sức mạnh bạo lực nhà nước chuyên chính vô sản và người nông dân giữ đất chính đáng Lê Đình Kình phải nhận cái chết rùng rợn, man rợ hơn cả cái chết đau đớn của bà Thánh Nguyễn Thị Năm.
Bà Thánh Nguyễn Thị Năm bị toà án bần cố nông tuyên án tử hình và bị đội du kích xã xử bắn ban ngày trong cánh rừng chiến khu Việt Bắc.
Không có bản án nào buộc tội công dân Lê Đình Kình. Không có một hình thức kỉ luật nào kết tội đảng viên Lê Đình Kình. Đang là công dân lương thiện, đang là đảng viên trong sạch, giữa đêm bình yên rạng sáng 9.1.2020 đúng ngày rằm tháng chạp Kỷ Hợi, lão nông Lê Đình Kình bị cả một trung đoàn cảnh sát cơ động với xe bọc thép súng lớn, xe vũ khí điện tử, với ba ngàn quân tinh nhuệ vây kín quanh nhà và đội đặc nhiệm cảnh sát còn đảng còn mình, coi dân có tiếng nói khác biệt với đảng là thù địch, sôi sục sắt máu, phá cửa xông vào tận giường ngủ kề súng vào sát đầu, sát ngực dân xả đạn.
Công dân lương thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình không những bị bắn vỡ sọ, thủng ngực, toác đầu gối mà còn bị mang xác đi phanh thây từ cổ tới tận cùng bụng. Chỉ những kẻ lòng lang dạ thú không còn một chút tính người mới hành xử với con người, với đồng loại man rợ như vậy.
Giết bà Thánh Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm rồi CB Hồ Chí Minh viết trên tờ báo đảng của ông vu khống người đàn bà mở lượng hải hà nuôi nấng đảng cộng sản thành địa chủ giết người!
Tung cả một trung đoàn công an tinh nhuệ trong đêm đánh úp thôn Hoành bé nhỏ, bình yên, tung lực lượng đặc nhiệm phá cửa xông vào tận giường ngủ bắn nát tim, vỡ sọ đảng viên lão thành cách mạng 59 tuổi đảng rồi tướng phát ngôn bộ Công an Tô Ân Xô lên báo vu cho công dân lương thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình là “Địa chủ cường hào mới”. Tướng Xô đơm đặt: “Sự nổi lên của đối tượng cầm đầu, nhất là ông Lê Đình Kình trong bối cảnh dòng họ Lê Đình có ảnh hưởng lớn tại thôn Hoành, có khả năng chi phối, tác động kết quả bầu cử ở cơ sở, là một loại cường hào địa chủ mới” Địa chủ thì phải làm chủ nhiều đất hơn người dân trong làng xã. Cường hào thì phải có sức mạnh quyền uy và sức mạnh bạo lực đàn áp, khống chế người khác. Đảng viên Lê Đình Kình chỉ có lòng tin ngây thơ, son sắt vào đảng của ông và tình yêu máu thịt với con người và mảnh đất Đồng Tâm.
3. Từ đội du kích thi hành bản án tử hình xử bắn bà Thánh Nguyễn Thị Năm giữa ban ngày trong cánh rừng vắng đến đội đặc nhiệm cảnh sát trong đội hình trung đoàn cảnh sát cơ động giữa đêm xông vào tận giường ngủ hành quyết không cần có bản án, xả súng giết rồi phanh thây công dân thánh thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình đã tạo ra vòng xoáy tội ác ngày càng ghê tởm, tội ác đã được đẩy lên cao tới tận cùng man rợ!
Trong nhà nước cộng sản, quyền lực cộng sản cứ ngạo nghễ ngự trị trên vòng xoáy tội ác và người dân cứ mãi mãi chìm sâu trong vòng xoáy thăm thẳm đau thương, oan trái và oán hờn.
Tiếng Dân