Seite auswählen

Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức

Nguyễn Mạnh Tường

Nguyên văn tiếng Pháp:
Un Excommunié
Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel

Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
(Đây là bản đã đăng nhiều kỳ trên Thông Luận:
http://www.thongluan.org/vn/)

 

 

Bìa bản tiềng Pháp (Paris 1992) 

 

“Bản thảo cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình thế lén lút và bị cô lập. Vì vậy tôi khiêm tốn gửi lời xin lỗi về những lỗi lầm hay sai trật đến những ai quan tâm đến những suy tư và những bài viết của tôi, và mong muốn cuốn sách này sẽ được phát hành ở Pháp”

N.M.T.
13 Tháng 5 năm 1991

 

PHẦN MỘT
ĐẠT ĐẾN ĐỈNH VINH QUANG

Vài tháng sau trận Điện Biên Phủ, tôi được lệnh tập trung lên trình diện tại Chiến Khu Việt Bắc. Tôi nghĩ đây cũng là lần tập trung để học chính trị như những lần trước. Cấp lãnh đạo luôn rất quan tâm đến việc giáo dục quần chúng và truyền giảng cho giới trí thức những ý niệm về chủ nghĩa Marxist-Leninist mà họ tự cho rằng chỉ họ mới là những người duy nhất hiểu biết nó. Bằng con bài chủ của mình, những hiểu biết dó, họ cho rằng có thể áp đặt được sự nể trọng họ lên giới trí thức, và cùng lúc, họ có thể thanh toán được nỗi mặc cảm tự ty của mình. Đúng là ngây thơ, nhưng tất cả các ngài đều mang bệnh ngây thơ ấy. Vì thế, tôi đành phải tự chèo chống lấy mình cho qua những giờ dài đăng đẳng để khỏi nghe vài diễn giả cà lăm lải nhải. Họ không thể nào ngăn được tôi trốn trong một góc khuất, ngáp dài nếu không ngủ hay mơ về bất cứ điều nào mà tôi thích. Nhưng cái chiến thắng vang dội vừa mới đây lại mang đến cho tôi những xì xầm to nhỏ. Sự tiên liệu của tôi đã thành sự thật khi thấy cả ngàn cán bộ thuộc đủ các ngành đang tập trung ở Tân Trào. Sau rốt, chúng tôi biết chúng tôi sắp được học “chính trị” – đây là một cụm từ linh thiêng, ở Việt Nam, mọi chuyện đều là “chính trị”- để tổ chức buổi lễ Chính Phủ Kháng Chiến tiến vào tiếp thu Hà Nội. Quân đội Thực Dân phải ra đi và bàn giao lại tất cả các cơ quan công quyền bao gồm cả nhà cửa, thiết bị dụng cụ và cả những người Việt đang làm việc nơi đây.

Buổi học tập là để biết phải có thái độ gì đối với những công nhân viên đã được chỉ định để bàn giao cơ quan mà trước đây họ làm việc trong thời kỳ Pháp thuộc. Những mật báo viên của chúng tôi đã lập những hồ sơ những người chủ chốt của cơ quan, hồ sơ lý lịch, gia cảnh, thái độ đối với Kháng Chiến, cảm tình đối với xếp trên người Pháp của họ và nước Pháp, cũng như khát vọng và khả năng của họ. Những thông tin đó rất quý giá và nó giúp chúng tôi đánh giá mức độ tin cậy đối với từng người, sự hỗ trợ của mỗi người có thể có cho chúng tôi và những kỳ vọng mà chúng tôi có thể chờ đợi từ mỗi người của họ. Như vậy chúng tôi không phải quá mạo hiểm đi vào một vùng xa lạ, có thể vấp khựng trước những chướng ngại vật hay trượt ngã vào những cạm bẫy bất ngờ.

Câu hỏi nhạy cảm là làm sao tìm ra một thái độ cư xử với những người mà tình cảm được che giấu sau bức màn của lễ độ và của nụ cười? Người của Kháng Chiến phải tự mình hết sức cẩn trọng trong lời nói, cách nhìn, cử chỉ để tránh ám chỉ dù nhẹ nhàng nhất đến sự khinh thường hay chiếu cố riêng đối với từng nhân viên dưới quyền.

Nếu các cấp lãnh đạo cấp cao thấm nhuần và luyện tập bản thân về ý này, thì rủi thay, đám tôi tớ tuỳ tùng không hề bỏ lỡ một cơ hội nào để phô trương sự ngạo mạn một cách lố bịch và đầy tai hại. Chúng nó tự ca tụng và phô trương là đã chịu nhiều gian khổ và bệnh tật trong những năm bí mật kháng chiến, nay chúng đòi phải được trả công bởi những kẻ không “may mắn” được tham gia Kháng Chiến. Tai hại gây nên bởi loại người thiếu thận trọng đó thật lớn lao. Hố ngăn cách hai nhóm người trong xã hội càng đào sâu hơn nữa. Trong số những người bất mãn, có những người bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản của Đất Nước và lòng yêu nước, mang những của cải làm quà cho những Đất Nước nhận dung dưỡng và cho họ những cơ hội thích hợp với khát vọng và ước mơ của họ. Những người khác thì đã nức hận thù chống cộng, luôn tìm cơ hội để phát tiết nỗi oán giận, thành lập những tổ chức bí mật, thiết lập quan hệ với kẻ thù của chúng ta ở nước ngoài, nhận tiền và chỉ đạo và ngay cả những trợ giúp quân sự với mục đích gây rối loạn, gây biến động nổi dậy, và nếu được là một cuộc đảo chính. Đại bộ phận dân chúng thì trì trệ trong sự dửng dưng, chọn thái độ chờ xem, chẳng màng suy nghĩ hay kêu gọi những mong đợi của họ về chuyện thay đổi chế độ; họ giữ im lặng, quan sát, nghe ngóng và không làm một hành động hay đưa ra một thái độ nhiệt tình nào trong công việc giao cho họ. Bất cứ công việc nào mà con tim không có, thiếu niềm vui, vắng nhiệt tình, thì nó không thể cho ra kết quả hữu hiệu, ít nhất cũng là việc chính quyền kháng chiến, mặc dù những tuyên ngôn, mà hoá ra như những lời khoác lác làm trò cười cho thiên hạ, đã không cung cấp nổi cho công nhân viên những nhu cầu tối thiểu của đời sống hàng ngày. Những công chức được trả lương hậu hĩnh dưới thời chính quyền Thực Dân trước đây được tiếp tục hưởng lương như thế trong một thời gian. Nhưng một vài “tâm hồn cao quí” trong bọn họ, được sự “chỉ đạo” đúng đắn và bài bản của “lãnh đạo”, không biết dưới sự đe doạ hay được lời hứa thưởng công, đã đưa ra kiến nghị cùng bình đẳng lương bổng, nhưng không phải bình đẳng theo hướng nâng lương lên cao mà cùng giảm lương về mức thấp. Để thuyết phục các đồng nghiệp chấp nhận ăn miếng bánh thanh bạch, những tác giả của kiến nghị “công bằng lương bổng” kéo nhau rỉ tai là “Trong những năm kháng chiến, chúng mình chưa bao giờ bị đói, lạnh, nguy hiểm đến tính mạng; chúng mình sống no đủ hạnh phúc thoải mái với gia đình. Như vậy, chuyện từ bỏ những đặc quyền và giảm bớt lợi tức của chúng ta cho bằng các bạn đồng nghiệp phía kháng chiến có phải là một việc làm có tình có lý hay không? Như vậy chúng ta đã có một hành động công bằng; chúng ta cho thấy khả năng chấp nhận hy sinh và sẽ không bao giờ thành đối tượng bị khinh miệt bởi người khác; chúng ta mang lại sự đoàn kết trong cộng đồng công nhân viên nhà nước, và bình đẳng giữa người này người khác. Chúng ta cùng cực khổ cáng đáng việc xây dựng lại Đất Nước nhé!”. Nhiều người đã rùng mình ớn lạnh khi nghe những lời rủ rỉ phát sinh từ cấp cao nào đó truyền xuống mà thấy miệng đắng như vừa nuốt nguyên túi mật không tên. Đó là mùi vị của khốn cùng mà tất cả công nhân viên nhà nước đang cúi mình gánh chịu.

Về phía dân chúng, đối với chúng tôi họ dành trong lòng một sự tò mò nhưng thân thiện. Họ và chúng tôi cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản, cùng một quá khứ đầy tự hào và tủi nhục. Điện Biên Phủ đã tràn ngập con tim của mọi người với cùng độ nức lòng và cùng tầng nhiệt huyết. Nhưng, dù thế nào, kháng chiến vẫn là một thế giới riêng, người đi kháng chiến cũng là những con người thường nhưng với những tập quán thói quen có thể làm ngạc nhiên thế giới văn minh. Người ta có thể nhìn chúng tôi như những kẻ man rợ vì không biết dùng lược và nước hoa để chải đầu hay xài xà phòng tắm để săn sóc làn da; man rợ vì không biết cầm dao nĩa thế nào cho đúng cách; nhưng cũng có người vừa to mắt ngạc nhiên vừa trao tặng chúng tôi một bó hoa; có người chờ xem hành động và lời nói của chúng tôi để xem có thể dành cho chúng tôi mối cảm tình nào đó hay chỉ thuần là một nỗi nể nang sợ hãi, nếu chưa muốn nói đến một sự lãnh đạm xa cách.

Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tiếp cận giới trí thức Hà Nội, nhất là khi họ đã được cảnh báo về chủ nghĩa Cộng Sản. Việc họ bỏ nước ra đi sẽ gây thiệt hại đáng kể cho Đất Nước bị mất đi những chất xám mà sau đó chính những nước ngoài là người hưởng dụng. Đó là lãnh vực mà ta cần phải tránh những sai lầm ngớ ngẩn do những người được giáo dục đúc khuôn từ Đảng là thủ phạm, bởi vì họ đầy tự mãn, đầy kiêu căng, bởi vì họ không có trình độ về lãnh vực trí thức và xã hội.

Nhưng, theo đánh giá của cấp Lãnh Đạo, điều tệ hại nhất là điều đe doạ đến tính trong sáng của cán bộ kháng chiến đã hơn mười năm nay được Đảng giáo dục. Khi đến với kháng chiến, toàn bộ hay ít nhất là gần như toàn bộ cán bộ là đã có những vết nhơ của tư sản, của thế giới phản động. Những vết nhơ đã làm hoen ố tâm hồn nhiều hơn là thể xác, làm biến chất con người, làm sai lạc quan điểm và làm méo mó tư duy của họ. Phải cần nhiều năm miệt mài học chủ nghĩa Lenin, hàng năm theo những lớp học chính trị, những buổi phê bình và tự phê bình, những ngày lao động chân tay, trải nghiệm gian khổ để chữa sạch những vết thương mưng mủ, để chữa trị khỏi những tật bệnh nếu không phải là để cho một sự trinh nguyên cho thể xác, thì cũng để đạt đến sự chân thành biến thành những kẻ dễ bảo cho lãnh đạo.

Ngày nay họ lại phải trở về với chính nơi độc nhiễm mà họ trước đây sinh sống, Đảng đã bắt chước Trung Quốc tìm cách cho họ tránh những “viên đạn bọc đường” bằng cách trang bị cho họ những bao ngừa thai để tránh những mầm SIDA chính trị, một bệnh truyền nhiễm chết người, y chang như trang bị cho người để chống SIDA ở đời thường. Cái gì đã quyến rũ các ông quan kháng chiến một khi họ trở về Thủ Đô? Một bữa ăn thịnh soạn có champagne, rượu Tây, thuốc lá Anh, những điệu valse ẻo lả, những ánh mắt đưa tình và những nụ cười mời mọc của những nàng tiên kiều diễm là quá đủ để kéo tên “man rợ” ra khỏi rừng rú ném hắn vào đám yêu tinh và làm hắn phải “bán linh hồn cho quỉ dữ”… Nhưng làm sao sự khôn ngoan và những tiên liệu của Đảng lại có thể ngăn được những đợt thuỷ triều của ham muốn đã nhiều năm bị đè nén và đang đến lúc nổ tung? Trong những năm 1989-1990, cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như những băng đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình. Chưa bao giờ, dù dưới bất cứ chế độ nào, một vụ tai tiếng như thế lại có thể xảy ra, và Đảng phải đỏ mặt vì xấu hổ và đen như nhuộm bùn. Viên đạn bọc đường quả thật đã chơi trội việc giáo dục chính trị.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. Tất cả hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả trên ánh mắt của từng người dân. Từng chặp, đoàn quân phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên đến cao độ, thật chân thành và nồng hậu. Kể cả những người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc nuối với người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc găp gỡ dễ thương bằng sự rộng rãi và lịch sự, họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm hãnh diện của người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng cho nước nhà.

Trong hai tuần đầu, tất cả cán bộ đều được lệnh không ra khỏi nơi đang cư ngụ. Chúng tôi không biết được lý do tại sao. Có phải đây là vì vấn đề an ninh? Không kể những viên đạn bọc đường mà mọi người cho rằng có thể phá vỡ sự trong sáng của những con người kháng chiến sau nhiều năm được cải tạo, thì có phải chăng vì sợ súng đạn của những kẻ quá khích hay gián điệp có thể mang đến những cái chết vô nghĩa cho những người mà Đảng đã mất hàng chục năm để đào tạo và đã biến họ thành những người Cộng Sản trung kiên? Hay đã có những ý nghĩ kỳ quặc đang manh nha trong đầu của vài lãnh đạo đang nắm quyền và họ chỉ muốn thuộc quyền tuân phục một cách mù quáng? Mặc kệ lý do gì! Có chuyện lo bảo vệ an toàn hay chỉ là một nhắc nhở là chúng tôi chỉ là những con chốt tầm thường trong tay của những người lãnh đạo, chúng tôi đều cúi đầu phục tùng cho bạo chúa phán lệnh lúc nào phải hành động y những con rô bốt mà chẳng biết bận tâm suy nghĩ tại sao. Trong khi chúng tôi có thể về thăm nhà ở Hà Nội để có chỗ nơi ăn ở đàng hoàng, giường êm nệm ấm thì chúng tôi phải nằm trên sàn trần, cuốn mình trong những tấm chiếu không khác gì những tử tù đang chớ ngày đút đầu vào máy chém… Chúng tôi tiếp tục sống đời kham khổ kỷ luật như những người Spartan như những năm bí mật kháng chiến; khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi lại xếp hàng rửa bát bên vòi nước. Thật ra đâu cần thiết phải đối xử bất nhân kéo dài thêm hai tuần xa cách cho những người đi kháng chiến đã hơn mười năm chưa gặp lại gia đình? Chỉ còn thêm vài trăm bước đường nữa là mọi người trở về đã có thể ôm lại cha mẹ anh em và trao cho nhau những giọt nước mắt mừng tủi sau những năm xa cách mà tưởng như thiên thu. Có phải chăng người Cộng Sản là những anh hùng mà mắt đã không còn lệ, mà trong tim tình cảm gia đình đã biến mất, linh hồn đã bị huỷ diệt bởi một niềm tin điên cuồng vào một học thuyết chủ nghĩa hay một tôn giáo?

Về phần mình, một mặt lòng tôi rộn rã vui sướng được đặt chân trở lại thành phố nơi tôi sinh ra, nơi mà những kỷ niệm đầy nhớ mong đã bám chặt lấy tôi suốt những năm xa cách; một mặt khác, lòng tôi lại héo buồn vì không được quay về nhà trong giờ phút đầu tiên để gặp lại cha mẹ già đang khắc khoải chờ mong gặp lại đứa con trai lớn đang ra vào hiểm nguy mà không cần tranh cãi chi đến đến chuyện nó ra đi là có cần thiết hay chính đáng không.

Điều không vui của tôi kết thúc khi tôi được phân công về nhận trường Luật. Ngay sau khi buổi lễ bàn giao chấm dứt là tôi chạy bay về nhà gặp lại mẹ cha chảy những giòng nước mắt khi thấy con mình còn sống trở về.

Ngày kế, tôi tập họp toàn thể nhân viên trong phòng giám đốc, một căn phòng lớn mênh mông ở phía phải đầu trên cái thang lầu to tướng, đối diện với cái giảng đường to mà hơn mười năm trước tôi vẫn hay đứng giảng bài cho sinh viên hay thuyết trình trong những buổi hội nghị cho mọi người.

Tất cả ban giảng huấn đều biến mất ngoại trừ ông Đào Bá Cường, tất cả đã chọn con đường ra nước ngoài hay quay ra hành nghề luật sư. Tôi chỉ còn lại ba cô thư ký và một lái xe hãnh diện là đã giấu và giữ lại được một chiếc xe thoát khỏi tay cảnh sát của Thực Dân. Trong khi chờ đợi quyết định tổ chức lại hay giải tán trường Luật, chúng tôi chẳng có nhiều việc để làm, nhất là sau khi đã xếp lại thứ tự cho Thư Viện, xếp vào kệ bộ sách Luật Dalloz-Sirey toàn tập mà khối lượng sách đã từng nhiều lần làm tròn xoe mắt của dân không chuyên ngành[1].

Tôi đã phải mất công kéo giờ có mặt của các cô thư ký xuống hai giờ mỗi ngày, bởi “tập thể” – tên mới mà những người cộng sản dùng – không thể ngồi đó lâu hơn vì chả lẽ cứ ngồi đó mà ngáp và không làm gì cả cho hết ngày? Vì vậy, để tránh khỏi sinh ra ức chế vì cả ngày không việc gì làm, những ngưởi cộng tác với tôi yêu cầu tôi khai tâm cho họ về chủ nghĩa Maxist. Không có gì làm họ khó chịu bằng phải nghe những điều đần độn về chủ nghĩa Marxist vả những cái ngạo mạn chỉ đáng cho cái tát vào mặt. Tôi bảo đảm cho những người nghe là nhiều kẻ nói về Marx nhưng chưa lần nào đọc về Marx, hoặc nếu có cơ may đọc được vài đoạn trong cuốn Tư Bản Luận thì họ cũng chả hiểu chi. Chứng cớ là những người Marxist dày dạn đã phạm những sai lầm ghê gớm gây khổ đau cho dân tộc, kéo theo sự nghi ngờ về sự hiểu biết của họ về cái học thuyết mà họ đang theo.

Khi mà tôi không có một mảnh bằng hay đạt một trình độ nào về học thuyết Marxist, tôi cảm thấy không thoải mái khi can thiệp vào lãnh vực chuyên môn của các Tiến Sĩ về chủ nghĩa Marx. Tôi cố gắng giới hạn trong việc thoả mãn trí tò mò của mấy người cộng tác. Tôi trình bày vấn đề bằng cách đặt ra những câu hỏi mà họ có thể dễ dàng trả lời. Nhờ đó qua cách gợi ý tôi đã chuyền cho họ một chút hiểu biết về chủ nghĩa Maxist qua hơn mười năm trong kháng chiến. Tôi nói rõ ràng với họ là hiểu biết về chủ nghĩa Marx của tôi chỉ là một tẹo nhưng cũng đủ để lật mặt nạ những kẻ dốt hay nói chữ như Trissolin[2] hay tháo gỡ những sai lầm do những người Marxist có bằng cấp.

Thời gian trôi qua. Đảng vẫn chần chừ trì hoãn quyết định đóng hay mở Trường Luật. Tôi hiểu những ngập ngừng này. Trong nhiều năm làm việc ở các cấp Toà Án và làm luật sư chỉ định của Chính Quyền, và nhờ việc phải theo dõi tiếp xúc thường xuyên với những cán bộ có trách nhiệm, tôi có dịp quan sát thấy sau cung mê tiềm thức của họ là một sự hãi sợ tột đỉnh về Luật Pháp. Xưa kia, trong thời hoạt động bí mật, những người đi làm cách mạng đã có những ngày đen tối với chế độ xử án của Thực Dân và những quan toà của nó. Vì vậy, họ kết bè với nhau với những ngày hy sinh và cực khổ trong hệ thống xét xử mà họ cho rằng đó là công cụ kềm kẹp trong tay của bọn tư bản. Tuy nhiên nếu họ chịu đào sâu tìm hiểu về hệ thống pháp lý và các bộ Luật của Liên Xô, thì họ sẽ thấy những công cụ trấn áp quần chúng lao động cũng hoàn toàn có thể biến thành những phương tiện bảo vệ Nhà Nước và Cách Mạng chống lại giới tư sản phản động. Họ chỉ cần thay người và mục tiêu.

Nhưng theo tôi, người cộng sản ghét pháp luật có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan điểm thật khác nhau giữa những con người làm chính trị và những con người chăm lo Luật Pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy.

Chính trị là một lãnh vực mà mọi biên giới đều mờ nhạt mà một người có thể vượt ngang qua không chiếu khán và thường khi không biết luôn cả việc có biên giới hay không. Đó là một vùng đất đầy những đồi cát mà gió có thể làm biến dạng tuỳ thích, có những đầm lầy cần phải tránh để khỏi một cái chết bị ngập lún. Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau. Kẻ phải phiêu lưu vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng sủa và chính xác, chỉ phải nghĩ đến những việc ở thời hiện tại mà quên đi những gì liên hệ đến quá khứ hay tương lai, phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay tình cảm và trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội chủ nghĩa sắc bén và linh động.

Vùng đất của Luật Pháp, ngược lại, được bao bọc bởi núi và sông như những đường ranh giới tự nhiên. Ở đây chỉ có cái chặt chẽ của hình học, của logic thuần lý, sự chính xác của phép tính theo tinh thần Descartes và của một sự rõ ràng minh bạch. Giữa sự hợp pháp và bất hợp pháp là một đường phân rõ ràng như giữa trắng và đen. Ngôn ngữ của Luật thể hiện những ý niệm, ý kiến, định nghĩa từng nội dung và không chấp nhận những vùng khuất trượt lướt chung quanh, những lập lờ chữ nghĩa, những giải thích đầy phù phép và lừa gạt đưa ra. Những tranh luận về Luật kéo theo những đụng độ về ý kiến nhưng phần thắng luôn đến từ những lý luận đặt cơ sở trên nguyên tắc của Luật Pháp, trong những bài viết không còn những từ ngữ rỗng tuếch và còn tranh chấp đúng sai trong cái sự thanh thản của biện chứng, dưới ánh nắng lạnh lùng của lý trí.

Vì thế, sự đối kháng giữa chính trị và luật pháp là không thể nào giải quyết được. Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí thì nhà Luật học lại chiếm ưu thế về sự hợp lý. Một phe thì luôn đặt vấn đề một cách cụ thể, phân tích từng yếu tố của sự việc, xem xét những tương quan và những tác động qua lại, tìm chọn tất cả những giải pháp để rốt cuộc chọn lấy giải pháp tối ưu và có lợi nhất, và dùng tất cả quyền hành trong tay để thực hiện nó. Loại người đó không hề bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc, nghĩa vụ hay niềm tin nào. Họ tự do như những con ngựa hoang trên cánh đồng cỏ mênh mông, tàn phá như những cơn bảo hung tàn đang giật tung những mái ngói và nhận chìm những con tàu chìm sâu vào lòng biển khơi. Dựa vào hoàn cảnh thuận lợi, nhà chính trị đã chơi xả láng con chủ bài của mình và biểu thị một lòng ham muốn vô giới hạn. Nhưng cơ hội của họ lại va chạm đến tính cứng nhắc của hệ thống tư pháp và những qui điều trong Luật. Vì thế họ muốn quét bỏ hệ thống tư pháp và nhảy xổm lên trên Luật Pháp; nhưng dầu thế nào họ cũng đã có một nền tư pháp đang ngủ yên và quên lãng trong Kháng Chiến, nơi mà chính phủ chỉ nói chuyện với cỏ cây thú rừng khi mà những người theo kháng chiến với tấm lòng yêu nước và chỉ lo thi hành bổn phận, không dám quấy rầy giấc ngủ của lãnh đạo.

Nhưng tất cả đều trở nên xáo trộn sau ngày trở về Hà Nội. Ở đây là thái độ một thành phố thu mình không còn nhộn nhịp và ngay sự yên tĩnh cũng gây khó chịu cho chính quyền mới. Thái độ như thế biểu dương một tinh thần tôn trọng Luật Lệ. Bất cứ khi nào quyền lợi của họ bị xâm phạm, lập tức người dân đến gõ cửa Luật Sư và Luật Sư Đoàn như những thành trì của công bằng và Công Lý. Để chứng tỏ thiện chí, chính quyền cộng sản đã không thấy gì trở ngại để giữ lại Luật Sư Đoàn khi mà những Thẩm Phán xử án đã được thay thế bằng những người do Đảng đào tạo và giáo dục, và chính những người này là những người quyết định kết quả của mọi vụ án. Sau ngày tiến vào Hà Nội, trong khi những chuyện có tính nội bộ như thế có thể giải quyết dễ dàng, thì ngoài những nước anh em, Việt Nam còn phải nối quan hệ với các nước tư bản. Những nước này là những nước thượng tôn Pháp Luật và chỉ chịu ký kết những hiệp định phù hợp với khung pháp lý. Bên cạnh đó, những định chế quốc tế hay những tổ chức nghiên cứu rất kỷ về Việt Nam, họ có khả năng giúp Việt Nam hưởng những trợ giúp của họ và đồng thời cũng quy trách được nếu Việt Nam phạm những sai lầm. Bằng con đường quốc tế, những quy điều của Luật đã mạnh mẽ đi vào Việt Nam và nhà cầm quyền bắt buộc phải quan tâm đến.

Sau Điện Biên Phủ, ai cũng biết rằng Hiệp Định (Genève) chia đôi Việt Nam ra thành hai phần: phía Bắc do Nhà Nước Cộng Sản nắm, phía Nam do chính quyền thân Mỹ Ngô Đình Diệm nắm. Mặc dù rất đúng Luật về mặt hình thức, Hiệp Định Genève đã xâm phạm quyền của một dân tộc từ ngàn xưa đã luôn luôn sống trên một Đất Nước duy nhất. Từ rất sớm, khởi nghĩa vũ trang đã được tổ chức trên cả vùng chống lại nhà cầm quyền, khởi đầu cho những bước thống nhất Đất Nước. Để phản công, nhà cầm quyền phía Nam đã bắt cầm tù một số trí thức như Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông, kết án họ là những người cầm đầu cuộc nổi dậy, và tiến hành việc đàn áp đẫm máu những người mà họ cho rằng nuôi dưỡng những khuynh hướng nhằm thống nhất Tổ Quốc.

Chính nghĩa thống nhất Đất Nước phải được biện hộ trước diễn đàn quốc tế; dư luận quốc tế phải được thông tỏ chuyện gì đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập hội nghị thế giới ở Thủ Đô Bruxelle của Bỉ. Trước cơ hội thật lớn lao đó, nhà cầm quyền (phía Bắc) liền tổ chức một đoàn đại diện để đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị là Chủ Tịch Luật Sư Đoàn và là Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tôi được giao phó làm trường đoàn, cùng với Luật Sư người Công Giáo Nguyễn Huy Mân là Hội Thẩm, đồng thời là Chủ Tịch Toà Án Quân Sự và cũng là một quan chức cao cấp của Đảng. Nhiệm vụ của chúng tôi là làm sao được Hội Nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ Dân Tộc quyền đấu tranh để thống nhất Đất Nước.

Khi chiếc máy bay Sabrina (Tây Ban Nha) đáp xuống phi trường cũng vừa lúc hoàng hôn. Một thư ký Hôi Nghị đón và đưa chúng tôi về khách sạn. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, chúng tôi xuống phòng ăn rộng mênh mông và lộng lẫy sáng chói. Tất cả những chiếc bàn tròn được phủ những chiếc khăn không một vết nhơ trang trí với những bình hoa đều có khách ngồi. Chúng tôi là những kẻ đến sau cùng để chiếm cái bàn duy nhất còn lại. Sau bữa ăn, chúng tôi vào phòng khách và được một đoàn tiến gần tiếp cận: đó là đoàn của Bắc Triều Tiên. Chúng tôi làm quen thật nhanh chóng, hai đất nước chúng tôi có số phận giống nhau.

Đoàn chúng tôi chia nhau mỗi người đi gặp một đoàn bạn để tranh thủ cảm tình cho chính nghĩa của mình. Cá nhân tôi, tôi đã tìm gặp ông Chủ Tịch Luật Sư Đoàn Bruxelles và thảo luận với Chủ Tịch Đoàn của Đại Hội nhằm đưa vào nghị trình vấn đề của chúng tôi. Họ từ chối một cách rất lễ độ là chương trình đã đầy không còn thời gian trống, và hơn nữa Hội Nghị đã định cho mình sứ mạng gìn giữ Hoà Bình và không ủng hộ bất cứ một cuộc khởi nghĩa võ trang nào, dù là có chính nghĩa. Tôi vẫn không mất can đảm, vẫn tiếp tục tranh thủ những trưởng đoàn các nước, những người mà tôi cho rằng là có trình độ trí thức cao, những người mà tôi cho rằng có một ảnh hưởng nhất định, là việc đưa vấn đề cực kỳ thiết thân của chúng tôi vào nghị trình là một việc cần thiết. Những cố gắng ấy cuối cùng cũng được đền đáp bằng một thành công thật may mắn: vấn đề của Việt Nam được đưa vào nghị trình nhưng được sắp vào lúc cuối cùng của Hội Nghị. Chúng tôi thật nản lòng. Kinh nghiệm những hôi nghị quốc tế như thế này, càng lúc vào phút cuối, phần lớn các đoàn là đã tranh thủ lo vé máy bay, sửa soạn hành lý đề đi về. Quả thật chúng tôi thật nặng lòng và buồn phiền chờ buổi kết thúc hội nghị. Chắc chúng tôi tham dự Hội Nghị lần này là mất công toi. Chúng tôi phải ăn nói ra sao với lãnh đạo đây?

Một bất ngờ đã xảy ra. Sau khi bài tham luận chót được đọc thì đoàn Việt Nam được mời lên điễn đàn. Chúng tôi thật tình không chờ đợi một cử chỉ lịch sự như thế vào lúc chót. Tôi liền lên bục ngay sau khi Chủ Toạ Đoàn loan báo hội nghị được kéo dài thêm mười lăm phút. Lòng tôi thật vui sường và tim tôi đập loạn xạ… Bằng giọng nói đầy xúc cảm, tôi bắt đầu trình bày luận đề.

Đấu tranh, dù là có vũ trang, với mục tiêu loại bỏ sai quấy hay trừ bỏ bất công, đàn áp, hành động man rợ, hay để loại bỏ những chướng ngại ngăn cản sự tiến bộ của hoà bình là cái mở đầu, là giai đoạn đầu tiên cho một ngày kiến tạo và gìn giữ hoà bình. Danh ngôn của Hy Lạp đã nói muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh. Phải chăng là không có mâu thuẫn giữa chiến tranh và hoà bình, khi mà chiến tranh xâm lược đã giết chết hoà bình, mặt khác, chiến tranh có chính nghĩa là để giành được hoà bình, gìn giữ và bảo vệ nó. Chỉ có kẻ ngây thơ và trẻ con mới tin rằng chiến tranh là đối ngược với hoà bình, là hai mặt đối kháng lẫn nhau không thể nhân nhượng như thể giữa đêm và ngày. Ai có thể chấp nhận một quan điểm mơ hồ như thế? Tôi đã mang hết những lý lẽ tình cảm, chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ, kinh tế và xã hội để vận động cho chính nghĩa của Dân Tộc Việt Nam.

Trong phần kết, tôi trình bày với người nghe bằng những ý như sau: “Thưa các bạn Ba Lan và Hung Gia Lợi, mới ngày hôm qua, các bạn đã đau khổ nhìn quê hương bị chia năm xẻ bảy; thưa các bạn người Hàn và người Đức, các bạn cũng đau đớn chịu nỗi bất hạnh như thế. Nhưng các bạn may mắn hơn chúng tôi là không phải thấy với chính mắt mình những nét mặt đau đớn, được nghe tận tai tiếng thét của những người, có cùng dòng máu chảy trong huyết quản, có con tim cùng chia sẽ những buồn vui với bạn, phải quằn mình đau đớn dưới bàn tay của những kẻ đao phủ.”

“Tôi không biết, trong số những người đang nghe tôi ngày hôm nay, có ai đã, vì bó buộc của nghề nghiệp, phải tận mắt chứng kiến cảnh thân chủ của mình bị hành hình. Đó là thời Thực Dân chiếm đóng. Toà Án Hà Nội đã chỉ định tôi làm Luật Sư bào chữa cho một tên cướp biển người Hoa bị án tử hình, ngưởi này ở vịnh Hạ Long đã giết hơn mười hành khách trên một chiếc tàu. Tôi được chỉ định bào chữa cho hắn và phải có mặt khi hắn bị hành hình. Bản mặt hung ác của nó không làm ai cảm tình, nhưng ánh mắt cuối cùng khi hắn đút đầu vào máy chém làm tôi thấy tôi nghiệp. Tôi nhìn nơi khác khi lưỡi dao rớt xuống cắt gọn ngang cổ hắn. Một dòng máu phụt ra, cái đầu rớt một bên, cái thân một bên rớt vào cái hòm với đầy mạt cưa”.

“Thưa các bạn, cái máy chém đó, có từ thế kỷ trước. Nó chẳng những được dùng để chém đầu những kẻ phạm tội ác, mà còn dùng để chém đầu những người con yêu nước đang đấu tranh để thống nhất Tổ Quốc, để khủng bố dân lành và để trấn áp lòng yêu nước của họ.”

“Và cầu Hiền Lương với tên gọi mang âm hưởng tử tế như thế lại là cây cầu chia cắt Việt Nam thành hai miền, phải chăng đó là lưỡi dao nhọn đâm thẳng vào da thịt của người dân, chia tách gia đình ở hai bên bờ không thể nhìn nhau với con mắt đầy lệ. Giòng sông không còn là nước chảy mà mang trong lòng nó những giòng nước mắt của phân ly, những giòng máu của những người can đảm vượt sông để rồi ngã xuống bởi những viên đạn bắn từ những con Tàu tuần cao tốc.

Các bạn đồng nghiệp thân mến, trong suốt thời gian hành nghề, chúng ta ít nhất đã một lần chứng kiến cảnh chia tay của một cặp vợ chồng. Trong buổi hoà giải đầu tiên ở Toà, chắc các bạn đã không bao giờ quên nét căng thẳng của hai cha mẹ, và hơn thế nữa ánh mắt sợ hãi và đầy nước mắt của những đứa con hết nhìn cha rồi lại nhìn mẹ, hết nhìn mẹ rồi lại nhìn cha, chúng cảm thấy đau đớn trước thảm cảnh chia lìa của mẹ cha, trước sự sụp đổ của hạnh phúc gia đình, bi kịch của một sự đau khổ đã quét đi một gia đình mà chỉ mới hôm trước đây chung sức xây đắp một gia đình đầy ắp tiếng cười vui, nhưng ngày mai đây, mỗi người sẽ ngồi khóc trầm lặng trong một góc của mình trước nỗi bất hạnh không thể nào cứu vãn. Làm thế nào người thầy cãi chúng ta lại có thể dửng dưng trước một gia đình tan vỡ, nhất là khi cái gánh nặng buồn đau lại đổ trên vai của những đứa con?”

“Hơn thế nữa, các đồng nghiệp thân mến, không phải chỉ có một gia đình bị tan vỡ mà hàng triệu gia đình đang kêu than và khổ não. Vĩ tuyến 17 không chỉ là một đường biên vô hình hay một đường chia tự nhiên của địa hình, mà là một làn sóng phóng đi những tiếng kêu van, trách móc và than khóc của hàng triệu người bị buộc phải xa lìa nhau mà không hề biết tại sao, sự tàn ác của những người đã bắt họ phải chịu đọa đầy vì cách chia và cô quạnh. Làn sóng đó cũng phát đi những tiếng uất hờn và hận thù của hàng chục ngàn người con yêu nước đã phải chết gục dưới làn đạn hay máy chém, duy nhất chỉ vì họ muốn sống trong một đất nước thống nhất, cho họ và cho người khác!”

“Tôi vừa phát âm lên một từ ngữ thiêng liêng: Hoà Bình. Chúng ta tập trung với nhau ngày hôm nay ở đây là để gìn giữ Luật Pháp và Hoà Bình. Nhưng ở Hội nghị này, người ta đã nhân danh Hoà Bình đó để từ chối ghi chuyện của Việt Nam vào chương trình nghị sự. Một vài đồng nghiệp, chắc chắn là rất thiện chí, lại quan tâm đến chữ nghĩa hơn là ý nghĩa sâu thẳm của hai chữ Hoà Bình, đã cho rằng mọi đấu tranh có vũ trang không thể được Hội Nghị ủng hộ vì chúng ta phải bảo vệ Hoà Bình. May mắn thay họ đã nghĩ lại đúng lúc và lương tri đã thắng: chúng tôi đã đứng đây, trên diễn đàn này để mong mọi người quan tâm sâu sắc và ủng hộ những cố gắng của Việt Nam chúng tôi nhằm kiến tạo Hoà Bình và thống nhất lại Tổ Quốc.”

“Chúng tôi thấu hiểu rõ ràng rằng, qua quá nhiều hy sinh mất mát trong Thế Chiến Thứ II, chịu đựng tàn phá cùa bom nguyên tử, sống những ngày như sắp tận thế, nhân loại trở nên tê liệt vì sợ hải, lại càng cảm thấy nhu cầu khẩn thiết được sống trong Hoà Binh và lại càng muốn gìn giữ nó! Nhưng sợ hãi đã trờ thành nổi ám ảnh, mâu thuẫn giữa Chiến Tranh và Hoà Bình đã được đơn giản hoá, bình dân hoá và càng trở nên mù mờ, từ đó cái định kiến Chiến Tranh và Hoà Bình là hai mặt đối kháng lại càng được củng cố. Cách suy nghĩ đó đã cản trở lối suy nghĩ biện chứng cho thấy quan hệ qua lại hai chiều của chúng. Người bình dân thường hay bám vào vào những suy nghĩ hời hợt của vấn đế, họ cũng thường hay lập nên những rào ngăn không thể vượt giữa ngôn từ, chữ này chối bỏ chữ kia. Bổn phận của chúng ta là phải vượt qua cách suy nghĩ chỉ nặng phần ngữ âm và cú pháp, để đào sâu từng ý nghĩa sinh động trong nội dung từng câu chữ, nhận thức chúng qua thực tế cụ thể và sinh động. Chúng tôi lúc nảy có nói đến câu danh ngôn Hy Lạp “Si vis pacem, para bellum” [Muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh], chúng ta không nên hiểu nó như cái gì gây hại, mà phải hiểu là không có lằn ranh giữa chiến tranh và hoà bình.”

“Chúng ta nhớ rằng năm 1938, ông Neville Chamberlain đã ký kết Hiệp Uớc Munich và tuyên bố rằng hoà bình đã được cứu vản! Sai lầm: hiệp ước đó chỉ là là một báo trước cho cuộc chiến xảy ra một năm sau đó! Ngược lại, một cuộc chiến với chính nghĩa và hợp pháp chống lại kẻ xâm lăng giành lại độc lập cho Tổ Quốc và tự do cho Nhân Dân, chấm dứt sự chia cắt hai miền, biến nước mắt vì khổ đau thành nước mắt của mừng vui là có phải chăng là một cuộc chiến báo hiệu cho một nền hoà bình công bằng, vững bền và thật sự, nó đoàn tụ những gia đình ly tán, chấm dứt việc khóc than của những kẻ vô tội, làm những nụ cười khô héo nở hoa trở lại trên môi, mang lại hạnh phúc và hy vọng cho trái tim, tìm được niềm vui của cuộc sống, được tái sinh trở lại như một con người. Trong ngôn ngữ của nhân loại, hay ít nhất là của chúng tôi, cuộc chiến đó tên gọi là Hoà Bình.”

“Không phải bổn phận của chúng ta, những Luật Sư Dân Chủ, là làm dễ dàng cho việc thiết lập nền hoà bình như thế trên thế giới bằng cách ủng hộ những cuộc đấu tranh để có một kết thúc thực mỹ mãn. Cho phép tôi được nêu vấn đề để mong quí vị quan tâm. Tôi hy vọng rằng khát vọng của dân tộc tôi sẽ không bị biến thành thất vọng và tôi hy vọng nhận được những giúp đỡ động viên của quí vị để giúp dân tộc tôi cống hiến nhiều hơn nữa”.

Những cố gắng đã mang lại thành công mỹ mãn và chúng tôi đã đạt được những gì mà dân tộc mong đợi.

Trên đường về nước chúng tôi đã được đoàn Sec mời ghé thủ đô Prague để dự vài buổi làm việc chung. Chúng tôi nhận lời.

Đối thoại với Luật Sư người Séc

Tiếng Pháp được dùng trong buổi thảo luận với Luật Sư đoàn, và vấn đề được bàn là một quan tâm rất lớn của giới Luật gia ở các nước Cộng Sản. Các bạn chủ nhà bắt đầu cuộc thảo luận.

– Trong một nước mà sự phân quyền được áp dụng, thông qua tổ chức các Toà Án, quyền Tư Pháp thi hành Luật và chế tài những kẻ phạm pháp. Nhưng muốn những sinh hoạt Tư Pháp được vận hành tốt và Luật Pháp được áp dụng, giới Luật gia phải hành nghề với tất cả lương tâm và trách nhiệm, vì thế bản thân họ không thể tự đứng ra bảo vệ quyền lợi riêng của mình mà phải nhờ đến sự can thiệp của Hiệp Hội Luật Sư, nhất là vào những khi họ bị chính quyền tăng cường áp bức trong một bối cảnh xã hội phức tạp, hay những khi xảy ra xung đột giữa các hội viên với nhau. Vấn đề nêu ra là để thấy là: chúng ta có cần một sự cho phép của những giới chức chính trị để được hành nghề Luật Sư hay không?

 Tôi đang ở vị thế mà tôi có thể thoả mãn sự tò mò của các bạn. Ở Pháp, năm 1931, khi tôi tuyên lời thề trước Toà Phá Án ở Monpellier, họ không hề đòi hỏi bất cứ hình thái cho phép nào. Để hành xử một nghề tự do, chuyện xin phép một thẩm quyền nào đó là một điều đáng nực cười vì nó đã đánh mất quyền tự do của người này. Ngay cả chuyện quốc tịch cũng không là vấn đề, ít ra là cho những người là công dân của Pháp. Chỉ có hai đòi hỏi duy nhất: một là phải tốt nghiệp một Trường Luật, để nói rằng là đã có một trình độ hiểu biết Luật Pháp tối thiểu và điều thứ hai là chưa một lần mắc tội hình, một lần nữa để nói rằng mình có một đạo đức tốt.

– Rất có lý. Nhưng tại sao ở những nước Cộng Sản, nhà lãnh đạo chính trị cho rằng họ phải nắm Hiệp Hội Luật Sư và cho rằng chúng ta, những người hành nghề phải tuỳ thuộc nơi họ?

 Điều đó có thể giải thích được. Ở một nước Cộng Sản, Đảng tuyệt đối độc quyền chính trị, nắm giữ mọi quyền hành; theo chủ nghĩa Cộng Sản giai cấp nắm quyền không bao giờ san sẻ quyền lực cho bất cứ ai khác. Để mãi mãi nắm quyền, hưởng mọi đặc quyền, kéo dài đến vô tận, khai thác đến tột cùng của chiều sâu; nói một cách gãy gọn, đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không bao giờ có bất cứ loại ngành nghề nào là nghề tự do, không có nghề Luật Sư, không có nghề Bác Sĩ mà chỉ có những người là nhân viên làm việc và ăn lương của Nhà Nước, phải nhanh chóng thi hành lệnh của họ. Khi mà Đảng và những người chóp bu không thể có mặt ở mọi lúc mọi nơi để hành xử quyền tuyệt đối của mình, họ bắt buộc phải nhờ vả đến những người có khả năng, mà khả năng nếu có, chỉ là khả năng tuân chỉ người chủ của mình một cách mù quáng và tự động. Hậu quả là những người nắm giữ quyền hành từ cao đến thấp đều làm việc không với kiến thức hay khả năng cần thiết mà bằng sự thiếu sót về văn hoá và sự ngu dốt! Ở vài nước, Bộ Trưởng Giáo Dục chưa hề qua hết lớp Trung Học Phổ Thông, Bộ Trưởng và Thứ Trưởng Bộ Tư Pháp chưa hề học qua Trường Luật. Trong những hoàn cảnh đó, một Luật Sư Đoàn chân chính làm sao có thể hoạt động được? Bị lệ thuộc hoàn toàn vào nhà cầm quyền, Luật Sư Đoàn không thể sinh hoạt theo như truyền thống được.

– Chuyện xảy ra như thế nào?

 Bước đầu, nhà cầm quyền chọn một số người để đưa vào Luật Sư Đoàn: đa số là những nhân viên hưu trí với một lương hưu chết đói và một vài người trẻ tốt nghiệp ở những nơi gọi là trường Luật do một số biết nói chuẩn tiếng Nga và đã học được một vài điều bóng bẩy của Hệ Thống Tư Pháp Liên Xô. Đám người này là những đầy tớ ngoan ngoãn cho Nhà Nước. Cùng lúc ấy, những người đau khổ để lộ một vài ý muốn độc lập thì bị loại ngay tức khắc khỏi Luật Sư Đoàn và bị mất phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả thu nhập. Chỉ nội bao nhiêu đó cũng đủ làm cho họ trở nên cam tâm thuần phục.

Hơn nữa, cái tên là “kẻ bảo vệ nhân dân” gán cho họ cũng để nhắc nhở là họ không phải là những Luật Gia với những kiến thức về Luật đang hành nghề tự do, họ không có quyền hay có những phương tiện vật chất, để mở văn phòng tư. Họ là thành phần của một đoàn thể có một văn phòng là nơi làm việc và tiếp thân chủ. Thiên hạ bu những người cố vấn ấy như những con ruồi bu một tảng đường. Giá phí được định bởi Nhà Nước. Lối tổ chức này nhằm thoả mãn hai yêu cầu: thứ nhất, nguyên tắc làm việc tập thể được áp dụng như bất cứ nơi nào. Thứ hai, việc tập thể hoá là có lợi cho Nhà Nước; họ đưa người của họ và chỉ định Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, dĩ nhiên người này là một quan chức, hoàn toàn không biết chi về Luật nhưng lại là một tay cự phách trong việc điều hành, nhất là điều hành quân đội.

– Tại sao Đảng lại than van về Luật Sư Đoàn?

 Thứ nhất, bất cứ nhà cầm quyền nào cũng bị điều kiện hoá bởi khuynh hướng chuyên quyền. Nhưng người Cộng Sản lại bị chuyện này hơn ai hết. Để áp đặt quyền thống trị mà họ rất biết đây là vấn đề hết sức tế nhị, chính quyền cộng sản đã sáng tạo ra muôn vàn thủ đoạn bằng cách đưa nhiều người ngoài vào tổ chức, có khi số người ấy lại nhiều hơn là người của chính tổ chức. Bằng cách trộn lẫn người trong người ngoài như thế trong một tổ chức quần chúng, Đảng kiểm soát họ dễ dàng hơn, hiệu quả hơn và gặt hái thành quả của một khối nhân sự mà trong đó có tay sai của mình. Những tay sai như Angus và Ceberus. Bên cạnh đó, bằng cách cấm cản người của họ dùng lý trí và ngôn từ, Đảng đã hạ họ xuống hàng động vật, nhồi nhét họ những phản xạ để biến họ thành những người máy. Chẳng phải không có lý do mà bà phù thuỷ Circé đã biến tù nhân của bà ta thành những con heo được phú cho tài năng duy nhất là biết nhảy qua chiếc máng ăn khi nhận hiệu lệnh. Tất cả các tay nắm quyền đều chung mơ ước là có được chiếc đũa thần của thầy phù thuỷ.

Nhưng, nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới Luật gia, trước hết là vì họ là người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì Luật gia là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái mồm để nói, hai thuộc tính gây ác cảm nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của họ. Hơn nữa, trong giới trí thức, giới Luật gia lại càng nổi trội với kiến thức về Luật, thông thạo, thường nắm vững những hội nghị và những cuộc phê bình, và còn hơn nữa là họ có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt vào vị thế tương phản với những con người máy khúm núm nịnh bợ với những kẻ chuyên quyền. Từ đó, trong khi tác nghiệp bảo vệ quyền lợi thân chủ trước các cấp Toà Hình Sự, rất thường khi, họ trở nên có thái độ khinh thường, ngay cả láo xược trong những lúc kình chống lại hệ thống Pháp lý của công quyền hay các cấp lãnh đạo chính trị. Đối với quần chúng, trong khi những nhà “bào chữa nhân dân” luôn vạn lần cúi đầu, thì giới Luật gia đứng thẳng trên tầm vóc của mình, gây sự chú ý và vì thế đã trở nên đối tượng bị ghét hận của giới cầm quyền. Họ theo mẫu mực của La Bruyère và chấp nhận đứng về phía của Nhân Dân.

– Có thể nói là giới Luật Sư là một thành phần riêng của thế giới người trí thức?

 Thượng Đế lại phò trợ cho họ! Họ nắm những khuyết điểm của người Luật Sư là những người không chịu hy sinh, không nghĩa danh liệt sĩ, càng không muốn việc thay đổi chính quyền và thường là những kẻ cơ hội chủ nghĩa. Nhưng là người trí thức, họ lại là những người dân đầy tính dân chủ chảy trong dòng máu. Tôi nghĩ rằng tôi có thể khẳng định rằng Luật Sư Đoàn là một tiêu chuẩn của nền Dân Chủ, rằng ở nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật Sư Đoàn chân chính hoạt động, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng.

– Bạn hãy cho chúng tôi biết nơi nào có một thể chế như thế?

 Rất dễ hiểu. Trong khi tác nghiệp, và có được quyền tự do ngôn luận, tức là tự do tư tưởng, người Luật Sư sẽ phản đối nạn chuyên quyền của nhà chức trách, sự bất công của hệ thống pháp chế. Bất cứ chế độ chuyên chế nào cũng không chấp nhập quyền lực của họ bị đặt vấn đề, chấp nhận những cái điên rồ của nền pháp lý của họ bị bóc trần. Chỉ có ở những nước Dân Chủ, người dân mới có thể thấy cảnh đó.

– Nhưng vần đề là làm sao một Luật Sư Đoàn với ý thức trách nhiệm của mình, gồng mình can đảm để thực thi Dân Chủ đồng thời làm cho guồng máy chạy?

 Đây là một câu hỏi chính đáng! Luật Sư Đoàn chỉ có thể hoàn thành một cách có hiệu năng vai trò của mình càng nhiều càng tốt, duy nhất là phải có một nền Tư Pháp độc lập ghi rõ trong Hiến Pháp và Luật Sư Đoàn tự mình phải ý thức được trách nhiệm của mình. Toà Án phải là nơi dũng cảm cũng như là nơi của chính trực và liêm khiết, là nơi luôn luôn có quyết tâm mãnh liệt trong việc áp dụng Luật và Công Lý mà không dính đến những hệ luận về bổng lộc hay lợi ích cá nhân do tham nhũng đưa đến. Toà Án và Luật Sư Đoàn, với danh dự và phẩm giá như là hai đức hạnh đương nhiên, là hai cột trụ của một nền Dân Chủ.

Toà Án và Luật Sư Đoàn liên kết với nhau trong cùng một cái nhìn về những ràng buộc của nghề nghiệp, cùng một niềm tôn trọng với Luật Pháp và Công Lý.

– Nhưng ngành Tư Pháp chỉ chăm lo việc áp dụng Luật và trừng phạt kẻ phạm pháp. Nó chỉ tiêu biểu cho khoảng một phần ba của một nền Dân Chủ.

 Vả lại, tự bản thân, nó bảo vệ cho nền Dân Chủ nằm trong một cấu trúc mà nó tham gia. Nền Dân Chủ mà “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân” tự nó là tập trung trong tay ngành Lập Pháp nơi làm ra Luật ; và ngành Hành Pháp sẽ lo áp dụng Luật. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có quyền, với những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật Pháp. Nguyên tắc cơ bản của một nền Dân Chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ quả là ba ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và tự kiểm soát lẫn nhau”, tự cô lập mình trong một cách nào đó khỏi phải đi trật đường, rơi vào xa cách và vào cảnh bên lề, để giữ gìn cho một chính quyền vì dân và do dân.

Như thế, việc chia ra làm ba ngành (Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp) đã ngăn chận những kẻ độc tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm hoạ gây nên bởi sự độc quyền về chính trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu, có thể được tránh khỏi hay có thể giảm đến mức tối thiểu.

Giới Luật Gia Séc rất kinh hoàng khi biết về sự can thiệp của chính trị và của những kẻ độc quyền vào lãnh vực Luật Pháp, về việc Đảng nắm hết chính quyền, cám ơn chúng tôi đã giúp xua tan những khổ tâm của họ. Trước đó họ thấy những tác hại nhưng không làm sao tìm ra nguyên nhân, lý do là họ sống trong một thế giới bưng bít, không hề nhận được một thông tin gì từ thế giới bên ngoài, mà chỉ thấy một dân chúng quỳ lạy suy tôn thần tượng và đồng ca những bài kinh cầu để vinh danh chủ nhân của họ. Họ thấy những tác hại một cách mập mờ rối rắm, nhưng lại không làm sao tìm ra giải pháp cho vấn đề. Ít ra, giờ đây họ đã thấy một chút đại cương về toa thuốc của cơn bệnh đang tàn phá đất nước mà họ là những người đang chứng kiến. Chúng tôi đã mở mắt và mang cho họ nét đại cương của một nền Dân Chủ. Chúng tôi đã đốt ngọn nến tò mò của tri thức, họ sẽ tự tìm thấy những kiến thức với những tìm tòi nghiên cứu. Khi chúng tôi lên đường, trong lòng chúng tôi mong mỏi rồi đây họ và nhân dân của họ sẽ được hưởng ánh sáng ban mai của nền Dân Chủ đang chói sáng về phía chân trời.

Đối thoại với Luật Sư Liên Xô

Ghé Moscova trên đường về, chúng tôi được đoàn Luật Sư Dân Chủ của Liên Xô đón. Tôi là trưởng đoàn nên được đưa vào khách sạn Metropole, đối diện với nhạc viện Bolchoï. Căn phòng dành cho tôi được trang hoàng lộng lẫy với những đồ xưa quý giá. Những ngọn đèn pha lê chiếu hắt trên những bàn ghế lộng lẫy thời Sa Hoàng, nhưng phòng tắm lại chiếu rực với những trang bị hiện đại. Một chiếc xe hiệu Zim Zis được dành riêng cho tôi sử dụng; tôi có thể ngả mình nằm dài trên chiếc ghế phía sau, tha hồ mà êm ái. Nhưng tôi cũng cảm thấy chiếc xe được lái tới 120 km một giờ dù rằng người tài xế tỏ ra rất kinh nghiệm và hoàn toàn làm chủ tay lái của mình. Nhưng, hắn thường nực mùi vodka….

Chúng tôi trở nên tò mò và ao ước được nghe những thông tin về những vấn đề quan trọng. Nhưng chúng tôi đành phải kềm chế sự tò mò vì lẽ chúng tôi biết rằng trong thế giới cộng sản, thật không đúng cách khi đặt những câu hỏi mà người đối thoại cảm thấy rất ngại ngùng khi trả lời. Luật im lặng được áp đặt cho họ cũng như cho chúng tôi. Vì thế, như thường lệ, chúng tôi tránh đặt câu hỏi, tự giới hạn mình vào việc nghe những báo cáo đọc đã được đọc đi đọc lại nhiều lần, những báo cáo chắc chắn đã được chỉnh sửa bởi những “người trách nhiệm” của Đảng. Ai cũng có thể nhận biết trước màu sắc, giọng điệu và nội dung của nó. Sau màn tố cáo chế độ Tư Bản thối nát là phần ca tụng những thành quả của chế độ Cộng Sản và, đặc biệt là phần một trăm phần trăm hoàn thành kế hoạch hằng năm và sau hết là phần vinh danh Đảng và các lãnh đạo. Nhưng lần này, phía chủ nhà Liên Xô đã phá lệ. Thứ nhất, không có màn báo cáo thành tích của Luật Sư Đoàn. Sau đó là họ đề nghị trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Hết sức kinh ngạc, chúng tôi tưởng như đã nhảy văng khỏi ghế ngồi. Đây là lần đầu tiên mà hai cụm từ Trách Nhiệm và Nhà Nước được gắn kề, trách nhiệm của Nhà Nước đã được nêu lên. Chúng tôi tự hỏi phải chăng những ý kiến của Đại Hội lần thứ XX của Đảng Bolchevik đang nhập cuộc và phải chăng ảnh hưởng của Khrushchev đang thắng thế trên đất nước Liên Xô. Mặc kệ, chúng tôi thật vui sướng khi được cùng các đồng nghiệp Liên Xô bắt đầu chung những điều tốt như thế. Không còn gì hấp dẫn hơn là được lướt đi trên con đường không giống ai và có vẻ dị hợm, con đường mà chỉ vài năm trước đây đã có thể đưa chúng tôi trực chỉ lên máy chém hay đi tù ở Siberia!

Người chủ nhà Liên Xô đón tôi với nụ cười.

– Tôi thấy trong mắt của bạn chói sáng một sự ngạc nhiên. Vâng, rất đúng như thế: chúng ta sẽ trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Khi Stalin còn sống, đây là một chuyện cấm kỵ và người ta có thể bị nguy hiểm dù chỉ ám chỉ nhẹ nhàng đến nó: Nhà Nước không bao giờ chịu trách nhiệm về chuyện gì… Bây giờ thì chúng tôi bớt bị trói buộc và có thể, trong vòng giới Luật Gia, có thể bàn cãi khá nhiều vấn đề!

– Chúng tôi chúc mừng ông và rất vui vì điều ấy. Có thể nào, trong thời gian sắp tới, chúng tôi có thể được tự do và hoàn toàn được tự do phát ngôn trong những buổi thảo luận của chúng ta?

 Ngay cả ngày hôm nay, chúng ta được ở trong phòng riêng vắng những đôi tai bí mật muốn nghe những gì chúng ta nói, chúng ta thật có toàn quyền nói những suy nghĩ của chúng ta.

– Thật là một thời kỳ lạ, một thế giới kỳ lạ! Những Luật Gia lại cư xử như những kẻ âm mưu đang giấu mình khỏi cặp mắt của công an và gián điệp. Nhưng họ đang âm mưu vì Pháp Luật và Công Lý. Có những yếu tố giảm án nếu họ bị bắt và truy tố trước Toà Án.

 Hay đó lại là yếu tố tăng tội khi gặp phải ông quan toà cộng sản hề khoan nhượng và ai cũng rõ sự không khoan nhượng đó đã cấu thành từ sự khiếp sợ của họ đối với Luật Pháp và Công Lý.

– Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề đấy. Nếu một nhà nước cộng sản, cũng như trong thời kỳ quân chủ tuyệt đối, đều cho rằng họ không chịu trách nhiệm về bất cứ hoạt động của họ, thì việc của chúng ta còn lại là tập trung vào trọng tâm của vấn đề. Con người tự phân biệt mình với thú vật và cho rằng mình cao hơn thú vật là nhờ ở những đức tính mà chỉ con người mới có. Nhưng lương tâm, tư cách và danh dự lại liên hệ đến đạo đức và dính líu đến mỗi cá nhân. Mỗi người càng có nhiều đạo đức thì càng được nhiều người kính nể. Thiên Đường là nơi thiêng liêng nhưng nơi ấy thì con người không được mời đến. Trong đời sống xã hội, nơi mà người chung đụng với người, nơi mà những quan hệ xã hội được hình thành và tổ chức, mỗi người phải chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lời nói của mình, phải giữ gìn cho chính bản thân, trong nghĩa là không gây tác hại về quyền lợi vật chất, thể chất cũng như tinh thần cho người chung quanh. Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì nếu mà bất cứ vụ phạm luật hay làm thiệt hại cho tài sản người khác đều phải bị trừng phạt và bồi thường. Như thế trong một thế giới văn minh, chính là cá nhân và những trách nhiệm của cá nhân là nền tảng để xây dựng xã hội.

Cái nguy hiểm thường trực treo trên đầu nhiều nhà nước trên thế giới là những kẻ bạo quyền luôn đặt mình trên nhân dân của họ, tự cho mình những đặc quyền do sự độc quyền mà họ nắm, tự cho mình trên cả Luật Pháp và tỏ ra vô trách nhiệm. Nói như thế là để nói rằng những ý tưởng và hành động của họ phải được thảo luận và phê bình, những lỗi lầm của họ phải bị trừng phạt.

 Kẻ độc tài xem ra giống như vợ của Caesar: tuy không có chi để nghi ngờ, thế mà Messalina lại phải lang thang suốt đêm khắp thành Roma! Dĩ nhiên, không có tên độc tài nào lại chối bỏ những trách nhiệm mà hắn biết rõ là chỉ là những trách nhiệm của trẻ con hay của những người điên hay mất trí. Những khi đó, ngay đối với những chuyện không được ai nói đến, cũng không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra. Với một xuất thân ngu dốt, không văn hoá kẻ chuyên quyền không hề ý thức được những gì bất bình thường đang xảy ra. Để giành mọi đặc quyền cho mình, họ đưa ra luận điệu ưu việt: họ tán tụng đã liên hệ được với những người ngoài hành tinh, họ là “con của Trời”, họ là “người đã được chọn” hay tự cho mình là chính là Quốc Gia. Louis VIV đã tuyên bố “Quốc Gia chính là ta”. Bốn thế kỷ sau, trong một buổi nhận huy chương cao quý của dân tộc, De Gaulle đã tuyên bố “Quốc Gia không tự mình gắn huy chương cho mình”!

– Bằng cách chiếm hữu, một cách không tốn kém và cũng chẳng có chứng cớ chi, một gốc gác siêu phàm, một thực thể vô hình, bằng cách cho mình là Quốc Gia, kẻ chuyên quyền tự cho mình đứng trên dân chúng, và vì thế được miễn trách mọi trách nhiệm. Kẻ chuyên quyền cộng sản hãnh diện là những người duy vật vô thần thì không kêu rằng họ có nguồn gốc siêu phàm. Họ cũng chẳng cho rằng họ là Quốc Gia. Chỉ có lực lượng nhân dân đưa họ lên đỉnh của quyền lực.

Rất thú vị nếu chúng ta cùng nhau phân tích tiến trình này, nó không giống như tiến trình nắm chính quyền như thời quân chủ chuyên chế.

 Vào thế kỷ 17, ở Pháp, do sự chia rẽ của giai cấp phong kiến và đồng thời cũng nhờ sự tham lam kinh hoàng của giai cấp tư sản đồng minh, nền quân chủ đã thắng phong kiến một cách khó khăn (phong kiến vẫn chưa thừa nhận sự thất bại), quyền lực như tù trên Trời rơi xuống. Biểu tượng “vua-mặt trời” chỉ là để chỉ sự khao khát của Triều Đình chứ không có nghĩa là Thiên Đàng hay Ý Trời. Vua Louis XIV tuyên bố “Quốc Gia là ta!” Nhưng, khi ông ta tự nhận mình là Quốc Gia thì ông ta không hề nhận là có trách nhiệm với nhân dân. La Bruyère và Fenneton tố cáo dân chúng nghèo khổ kinh hoàng nhưng nhà vua không hề cảm thấy có trách nhiệm cho hoàn cảnh đang xảy ra. Câu nói lịch sử mà ông ta nói là chỉ để giữ một ý đơn giản là ông ta sẽ dùng quyền hành mình để đập tan mọi mầm mống phiến loạn, tiêu diệt mọi mầm bệnh truyền nhiểm gây chia rẽ và làm tan rả sự thống nhất còn đang dao động của Đất Nước. Việc lên ngôi của vua Louis XIV được quy định bởi Luật của Triều Đình, nhưng cuộc xung đột chính trị với giai cấp phong kiến mà ông ta tiến hành lại được sự ủng hộ của nhân dân, của giới tài phiệt, giới tư sản trí thức và giới tư sản nghị viện. Nếu ông ta không phải là nạn nhân của những điều ngớ ngẫn vô ích của chính ông ta, nếu ông ta có những cái nhìn chính xác và gẫy gọn về những quyền lợi hiện tại và tương lai, ông ta đã phải dựa vào dân thì nước Pháp đã tránh được một cuộc Cách Mạng.

Đối với những gì liên quan đến Liên Xô, nhân dân đã thoát những ngày gian khổ vào cuối triều Louis XIV. Liên Xô đã hưởng vinh quang và sự vĩ đại của một cường quốc. Nhưng chỉ có Thượng Đế mới biết giá phải trả là bao nhiêu cho việc này? Sau cái chết của Staline, nhờ những hớ hênh ít nhiều được dàn dựng, và cũng nhờ những lời kêu than vì đau đớn, tiếng gầm uất hận của hàng ngàn hàng vạn gia đình, khắp miền Đất Nước, có con có chồng bị giết, bị tra tấn đến chết trong những trại, những lao tù ở Siberia, sự thật về Stalin đã được mọi người biết. Chính quyền cách mạng, vừa mới được xây dựng, còn đang chao đảo, và kẻ thù, trong và ngoài nước, chỉ mong nó chết đi. Cần thiết phải có một người với nắm tay sắt để lèo lái những bước đi, để sống còn và phát triển. Kết quả đã vượt qua những hy vọng. Từ một nước yếu kém, kinh tế yếu kém, chúng ta đã thành một sức mạnh quân sự đủ sức đánh bại quân phát xít Hitler và trở thành một trong những nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Stalin xứng đáng được dân chúng tôn sùng vì đã được sống những giờ phút vinh quang của Lịch Sử Liên Xô. Bất hạnh thay, ông ta cũng phạm những tội ác kinh hoàng mà hồ sơ chồng chất năm này qua năm nọ.

Tiến trình nắm chính quyền của những kẻ chuyên quyền cộng sản ở Việt Nam lại là một tiến trình bình thường. Vô số quần chúng ở nông thôn, được kích động bởi một số người, vỡ oà ra hiểu rõ nỗi thống khổ của mình: bị bóc lột bởi phong kiến, bị đàn áp bởi thực dân… Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dựa vào thế thuận lợi lịch sử của tình hình thế giới, mặt khác trận đói kinh hoàng đã giết hàng triệu sinh mạng, những người kích động dân chúng còn sống sót nổi dậy và tiêu diệt kẻ thù, chiến đấu mãnh liệt để chiếm lấy thức ăn và áo mặc. Mục tiêu rất đơn giản và rõ ràng, nhưng bọn chuyên quyền đã thất bại và không đạt được mục tiêu tưởng chừng như ít ỏi đó. Mặc dầu vậy, khẩu hiệu “Cơm ăn, áo mặc” cũng đủ biến giai cấp nông dân thành kẻ cuồng tín và biến họ thành những kẻ đi theo cách mạng. Vì thế, cách mạng thành công là nhờ lực lượng quần chúng. Nhưng phe cách mạng cảm thấy cần chính thức hoá sự thành công của mình bằng một cuộc bầu cử Quốc Hội. Không thành vấn đề nếu mà tuyệt đại đa số các đại biểu là thất học, không hề hiểu ý nghĩa của lá phiếu mà họ được mời tham gia. Họ đến tham gia Quốc Hội theo tiếng gọi của một đợt tuyên truyền rất chuyên nghiệp và đến bỏ phiếu thế thôi. Thủ tục hình thức Luật định đã được cứu vãn, nền “Dân Chủ” đã thành hình và những người làm Cách Mạng hả hê vì đã kết dính sự hợp nhất của họ với nhân dân.

– Còn có những gì cần khác hơn?

 Vẻ bề ngoài như thế là đủ. Nhưng có kẻ còn muốn vượt qua vẻ bề ngoài để cố gắng nắm cái thực tiễn. Dù không biết đọc, biết viết, nhưng người ta đã bỏ phiếu và diễn tả rõ ràng ước muốn của mình. Đây là chỗ hiểu lầm, mà như một số người đã nói, mà thảm cảnh bắt nguồn. Người Cộng Sản tưởng rằng đã chiếm được trái tim của nhân dân. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà dù sớm hay muộn họ phải dứt bỏ. Lý do hay nhất là, vào những năm 1945-46, có một số người mà con số không quá mười đầu ngón tay, từ Liên Xô hay Trung Quốc quay về nước với một mớ mơ hồ và không rõ ràng về chủ nghĩa Cộng Sản.

– Nhưng người dân đã dùng lá phiếu để bầu cho ai?

 Người ta sẽ trả lời cho bạn là họ bầu cho ông Hồ Chí Minh, họ không bầu cho con người cộng sản đang giấu mặt kín bưng trong cuộc chơi và con người đó không hề đả động gì đến việc đấu tranh giai cấp, nhưng, với dáng dấp một nhà nho truyền thống, với chùm râu không thể thiếu, ông ta chỉ có một câu nói trên cửa miệng: “Đoàn kết, đại đoàn kết”, có nghĩa như ông ta đang đặt mình là người đối lập với đấu tranh giai cấp. Một vài lão thành cộng sản đã xì xầm là ông ta đã từng tự phê bình trước mặt Stalin! Trong bất cứ chuyện gì, tên Hồ Chí Minh đã trở thành bùa chú để chống tai ương và mang lại hạnh phúc. Tệ sùng bái cá nhân đã thành hình, ông ta đã được thần tượng hoá, tên ông ta được dùng khắp nơi, quyền lực của ông được xử dụng để đưa nhân dân vào thế là người có lỗi càng nhiều càng tốt [*]. Vì vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ toả ra một ý nghĩa dân tộc và không cộng sản, trong khi Đảng, cố tình hay vô ý, kéo cả tấm chăn về phía mình và chiếm hưởng tất cả niềm tin của nhân dân.

– Đây là một sự lập lờ đánh lận con đen nhưng nó bi thảm ở chỗ nào?

 Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối mình, nghĩ rằng mình có thể đưa ra những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa Đất Nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi Luật Pháp, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân. Vì vậy, vấn đề quan tâm là trách nhiệm của Nhà Nước và chính xác hơn, là trách nhiệm của bọn chuyên quyền đã thống trị nó.

– Một nghiên cứu về những kẻ chuyên chế trên thế giới trong lịch sử và qua thời gian đã cho thấy chúng có những nét chung không thay đổi mà chúng ta cần phải nhớ đến. Thứ nhất, ngay cả trong thời kỳ xưa kia của nền quân chủ chuyên chính, vai trò của nhân dân luôn luôn là quyết định, dù rằng họ không đóng vai nổi bật trên chính trường. Mọi cuộc đảo chánh, mọi cuộc Cách Mạng chỉ có thể thành công nếu được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chủ nghĩa Marx nói đúng khi cho rằng lịch sử là do quần chúng làm nên. Những học thuyết chủ nghĩa, những lý thuyết đều phát nguồn từ bộ óc của cá nhân, nhưng hành động, muốn có hiệu quả, lại phải tuỳ thuộc vào khả năng và sức năng động của quần chúng. Chủ nghĩa Marx đã dạy điều như thế nhưng những tay chuyên quyền lại hay quên hay không để ý đến. Những tay chuyên quyền khi đã đạt địa vị thì quay lưng và tự cô lập mình và xa rời quần chúng, không còn lắng nghe tiếng nói hay lời than phiền, ước vọng của nhân dân. Chúng gây hại cho nhân dân, chúng bịt tai thành điếc nên không còn nghe lời than van hay đòi hỏi của nhân dân, và như thế họ đã tự giết cả chính mình.

Vì thế, cần phải biết rằng có một ràng buộc qua lại giữa kẻ nắm quyền và nhân dân. Một khi được nhân dân đưa lên đỉnh cao của quyền lực, kẻ nắm quyền phải có trách nhiệm lo cho quyền lợi của nhân dân, và trong mức có thể, họ phải làm tăng trưởng quyền lợi của nhân dân theo số lượng và chất lượng. Một thoả thuận hai bên giữa những kẻ nắm quyền và nhân dân, dù không bằng văn bản hay lời nói, nhưng dưới dạng hiểu ngầm, căn cứ trên những truyền thống lịch sử hay xã hội. Ngay khi những kẻ chuyên quyền vi phạm bổn phận của mình, gây hại cho quần chúng thì lập tức quần chúng được qưyền huỷ bỏ những ràng buộc về phần họ; kẻ chuyên quyền sẽ bị nhân dân trừng phạt và có thể bị nhân dân áp đặt án tử hình.

 Hơn thế nữa, trong suốt thời gian nắm quyền, bất kể kẻ cầm quyền nào cũng thực hiện những chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Nhưng dù đã thực hiện được nhiều chuyện tốt cho dân chúng họ vẫn không thể được miễn trách cho những chuyện xấu mà họ đã gây ra. Chỉ có nhân dân mới có cái quyền tối thượng đưa ra phán xét là giữa cái tốt và cái xấu cái nào nặng hơn cái nào. Nếu cái tốt thắng, thì cán cân nghiêng về phía kẻ nắm quyền, và họ sẽ được dân chúng biết ơn một cách chân thành, họ sẽ được đưa vào vinh quang của Lịch Sử mà con cháu đời sau sẽ luôn nhớ! Nhưng nếu cán cân nghiêng sâu về phía xấu, trong cuộc đời của họ, họ sẽ bị hạ bệ vứt đi, và sau khi chết, tên họ sẽ bị nguyền rủa muôn đời.

– Trường hợp của Stalin là môt ví dụ điển hình. Ông ta đã thực hiện được một số lớn chuyện tốt nhưng đồng thời cũng làm một số lớn chuyện xấu. Nhưng không có ai dám chỉ trích những việc xấu mà Stalin đã làm vì cái nguy hiểm kèm theo rất cao. Cái tệ hại nhất là hồi ấy người đời tranh nhau ca tụng Stalin! Bây giờ thì công lý đã có cơ hội để vận hành những nguyên tắc mà dân chúng đã xây dựng qua những tháng ngày sống trong đắng cay và đau đớn. Từ nay trở đi, không có kẻ cầm quyền nào có thể đòi hỏi là những chuyện tốt họ đã làm có thể làm tan biến trách nhiệm về những tội ác mà họ đã để lại nỗi kinh hoàng trong tâm trí của người dân lương thiện. Đó là những trách nhiệm có tính hình sự. Có những tình huống làm nặng thêm hay làm giảm nhẹ tội, nhưng dứt khoát là không có chuyện miễn tội.

 Đây không phải là chuyện xử tội kẻ cầm quyền, mà là chuyện những con người phải trả lời về những tội ác mà họ đã làm. Nhưng, khi mà những sai lầm, hư hại phát xuất từ một chính sách hay đường lối chính trị, sự tàn phá có thể là gây ra trên bình diện rộng lớn và tan thương, trách nhiệm của kẻ cầm quyền vẫn được coi là chính trị… Không có gì đáng ngạc nhiên: trong bậc thang giá trị của con người, mạng sống là luôn luôn cao hơn những của cải vật chất mà họ nắm trong tay. Mặc dù vậy, đã có những người bị mất mạng vì sự cẩu thả, vô ý hay có khi vì chủ ý xấu của người hay một cơ quan của Nhà Nước. Dĩ nhiên, nếu người phạm tội một cách có ý thức, người này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của họ trước Pháp Luật, nhưng rất nhiều khi họ không có tiền để bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân hay trả tiền cho thân nhân của người bị chết. Nhà Nước phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp, dựa trên tính liên đới giữa kẻ phạm tội là người đã hành động trong khuôn khổ trách nhiệm được nhà nước giao phó. Nếu không, đó là một trách nhiệm tập thể của chính quyền đã gây ra thiệt hại trong khi thi hành một công việc mà Nhà Nước hay kẻ cầm quyền trao cho, đã vô tình gây thiệt hại vật chất cho một hay nhiều công dân, nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do nhân viên của mình gây ra. Ở Pháp, nguyên tắc trách nhiệm hành chánh của Nhà Nước và của tập thể công nhân viên nhà nước là được công nhận. Có nhiều cấp Toà Án hành chánh mà cao nhất là Hội Đồng Quốc gia (Conseil d’Etat) mà quyền cao nhất là có thể huỷ bỏ một phần hay toàn diện những quyết định hành chánh nếu những quyết định này gây ra thiệt hại vật chất cho công dân. Rủi thay, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi phải khằng định rằng ở các nước Cộng Sản, Nhà Nước chối bỏ việc chịu trách nhiệm hành chánh, không hề tổ chức những Toà Án Hành Chánh có quyền xét xử Nhà Nước và những đơn vị hành chánh thuộc quyền của Nhà Nước. Vì thế có những vùng rộng lớn mà nhà cầm quyền hành xử như vợ của Caesar – theo ý thích và không sợ ai phán xét. Các cấp cầm quyền cấp dưới và dưới nữa lợi dụng tình hình này ra sức áp bức và khai thác nhân dân là những người mà họ tiếp xúc hàng ngày.

Nếu lãnh vực vô trách nhiệm chính trị càng lớn hơn thì hậu quả lại càng không thể đo lường và sửa chửa được. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền lực. Nhân dân không là gì hết, tiếng nói của họ đã bị bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà Nước là gồm những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý với Đảng; tất cả cái giống người này chỉ có cái lưỡi gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong những điều kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên để đòi truất phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là để đưa ra những đề nghị, những ý kiến để làm đứng lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố sâu của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu cung của Đảng, nơi Thần Bí nhất của Thiên Cung, bao quanh bởi một vòng thành kín bưng như Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc!

Người ta không thể nói chuyện về trách nhiệm, về Luật Pháp đối với chuyện một con cọp đang sẵn sàng ăn tươi con mồi trước mặt. Chưa bao giờ trong lịch sử con người mà lưỡi tầm sét của Thần Zeus – tức cái búa của Thiên Lôi – cùng với cây gậy thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người, làm thành một bộ máy thống trị và áp bức cực kỳ hoàn hảo, một bộ máy chuyên dùng khủng bố làm chất nhờn bôi trơn những trục máy! Hơn nữa, ít nhất là cho tới ngày hôm nay, chưa có một tên bạo quyền cộng sản nào đã bị nhân dân xét xử và kết án. Chúng nó chỉ chết trên giường. Nếu tiếng nói nghe được ngoài hành lang của phòng xác, thì không phải là tiếng nói để vinh danh mà là tiếng nói giành nhau xé cái xác lạnh lẽo kia, và có thêm chăng là những tiếng hét xem ai là kẻ sẽ thay thế vào chức của hắn.

Phân tích của chúng tôi đưa đến kết luận là bạo quyền không bao giờ chịu trách nhiệm về những hoạt động của họ trong cả ba ngành Hành Pháp, Tư Pháp và Lập Pháp. Phải hiểu rằng tình trạng vô trách nhiệm của những người chủ nắm quyền là do, trước nhất là những thủ đoạn tinh vi để kềm kẹp và áp bức của họ, thứ hai cũng phải kể đến tình trạng ù lì của dân chúng. Khi tiếng nói bị ếm nhẹm thì trong lòng trở nên sôi sục uất hận, nhưng dù thế, chưa có một ai dám chịu trách nhiệm với quê cha đất tổ mà giương cao ngọn cờ khởi nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, người phương Đông đã quen sống trong một nồi hơi ép mà kẻ cầm quyền nắm giữ sức nóng và sức ép, đã thành công biến nhân dân thành những kẻ không còn nghị lực, trở thành lãnh đạm và dững dưng trước mọi thứ và mọi người. Tinh thần trách nhiệm là một thiếu sót lớn nhất trong quần chúng. Giới quan chức làm gương, lạm dụng quyền hành, phù phiếm, ăn cắp của công, tham nhũng và lạm quyền. Mẫu mực của quan chức này lại được các thuộc cấp noi theo. Trong các bệnh viện, có người bị chết chỉ vì không có tiền hối lộ cho những người được trả tiển và lẽ ra là phải có bổn phận lo cho bệnh nhân. Trong các kỳ thi và thi tuyển, đề thi được bán cho bất cứ ai chịu trả tiền. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Tinh thần vô trách nhiệm như ngọn gió thổi trên toàn đất nước và kỷ lục của sự phạm pháp và sự vô liêm sĩ luôn luôn bị phá. Sự vô đạo đức cười nhạo sư vô tội và lương thiện.

Sự vô trách nhiệm của giới cầm quyền, trong mọi lãnh vực chính trị lẫn hành chính, không phải là điều bất thường. Nó tròng lên xã hội vòng vương miện của sự dơ bẩn.

– Chúng tôi đồng ý với bạn. Nhưng từ đó bạn muốn đi tới đâu?

 Chúng tôi muốn nhấn mạnh là ác quyền không thể thắng mãi mãi. Chúng tôi không muốn mình là kẻ thầy bói hay nhà tiên tri. Nhưng cuộc đời đã dạy chúng tôi một bài học biện chứng: cùng tắc biến – từ cái xấu cái tốt sẽ đến. Bất cứ khi nào cái xấu đã đến tột cùng của nó thì tự nó sẽ làm phát sinh ra giải pháp trị bệnh cho nó.

– Bạn hãy giải thích thêm để cho chúng tôi có lý do để hy vọng.

 Không có gì là ma thuật ở đây. Các nhà cách mạng Việt Nam hô hào thúc đẩy nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến vì đã làm cho họ thấy xấu hổ là đã không làm gì. Con giun sẽ quằn mình nếu bị ai giày xéo lên nó. Cho đến lúc nào con người, ngay cả kẻ hèn hạ nhất, vẫn còn tiếp tục còn chấp nhận bị phong kiến bóc lột và Thực Dân đàn áp?

Những tiếng nói hô hào như thế quở phạt những người đang trùm chăn trong sự thờ ơ, hèn nhát. Hãy để lúc “chín muồi” đến. Như trận đói năm nào làm vương vãi những xác người chết đói đen kịn trên ruộng vườn và trên những con đường làng. Tất cả sự khốn cùng và sự chết đang ép lên những con người còn trơ xương thì họ sẽ đem hết sức tàn mà tấn công tận sào huyệt của phong kiến và thực dân. Cách Mạng đã ghi nhận một bàn thắng không thể chối cãi được.

Tới đây, chúng ta có thể tựởng tượng rằng, sau một vài nhượng bộ, kẻ cầm quyền vẫn tiếp tục bám víu vào độc quyền chính trị và tiếp tục vô trách nhiệm, tiếp tục tự cô lập mình với quần chúng, đẩy sự khốn cùng lên đến tột đỉnh! Sẽ có lúc mà hàng triệu người sẽ không chịu ngồi đó khoanh tay mà cùng nhau tiến lên chống lại bạo quyền và độc tài. Chúng ta hãy nhớ rằng chính nhân dân là kẻ làm nên lịch sử, đưa lên kẻ cầm quyền và cũng chính nhân dân là kẻ sẽ hạ bệ kẻ cầm quyền đó. Khi mà Đảng không còn làm bổn phận của mình là làm cho dân, họ sẽ được đưa trở về vị trí ngày xưa bởi dân, những người đang lấy lại trong tay số mệnh của chính mình. Khế ước ngầm giữa nhân dân và kẻ cầm quyền từ nay xem như bị cắt đứt. Sự “đúng” đã chiến thắng không màu mè hoa ngữ hay bàn cải dài dòng vô ích… Sau chế độ bạo quyền, một chính quyền chân chính sẽ bắt đầu một ngày mới.

– Tuyệt! Đây là ý kiến nằm trong logic và chuẩn mực. Theo chúng tôi, vần đề có thể được nhìn dưới một góc cạnh khác. Cái góc nhìn của Luật nó có cái lý của nó. Nhưng cái nhìn của xã hội nó cũng không thể bị từ bỏ được. Như bạn đã biết, ở nhiều nước, nhiều chính thể giá trị đạo đức được nâng lên chin tầng mây. Đối với chủ nghĩa Tư Bản thối nát và đang dẫy chết với giới cầm quyền đầy tham nhũng, người làm Cách Mạng tự cho mình là hiện thân cho sự thiêng liêng, trong sáng trong suy nghĩ, tâm hồn không chút vẩn đục, cao cả trong đạo đức và nếp sống. Khuôn mặt tiêu biểu nhất cho con Tàu Cộng Sản là một Hồ Chí Minh huyền thoại với hai mảnh áo quần bằng Kaki bạc mầu và đôi xăng đan làm bằng lốp xe cũ. Thật vậy, giới vô sản đã tìm cách liên kết giai cấp nông dân vào chung mục đích, họ đã chơi cuộc chơi một cách công bằng ngay thẳng và đã đạt được hậu thuẫn của những người cùng chia sẻ điều kiện sống và cùng có chung niềm khát vọng. Đối với những kẻ làm ăn đủ sống, Hồ Chí Minh với chòm râu của một nhà nho truyền thống đã làm say mê họ và làm họ đi theo. Vì thế với cuộc tổng nổi dậy của mọi tầng lớp nhân dân, trong một khí thế hồ hởi mà Cách Mạng đã tiến hành cuộc đấu tranh và đạt được thắng lợi.

Trong thời kỳ quá độ, những bộ óc biết suy nghĩ bắt đầu nhận chân rằng những người làm cách mạng mà tình yêu tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng đáng được đề cao, lại không có đủ văn hoá và khả năng để đưa dân tộc lên một số phận cao đẹp hơn! Những thiệt hại to lớn do những lỗi lầm của họ gây ra đã làm người dân nghi ngờ về khả năng trí tuệ của họ, dù không bị huen ố, nhưng niềm tin của nhân dân về họ cũng đã bị giảm sút, niềm tin mà họ cần có để nâng cao tinh thần chiến đấu. Rủi thay, vì tình trạng không ai chịu trách nhiệm như thế đã mở cửa cho bao nhiêu vi phạm và tội ác; những quan chức của Đảng, với những chữ ký sinh ra vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiểm những con vi trùng của tiền của, để tự mình ngày càng chìm sâu trong vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến khích bởi sự “bất bị quy trách” của xếp mình, trở nên những kẻ đồng loả, tập họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những ung nhọt như thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà họ đã mất cả một thời gian dài mới có được. Đã thiếu văn hoá và khả năng, nay lại mất cả niềm tin yêu của dân là cái cơ sở lớn nhất để họ nắm quyền, một quyền lực mà họ có được là nhờ tư cách đạo đức và cũng sẽ mất nó vì nếu họ thành kẻ ác vô nhân. Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thoã nghèo nàn và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với những kẻ này, bởi những hành động của những người thứ ba, làm tan rả Đảng vì uy tín Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được mầu trắng của sự trong trắng! Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ bị mãi mãi mất và thanh danh của Đảng bị huỷ diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét. Bất cứ chọn cách nào, Đảng cũng sẽ thất bại trên hai chuyện uy tín và thanh danh. Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ mở đầu cho một kỷ nguyên mà ánh sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với việc tái lập nền Công Lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà Nước và những ai đại diện nó.

Dĩ nhiên, chuyên đó không phải là chuyên xảy ra ngày mai. Nhưng nó đáng cho chúng ta mong đợi!

Hãy cho chúng tôi được hy vọng những gì sẽ xảy ra như bạn nói là sự thật. Hãy cho chúng ta được quyền hy vọng ngày mà chúng ta ăn mừng được thấy lý lẽ và công bằng trở lại ở những nước cộng sản là một ngày không xa lắm!

Khi chia tay, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối, nhìn trong mắt nhau và có cảm nghĩ rằng chúng tôi đã cùng chia nhau chung một ý nghĩ. Những suy nghĩ chung với những cảm xúc chia sẽ giống nhau: “Chúng tôi, những người trí thức, một đám người đang bị tất cả những ngươi cầm quyền nguyền rủa, và đặt biệt là những tay chuyên quyền cộng sản. Họ là những người tuyệt vời kỷ luật, và chúng ta là những kẻ mà trong người đã có giòng máu vô kỷ luật đang sôi sục. Họ là những kẻ vui sướng khi nhìn những kẻ cúi đầu tuân phục, hít thở những khói nhang của a dua nịnh bợ, làm những trò ảo thuật, dựng nên những tấn tuồng vĩ đại trên sân khấu. Là những người cứng đầu cứng cổ, chúng ta ngẫng mặt hiên ngang, nhin thẳng vào phía trước với cặp mắt biết quan sát và một bộ óc biết phê phán. Thay vì thốt ra những điều ngu dốt để làm người ta thoả mãn, chúng tôi chọn một sự im lặng đầy trách móc. Chúng ta đã thấy rất rõ cặp mắt của nhà ảo thuật, thấy cái đạo đức của chủ nghĩa hình thức, thấy con dao nhọn dấu dưới tay áo khi chúng vừa lễ độ than mật cúi xuống. Phải công nhận là chúng ta là những người bất trị. Hơn thế nữa, chúng ta không thể biết mình sẽ ở đâu và ngày mai mình sẽ trở thành cái gì!”

Ánh mắt chúng tôi tràn đầy những cảm thông cho nhau. Chúng tôi biết rằng mọi người đã hiểu nhau.

Hai đoàn chúng tôi cùng đồng ý gửi một ý kiến chung đến hai Đảng Cộng Sản Liên Xô và Việt Nam:

“Cho phép chúng tôi được gửi đến quý ông bà những ước vọng và đề nghị của chúng tôi. Quyền lực được giao phó cho quý vị không được dùng để đàn áp, trù dập hay đoạ đầy bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền lợi và bổn phận, bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền hành và trách nhiệm. Nếu quý vị muốn các tầng lớp nhân dân mà quý vị đang quản lý tôn trọng trật tự và sống trong pháp luật, về phía quý vị, quý vị phải có bổn phận chăm lo cuộc sống đầy đủ của nhân dân và luôn luôn bảo đảm họ được hạnh phúc. Nếu được như thế, quý vị sẽ được nhân dân vinh danh trong hàng trăm năm và quý vị sẽ được nhân dân mãi mãi biết ơn!

Nhưng nếu cứ vướng mãi với những hành động dại dột, mất trí hay điên khùng, quý vị sẽ đưa dân tộc vào nghèo đói và đau khổ, tiếp tục làm những chuyện chuyên quyền, phạm luật và vô nhân đạo thì quý vị sẽ không kéo dài lâu! Ngay sau khi quý vị chết, nhân dân cũng tiếp tục nguyền rủa, đào mồ và quăng cái xác thối rửa của quý vị cho sài lang và diều hâu cắn xé! Tên tuổi của quý vị sẽ bị đóng ghi trong Lịch Sử và sẽ bị khinh bỉ trong hàng trăm năm sau.

Ngày xưa, ở thành phố Roma, một tướng soái thắng trận đang nhận lãnh những vinh quang của ngày chiến thắng. Để tránh bớt cho vì tướng bị những tung hô nhiểm độc, lợi dụng lúc đang gần bên xe trận của ông tướng, một tên nô lệ nói nhỏ với ông rằng “Ngài nên nhớ ngài cũng là một con người”. Cũng như thế, Luật Pháp cững đang nói nhỏ với kẻ cầm quyền “Bổn phận của các ông là phục vụ chứ không phải là nô lệ hoá nhân dân”.

Trở về Hà Nội, chúng tôi được khen ngợi nồng nhiệt bởi đã mang lại những thành quả bất ngờ mà chúng tôi gặt hái được ở Hội Nghị ở Bruxelles. Một buổi chiêu đãi để vinh danh chúng tôi được Bộ Ngoại Giao tổ chức.

Trong những buổi như thế, chúng tôi nhận được tin hai lãnh đạo của Phong Trào Gìn Giữ Hoà Bình Saigon-Chợ Lớn ở miền Nam đã bị bắt giữ: Luật Sư Nguyễn hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông. Cha đẻ của giáo sư Thông chỉ định tôi là luật sư để bào chữa cho con ông. Bộ Ngoại Giao và Chủ Tịch Toà Án Tối Cao khuyến khích tôi nhận lãnh sứ mệnh này. Tôi đánh một điện tín vào Toà Án Saigon thông báo họ là tôi sẽ là luật sư bào chữa cho ông Thông và yêu cầu họ cho biết ngày giờ xử của vụ án. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã không cho phép tôi vào Saigon. May thay, tôi cũng không có gì để tiếp tục, vụ án cũng không bao giờ được xử vì hai kẻ tội nhân đã vượt ngục an toàn.

 

PHẦN HAI
MỎM ĐÁ TARPEIENNE[3]

 

1
Vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm

Về đến Hà Nội, tôi tràn ngập trong “vinh dự”. Khoa Trưởng của trường Luật, một trường đang chết, Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, phó Khoa Trưởng Sư Phạm, giáo sư phụ trách việc giảng dạy về Văn Chương Pháp, thành viên ban chấp hành Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam đồng thời cũng nằm trong ban bí thư của Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội, thành viên của Hội Huynh Đệ Việt – Pháp, Hội Huynh Đệ Liên Xô – Việt Nam, thành viên của Uỷ Ban Bảo Vệ Hoà Bình Thế Giới, chủ tịch sáng lập Câu Lạc Bộ Đoàn Kết Trí Thức… Đó là những “vinh dự” mà tôi mang, đủ để in đầy hai mặt của tấm danh thiếp.

Những “khuôn mặt uy quyền của chế độ” không làm phiền đến tôi, cuộc sống khiêm nhường của tôi cũng không bị khốn đốn, tôi cũng không cảm thấy mình quan trọng hơn hay nhỏ bé đi. Tôi biết rõ đó chỉ là một màn kịch, nên chẳng cần phải cảm thấy được tung hô hay bị xúc phạm. Chế độ cộng sản rất đam mê tôn thờ chủ nghĩa hình thức: họ tràn ngập thế giới với khẩu hiệu. Danh xưng hoa mỹ và kêu to chỉ để trang trí cho những con rối người đang bị giật dây bởi một ai đó trong nhóm, ở trên hoặc ở phía sau lưng họ. Những kịch sĩ đang diễn trên sân khấu đã thuộc về thế giới xa xưa của những bộ phim câm. Thế hệ phim câm và chủ nghĩa Cộng Sản xuất hiện cùng thời, người ta tự hỏi anh nào ảnh hưởng anh nào?

Tôi đã tự hỏi tại sao tôi lại được hưởng nhiều món hời như thế. Có phải chăng là nhờ tôi là khuôn mặt tiêu biểu cho một phẩm chất hay đại diện cho một cái gì đó? Tôi nghĩ là không. Điều đó không hề xảy ra dù chỉ một thoáng trong đầu của các lãnh tụ. Họ nghĩ rằng, bằng cách đưa một người nào đó vào chức vị cao thì họ sẽ biến người này thành một nhân vật có tầm cỡ, cũng như thế, khi họ đẩy một người nổi tiếng vào bóng tối là họ đã gọn gàng cắt đứt lòng kính phục mà những người này được công chúng dành cho. Nhưng đó là một sai lầm. Đã có nhiều người được hưởng bao nhiêu quyền lợi từ Đảng nay đã biến thành vô danh không tên tuổi, ngay khi họ đang còn chói lọi trong chức vụ. Ngược lại, có những người đầy khả năng và đạo đức được người đời kính trọng và tiếp tục được quần chúng tin yêu dù họ không còn giữ một địa vị gì hào nhoáng!

Có phải chăng Đảng đã chiếu cố đến tôi và muốn thổi tôi lên, biến tôi thành một trong những con khỉ làm hề trong gánh xiếc để chọc cười lũ trẻ con? Đã có lần vào năm 1952, trong vùng chiến khu Bắc Việt, giữa lúc đang kháng chiến chống Pháp, tôi được đề nghị vào Đảng, nhưng tôi đã từ chối “vinh dự” đó. Năm 1946, trước khi tham gia kháng chiến cùng với cha mẹ và gia đình, tôi đã hiến toàn bộ tài sản của tôi, ba căn phố ở Hà Nội, cho Cách Mạng và Dân Tộc. Trong suốt thời kỳ Kháng Chiến tôi chấp nhận hy sinh tất cả và cống hiến tài năng của một giáo sư và một luật gia cho Dân Tộc. Là thành viên của nhiều phái đoàn Việt Nam trong bốn Hội Nghị Quốc Tế, một ở Dalat năm 1946, ở Bắc Kinh năm 1952, ở Vienna năm 1953, và Bruxelles năm 1956, tôi đã đóng một vai trò tích cực và đã mang lại một số thành quả khiêm tốn… Cũng có thể vì đó mà Đảng đã ban cho tôi một giấy khen bằng cách cất nhắc tôi lên những vị trí danh dự nhưng cũng không kém phần vẻ vang tôn kính. Nhưng tôi biết là Đảng có một trí nhớ rất ngắn, dễ dàng quên đi những thành quả của người mà họ khen thưởng trước đây, một khi kẻ này trở nên đối tượng làm họ tức giận. Ngay cả đối với những người cộng sản nổi tiếng đã từng chia những ngày tù tội chung khám với những người đang cầm quyền hiện nay, họ vẫn không thể thoát khỏi bàn tay dững dưng và tàn ác của những người này.

Trong những uỷ ban điều hành các tổ chức quần chúng, người trí thức thường được đưa ra làm phụ tá cho những đảng viên giữ vai trò chủ chốt, nắm tay lái và điều khiển chiếc xe. Những con rối ngồi trên bàn chủ toạ, tuyên bố mở đầu và kết thúc Hội Nghị, nhận những tràng pháo tay nhu nhược và vỗ trả lại những tràn pháo tay nhu nhược không kém. Sinh hoạt này trở thành một thủ tục và một chỉ dấu cho thấy một loại hợp tác chặt chẽ giữa người trí thức ngoài Đảng và các đảng viên. Tôi hiểu rất rõ khía cạnh này và không hề ngạc nhiên về chuyện đó. Tôi chờ vòng thịnh suy của luân hồi quay và chuẩn bị cho tôi chịu đựng sự thống khổ sắp đến với một tâm hồn vui vẻ.

Trong thời gian đó ở Hà Nội, giới trí thức đang trải qua một cuộc khủng hoảng về nhiệt tình. Phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổi lên trên toàn nước Việt Nam. Nhiều người, cho tới lúc ấy, nghi ngại và e dè Trung Quốc – nhưng không chống trà và thức ăn của họ – vẫn chưa biết được mặt trái của lá bài, dấn thân hết mình vào Phong Trào. Vắng những chứng cớ thích đáng, không có thông tin đáng tin cậy, nhưng họ vẫn đắm mình vui sướng trong cơn thuỷ triều đang nhởn nhơ dâng, và niềm khát khao dân chủ bị kềm kẹp và đè nén từ lâu nay bỗng nổ bùng thành những tia sáng đầy mầu sắc chói lọi và những chùm hoa đầy đốm lửa xanh. Một tờ báo Nhân Văn được in ra, lập tức được độc giả nhanh chóng giành đọc. Khi tờ báo Giai Phẩm được in ra, lòng người như sôi sục, như pháo hoa.

Khi đó Nguyễn Hữu Đang đến thăm, phỏng vấn tôi cho tờ Nhân Văn, và mong tôi viết bài cho Giai Phẩm. Tôi đã gặp Nguyễn Hữu Đang ít lâu trước đây khi Đang đến kiếm tôi đến gặp ông Hồ vì ông Hồ cần tôi giúp để soạn bản luận cứ mà Chính Phủ sẽ dùng để tranh đấu trong Hội Nghị Đalat năm 1946. Đang là một đảng viên Cộng Sản mà tôi tin cậy. Thời gian đó tôi không tiếp xúc với giới văn sĩ và nhà báo vì không có thì giờ và cơ hội. Nhưng khi tôi được cho biết về khuynh hướng của phong trào, đường hướng mà họ chấp nhận và bảo vệ, tôi sẵn sàng góp chút phần nhỏ mà cũng là ước vọng và mong muốn của tôi.

Năm 1928, vào năm thứ hai của tôi ở Đại Học Luật, cái tiếp xúc đầu tiên của tôi với chủ nghĩa Cộng Sản, vào thời đó, duy nhất là Liên Xô và bập bẹ những từ đầu tiên về chủ nghĩa này. Trong hai giờ giảng, vị giáo sư dạy về kinh tế chính trị dạy chúng tôi những điều căn bản về kinh tế theo Marx-Lenin. Sau đó, trong suốt mười năm theo kháng chiến chống thực dân, tôi được học thêm về chủ nghĩa Marx. Những giảng viên khiêm nhường tự mình nhận là những “báo cáo viên” thường là những người đã được qua học ở Trung Quốc, đôi khi về từ Liên Xô. Phương pháp dạy của họ làm tôi chú ý và khám phá những đặc tính của người cộng sản. Môn học về chủ nghĩa Marx được chia làm nhiều bài học, mỗi bài sẽ được một ông thầy “tương lai” chuyên về một chương đó dạy. Họ thấm nhuần những kiến thức nhồi nhét bởi các thầy giáo người Trung Quốc hay Liên Xô, đúc kết thành bài giảng cho hai giờ học, mang bài giảng cho cấp trách nhiệm phê bình. Sau đó họ chỉ có việc đọc bài giảng cho mọi người chép, hoàn toàn không có ý kiến riêng vì sợ gây những sai lầm về lý luận hay chệch hướng là những điều sẽ gây hại không nhỏ cho họ!

Tôi học được hai điều: thứ nhất, đó là những người thầy thiếu nhân cách và cá nhân tính. Họ là người máy và có thể dễ dàng thay thế bằng một cái máy thu băng. Thứ hai, người cộng sản khi hành xử chuyện gì, họ chỉ làm theo cách họ, tự bó mình trong một lãnh địa chật hẹp, đào sâu trốn kỹ, không hề quan tâm hay biết người chung quanh đang làm gì.

Tôi thật sự bị kích thích bởi phương pháp làm việc của họ và tò mò tìm hiểu muốn biết chế độ Cộng Sản đào tạo bác sĩ y khoa như thế nào. Một người trẻ được chọn vì được người ta khám phá rằng anh này là người thông minh và có khả năng, ngay trong khoá học xoá nạn mù chữ, và nhất là thái độ cuồng nhiệt đối với Đảng. Anh ta được đào tạo thành một y sĩ giải phẫu chuyên về tay và chân. Trong năm năm, anh ta phải phục vụ như một y tá, rồi như phụ tá trong một bệnh viện ở nông thôn, cắt mổ hàng trăm tay chân và rồi cũng có được một số kiến thức về cơ thể học giúp tìm dò những thớ thịt, đường gân, mạch máu của chân tay. Kiến thức của anh ta dừng ở đó và nằm luôn ở đó.

Vì thế, nền giáo dục của cộng sản là không phí thì giờ dạy cho học sinh những điều có tính lý thuyết hay kiến thức tổng quát. Thực tế là họ “vừa học vừa làm”, thay vì thúc đẩy tình tò mò tìm hiểu những điều cao xa hơn, họ lại chọn “tự đào sâu trốn kỹ” trong cái lỗ càng sâu càng tốt. Những trường hợp thành công cá biệt lại được tung hô là tất cả, lấy chiều sâu trùm cả chiều ngang. Trong hoàn cảnh cấp bách, để tiết kiệm thời gian, người ta không đào tạo ai thành một “người chân chính, hiểu biết tất cả và không phiền lòng bất cứ chuyện gì” nhưng theo lối con buôn, chỉ một lần trao đổi mà thôi. Cần phải hiểu đây là cái logic của chủ nghĩa Cộng Sản: để đuổi kịp chủ nghĩa Tư Bản, đạt đến trình độ văn minh tân tiến họ không dư giả thì giờ tiền bạc để đầu tư vào lãnh vực tổng quát và nhằm đào tạo những cái đầu biết tư duy.

Những buổi học về chủ nghĩa Marx chẳng giúp ích gì cho tôi. Những gì tôi biết về nó là tôi đã bị kéo vào thế giới Cộng Sản từ năm 1946. Những quan hệ với con người, những gì tôi quan sát được ở Đảng và những chính sách của họ, ở Nhà Nước với những cơ chế của nó, những ý kiến mà tôi được nghe, những màn kịch mà tôi được xem, cộng chung với những suy nghĩ riêng tư đã làm tôi sinh ra cảnh giác và trở nên cô đơn. Tất cả những chuyện đó là cách tốt nhất mà tôi tiếp cận chủ nghĩa Cộng Sản. Có thể nói một cách chung, những người bận tâm về một vấn đề như thế thường hành xử theo cảm xúc riêng tư và chọn một thái độ mạnh mẽ. Họ theo hoặc chống Cộng Sản! Cá nhân tôi, tôi cho rằng cả hai thái độ đều thiếu tính thuyết phục và công bằng, trong bản sắc cũng như khách quan. Đảng không nuông chiều tôi, những “vinh dự” được ban bố cho tôi chỉ là một màn trưng bày loè loẹt, cũng chẳng mang lại cho tôi và gia đình một chút gì lợi lộc hơn những người biết tán tỉnh, cầu cạnh và biết làm cho Đảng nở những nụ cười hả hê thoả mãn. Ngược lại, mặc dù tôi đã đưa ra những bằng chứng không thể chối cãi được về lòng yêu nước của tôi, mặc dù tôi đã hết lòng trung thành phục vụ Dân Tộc, Đảng cũng đành đoạn đày tôi vào sa mạc, một cuộc hành trình mới đó đã ba mươi lăm năm qua mà tôi sẽ kể lại những khổ đau trong những trang sắp tới. Cũng nên hiểu rằng tôi có quyền trả thù cho những khổ đau mà tôi đã gánh chịu. Tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ xem tôi trút những cơn giận điên người lên chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là một nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho tôi. Tôi đã chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu biết đòi hỏi mình phải nhìn vấn đề dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu và mặt thiếu sót, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ dẫn đến sự công bằng và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.

Không cần nhắc lại là người cộng sản đã góp phần đấu tranh cho Tự Do và Độc Lập của Dân Tộc. Thật vậy, đây không phải là lần thứ nhất Tổ Quốc bị xâm lăng và đã đánh đuổi ngoại xâm một cách vinh quang. Lòng yêu nước, vì vậy, là yếu tố bất biến và nguyên do sâu xa nhất cho mọi lần thắng giặc. Nhưng lực lượng quần chúng chưa phải là lực lượng tự mình tiến hành giải phóng Dân Tộc. Lực lượng này chỉ phát huy được sức mạnh và hiệu quả dưới sự lãnh đạo lão luyện của một ai biết dẫn dắt nó và làm nó phát huy hiệu quả đến mức tốt nhất. Đó là vinh dự của những ông vua biết giao trách nhiệm cho những vì tướng biết động viên quân sĩ kiên quyết biểu hiện chủ nghĩa anh hùng và quyết lòng hy sinh. Đó là ba nhân tố có tầm quan trọng như nhau mà sự luân phiên vận dụng để đi tới chiến thắng. Thật là bất công nếu chúng ta đã công nhận sự xứng đáng của người cộng sản rồi sau đó chối bỏ sự đóng góp của họ sau ngày thành công. Chuyện quan trọng không phải là đưa người cộng sản lên một vị thế cao hay đưa vào chỗ thấp, mà là chuyện định đặt họ ở đúng vị trí mà họ phải có.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa Dân Tộc vào con đường Xã Hội Chủ Nghĩa về lâu về dài là một thảm hoạ. Cái lỗi lầm kinh hoàng đầu tiên không thể quên được là cuộc Cải Cách Ruộng Đất, nó không phải chỉ là cuộc thảm sát hàng chục ngàn người dân vô tội, mà nó còn làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng và làm hại đến cái giáo điều “không bao giờ sai lầm” của Đảng. Những cặp mắt mở to, những soi mói nhìn lại chính sách của Đảng, và những “bộ óc biết suy nghĩ”, vội vàng tỉnh giấc Nam Kha để tổ chức những buổi phê bình thích đáng ngay trước khi Đảng lấy lại thế đứng và quan điểm của mình.

Cá nhân tôi, qua những quan sát, phân tích và suy nghĩ, tôi đã đi đến một số kết luận về những sai lầm của Đảng. Thứ nhất, cái mà giáng lên ngay cả những người ít học nhất, là thái độ nô lệ thần phục hoàn toàn trước hai “ông anh lớn” Liên Xô và Trung Quốc. Sự thần phục hoàn toàn không chỉ ở mức độ chủ thuyết mà họ là người biện hộ cho tính chính thống của Liên Xô và Trung Quốc, mà còn biểu hiện ngay trong cách ăn mặc, hội họp riêng chung, cung cách chào hỏi nhau và cả đến lối sống v.v. Việt Nam đã mất bản sắc dân tộc để trở nên một khuôn rập phản ảnh hai nước Liên Xô và Trung Quốc.

Cái rập khuôn thứ nhất là lãnh vực kinh tế, nơi mà chúng ta có thể nhìn thấy cùng một chính sách kế hoạch, tự quyết định chính sách giá cả, sự độc quyền của Nhà Nước trong lãnh vực sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế, những chính sách thâu tóm toàn bộ lợi nhuận, bù đắp cho mọi lỗ lã, chọn lựa nhân sự cũng như tính toán tiền lương cho họ. Quyền tuyệt đối và sự hiện diện khắp nơi của Nhà Nước trên toàn nước, bất cứ chỗ nào, đã gạt bỏ mọi sáng kiến, mọi quyền lợi tư nhân, sự vắng mặt của sự cạnh tranh, không có bất cứ một quan hệ gì giữa giá phí sản xuất và giá bán, sẽ dẫn đến không sớm thì muộn một nền kinh tế trì trệ, đến một nền kinh tế suy sụp, một nền kinh tế hoàn toàn được dẫn dắt bởi chính trị, hoàn toàn quay lưng về những quy luật, những giá trị và những hiệu quả đã được chứng nghiệm suốt mấy thế kỷ vừa qua.

Hơn nữa, chưa bao giờ người ta lại khinh miệt và hận thù luât lệ với một thái độ láo xược như thế. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng. Người ta cấm tiệt bất cứ mọi thứ can thiệp hay ngay cả một tia mắt nhòm ngó vào hai lãnh vực Lập Pháp và Tư Pháp. Nguyên tắc “không thể sai lầm” và “không chịu trách nhiệm” của Đảng đã mở cửa cho biết bao chuyện kỳ quặc, bệnh hoạn, tự tung tự tác và hậu quả là đưa đến những hành động phạm pháp bởi mọi tầng cán bộ, bởi các đảng viên hay những người được Đảng nặn ra. Chưa bao giờ nhân dân lại bị đẩy vào một thế im lặng đê hèn và tai hại; không một gợi ý, đề xuất, nhận xét hay ý kiến tư vấn nào mà nhân dân có thể đưa ra cho nhà cầm quyền để cải thiện việc điều hành của Nhà Nước và làm cải thiện tốt hơn cho con dân trong nước. Bất hạnh thay, những điều Luật được “bầu” ra bởi Quốc Hội, các cấp Toà do chính phủ dựng nên chỉ có một và một mục đích duy nhất là bắt người dân quy phục, và tuân thủ vô điều kiện bất kể chuyện gì mà nhà cầm quyền muốn dù là chuyện ngông cuồng vô lý nhất. Mặc dù vậy, để lừa phỉnh trong nước và quốc tế họ luôn luôn ra rả không ngừng là họ  dân và do dân.

Những định luật khoa học, những cấu trúc thực tiễn của một nền kinh tế đều bị khinh thường. Niềm cả tin bất khả bại cũng như tinh thần vô trách nhiệm của lãnh đạo làm cho những định chế Lập Pháp và Tư Pháp trở nên vô dụng. Những tai hại đó, dưới hiện tượng siêu hình, trở lại điều khiển mọi sinh hoạt kinh tế chính trị: đó là quy luật của sự đổi thay đổi. Người cộng sản thường hay hãnh diện về những cái biết duy vật biện chứng về sự thay đổi mà họ rao giảng cho hàng tín đồ của họ. Nhưng trên thực tế họ đếch cần đến nó. Họ chỉ biết dựa ngửa trên chiếc ghế bành của lãnh đạo, tuyên phán những câu tuyệt vời là sẵn sàng chết nơi nào mà Đảng đã đặt họ ở đó. Mọi xúc phạm (đến chỗ ngồi của họ) sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực đầy hung bạo, đặc biệt là ở những chỗ ngồi cao cấp; kẻ nắm ghế quyền lực không dễ dàng tự ý nhường ghế cho ai! Vì thế trật tự kiểu lão làng là chỉ thị hành động cho những người cộng sản. Nhưng trong kinh tế, sản xuất và thương mãi, chính tính ù lì không thay đổi này đã gây ra những phiền phức đầy tai hại. Trong một thế giới hiện đại, nơi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển tột bực, những phương thức sản xuất, giao thông, viễn thông, tin học, sự chuyển dịch của con người và hàng hoá, tất cả mỗi ngày mỗi thay đổi nhanh chóng. Đã phải mất mấy ngàn năm con người mới biết định cư định canh trong nông nghiệp và cho loài người phát triển tiến lên; phải mất mấy trăm năm để con người khám phá ra nguồn năng lượng mới khởi đầu cho nền văn minh máy móc, cho phép kỷ nghệ được phát triển dưới nhiều hình thức. Khoa học kỹ thuật đã mất chừng ba thế kỷ để khám phá ra những bí mật của thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, khám phá ra những nguyên liệu mới khó tin nhưng đầy tuyệt vời, bảo đảm cho một chiến thắng tuyệt vời trên điện tử và xử lý thông tin. Một triết gia người Hy Lạp đã đưa ra một hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc về tính thay đổi của sự vật khi nói “Con người không bao giờ hai lần tắm cùng một nước sông”, ngược lại người cộng sản cứ khư khư chối bỏ không chấp nhận sự thay đổi, luôn luôn bảo vệ tính “liên tục” của các định chế kinh tế và chính trị của họ, đồng thời bám rễ luôn vào chỗ ngồi của mình.

Đối diện với một hoàn cảnh như thế, làm sao tôi có thể góp sức gì cho Phong Trào Trăm Hoa Đua Nở? Tôi sẽ không tham gia bàn cãi về những vấn đề lớn. Tôi sẽ chú tâm vào những điều chi tiết nhưng đó là những tiêu chuẩn của một nền dân chủ: Tôi mong rằng những kẻ lạm quyền nên bớt khắt khe, đừng bịt họng Mặt Trận Tổ Quốc, rằng họ nên chấm dứt việc đòi Thẩm Phán phải hỏi ý kiến xin chỉ thị của Đảng cho những vi phạm Luật hay những án hình sự. Đối những chuyện nhỏ nhặt cần chi phải ồn ào, như người đời thường nói. Tôi không phải là một chiến sĩ, lại càng không phải là kẻ bạo gan. Tôi không có một chút thich thú gì về chuyện xung đột, nhất là khi một thanh kiếm gỗ phải chiến đấu với thanh kiếm sắt. Những đồng nghiệp khác của tôi ở Đại Học như Giáo Sư Đào Duy Anh, sử gia và là một nhà Trung Quốc Học, triết gia Trần Đức Thảo, nhà phê bình văn học Trương Tửu cùng dấn thân trong cùng khuynh hướng dân chủ và cùng giữ mình cẩn thận đối với những người cầm quyền mà ai cũng biết là nổi tiếng đao phủ, tàn bạo thời trung cổ, tất cả đều giấu mình thô thiển dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp”, chiến đấu cho chủ nghĩa Marx.

Giới sĩ phu Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đa số – ít nhất là những người cầm bút và còn quan tâm đến tự do và liêm sỉ của người trí thức, kể cả những nhà văn còn trong bộ đội – Bộ Đội, như đã từng được biết, là thành trì của tinh thần cách mạng trong sáng và chính thống – đồng tâm đứng lên theo tiếng gọi của dân chủ và tố cáo sự bạo ngược đối với những sinh hoạt trí thức.

Về sau này, Việt Nam còn nghe được những tin khủng khiếp động trời về vụ tàn sát dã man của Hồng Vệ Binh bên Trung Quốc do nhà cầm quyền ra lệnh.

Những tin tức nhận được ở Việt Nam cho thấy cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chỉ đơn thuần là một cái bẫy đưa ra để thanh toán những kẻ thù của chế độ Mao. Nạn nhân, dĩ nhiên, là bao gồm giới trí thức đã quá ngây thơ tin vào lời nói của bọn cầm quyền độc tài và đã hát lên bài thánh ca dân chủ hiến dâng cho giới chức quyền của của Vương Quốc Thiên Triều, và gồm cả những người cộng sản với một quá khứ không tì vết luôn sẵn sàng quy phục dưới thế lực của Đại Vương. Từng bầy Vệ Binh Đỏ tràn khắp đất nước, sôi sục hận thù với những kẻ thù của Chủ Nghĩa Xã Hội, phát tiết sự hung bạo cuồng tín tấn công khắp nơi chỉ bằng vào những lời hứa thần kỳ của lãnh đạo. Chúng tấn công những người vô tội không phương tiện tự vệ, những nạn nhân của những những tên sát nhân đầy mặc cảm tự ti mà sự điên tiết và tàn bạo luôn được nhà cầm quyền khuấy động. Máu đã đổ thành dòng, nhân dân Trung Quốc đã phải ướt chân để vượt qua những cơn thuỷ triều đỏ màu máu, mắt của họ đỏ lên màu đỏ của những lá cờ, biểu ngữ, cờ hiệu đang hể hả tung bay trên những nóc nhà và trên những buyn đinh. Nhưng khi cuộc diệt chủng đến thời kỳ cuối, không còn ai để cắt cổ, thì bọn Vệ Binh Đỏ lại tới phiên mình gục ngã dưới lằn đạn của những khẩu súng máy ngã nhào vào những chiếc mồ chung, cũng từ lệnh ban ra từ những tên quỉ dữ không còn muốn giữ lại một nhân chứng sống nào cho tội ác của chúng! Qua thế giới bên kia, nạn nhân và kẻ giết người sẽ gặp nhau và cùng khóc những giọt nước mắt đắng cay với ảo tưởng đã chết và một niềm tin bị phản bội. Cách Mạng Văn Hoá đã buông màn phủ lên cái chết của những người có văn hoá và lên cái chết của chính cái gì gọi là Văn Hoá.

Ở Việt Nam, người ta bắt đầu vụ xử án liên quan đến những người viết văn, làm báo, thầy giáo mà lý do duy nhất là họ dám giễu cợt trên cái kỳ quặc và nực cười của những người cộng sản. Họ bị kết án là đã bắn mũi tên vào trí tuệ của lãnh đạo, của lực lượng vũ trang. Những kẻ cứng đầu ngoan cố này bị kết án là chống Đảng và làm nhiễm độc Cách Mạng. Nhưng trong kho công cụ trấn áp lại không có loại văn bản nào nói về mấy tội trên. Mặc kệ, họ có thể làm ra ngay một cái. Nhưng văn bản để áp dụng biện pháp trị tội lại không thể có hiệu lực hồi tố. Như trong thời kỳ Thượng Cổ, luật pháp là điều bí mật mà các Pháp Sư và quan toà nắm độc quyền. Không còn gì kinh hoàng hơn là Nhà Nước Cộng Sản đã vực dậy những thứ đã thành quá khứ từ hàng ngàn năm nay để nhảy xổm lên trên Luật Pháp và dùng nó duy nhất là để cô lập, tiêu diệt những người mà họ nghi là có tư tường xét lại chống Đảng, cóc cần biết đến cái gì là công lý và công bằng! Tại sao mọi người phải quan tâm đến chuyện văn bản trong khi quyền lực chỉ ở trong tay một kẻ độc tài?

Một logic như thế chỉ cho thấy mùi vị của một thứ luật rừng, của những bộ lạc rừng rú. Có luật gia nào trung thành với thiên chức của mình lại chịu đánh mất lương tâm, chịu nén cơn thịnh nộ để làm vui lòng những lãnh đạo chính trị mà họ đang đợi mong những điều kỳ diệu? Nhưng thời nào, bao giờ cũng có kẻ sẵn sàng đứng ra làm công việc hèn hạ kết án những người trí thức mà chính họ cũng thừa biết những người này là vô tội đối với Luật Pháp. Tên quan toà đó, tiêu biểu nhất cho loại người cam tâm làm đầy tớ. Và đây là chân dung của loại thẩm phán đó.

2
Ông quan toà Việt Nam

Ông ta sinh ra ở một thành phố mà nơi đó đã sản sinh ra bao nhiêu người đi làm Cách Mạng. Trong thời đại ngày nay ở Việt Nam, tinh thần địa phuơng trở nên mạnh mẽ. Địa phương nào cũng khoe khoang về những sản phẩm, tài nguyên thiên nhiên, những thành công về nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, nền công nghiệp đang khởi sắc, và dĩ nhiên là những nhân vật tài ba của mình. Trước đây, điều nhấn mạnh là những nhà thơ, những tướng soái hay những công thần đã phụng sự đắc lực cho triều đình và cho dân địa phương. Ngày nay, cách làm thì khác đi, người ta tán dương những giá trị Cách Mạng, những “anh hùng” được tôn lên thành “Trời” và đã có được tới những ba mươi tuổi Đảng. Mỗi năm, Trung Ương Đảng mời họ dự những buổi lễ chính thức, và ít nhất một lần, những người cùng quê quán lại cùng nhau họp mặt thân hữu và đôi khi chè chén với nhau.

Hắn có một khuôn mặt gầy với hai gò má nhô ra chai cứng khắc khổ. Đôi mắt thiếu tinh anh với nụ cười gượng gạo không chút vui vẻ. Hắn gầy như một nhà tu khổ hạnh, dường như là hậu quả của một đời sống thiếu thốn vật chất, không phải để hắn được sinh ra để dễ dàng tán gái mà chỉ để hắn chỉ có lo học và thức đêm để học. Người ta cho rằng hắn đã cùng đồng hành với những luật gia đã sưu tập bộ sách Luật Dallos and Sirey. Mặc dù còn trẻ tuổi, nhưng hắn đi đi lại lại với vẻ mặt khó khăn và nghiêm chỉnh của một quan xử án thời Trung Cổ. Thầy bói có thể tiên đoán là tương lai hắn sẽ là một quan Toà: chưa bao giờ người ta thấy hắn không mang theo một chiếc cặp da đựng đầy giấy và sách! Hắn học giỏi và đã lấy một bằng Cử Nhân Luật.

Thời hắn tốt nghiệp, đa số bạn bè chọn làm việc trong chính quyền thực dân và đặc biệt là thành những kiểm soát viên hay thanh tra Thuế Vụ, thư ký Toà Sơ Thẩm hay Toà Phúc Thẩm trong hệ thống Tư Pháp của Pháp. Với những công việc đó họ hưởng mức lương bổng hậu hĩnh, sống ở các thành phố và sống một cuộc đời sung sướng. Ông quan của chúng ta lại chọn đi làm quan cho Triều Đình, có thể ít tự do hơn nhưng lại hưởng lợi tức nhiều hơn nhờ hối lộ từ đám con dân mà ông ta quản lý.

Dĩ nhiên, nghề làm quan triều đình tuy bị báo chuyên châm biếm Phong Hoá  Ngày Nay tha hồ giễu cợt cũng mang lại đôi vẻ uy danh, không phải vị bị giễu là “cha mẹ của dân” mà là do những lợi ích của giàu sang: một biệt thự sang trọng ở Hà Nội, một chiếc ô tô mới tinh, chiêu đãi khách ở những nhà hàng Tàu lớn ở phố Hàng Buồm, những buổi tiệc tùng ở những hộp đêm mà những cô nàng dễ dàng và trẻ đẹp tự gọi mình là “ca ve” sẵn sàng cung ứng những bản nhạc không gì khác hơn là những bản nhạc của thân xác trần truồng!

Vì thế, người anh hùng của chúng ta tự biến mình thành mệnh quan của Triều Đình, chấp nhận cứng đầu không ngán búa rìu báo chí, bỏ túi đầy phẩm vật hiện đại và tham gia một giai cấp mà phẩm trật và khuôn phép là một chuyện đáng phiền và ngay cả nhục nhả. Người đời tin rằng ông ta chọn ra làm quan là vì hám lợi và khát quà hối lộ. Dường như hắn ta đã bỏ lại sau lưng làng huyện của hắn những tiếng thơm của những ông quan ngày xưa đầy trung chính. Vì lẽ nào mà hắn chọn làm quan cho Triều Đình? Nhưng có cần phải tìm hiểu tại sao không? Cái chính yếu đáng quan tâm và sau này cũng sẽ được nhắc lại nhiều lần là sự việc ông ta là một viên quan của Triều Đình Huế.

Sự thành công của Cách Mạng đánh tiếng chuông cáo chung nền phong kiến. Ngôi vua của Bảo Đại sập đổ trong sự dửng dưng của mọi người. Vai trò quan lại chết theo, không người thay thế, toàn bộ quan lại sâu bọ cũng sụp đổ. Ông quan “cha mẹ của dân” cố làm mọi người quên mình, sau khi đã cưỡng đoạt bao nhiêu là tiền của “con” dân, đã tỏ ra bao nhiêu công bộc tôi tớ cho cấp trên người Pháp và Việt Nam. Sự thay hình đổi dạng nhiều khi thật lạ lùng.

Ông luật gia của chúng ta lột xác quan triều để chọn tham gia Toà Án của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Chọn lựa của ông ta thật đầy ý nghĩa và cho thấy một vài góc cạnh của tâm hồn: khao khát uy quyền và sức mạnh dưới hai khía cạnh: tuân phục kẻ trên, chà đạp kẻ dưới.

Từ khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán của Toá Án nhân Dân, tôi có nhiều dịp cãi trước mặt hắn, trong những vụ án dân sự lẫn hình sự. Tôi không bỏ một cơ hội nào để nắm bắt những nét cá tính: tôi để ý nghe một vài giọng điệu của ông ta, cùng lúc những lúc nhíu mày, lúc quắc mắt, tất cả những thứ ấy làm tôi nghĩ đây là người nghĩ nhiều về bản thân và khinh khi những ai không có trình độ trí thức và xã hội như ông ta. Trong một vài lần găp lãnh đạo chính trị khá cao mà ông ta chờ nhận chỉ thị, tôi thấy dưới bộ mặt tỏ vẻ tôn kính là những kiêu hãnh cá nhân đang giấu mặt; ông ta cảm thấy mình cao hơn người đối thoại và thường là do những câu trả lời bén nhạy của ông ta quá đủ để cho thấy như thế. Hắn có tư cách và cá tính, và không cho phép ai chà đạp lên đó. Có thể, như trong vở kịch La Bruyère, ông ta phải hạ mình để phục vụ cho những kẻ không thể ngang hàng với mình. Hắn bị tấn công cùng một lúc cả hai thứ mặc cảm tự ti và tự tôn, làm cho hắn trở nên thù nghịch với các ông lớn và hận ghét các ông nhỏ. Hắn che giấu cái quyền uy của hắn trước các ông lớn nhưng lại ra quyền đối với các ông nhỏ. Được bổ nhiệm làm Thẩm Phán Toà Phúc Thẩm và trong khi chờ được đi làm Thẩm Phán Toà Án Tối Cao hắn nén lòng chận cơn khát một vinh quang hạng ba nên đã gia nhập Đảng Xã Hội, một đảng được lãnh đạo Cộng Sản đẻ ra để lường gạt dân chúng trong nước và quốc tế, hầu có cái môn bài “đa nguyên” rẻ tiền để tập hợp giới trí thức vào ủng hộ lý tưởng cộng sản. Hắn cũng đã thành công kiếm được chức Tổng Thư Ký của đảng Xã Hội phân bộ Hà Nội và làm đại biểu cho đảng này trong ban Chấp Hành Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội. Với tham vọng và cơ hội chủ nghĩa hắn vẫn không làm sao thoả mãn được với những chức vụ “to lớn” mà hắn đang có, cũng như một loại người bắt cá hai tay để rồi chẳng được con nào, hắn bám đuôi các nhà lãnh đạo nhưng cũng chẳng hưởng được một ban bố hay che chở nào.

Đảng Cộng Sản rất khôn ngoan sắc sảo: trong chính sách Hoà Hợp Dân Tộc mà họ chủ trương qua trung gian của Mặt Trận Tổ Quốc, tất cả để che đậy một mục tiêu thầm kín nhưng với biểu lộ bề ngoài là rộng lượng khoan dung; họ tự kềm chế để tránh việc làm cho cả một tầng lớp quan lại trở thành kẻ thù không đội trời chung với họ. Họ ban phát cho mấy quan một chút vuốt ve, một vài nụ cười thân thiện để mấy quan yên lòng và thậm chí bổ nhiệm một vài quan vào những chức vụ công quyền chính thức. Họ sẽ không thể kiếm được những tôi tớ nhiệt thành hơn là những tay có một quá khứ “tì vết” và những kẻ chỉ có một nhu cầu thúc bách là được chuộc lại “lỗi lầm” trong quá khứ. Không người đàn bà nào có thể tỏ mình là người đoan trang hơn là những cô gái già. Một khi Đảng đã nắm chắc sự hiến dâng tận tụy của đám người đoan trang kiểu gái già đó, xem như Đảng đã mở rộng tầm nhìn, sự độ lượng bao dung hoàn toàn không có thành kiến và ý đồ trừng phạt trả thù.

Nhưng kẻ được nghe câu “chúng ta hãy làm bạn với nhau…” thật không cảm thấy an lòng. Vì vậy, để giữ cho mình chút tự trọng và để đảm bảo được chủ mới tin tường, hắn chơi trò hàng hai: độc tài trước công chúng và khúm núm xum xoe những khi gặp cấp trên. Hắn càng tỏ ra quyền uy ở chốn công, thì hắn lại càng khúm núm ở nhà riêng của ai đó. Nhưng hắn không thể lường gạt ai, kể cả hắn.

Ông quan Toà nhà ta đã làm cho mình được mọi người biết đến qua một vụ xử án quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay. Một ít lâu sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã cho lệnh đưa ra toà để kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy bài văn có tên là “Sự Cách Ly” (“L’Isolement”) của nhà văn người Pháp Lamartine. Ngàn xưa từ thời Socrates, ai cũng biết là, khi nhà cầm quyền muốn bắt kẻ sĩ nào đó uống thuốc độc thì chỉ cần gán tội cho họ là đã đầu độc tuổi trẻ. Đảng Cộng Sản đã vực dậy một thủ đoạn đã dùng hai ngàn năm trước. Trong mọi thời đại, kẻ độc tài luôn kiếm cách xếp đặt nhân dân theo khuôn mẫu họ muốn, đặc biệt là giới trẻ là những kẻ đang nắm giữ tương lai. Tất cả đường lối giáo dục đều phát xuất từ đường lối chính trị chính của họ như là một hệ luận đương nhiên. Học đường phải là nơi đào tạo những người mà sau này phải chăm lo cho đường lối của nhà cầm quyền. Mọi chệch hướng trong giáo dục cũng đồng nghĩa là đi sai đường lối chính trị mà lãnh đạo đã đưa ra.

Đây chính là cái logic của mọi chuyện! Nhưng điều thảm khốc ở đây là cái logic như thế lại phải cưu mang một cái gì đã lạc hậu nặng nề hơn hai ngàn năm nay. Có ai dám tuyên bố là Chủ Nghĩa Cộng Sản là chỉ mang lại tàn phá trong quá khứ? Tôi không đặt vấn đề một cách chủ quan là giáo dục là để cho nhà nước hay cho con người? Tôi nhấn mạnh ở đây, duy nhất trên sự kiện là nền giáo dục cộng sản tự cho mình cái bổn phận đào tạo người cho nhà cầm quyền, sao cho người ấy hết lòng làm việc cho chính quyền và tất cả phải làm sao cho giáo dục đạt được điều đó.

Trong những điều kiện đó, con người được đào tạo bởi nhà cầm quyền chỉ là một công cụ để thi hành những chính sách cầm quyền và không là gì khác hơn. Người ta tự hỏi đây là thứ chủ nghĩa xã hội loại gì mà không ai thấy có bất cứ nơi đâu nếu có chăng là ở trong trí tưởng tượng của những nhà lý luận. Mặc kệ! Những nhà lãnh đạo hãnh diện với chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa duy vật của mình, phê phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thái, đã vận dụng trí tưởng tượng của mình mà xây nên một hình mẫu chủ nghĩa xã hội. Bằng cách chiết xuất vô tư đủ thứ lý thuyết, họ nhồi nhét vào một hình mẫu con người xã hội chủ nghĩa với đủ thứ nết tính tốt đẹp: cứ đọc những văn kiện lập pháp, những thông tư hành chánh, đủ thứ văn bản mà từng đoạn văn dài dành để ca tụng chủ nghĩa cộng sản đang lang thang trên thiên đường của ảo tưởng. Trong những điểm đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa của ngày mai của họ, điểm nhấn mạnh là niềm vui sống, lạc quan chủ nghĩa. Nếu sự thật là thế, là chủ nghĩa xã hội mang đến hạnh phúc cho người dân thì quả là họ đã được thăng hoa trong cuộc sống với thứ chủ nghĩa lạc quan. Các nhà lãnh đạo đã có thấy chăng là đời sống trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa của họ hiện đã trở nên ủ ê ảm đạm, con người bị trói cột dưới sức nặng của bao nhiêu cấm đoán và thiếu thốn, kéo dài những ngày tăm tối và họ đang bị đẩy vào buồn tủi và vô vọng? Mặc dù với đủ mọi chuyện, nhưng có một chuyện không chối cãi là dưới mắt người cộng sản, sự thất vọng, thờ ơ hay bi quan là những chứng cớ tiêu cực về tinh thần, chệch hướng về chính trị, phản động và có ý chống phá Cách Mạng.

Điều bất hạnh là một đã khi nắm được chính quyền và đang chờ thời cơ để tiến hành những cải tổ, lãnh đạo mới tuyên bố sẽ giữ nguyên trạng mọi việc như cũ. Khi những thành phần ưu tú và một số công chức cũ bỏ ra nước ngoài, những người còn lại vẫn giữ nguyên chức vụ và tiếp tục hưởng mức lương cao như ngày trước; chính chuyện này đã gây nên những xung đột giữa những kẻ “hợp tác” (với Pháp) và những người của Kháng Chiến. Đó là trường hợp các giáo chức. Giáo viên dạy Khoa Học thì không sợ gặp vấn đề vì lẽ Khoa Học không có gì gọi là mang tính phản động. Trong khi đó, giáo viên dạy Văn vẫn tiếp tục dạy thơ văn vì chương trình giảng dạy vẫn chưa thay đổi. Vì Lamartine là bài khởi đầu của một số tiểu thuyết lớn, nên ông giáo nhà ta không thể nào loại bỏ nó trong chương trình học. Vì thế ông giáo bị kết án giải trình rằng phân tích cuốn Nỗi Cô Đơn (Isolement) của Lamartine thấy diễn tả tình trạng suy sụp tinh thần, bất mãn chán chường của đời sống từ khi có cuộc Cách Mạng (Tư Sản) 1789, và trong nỗi chán chường và cô đơn tác giả thiên về một đầu tranh cho một thế giới mà ông ta tìm được hy vọng và tình yêu…

Trong thời đó, khẩu hiệu tuyên truyền là “kẻ thù vẫn còn khắp mọi nơi, tay sai của nó vẫn còn ở khắp nơi”. Việc duy trì an ninh đòi hỏi một đề cao cảnh giác cao đến mức báo động, việc gửi những tay công an mật vào tất cả những cuộc hội họp, cũng như việc trưng dụng những tay làm mật báo nghiệp dư hay tự nguyện liên tục rảo quanh các con đường, vỉa hè, vườn hoa hay công viên công cộng, trong những quán cà phê, rạp chiếu bóng hay nhà hát, nhà nghĩ hay những toà nhà công cộng… Tất cả thư tín cá nhân đều được ghi danh sách và kiểm tra, kiểm soát thư tín xảy ra ngày đêm, tất cả các máy thu thanh cá nhân đều được theo dõi nhất là vào những giờ mà các đài phát thanh nước ngoài hoạt động. Trong công sở, ngoài những người mặc đồng phục, còn có những phòng chứa đầy do thám tai giương to, mắt mở lớn. Những giao tiếp giữa những người với nhau, nhất là với người nước ngoài là đối tượng đươc đặc biệt kiếm soát và không ai ngạc nhiên khi thấy thư từ gửi cho mình tự biến mất trên đường đến nơi nhận. Đối với những tay mật thám chuyên nghiệp, được đào tạo bài bản và có ít nhiều kinh nghiệm thì người bị theo dõi rất khó nhận biết, nhưng ngược lại với những tay không chuyên, nóng lòng kiếm công để lập với cấp trên ở địa phương thì rất dễ biết và chỉ cần một hai mưu mẹo là có thể chơi chúng nó được rồi. Cả Hà Nội là cảnh tượng một đám hình nộm hay là một sân khấu đang có những người đang khoa chân múa tay với ánh mắt bất động, diễn tuồng trong câm điếc, như những người máy cử động được là nhờ những chiếc lò xo gắn bên trong. Nhưng đằng sau bức màn sân khấu, đằng sau góc nhà, ở góc vỉa hè, trong những câu chuyện giữa hai người, những điệu bộ châm biếm giễu cợt đã xuất hiện, để trả thù cho những ngày sống không được nói và phải luôn sống với quán tính cẩn thận dè chừng, như khám phá ra những điều quái gỡ, rồi bật phá ra cười bằng cách bắt chước giọng điệu hay cung cách của nhà lãnh đạo.

Trong các Đại Học, trong các phân khoa, trong mỗi lớp, trong mỗi buổi học, suốt cả năm, trong đám sinh viên luôn có những tay làm do thám. Có hơn một giáo viên thuộc thành phần kháng chiến lo theo dõi các đồng nghiệp, bất kể những người này thuộc thành phần “hợp tác” hay “kháng chiến”, tố cáo với thẩm quyền trực tiếp về những cái gọi là những sai lầm tư tưởng, những chệch hướng mà các giáo viên đã từng ăn lương của chính phủ Đông Dương và nay vẫn còn tiếp tục hưởng lương của chính phủ Cách Mạng. Họ, những giáo viên thuộc thành phần “không kháng chiến” bị khinh khi chỉ vì họ không có một chút hy sinh nào cho Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, họ trở nên đối tượng ganh ghét vì mức sống họ cao so với người khác. Chuyện bất công như thế nên được chấm dứt. Khi mà Đảng và Nhà Nước cần phải tránh bị mang tiếng là tiền hậu bất nhất không biết giữ lời, một số tay “cựu hợp tác” đã được Đảng mua chuộc “thông cảm” mà tự ý đề nghị phải “công bằng” với tất cả về chế độ lương bổng. Như thế làm thế nào mà lãnh đạo không cảm động bởi một thỉnh cầu đúng đắn, phải lẽ và chân thành như thế, nhất là lại nằm trong chính sách hoà hợp dân tộc của Mặt Trận Tổ Quốc? Mặc dầu giúp Kho Bạc Nhà Nước lúc nào cũng thiếu hụt, tiết kiệm được chút tiền và mặc dù có sự cằn nhằn của các người được ưu đãi trước đây, và đặc biệt là các bà từ nay phải thắt lưng buộc bụng, bầu không khí trở nên hân hoan: Nhà Nước tiết kiệm được một giọt nước trong biển cả của thâm thụt, người xuất thân “kháng chiến” từ nay thấy được một chút công bằng, người thuộc chế độ cũ, sau những chịu đựng từ hôm mồng 4 tháng 8, từ đây có thể ngẩng mặt cao và xem mình đứng ở thế ngang tầm với các đồng nghiệp xuất thân kháng chiến.

Trong hoàn cảnh đầy hân hoan như thế, cuộc xử án vị giáo viên dạy Văn bị kết tội là đã làm hư hỏng thanh niên và đầu độc tâm hồn họ kắt đầu. Kẻ bị kết án được khuyên là không nên tìm luật sư biện hộ cho mình vì lẽ một luật sư giỏi, nổi tiếng là rất hiếm hoi, mà ngay có được một, thì ông ta cũng là một loại người cứng cựa đối với những người cộng sản, những người đã từng có những kinh nghiệm kinh hoàng với luật và những luật sư thời trước.

Cho ngay đến những người không thường có thói quen suy nghĩ sâu trên một vấn đề, mọi người đều cảm thấy ý nghĩa của một vụ án như thế này. Nó nhắm biểu diễn cho những người tham dự phiên toà thấy một Nhà Nước rất nghiêm chỉnh trong việc điều hành luật pháp một cách công bằng. Đây là một mẫu mực trong việc điều hành của chính phủ và những việc hành chánh sáng tạo bởi chủ nghĩa Cộng Sản, mà theo đó tất cả những sinh hoạt chính quyền là để giáo dục quần chúng và hướng họ đến việc tôn thờ Đảng Cộng Sản, tôn thờ những kẻ lãnh đạo Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản mà họ tự là người đại diện. Những điều luật và nghị quyết ban hành, những văn bản phổ biến đến tất cả các cơ sở giáo dục, từ cấp Tiểu Học đến cấp Đại Học, những buổi hội thảo công cộng do những diễn giả chuyên nghiệp hướng dẫn, những bài xã luận, những cuốn sách được xuất bản, những phiên toà, những cuốn phim được chiếu, những buổi mít tinh được tổ chức, những tuyên bố đưa cho báo chí, tất cả đều phải đặt mình vô điều kiện và tuyệt đối, hiến thân trọn vẹn vào đường lối chuyên chế của Đảng, một đảng không giống bất cứ đảng nào mà phải là Đảng với chữ Đ luôn luôn được viết hoa. Tất cả những người đi kháng chiến trong thời kỳ bí mật đều hiểu được rằng muốn được vào Đảng, họ cần phải sẵn sàng hy sinh tất cả, nếu cần phải làm tội ác cũng phải làm. Mỗi người đều phải trải qua những ngày tập huấn rồi tái tập huấn theo một khuôn đúc đã được định sẵn. Trong thời gian đó họ được khai tâm học tập, họ không cần đếm xỉa gì đến những giá trị nhân bản, chỉ cần chuyên chú vào việc tôn thờ một vị chúa tể duy nhất mà cái tên được người ta dựa vào để sinh ra những ý tưởng kinh hoàng và làm những việc nhơ nhuốc nhất đều được cho phép! Con người bị biến thể, tự biến mình thành những người máy đem tất cả tâm trí và linh hồn để phụng sự cho chiến thắng của bản năng và thú tính, hay đúng hơn là sự chiến thắng của sự thấp hèn và ghê tởm.

Những người kháng chiến đều biết trước diễn tiến của vụ án. Họ đều biết vị chánh án của phiên toà là người có một quá khứ nặng nề của một viên quan của Triều Đình; và mặc dù ông ta đã thành tâm một cách không chối cãi, nhưng chưa bao giờ đạt được những vinh dự mong muốn, rầu rĩ và mụ người trong cái tầm thường dù đã được mạ vàng sáng láng. Khi ông ta được bổ nhiệm làm thẩm phán xử án, ông ta như bị xâu xé bởi một mâu thuẫn nội tâm. Một mặt, sau những năm học Luật, tốt nghiệp và đi làm quan, ông ta có được một sự cân bằng nào đó về kiến thức và ý niệm đạo đức trong bản thân. Nhưng ông ta lại muốn cái “tội ác” ngày xưa được tha thứ theo như cái nhìn của những người Cộng Sản – cho hắn có lại một sự “trinh bạch” để được gia nhập vào giòng người sạch sẽ và trắng ngần hôm nay, để đạt tới một tương lai huy hoàng ở ngày mai, phù hợp hơn với khát vọng và tương lai của mình. Ông ta là hình ảnh của một con giun đang quằn quại mà không biết mình nên tiến hay lùi. Khởi thuỷ cuộc đời hắn, việc chọn đi làm quan cho thấy cái chủ đích thấp hèn và cái ước vọng ác đức của hắn. Một ông chủ tư bản bóc lột công nhân, đẩy người này vào nghèo khó, bóc lột họ đến tận cùng của sức lực. Nhưng một ông quan triều vơ vét tiền của dân, nhẫn tâm trên đủ thứ tội ác, trên hàng vạn con người trong vùng cai trị của hắn. Để nịnh nọt, người dân gọi các quan là “cha mẹ của dân”. Nhưng giữa họ với nhau, họ coi ông quan như là một thứ ký sinh trùng của dân. Chuyện cũng dễ hiểu khi ông quan còn mang trong lương tâm cái mặc cảm của quá khứ. Ông ta cũng hiểu rằng đang có nhiều cặp mắt đang nhìn, không phải duyên cớ nào khác hơn là để “thử thách” khi giao cho ông nắm phiên toà xử tội một người trí thức có tư tưởng chống lại đường lối của Đảng. Trong tình cảnh như thế, ông quan Toà nhà ta không thể nào xử một cách công bằng không thiên vị và phải như Luật đã định.

– Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại Triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan trong khi Đảng của “chúng ta” được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?

 Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng đã dạy những điều như thế. Ngay cả điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm tình không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu nhũng thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng. Lời buộc tôi duy nhất đưa tôi trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vũng. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Cạnh đó, tôi sẽ rất vui khi được cho biết là dựa trên điều khoản nào của Luật Pháp, những điều mà chưa bao giờ có để các ông kết án tôi trước Toà?

– Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô Đơn (Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã đứng lên nghe theo tiếng gọi mà Đảng của “chúng ta” mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự Do, Độc Lập và Tự Hào Dân Tộc?

 Thưa ngài, tôi không học Luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật về Hình Sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và Luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như giấc mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng Luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và Luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.

Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng, nhưng việc tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, tôi biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương dỏm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, nhưng làm vũ khí của những người đã bán rẽ lòng tự trọng để chắc mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả người ấy là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.

Vì vậy, tình cảm mơ mộng là một trạng thái của tâm hồn là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.

Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời cho sự kết án của ông. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị toà án nhân dân xử mà bước ra khỏ đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng. Nhưng tôi mong mõi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.

Cái không cho phép kẻ bị kết án làm là làm thay đổi một thẩm phán thành một người có cái nhìn thấu đáo của sự thật, nhất là khi đó là một nguyên quan Triều vừa mới được xức dầu thánh cách mạng. Không, con đường đi đến danh dự không nằm trong những loại vinh dự đó, tất cả những chi tiết như vậy nó không làm hưởng thêm những đồng tiền thưởng còm cõi, không thêm được một bổ nhiệm trong hàng chức sắc, nhưng chỉ là nụ cười cho kẻ đã ban phát cho tên đầy tớ vừa mới làm xong một công việc được chủ giao phó. Thật vậy, có thể là ngược với ý muốn, sau khi đè nén những đau đớn của lương tâm, ngài quan Toà đã kêu án ông giáo sư bốn năm tù giam.

Trong bốn năm tù đày trong một nhà tù cách thủ đô 200 km, người vợ kẻ tù kia ngoài chuyện cần mẫn lo cho gia đình còn phải lo làm thêm, đã không được gia đình giúp đỡ, nhưng mỗi tháng ít nhất một lần phải đạp xe một vòng 400 cây số để mang cho chồng một đôi thứ vụn vặt, để thông tin cho chồng số phận của những đứa con, để động viên chồng thêm can đảm mà chịu đựng thiếu thốn và khổ đau, vừa hy vọng một ngày nào đó công lý, luật pháp và tình người trở lại giữa người với người.

Bản án đó không phải là duy nhất trong hồ sơ của nền công lý cách mạng, như ai cũng có thể dễ dàng đoán biết. Sẽ rất lý thú nếu ai đó tìm được hồ sơ cũ – nếu có và được tàng trữ – của những phiên toà ở thủ đô, ở các tỉnh, những hồ sơ, sẽ cho thấy những cách thức mà công lý đã bị sự bất công chế ngự, thực hiện những vụ án giả mạo, thả lỏng kỷ cương bằng những phương cách bất hợp pháp và khủng bố, bằng cách dùng những tôi tớ mà chính những kẻ này cũng không được thưởng xứng đáng. Và tất cả những chuyện đó được làm nhân danh Đảng và Cách Mạng. Chưa bao giờ trước đây mà chủ nghĩa Cộng Sản lại bị chính những người đấu tranh vì nó ngược đãi như thế.

 

3
Sấm sét báo hiệu cho cơn bão tố

Trên đường từ Toà Án về và nhiều đêm mất ngủ sau buổi xử án, tôi tập trung suy nghĩ về chuyện xảy ra mà điểm chính là vấn đề công luận. Được sống nhiều năm dài trong xã hội cộng sản và đã có nhiều cơ hội gặp gỡ giới lãnh đạo, tôi biết rõ là không bao giờ tha thứ những sơ suất hay thiếu tiên liệu trong khi thi hành nhiệm vụ hay khi thực hiện hành động. Mọi chuyện đều phải thảo luận, phân tích, nhồi xét nhuần nhuyễn đủ mọi khía cạnh để biết rằng việc làm này có thể mang lợi ích gì cho quyền lợi của Đảng. Sự tuỳ hứng và cá nhân chủ nghĩa được xem là điều kinh khiếp, vì vậy tinh thần trách nhiệm sâu sắc là được thừa nhận. Rủi thay, trách nhiệm tập thể lại biến thành vô trách nhiệm, không ai chịu trách nhiệm cả. Trên tất cả mọi chuyện, cần phải mang ra ánh sáng cái sâu thẳm nhất của vụ xử án này, vụ đầu tiên trong những vụ xử án kiểu này; trái với những lời tuyên bố của nhà cầm quyền mới là không có trả thù, có thái độ thù nghịch hay ganh ghét đối với những người trước đây không tham gia kháng chiến, họ đã kết án một giáo viên là đã đầu độc thanh niên với một triết lý chán chường, vô vọng và bi quan. Cái quan trọng nhất là những tội danh liệt kê bởi chính phủ thì lại không phải là những tội công cộng được định trong bộ Luật Hình Sự mà đó chỉ là những vi phạm về đạo đức hay chính trị là những điều hoàn toàn nằm ngoài vòng thẩm quyền của nhà nước. Có phải chăng lãnh đạo Việt Nam đã tự nhạo báng chính đường lối của mình ban hành và đồng thời nhạo báng luôn dư luận quốc tế! Xem thường cả quốc tế, có phải chăng họ đang muốn khẳng định nguyên tắc là họ có quyền trên mọi chuyện với sự có mặt của họ ở mọi nơi, có quyền trốn tránh những lời trọng thể mà chính họ đã tuyên bố, khinh thường những thông lệ quốc tế về công lý và giới hạn thẩm quyền của Toà Án? Hay, vì niềm tim mù quáng với vai trò tối cao của mình, và với tự tin cùng chung một sự dốt nát đáng thương, họ đã quyết định giáng một cú lớn để qui phục giới trí thức, làm lạnh bớt nhiệt tình đấu tranh của họ, giảm thấp đòi hỏi của họ và bắt họ im tiếng hay giam mình vào cảnh lưỡi gỗ (nói không đâu vào đâu) để làm dễ dàng cho công việc cho những người nắm quyền, thoả mãn niềm kiêu hãnh và mùi vị của chủ nghĩa hình thức, cống hiến cho dân địa phương và du khách một màn sân khấu có đám người trí thức rớt xuống cùng tầng lớp với họ và cùng hô to trung thành với Đảng.

Điều nghĩ suy thứ hai mà làm tôi buồn bực nhiều là nhân cách của vị thẩm phán được giao trọng trách vụ xử và kết án người trí thức kia. Mặc dù phản ứng về vụ này lan tràn ra khắp nước, Đảng lại phủi tay trong bình thản, phát biểu đây là chuyện một trí thức bị một trí thức khác xét xử. Đây là chuyện nội bộ gia đình và tôi hết sức tôn trọng sự độc lập của các thẩm phán, họ có thể nghiêng bên này hay nghiêng bên kia đối với vụ án. Thật là một sự ích kỷ tuyệt vời khi biến tất cả những phê bình thành câm nín hay biến chúng thành những lý lẽ biện minh cho bản án mà sự tuân phục chính quyền là không ai mà không biết.

Tất cả mọi người ai cũng biết là, trước đây, ông thẩm phán đã chịu làm nô lệ cho hai đầu: một là chính quyền Pháp và hai là các người Việt Nam cấp trên của ông. Ông ta buộc phải dâng biếu quà cáp cho các quan chức đã bảo hộ ông sao cho tương xứng với ngôi vị của họ, vì thế có thể nói là vô giá! Trong khi lương bổng thì giới hạn, ông ta chỉ còn cách vơ vét của con dân để trả tiền cho chuyện đó. Vậy thì, ông ta thò tay vào túi tiền của những địa chủ, ngay cả vào túi của nông dân nghèo làm cho họ càng nghèo thêm đến chỗ tán gia bại sản, bệnh tật và đôi khi đi tới chỗ chết. Một người phải có một tâm hồn xấu xa, phủ đầy bùn nhơ mới có thể đi vào con đường quan lại, ăn trên sự đau khổ của người dân vô tội và uống nước mắt của họ.

Ngay sau khi Cách Mạng thành công, ông ta liền cho mình một màu da mới, tìm cách gia nhập vào đoàn Thẩm Phán. Những ai có dịp quan sát ông ta ngồi xử án ở Toà Án Hà Nội đều thấy ông ta đang bị dằn vật nội tâm chỉ bằng vào cử chỉ và lời nói của ông ấy. Hắn hiểu quá rõ là chủ nghĩa cộng sản luôn nung nấu một nhận thức hận thù đối với giới quan lại đại diện cho phong kiến và bóc lột, và luôn là kẻ thù của Cộng Sản. Cái lỗi lầm đã dấn thân vào con đường quan lại cũng to lớn như tội của bà Eva đã ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng. Để chuộc lỗi, ông quan đã tự nén chặt lương tâm hầu mong được chút ân huệ của Đảng. Xử án một cách mù quáng những người vô tội bị lãnh đạo của Đảng kết án về những tội lỗi tưởng tượng không hề có trong Luật Pháp! Nhưng cái lương tâm bị xâm phạm đó lại chiến đấu điên cuồng, căng lên trên khuôn mặt hốc hác của ông quan; ông ta không cảm thấy dễ dàng thoải mái dưới vô số cặp mắt, săn đuổi bởi những hồn ma vô hình. Nhưng hắn đã tự làm trò hề với mình khi hắn bắt chước những kẻ nịnh bợ mà thốt lên mấy chữ “Đảng ta” từ cửa miệng mình thoát ra rồi vỡ vụn như vỏ trứng bị đập bởi cái muỗng.

Tiếng sấm nổ vang báo hiệu cho cơn bão sắp đến. Thủ đoạn nham hiểm của những người cộng sản đã quyết định để cho một người trí thức bị một người trí thức khác xử và kết án. Đây là một cuộc huynh đệ tương tàn, một trận đấu gà, nhưng chỉ là trận đấu của một bên, bên được sự hỗ trợ của chính quyền, có quyền lực và luật pháp trong tay để thực hiện mọi ý đồ, và một bên chiến đấu đơn độc với tay không với vũ khí duy nhất là chính nghĩa và cảm tình của quần chúng. Đảng có quyền có tiếng nói cuối cùng, nhưng sự thắng của họ cũng chẳng tăng thêm uy tín thanh thế hay cũng cố thêm niềm tìn của dân chúng mà họ mong sẽ có được. Lý mạnh của con chó sói cũng không làm giảm bớt mối thương cảm dành cho con cừu…

Tiếng sấm nổ vang trên bầu trời đầy xáo trộn đã phát sinh ra một hậu quả trông thấy: một sự chia rẽ đã xuất hiện, một bên là những kẻ thần phục vỗ tay tung hô, miệng khô lưỡi gỗ, ngoắc đuôi mừng. Một bên là họ, những người cộng sản nắm quyền chiếm nhiều ưu đãi và ngồi không lãnh lương, được quyền ban bố, được quyền chọn chỗ nơi, được hưởng những chuyến xuất ngoại đầy tư lợi, được ký kết những hợp đồng mang về đầy túi cho phái viên người Việt bất kể việc gây thêm gánh nặng cho ngành sản xuất mà máy móc lỗi thời đã bị bỏ hoang từ lâu và thường xuyên hư hỏng. Chỉ có nhân dân, đã tả tơi, nay còn phải trả giá cho sự bịp bợm, sự bội tín, trộm cắp được thực hiện, hoàn toàn không chịu một trừng phạt nào, bởi những kẻ tự xưng và tự vinh danh mình là những người đầy tớ trung hiếu của dân. Những người trọng danh dự chân chính khác, thuộc thành phần kháng chiến hay không, quay ra ghê tởm cái chất thâm hiểm của những kẻ đầy tớ của nhân dân đang hình thành áp đặt một loại bóc lột mới, đó là sự bóc lột của cộng sản, là những người, mặc dù như thế nào, vẫn đứng về phía của lẽ phải, của Trời Phật, Thiên Chúa. Họ bị sốc vì sự ngu dốt, vừa thật thà vừa nhẹ dạ của lãnh đạo, và một số người đã xem như cuộc Cách Mạng là thất bại và Nhà Nước là thối nát, đã tìm đường ra nước ngoài, nhằm tìm đến một xã hội có nhiều công bằng, đạo đức và phồn vinh. Ở đó, họ còn có thể gặp những người biết trọng dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình, từ đó nhìn một cách cay đắng về con tàu quốc gia với những đứa con vô ơn và phạm pháp đang mỗi ngày đục lỗ để làm đắm con tàu.

Đối với những người còn lại, họ say đắm một tình yêu đất không phải lè nhè mà sinh động, với trung chính và ngay thẳng đạo đức, họ phân tích sự suy sụp của nền kinh tế và sự nghèo đói của quần chúng, kiếm cách tìm ra nguyên do của căn bệnh và tìm kiếm thuốc chữa. Lỗi lầm duy nhất mà họ mắc phải là đã quá tin những người tổ chức phong trào Trăm Hoa Đua Nở và đã hết lòng đi tìm những nguyên nhân và nguồn gốc của những đau khổ mà nhân dân phải gánh chịu. Cái ngao ngán là những phân tích sau rốt đã cho thấy nỗi đau khổ kinh hoàng của nhân dân là do những lỗi lầm về chính trị phát xuất từ sự ngu dốt mà chỉ có hai chữ kiêu ngạo mới có thể sánh được. Trước đây, mọi người cố tránh phê phán, chỉ vì lịch duyệt và tính cẩn thận. Nhưng điểm phát xuất đã khởi sự, dưới tiếng còi của Đảng nay đã thay đổi, rập khuôn với một “Đảng anh em” , những xạ thủ tha hồ bắn vào những mục tiêu chào mừng bởi những tràng pháo tay của người xem… Thật là quá tốt để kéo dài. Trong thời gian chuyển tiếp giữa hai màn diễn, những tâm hồn nhạy cảm đã thấy sự phản công của những người cộng sản.

Sau một thời gian, những phản ứng bắt đầu. Khởi đầu bằng một cuộc mít tinh chỉ cách chỗ tôi khoảng vài trăm thước. Đắm mình trong cái chức vụ nhỏ bé và khiêm tốn, tôi không hề bị con vi trùng tự tôn tự đại tấn công, cũng không như kẻ chả ra chi nhưng tự cảm thấy mình cao ngang hàng với đỉnh núi Everett kể từ ngày Cách Mạng Tháng Tám thành công. Thật vậy, trước một đám đông thính giả hàng nghìn người, một anh chàng nếu không tẩm phết một chất chiếu sáng thì cũng chỉ là cái bóng lẫn trong những cái bóng mờ khác, chợt đến chợt đi mà không một ai để ý đến sự xuất hiện hay biết mất. Vì thế, tôi nghĩ rằng tôi chỉ việc tiếp tục lo cho công việc của tôi trong hoà bình và yên tĩnh. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy một người đưa tin quan trọng là đích thân ông Giám Đốc Viện Ngôn Ngữ đến mời tôi đến tham dự buổi mít tinh. Để có thể lưu ý đến sự vắng mặt của tôi trong buổi tụ tập đông người như thế, chắc hẳn người ta đã đánh dấu tôi và muốn tôi có mặt trong buổi họp. Tôi không tin là người ta muốn đưa tôi lên ngồi trên trước vì mọi người lo lắng khi không thấy tôi có mặt nơi đây. Kinh nghiệm nhiều năm sống trong thời kỳ kháng chiến bí mật cho tôi hiểu là điều tồi tệ đang chờ đợi tôi phía trước. Buổi mít tinh là một trận đấu bò mà tôi là con bò tót được đẩy ra giữa sân đấu, giữa những tên đấu bò chỉ chờ lúc mà giết tôi sau khi đã nhận những lời giải thích và những yêu cầu cuối cùng cho trận đấu.

Nhân vật đứng ra tổ chức cuộc mít tinh là một thứ trưởng, bộ nào thì tôi đã quên tên, mà tôi đã được “vinh dự” dạy ông cùng đám cựu sinh viên của tôi. Trong thời gian mà tôi đã được biên chế vào một đội Cải Cách Ruộng Đất, tôi đã được nghe những đứa nhỏ tố cha mình về những tội lỗi nhớp nhúa theo lệnh của những cán bộ cộng sản, tôi đã hiểu những giá trị Khổng Mạnh thơm tho từ ngàn xưa thấm nhuần trong tâm hồn người Việt giờ đã chết. Tôi không ngạc nhiên khi thấy một học trò đang chuẩn bị cho cái chết của thầy cũ của mình và thuyết phục những kẻ đấu bò ra cú đòn chí mạng. Sau khi chắt lọc xác bã của tách trà, vị đắng của chua xót đã nhấn ngập lòng tôi vào nỗi buồn khôn tả.

Nhưng con bò không gục ngã ngay dưới những cú đâm của bọn đấu bò, nó đấu đến hơi thở cuối cùng, chơi với tấm vải đỏ và khi đến màn cuối với cú đâm chí mạng, nó đưa ánh mắt cuối cùng về phiá Thiên Đường như muốn ở đây làm nhân chứng cho một sự dã man của chính trị và tiền bạc mà con người tàn bạo đã xếp đặt để giết kẻ vô tội và yếu đuối.

Trong một thời gian, đã có tin đồn được lan truyền là Đảng không muốn ai phê bình họ, dù là những phê bình chính đáng và đứng đắn từ những nhà văn, thầy giáo và ký giả, những người đang phạm một lỗi lầm chết người là đã cả tin là giờ đã đến cho những tiếng kêu chiến thắng vang dội của chủ nghĩa Cộng Sản. Những họng súng đã sẵn sàng nã đạn vào nhóm người trong phong trào Trăm Hoa Đưa Nở, bên cạnh đó là tầng lớp trí thức bị nghi là không chịu quỳ gối tuân phục trước các ông Trời Marxist-Leninist. Dù họ có lên tiếng nói hay tự ép mình trong yên lặng, tất cả đếu cảm thấy cái nguy hiểm thành tù khổ sai. Đây là cơ hội duy nhất, không phải để họ thắng cuộc cho lý tưởng thần thánh một chủ nghĩa Cộng Sản của họ, mà để dẹp tan quần chúng bằng khủng bố, bằng cách áp dụng một cách thô bỉ bàn tay nặng nề và không nhân nhượng để trị tội kẻ cầm đầu nhằm dằn mặt những kẻ khác.

Trong một nền Tư Pháp nghiêm chỉnh chặt chẽ, mọi vụ án đều phải qua những trình tự luật định, khởi tố vụ án, mở hồ sơ, và cho phép người bị kết án được giải thích và tự bào chữa cũng như người thẩm phán xử án phải áp dụng Luật với tất cả lương tâm của mình… nhưng đó là một cách làm của giới tư sản làm mất thời gian vô ích và nhất là nó không đặt quyền ưu việt của Đảng như là quyền lãnh đạo của chính phủ. Đứng trên quan điểm của những người cộng sản, Luật và những thủ tục luật pháp là những phát minh từ những đầu óc không bình thường chỉ làm phức tạp và kéo dài những vụ án. Với tất cả mọi người, điều cơ bản, không thể xâm phạm, giáo điều không thể thay đổi là Đảng là người duy nhất nắm tất cả Sự Thật, có quyền chống lại bất cứ người nào khác, là bất cứ “người dân” nào cũng phải có bổn phận và trách nhiệm đấu tranh cho sự toàn thắng của Đảng, trong tư tưởng cũng như việc làm của Đảng, phải chấp nhận đau khổ và hy sinh – ngay cả việc dâng hiến sinh mạng, nếu cần – nhân danh Đảng và vì Đảng. Tư bản nói về Công Lý của Quốc Gia, người Cộng Sản nói về Công Lý của Đảng, cả hai đều cùng chung một cách làm, xử án vội vã và qua loa, đội xử bắn của tư bản đưa ra để giết và tự vinh danh mình trong Thế Chiến Thứ Nhất. “Tôn giáo” chủ nghĩa xã hội và sự sùng bái Đảng không cho phép mọi tranh cải, chỉ trích về những giáo điều mà họ đưa ra để tuyên bố họ là người vĩnh viễn lãnh đạo và “bách chiến bách thắng” để thiêu sống những ý niệm về Luật, công lý và vô tội của bọn tư sản. Hỡi những người đang ngoan ngoãn đang nghe, xin chúc mừng.

Vì thế, để đối phó với nhóm trí thức đang tỏ ra mất niềm tin đối với những sự thật được Đảng dạy, Đảng cần phải đối phó với đám này bẳng những phiên án khẩn cấp, không cần thủ tục luật định, được tổ chức chu đáo như thời Cải Cách Ruộng Đất. Cuộc dàn dựng đã được xếp đặt trước, như nơi chốn, thời gian, vai trò của những người xử án, những điểm lúc mà họ cần tung ra lời nguyền rủa, những chi tiết dù đúng hay sai để kết luận phiên toà với lời buộc tội đầy thiên vị, độc ác, định kiến và những lời xác nhận thiếu vắng chứng cớ và hệ quả. Bản án đã được nghiên cứu trước: án tử hình sẽ không được tuyên nhưng có hàng ngàn phương án khác để giết người qua những cách xảo trá, quỷ quái âm thầm và trong đêm tối. Tất cả những suy nghĩ ấy, bằng những kinh nghiệm đã sống, dồn đến với tôi khi tôi bước vào phòng họp.

“Báo cáo viên” (theo danh xưng dùng bởi những người cộng sản) bắt đầu đong đưa cái lư hương dưới mũi của đám trí thức. Họ là những đứa con cưng của Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, họ đã chọn đúng con đường, đứng sau lưng Cách Mạng và cùng hàng ngũ với Dân Tộc mà họ cùng chia sẽ những thiếu thốn cơ cực và niềm trung hiếu, họ tự nâng mình lên đỉnh cao của quyền uy bằng những khả năng và kinh nghiệm cống hiến cho Tổ Quốc. Vinh quang thay cho trí thức, những đứa con xứng đáng của Việt Nam và của nhân dân.

(Thính giả nghe những lời ca tụng với e dè. Họ đã từng được nghe những người cộng sản tung hô trí thức, mặc dù những người trí thức đã bị cộng sản đoạ đầy bí mật từng người một, dùng tất cả họ làm vật hy sinh. Mỗi lần Đảng nói sự thật, phải hiểu đó chỉ là một cử chỉ ngoại giao. Người thợ săn giương cặp mắt hiền hoà và đậm màu tự nhiên là để tiếp cận đến con mồi trước khi siết cò súng giết nó ngay lúc cận kề. Những kẻ trí thức gia nhập Đảng đều được nghe và được học câu nói rằng họ đã được giáo dục thích đáng là để được Đảng sử dụng bất cứ lúc nào, mỗi khi Đảng muốn dỗ ngọt những đồng chí cộng sự viên để nhượng bộ hay hy sinh chuyện gì đó. Đó là cái mà diễn giả đang làm. Ông ta tiếp tục đưa củ cà rốt lố bịch trong khi chờ ra cú đánh của cây gậy).

“Tại sao trí thức lại là đứa con trân quí của Đảng? Đó là nhờ họ đã sống nhiều năm dài với Kháng Chiến trong thời kỳ bí mật, được Đảng giáo dục, học tập về chủ nghĩa Marx-Lenin, hiểu và truyền bá áp dụng những chính sách của Đảng và đã có may mắn sống trong một xã hội cách mạng bởi vì họ cảm thông với giai cấp công nhân và nông dân sống nghèo đói và trong hy vọng, đã giành được trong đời sống cách mạng những giá trị của sự kiên trì, chịu đựng, hy sinh xã thân, và những giá trị đó càng được tăng cường qua những tháng ngày chấp nhận sống trong nghèo đói và thiếu thốn.

“Thế giới của kháng chiến bao gồm những con người có tinh thần cao, đạo đức ngoại hạng, tâm hồn trong sáng và thanh cao, có niềm tin mãnh liệt vào Đảng và Dân Tộc, bền cứng như sắt thép, kẻ thù mãnh liệt của giai cấp tư sản và những tư tưởng phản động, cách sống thoải mái sang trọng của họ bằng những bóc lột xấu xa đối với người vô sản là những người quyết tâm tiến tới chủ nghĩa xã hội, tới một chân trời sáng chói của công bằng và hạnh phúc. Thật hồ hởi khi thấy một hoạt cảnh của nhân loại khi mà tất cả đều mặc đồng phục vàng kaki, mang toàn những đôi dép râu làm từ những chiếc vỏ xe cũ bỏ đi, nhận cùng một lượng gạo hàng tháng, được ăn cùng phần củ độn, giây khoai, nói cùng một luận điệu, được thúc đẩy cùng một động cơ tư tưởng chính trị, đứng chung cùng một vũ đài chính trị. Một sự đoàn kết lộng lẫy tuyệt vời giữa Đảng và Dân, giữa cán bộ và quần chúng!

(Diễn giả thật có lý. Cảm thấy tinh thần hồ hởi lên cao trước sự đoàn kết dựa trên sự đồng nhất, cùng một cử động, phát ngôn như vẹt, bị ép buộc một cách kín đáo và một thái độ đạo đức giả gượng ép. Không thể chối cãi là trong khoảng mười năm nay không khí đạo đức phải nói là rất tốt, những sinh hoạt đều trong sáng, an ninh xã hội được bảo đảm. Ban đêm mọi người đầu có thể đạp xe hay di chuyển mà không sợ rủi ro nguy hiểm. Sự đãi ngộ bình đẳng trong các tầng lớp cán bộ đã loại bỏ lòng ganh tị, làm thối nản chủ nghĩa kiếm chác và chủ nghĩa cơ hội. Tất cả những người sống những năm trong kháng chiến còn bí mật vẫn còn nhớ những tháng ngày trăng mật giữa những người cộng sản và những người trí thức)

“Một khi củ cà rốt đã được phân phát, những cú đập của cây gậy bắt đầu xuất hiện. Gậy đập từng trận đòn lên lưng những cán bộ trong toàn guồng máy Nhà Nước. Hiện tại, trước khi trở về Hà Nội để nhận lãnh những chức vụ hành chánh, tất cả cán bộ công nhân viên đều phải theo học những buổi dạy là phải đề cao cảnh giác với những viên “đạn bọc đường” bắn vào họ nếu họ để mình bị cám dỗ bởi cuộc sống xa hoa do tham nhũng và trụy lạc.

“Rủi thay, những bài học đó đều trở nên vô ích. Trong đời sống thành phố, đối với những con vi trùng mang sự suy đồi về đạo đức, sự xuống cấp của con người, những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh sôi xem ra phát triển mạnh. Cán bộ đắm mình trong những cám dỗ và trờ thành con mồi cho bao nhiêu thói hư tật xấu. Buông thả mình trong những tiêu pha hoang phí và sống một mức sống đế vương, họ có những nhu cầu không ngăn nổi về tiền bạc và kiếm cách làm tiền càng nhiều càng tốt. Vì thế họ đã phạm đủ thứ tội lỗi và tội ác, như thế, theo như những gì người cộng sản đã nói, độc quyền thế giới là dành riêng cho bọn găng tơ Chicago. Chuyện đương nhiên là khả năng kiếm được bằng mọi cách và mọi giá những số tiền to lớn để thoả mãn những cơn khát tiêu xài! Không thể dập tắt được, than ôi. Chúng tôi thật đau buồn”.

(Dưới hàng thính giả, có vẻ có một khao khát tự hỏi “Lỗi ai đây?” Anh có thể khóc ra máu mắt. Lý do chính là anh không áp dụng những gì mà chủ nghĩa Maxist mà anh đã dạy. Thứ nhất, anh đã quên qui luật là mọi chuyện đều chuyển động ngược chiều với nhau: chuyện tốt có thể chuyển thành xấu, chất lượng thành hư hỏng, đức hạnh thành đồi bại. Anh đã ngây thơ đặt niềm tin nơi người học sinh mà anh từng ngày chăm sóc theo dõi từng bước tiến, người mà anh đã cấp cho một thứ chứng nhận về đạo đức mà anh nghĩ là rất xứng đáng được anh đặt họ vào những vị trí trách nhiệm. Những hiền triết ngày xưa dạy rằng mọi sự vật, đúng y như những người theo chủ nghĩa Marx đã dạy phương pháp biện chứng là mọi sự đều có mâu thuẩn tồn tại trong chính nó. Anh phổ biến chủ nghĩa duy vật nhưng chính anh lại tự nhốt mình vào chủ nghĩa duy tâm khi mà anh tin tưởng vào sự vĩnh cửu của ý tưởng, của con người và thế giới. Vâng, những con người mà các anh đào tạo, chấp nhận đứng vào hàng ngũ với các anh, những người đã thề trung thành với Đảng và chủ nghĩa Cộng Sản, những người xum xoe nịnh hót đã làm mặt các anh hừng lên nét thoả mãn, các anh đã cho họ một ông Trời tốt lành mà không hề đòi họ những lời xưng tội.

Các anh đã đầu tư vào để họ ngồi chơi xơi nước và đầy những đặc quyền để rồi bị những cám dỗ phủ đầu, những cám dỗ không tên mà đến như thánh Antoine cũng không biết. Các anh đã thất bại trong việc kiểm soát chúng, bao quanh những hoạt động của chúng với một rào cản tối thiểu, giúp chúng khỏi rơi vào vào cạm bẩy của quỷ dữ và ham muốn trần tục; ngược lại các anh lại tin vào sự thánh thiện của chúng. Các anh giáo dục quần chúng rằng kẻ thù sẽ mãi mãi là kẻ thù, bạn sẽ mãi mãi là bạn, rằng những giáo điều Cộng Sản luôn luôn được tắm trong nước giếng trường sinh và giữ đến muôn đời tuổi xuân và sắc đẹp. Các anh tự cho mình là nhân vật thần thoại Adonis, áp đặt những kẻ mà quần chúng sẽ phải tuân phục, đưa họ lên bàn thờ của tổ tiên, các anh tin rằng những kẻ này là đã được phú cho tuổi trẻ không thay đổi, sắc đẹp trường cửu, một trí thông minh bền vững, như thách đố cả thời gian, sự thịnh suy của tuổi tác, sự tàn phai của cơ thể con người, không còn nhược điểm về thể xác cũng như sự yếu đưối về tinh thần.

Vì vậy, cái lỗi lầm cơ bản và không thể tha thứ được là đã không chấp nhận và thực hiện cái triết lý về sự chuyển động và thay đổi của sự vật, hậu quả là các anh đã phớt lờ những ảnh hưởng của nó trên suy nghĩ và hành động của các anh.

Cái lỗi lầm cực kỳ to lớn thứ hai là các anh luôn đỗ lỗi trên người khác về mọi chuyện nhưng không bao giờ có chuyện nào thuộc về lỗi về của các anh. Tính tự phụ tai hại đó không thể chấp nhận được, bởi vì những người bị các anh xử án sẽ không đồng tình trên cái tính chính đáng, đúng đắn của lời buộc tội với đầy dẫy thiên vị, một chiều, một phía và sẽ đứng dậy chống lại hình phạt mà các anh dành cho họ. Nhưng có một chuyện còn nghiêm trọng hơn! Các anh không hề thấy rằng các anh cũng phải có phần trách nhiệm, các anh không chấp nhận là các anh có lầm lẫn, có thiếu sót vì lẽ các anh là người nắm chính quyền và đã để chuyện xảy ra gây những hậu quả càng ngày càng nghiêm trọng. Khi mà anh còn chưa biết gì cả và chưa hiểu được bài học từ những thiếu sót bản thân và những định kiến không sửa được, khi mà những phán quyết đã được định sẵn bởi cái đầu của anh mà không do từ thực tiển, thì cái hậu quả kinh hoàng, đáng trách và tàn khốc kia một khi tái phạm với cái tội lỗi của các anh sẽ còn nặng nề hơn nữa)

Trong khi những suy nghĩ dấy lên trong đầu của thính giả, nhiều người đang bàn tán xôn xao thì diễn giả nâng cao giọng và đi vào phần đúc kết lời buộc tội:

“Nếu sự suy sụp tinh thần của con người đã trở thành một kich bản đau đớn cho Đảng và giới trí thức, thì việc những người tham gia phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” đào ngũ khỏi nền tảng của tư tưởng lại càng bi thảm hơn nữa. Người ta đã đòi hỏi gì? Loại chính trị khỏi mọi sinh hoạt của trí thức và thiết lập nền dân chủ trên cả nước.

“Nhưng có phải là không có dân chủ ở Việt Nam sao? Những ai đòi hỏi nó phải quay nhìn lại và so sánh thời gian trước và sau 1945. Trước đây, ngay trước ngày Cách Mạng, nạn đói đã gây ra hai triệu nông dân chết đói. Hai tỉnh đông dân nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là hai tỉnh Thái Bình và Nam Định đã bị tan tác. Hàng triệu nông dân, ốm đói như những bộ xương biết đi, lê lết thân mình khắp đường khắp phố. Họ không phải đi kiếm gạo mà bất cứ thứ gì có thể làm bớt cơn đói đáng đốt cháy bao tử mình. Họ tụm túm trong mọi góc đường thành phố để mong kiếm được thứ gì để kéo dài mạng sống dù trong một chốc lát ngắn ngủi. Nhưng người sắp chết chỉ còn ngã gục và xác người rãi rác khắp đường, khắp nẻo. Ngày nay, những hình ảnh làm thắt lòng người đó không còn nữa: trên đường phố, không ai còn thấy một kẻ ăn xin chìa tay chờ bố thí.

“Trước đây, một dân tộc kiêu hãnh với ngàn năm văn hiến và nền văn học rực rỡ đã phải đau khổ vì nạn thất học. Ngày nay mọi người đều đọc báo chí, trẻ con được đến trường, ngay cả ở những xóm làng xa xôi nhất trên vùng cao nguyên. Số lượng học sinh đến lớp thật đáng kinh ngạc, người đi làm ban ngày ban đêm đi học, và các Đại Học trên cả nước mở cửa đón nhận các học sinh nam và nữ, dạy cho họ những chương trình cấp cao.

“Trước đây, nền sản xuất là thuần nông nghiệp và thủ công nghiệp, ngày nay nhà máy được xây dựng khắp nơi, và sản xuất công nghiệp, trong quá trình phát triển, đã tạo ra một tầng lớp công nhân mà số lượng tăng từng ngày và chất lượng tiếp tục tốt hơn.

“Trước đây, ở nông thôn, các quan triều và các quan làng, quan xóm thi nhau hút máu đồng bào, làm cho họ nghèo kiết xác. Ngày nay, ở mọi cấp độ, những uỷ ban nhân dân mà đa số là nông dân cùng quản lý chuyện đất nước và chỉ ra quyền của nhân dân là chủ nhân của số phận của mình.

“Trước đây, chúng ta đã làm nô lệ cho Thực Dân, ngày nay chúng ta là một nước tự do và độc lập và sau trận Điện Biên Phủ, lời nói của chúng ta là lời nói nặng cân đối với thế giới. Tất cả dân tộc các nước thứ ba đều thèm muốn được uy tín như chúng ta.

“Còn gì để nói thêm nếu không phải là dân tộc ta từ nay tự quyết định đến vận mạng mình mà không bị bất cứ sự can thiệp nào của nước ngoài, vì vậy chúng ta từ nay sẽ hoàn toàn tự chủ và độc lập trong việc quản lý đất nước, tổ chức sản xuất, quản lý Luật Pháp mà từ nay sẽ không còn tuỳ thuộc vào quyền hạn của những toà án thực dân, trong việc bảo vệ đất nước mà không cần đến một quân đội đánh thuê của nước ngoài nào… Vậy thì cho tôi hỏi các ông: Phong kiến và thực dân đã bị đuổi đi, còn ai nữa khác hơn là Nhân Dân Việt Nam đứng vào chỗ đó? Và những người đó sẽ phải làm gì một khi đã đứng ra nắm lấy vận mạng của mình trong tay? Họ đứng ra tổ chức Nhà Nước và làm cho Nhà Nước là của dân và vì dân. Dân chủ phải là như thế: đúng hay sai?

“Các ông hỏi tôi: thế thì chủ nghĩa Cộng Sản làm cái gì trong nền dân chủ của Việt nam? Được, tôi sẽ trả lời các ông. Các ông như là những đứa trẻ đang tập đi. Có cần không việc giúp cho đứa trẻ không trượt không té? – Các ông là những người chủ của những chiếc ô tô mới mà các ông cũng chưa biết làm sao lái xe. Các ông có cần hỏi học ở trường dạy lái xe dạy các ông nắm tay lái để tránh leo cả lên lề đường và gây ra tai nạn không?

“Nếu các ông cho phép, chúng ta hãy trở về với thời gian. Năm 1945, trong nước thời cơ đã đến cho phép chúng ta hy vọng giành lại được Độc Lập và Tự Do. Còn nữa, lúc ấy nhân dân đã bị tan tác vì trận đói, và lại không chút kinh nghiệm chính trị, họ không thể nào tự mình hoàn thành một công việc to lớn của thần Hercule. Ngay cả những người kháng chiến yêu nước và can đảm nhất cũng không xông tới trong một trận đánh mù quáng và nắm chắc một cái thất bại không tránh được nếu không có chỉ huy và kế hoạch. Chính nghĩa tự nó là chưa đủ. Một hướng đi đầy tính toán cần phải có để tránh thảm cảnh vụ tàn sát Xô Viết Nghệ Tĩnh tái diễn. Đảng ta không làm gì ngoài việc lãnh đạo và trách nhiệm sự vận động của Cách Mạng. Các ông đã biết những kết quả tuyệt vời đã thành công từ đó. Sự hợp tác giữa Đảng và Nhân Dân đã rất thành công và hiệu quả. Chúng ta không có quyền chối bỏ những thắng lợi đầy uy tín hay xoá bỏ quá khứ huy hoàng đó.

“Vì vậy, ở nước ta, Đảng và Nhân Dân, chủ nghĩa Cộng Sản và Dân Chủ là gắn bó với nhau. Lịch Sử đã quyết định như thế, chúng ta hãy tôn trọng ý muốn đó. Hơn nữa, từ khi Đảng dẫn dắt nhân dân, dắt từng bước đi, soi sáng con đường đi của họ, nhân dân đã phải tự chúc mừng cho mình: sự hợp tác đã trở nên lợi ích, và nước ta đã có niềm tự hào chánh đáng về những thắng lợi đầy xúc động và bất ngờ mà chúng ta có được dưới sự che chở của chủ nghĩa Cộng Sản. Quá khứ dẫn dắt hiện tại và tương lai.

“Còn nữa, đối với những ai đòi hỏi chấm dứt sự dạy dỗ của Đảng đối với Nhân Dân, có bao giờ họ đã tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra cho Đất Nước nếu Đảng từ bỏ vai trò lãnh đạo nhân dân của mình? Có đảng nào còn có thể thay thế đảng Cộng Sản? Các ông biết quá rõ một đảng phái chính trị là gì trong một thế giới Tư Bản. Mỗi đảng lo bảo vệ quyền lợi của đảng mình, và trong bước bổ sung, là quyền lợi của những ai bỏ phiếu cho mình. Những tay làm chính trị chuyên nghiệp không từ bỏ một sự đê tiện, một xấu xa nào để nhét đầy túi tham và áp đặt những mục tiêu ích kỷ và tham lam của họ trên trước ước vọng của nhân dân. Chúng chẳng quan tâm đến những tai tiếng mà chúng là chủ thể, ngay cả những lời biêu riếu dành cho chúng. Chúng nó luôn sẵn sàng bỏ chạy, kiếm đường trốn thoát ra nước ngoài và khởi sự lại cuộc sống sang trọng. Trong thời Pháp thuộc, những thói quen chính trị từ chủ nghĩa tư bản đã xâm nhập: ngày trước, các ông đã biết quá rõ những hành động của một số chính trị gia thối nát, họ để vàng và tiền bạc, ăn cắp của nhân dân, vào những ngân hàng Thụy Sĩ, xây cho họ những biệt thự sang trọng ở nước ngoài, để có nơi thối lui hạ cánh Chúng nó đã để sẵn những chiếc máy bay sẵn sàng đào thoát mang theo hàng tấn vàng đủ bảo đảm cho họ và người thân một tương lai huy hoàng. Các ông có muốn giao phó số phận của đất nước, ngay cả của các ông và con cháu các ông cho những nhân vật không ra gì như thế hay không?

“Nếu các ông cảm thấy cần có sự lãnh đạo, các ông có chọn lựa nào tốt hơn là Đảng của chúng tôi, một đảng đã có tiếng tăm, đầy vinh quang, lóng lánh trong suốt, có những đảng viên tranh đua nhau trong nhiệt tình cách mạng và niềm tin xã hội chủ nghĩa?”

(Trong giờ giải lao, những người đến nghe xầm xì trao đổi ý kiến – Những lý luận mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể có thể thuyết phục được người dân trong một buổi chợ phiên vui nhộn, với trình độ trung bình, không thành thạo về việc phân tích, không quen suy nghĩ, sẵn sàng nuốt nhận bất cứ chuyện gì. Dĩ nhiên, người dân phải được dẫn dắt. Nhưng vấn đề lãnh đạo đưa ra hai câu hỏi. Thứ nhất, có thật cần thiết phải đòi hỏi giao niềm tin hoàn toàn vào một người hay nhóm người lo toan mọi lãnh vực sinh hoạt của quốc gia? Chúng ta phải công nhận rằng không bao giờ có một loại thiên tài vạn năng: một danh tướng có thể, nếu cần thiết, cầm cả một trung đoàn nữ ý tá đi đặt vòng soắn ngừa thai cho quý bà mắn đẻ. Nhưng chuyện lãnh đạo kinh tế và tổ chức sản xuất đòi hỏi phải có những kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn. Người trí thức không thể đặt dưới quyền của những người có chút ít học hành hay chỉ biết đọc biết viết. Hơn nữa, Đảng lại giành độc quyền lãnh đạo tất cả mọi lãnh vực.

Thứ hai, việc lãnh đạo nhân dân sẽ phải giao cho ai? Thông thường, là phải do nhân dân chọn. Nhân dân bầu ra những người đại diện và uỷ thác, giám sát và kiểm tra tư cách và việc làm của những người này trong nhiệm vụ phải lo toan cho quyền lợi và thực hiện khát vọng của mình. Đây là nguyên tắc của dân chủ: để mà nói rằng một chính phủ do dân và vì dân. Còn nữa, ở Việt Nam hay ở những nước Cộng Sản, Đảng đã giành cho mình độc quyền chính trị và đôc quyền lãnh đạo toàn diện chính phủ. Hiến Pháp có thể phân chia các quyền, bổ nhiệm quyền Hành Pháp cho Hội Đồng Chính Phủ, quyền Tư Pháp cho Toà Án mà sự độc lập trên lý thuyết đã được bảo đảm, nhưng trong thực tế, các quyền đã chứa đầy một cách khó hiểu toàn đảng viên cộng sản và họ chỉ làm theo cách mà Đảng muốn. Vì vậy, loại “dân chủ: mà những người cộng sản tung hô chỉ là một sự giả dạng để tạo vui vẻ nhưng, đồng thời, than ôi, gây ra sự phá sản cho đất nước và ngày càng làm cho dân tộc nghèo đi mà không gì cứu vãn được.

Những quyền cơ bản và tự nhiên nhất của con người không được cho phép, ngay cả những quyền tự do cá nhân trong nước cũng không được tôn trọng. Chẳng phải chỉ có riêng chuyện Đảng có thể ra lệnh cho Công An bắt người, nhốt tù người vĩnh viễn, không cần qua bất cứ một cấp Toà Án nào, mà có vài lãnh đạo cao cấp ban đêm đi cùng công an đến bắt tại nhà những kẻ thù chính trị, còng tay đem họ đi, nhốt họ suốt đời, không qua bất cứ lần xét xử nào, vào những nhà giam bí mật mà họ chỉ ra khỏi khi đã thành chiếc thây ma không hồn. Chuyện áo dơ chúng ta giặt ở nhà, nhưng vì có quá nhiều áo dơ phải giặt mỗi ngày nên người ta cảm thấy cần phải tuyên cáo rằng Việt Nam là một thế giới bưng bít, như trong trường họp chung của toàn thế giới cộng sản. Bên trong thế giới đó, người ta tha hồ tự mình cho phép thực hiện những điều bệnh hoạn không thễ tưởng tượng, những vụ truy bức tàn bạo, những việc điên khùng kinh tởm. Không ai có thể nhìn vào cái địa ngục trần gian đó để thấy những tội ác kinh hoàng làm nhục nhã loài người đã và đang xảy ra. Mặt khác, về phía mình, bạo quyền không tha thứ cho bất cứ đề nghị, lời khuyên hay một góp ý nào, không chấp nhận bất cứ chỉ trích nào và không muốn tự nhìn khuôn mặt ma quái của mình trong gương, họ đang chiến đấu với chính mình trong cái vòng lẫn quẫn mà họ đang chết ngộp vì lỗi lầm và tội ác của mình)

Diễn giả có biết chăng những luồng suy nghĩ như thế đang xảy ra? Có thể. Trong tình huống nào ông ta cũng vẫn tiếp tục kịch liệt chỉ trích chủ nghĩa tư bản. Cùng lúc là những vinh danh cho chủ nghĩa xã hội.

“Các ông có đang chối bỏ những thành tích lớn lao của chủ nghĩa xã hội trên đất nước của chúng ta không? Nhờ vào Đảng mà chúng ta có những điều tốt đẹp như ngày hôm nay. Tôi đồng ý với các ông là Đảng không được nhân dân bầu lên, nhưng nhờ những chiến đấu cách mạng trong quá khứ, đã phải chấp nhận những hy sinh, đạt được những thắng lợi, họ đã được nhân dân hổ trợ và tỏ ra xứng đáng với niềm tin yêu của dân. Quyền lợi của Đảng hoà chung với quyền lợi của quần chúng, Đảng đã làm việc cho lợi ích chung và đã làm cho nhân dân nể trọng vì sự khôn ngoan và đạo đức của mình. Với một mục đích giống nhau như đúc, mối quan hệ về quyền lợi giữa hai bên là một giao ước không thể xoá bỏ được. Nhân dân và Đảng cùng đi trên một chuyến tầu cùng hướng về phía Thiên Đàng của ơn phước. Nhân dân hiểu và chấp thuận cho Đảng được tự cách ly riêng trong sinh hoạt, cách tổ chức, chức năng, trong việc bổ nhiệm cũng như khiển phạt, trong việc xây dựng những đường lối hoạt động và ngoại giao, và nhân dân hiểu chuyện Đảng phải làm việc trong vòng bí mật là vì lợi ích của nhân dân! Nhân dân chẳng những thông hiểu mà còn tán thành việc làm của Đảng.

“Còn có chuyện gì khác làm dân chủ tư sản thèm muốn? Chế độ đa đảng mà trong đó đảng này chống đảng kia với những đấu đá kinh hoàng đề bảo vệ quyền lợi ích kỷ của cá nhân, quên đi quyền lợi của Đất Nước và lơ là đi quyền lợi của nhân dân, gây ra những vụ tai tiếng về tài chính và chính trị, và cuối cùng là việc bóc lột nhân dân, làm tăng thêm nghèo khó và đẩy con người xuống cảnh buồn thảm và bi quan, là điều dễ hiểu!

“Có phải chúng ta, những người trí thức, đang muốn nền dân chủ tư sản để được tự do một cách toàn diện trong lãnh vực trí óc, nghiên cứu hay sáng tạo? Tôi xin hỏi các ông: các nhà xuất bản sẽ ưu tiên cho những tác phẩm của những việc làm có giá trị, cao quý trong tâm hồn hay là những cuốn sách bán chạy nhờ chúng ca tụng những bản năng thú vật của con người hay truyền bá những bôi nhọ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Xã Hội một cách có dụng ý, bất công và một chiều? Phải biết rằng lòng tham về lợi lộc nó che đen đi lương tâm, hạ thấp tâm hồn mình bằng những chủ quan một chiều, một phía và thiên vị, làm hạ thấp và bán rẽ con người của mình. Các ông có muốn chúng ta té chìm trong những nhà xí mà không khí đã bị ô nhiểm vì những hôi thối của tư bản?”

(Trong hàng thính giả, nhiều quan điểm được trao đổi giữa người này người khác: “Ông diễn giả nhà ta, cũng giống như các anh cộng sản khác, là không có khái niệm về sự tương quan của sự vật, thiếu công bằng và không khách quan. Hắn ta kết án tư bản cả khối cũng như hắn bênh vực chủ nghĩa xã hội cả khối. Chúng ta không chối bỏ những tội ác của chủ nghĩa tư bản và những tên làm chính trị của nó. Nhưng nó cũng có những thuận lợi hấp dẫn mặc dù vẫn có những thiếu sót dính với nó. Tất cả cao hơn hết và nói một cách tổng quát, chủ nghĩa tư bản tôn trọng và thi hành những quy luật tự nhiên của con người, đó là điều làm nên tiêu chuẩn văn minh của xã hội loài người. Không có chế độ chính trị xã hôi nào có thể tự cho mình là hoàn hảo, vì lẽ bất cứ những gì làm ra từ bộ óc và bàn tay của con người đều có những hư hỏng hiển nhiên, cùng chung với những phẩm chất tốt đẹp của nó. Phán xét một chiều và một mặt là một sai lầm vì như thế mới chỉ là một góc cạnh của sự thật.

Vì thế, nếu có những người trí thức bênh vực cho thuyết đa nguyên, dù rằng sẽ có những đám “chính trị gia” xấu xuất hiện, là vì đó là cái logic của đời sống thực tế, nếu muốn đạt những hiệu quả tốt nhận thức đủ tính muôn mặt và mâu thuẩn của một vấn đề nảy sinh. Đa nguyên là chấp nhận những ý kiến trái ngược, những sự thật không giống nhau và đó là ý nghĩa thực của một nền dân chủ. Những người cộng sản không chấp nhận chuyện đó. Họ bám chặt vào độc quyền chính trị, tự cho mình là kẻ duy nhất nắm mọi thước đo về bản chất của dân chủ. Đa nguyên trở thành bãi chiến trường nơi mà dân chủ và chủ nghĩa cộng sản tấn công lẫn nhau.

Thật dễ hiểu khi thấy cộng sản chẳng những bằng lòng khoanh kín thế giới của mình mà còn muốn duy trì sinh hoạt của họ trong vòng tuyệt đối bí mật đối với bên ngoài. Trong trưòng hợp một đảng chính trị bình thường, như những đảng trong những nước dân chủ thì chuyện đảng sinh hoạt bí mật như thế là chuyện bình thường. Nhưng ở đây, chuyện là đảng Cộng Sản đang nắm quyền cai trị đất nước trong một chế độ chuyên quyền và độc tài. Tất cả mọi quyết định của nó là có liên quan đến lợi ích của toàn dân tộc, không chỉ riêng là những đường lối chỉ đạo hay chính sách phổ biến ra ngoài, mà còn dính đến chuyện bổ nhiệm những quanh chức và nhân sự cấp cao trong guồng máy Nhà Nước. Mỗi con người cá nhân có khuynh hướng đi theo một đường hướng lý tưởng và xã hội riêng mà dư luận quần chúng đều biết, vì lẽ đó, việc bổ nhiệm thăng thưởng hay truất quyền có thể cho ta thấy Đảng đang đi về đâu. Vì bí mật là luật chơi nên Đảng khép kín cửa phòng họp của họ cho người ngoài khỏi tò mò nhìn thấy. Nhưng chuyện bí mật gì dù có giữ kín như bưng thì không sớm thì muộn cũng có ngày xì ra ngoài cho công chúng nhờ những hớ hênh của những kẻ bên trong vòng thâm cung bí sử và biết rành đường đi nước bước.

Hơn nữa, công chúng đã có dịp biết được những sự việc hết sức thuyết phục đã xảy ra. Dĩ nhiên, đó là những khoản tiền bí mật được tự ý sử dụng, sự thành hình những cơ quan bí mật, việc tổ chức những chuyến công tác bí mật nằm dưới con dấu “Tối mật” và được bảo vệ rất ư là bí mật. Rất ít những người mới vào đảng được biết những chuyện này.

Nhưng có nhiều sự việc hiển nhiên làm cho mọi người phải suy nghĩ. Mọi người đều biết rằng đằng sau những vụ lường gạt trộm cắp cao cấp là dấu ấn của những quan chức rất cao cấp thông qua những công ty nhà nước có lợi nhuận rất cao. Nhiều quan chức, giống như những con thiêu thân tự đốt cánh mình khi tới tấp nhào vào vùng lửa của tuyệt vời hy vọng. Chúng cung cấp những đãi ngộ huy hoàng và vương giả cho những tên ma lanh, cho họ hàng triệu đồng để rồi đưa họ vào tù. Nhưng không có vụ kiện tụng nào được đưa ra đối với những người này, tính nhẹ dạ nông dân của quan chức bị dính chấu lại được đưa ra để mọi người cùng cười xoà, hết chuyện. Mọi người cùng quyết định tốt nhất là nên giấu chuyện đã xảy ra như giấu một món đồ khuất mắt dưới thùng gạo, và tránh biêu riếu những nạn nhân đã bị bắt quả tang. Thây kệ cho ngân sách Nhà Nước khi mà những kẻ chịu trách nhiệm được lệnh phải hết sức kín tiếng giữ im lặng để tránh cho việc Đảng phải chịu sự khinh miệt của nhân dân. Nhưng nếu một chuyện tai tiếng được dân chúng biết, thì còn nhiều chuyện đáng trách còn đang được giấu kín sau bức tường kín bưng và theo lý lẽ của Đảng! Người ta xầm xì rằng mọi giao dịch trong nước và với nước ngoài, mọi hợp đồng với các chính phủ nước ngoài, dưới trách nhiệm của bộ Ngoại Giao và bộ Ngoại Thương, đều cho phép các quan chức trách nhiệm được quyền nhận những khoản tiền hoa hồng, tiền giảm giá, tiền trà nước để làm giàu cho họ, cho những cán bộ và thân nhân trong nhiều thế hệ. Ngay khi những cá nhân như thế bị Đảng lật tẩy và chịu Đảng xử tội một cách bí mật nhiều nhất cũng chỉ bị đổi đi nơi khác, giáng cấp hay tệ nhất là bị khai trừ Đảng và sa thải khỏi nhiệm vụ đang làm, chẳng cần phải trả lại những tài sản đã ăn cắp của nhân dân.

Nhưng có những sự việc mà không ai có thể ném vào đáy của giếng sâu. Trên tất cả, đó là những tàn phá gây nên bởi nạn bao che và nạn tham nhũng. Sự bao che trước nhất là được trực tiếp thực hiện bởi các ông cao nhất, và sau đó là các kẻ tay sai luôn luôn nồng nhiệt sốt sắng làm vui lòng các ông chủ cấp trên! Đó là lý do tại sao có những con ông cháu cha được đi học ở nước ngoài rồi quay về được bổ nhiệm sau hậu trường để nắm những ghế công chức mà công việc chỉ là ngồi ký tên cho người nào đó để lãnh những đồng lương lớn hay những số tiền huê hồng cũng không nhỏ. Chẳng ai cần lo lắng quan tâm cho chiếc xe của Nhà Nước đang liên tục bị xa lầy và sụp đổ cùng với nên kinh tế, với bốn bánh xe chổng lên trời. Nhưng cái làm cho Đất Nước mau sụp đổ nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng là muôn mặt, nhưng cái chính là trực tiếp hay gián tiếp ăn cắp tài sản Nhà Nước, tham ô, làm và sử dụng những giấy tờ giả mạo, chiếm đoạt đất công, dùng tài sản công vào những chuyện riêng tư. Ngoài tính chất muôn mầu muôn vẻ của nạn tham nhũng ta còn có thể kể thêm là sức sinh sôi của loại dịch bệnh này là rất nhanh. Những lãnh đạo chóp bu đã làm gương rất xấu và chuyện họ không bị hình phạt nào chỉ khuyến khích cấp dưới bước chân vào con đường kiếm chác mà không sợ bị một rủi ro nào. Sớm hay muộn, sự vô đạo đức sẽ chiếm lĩnh xã hội trên bề mặt cũng như bề sâu. Chưa bao giờ ở bất cứ nước nào, ngay cả ở các nước tư bản, mà người ta thấy được một cảnh tượng kinh hoàng, một sự băng hoại vô cùng của đạo đức: toàn bộ guồng máy nhà nước ngập chìm trong sự mua chuộc. Đối với hàng công nhân viên hạng nhỏ cấp dưới, mức lương nhỏ bé là lý lẽ để biện minh cho tội tham nhũng của họ khuyến khích từ gương xấu của cấp trên của họ là những kẻ phạm tội nhưng không chịu bất cứ trừng phạt nào của Pháp Luật hay phải ra trước Toà thông qua hệ thống kỷ luật của Đảng và họ tham nhũng để mưu cầu được mau thăng quan tiến chức. Sự vô đạo đức nó như một cơn thuỷ triều đen chồm lên tràn ngập tất cả mọi cơ phận. Những lương tâm run sợ bay biến khỏi vùng địa chấn, xa tắp khỏi tầng khí độc mà ngập trong đó là một nhà nước đang thối rửa và hấp hối, một nhà nước kết cấu bằng những con người mà quyền hạn là vô chừng và độc đoán đang nắm giữ. Khi mà một nhà nước bị thoái hoá và sự xuống cấp của con người đã vào cuộc với những tác động hổ tương, kết nối chung cùng một hướng, giờ sụp đổ sẽ không còn xa.

Mỗi khi để giải thích về sự độc tôn chính trị của Đảng là điều có thể chấp nhận được, họ đều ca bài ca đề cao uy tín, tính đạo đức, những vinh quang của họ để áp đặt và đạt lòng tin của nhân dân. Rất tiếc, họ dạy rằng mọi sự đời đều chuyển động và thay đổi theo tính biện chứng, nhưng cá nhân họ lại không áp dụng trong việc xây dựng những đường lối hoạt động hay quyết định những chính sách, đảng của họ lại ra sức tấn công những kẻ thù hôm nay, những người có thể trở thành bạn ngày mai. Đầu óc họ cứng nhắc trong chuyện định ai là bạn ai là thù như là một chân lý không thể thay đổi, từ chối nghe tiếng chuông từ mọi phía, và sửa sai những sai lầm. Tất cả chuyện đó sẽ đưa đến một sụp đổ không thể trách được, một sụp đổ mà mức độ trầm trọng mà chính họ phải đánh giá trước.

Thay vì giáng búa rìu lên đầu người trí thức mà tội lỗi duy nhất của họ là yêu Tổ Quốc và Dân Tộc, người cộng sản cần phải hiểu rằng kẻ thù của họ chính là họ chứ không ai khác. Kẻ thù của họ là ai? Là tính chủ quan, một cách quá mức, đã làm cho họ tưởng mình là Thượng Đế được phú cho sức mạnh siêu nhân không thể thất bại, trên Thiên Đàng, trên tất cả những thực tại thế gian, sự hợp pháp, luật pháp, công lý và công bằng. Thật điên khùng khi họ tin rằng họ luôn luôn đúng, và đặc biệt ngay cả những khi họ sai lầm! Loại bệnh hoạn này chỉ có con đường là đưa họ vào bệnh viện tâm thần.)

Những bàn tán này chỉ xảy ra trong tiếng xầm xì để khỏi mang tiếng vô lễ với người đang đứng độc quyền trên diễn đàn, và cũng để tránh những tên chỉ điểm và tay chủ ngục đang lẫn lộn trong hội nghị.

Diễn giả bắt đầu kết thúc phần chót của bản kết án:

“Thưa các đồng chí thân mến, việc mà tôi nhấn mạnh ở đây là dân chủ, theo nguyên chữ, nói một cách đơn thuần là chính quyền do dân. Nhưng, theo chúng ta là những người cộng sản, chúng ta hiểu chính quyền là  dân. Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta để ngắm nhìn một hoạt cảnh đầy hạnh phúc! Những nhà trẻ chào đón các cháu bé trong khi các bậc cha mẹ đi làm và lo cho chúng tất cả những săn sóc cần thiết. Những cháu ở tuổi đi học thì tập trung trong các trường học. Những thanh niên nam nữ hiếu học tham dự những buổi giảng ở Đại Học và dành trọn thì giờ rỗi rảnh để vào các Thư Viện để gia tăng kiến thức. Họ hưởng một nền giáo dục miễn phí, cũng như trường hợp những người bệnh được hưởng những săn sóc y khoa, được nằm bệnh viện hay được qua những lần giải phẫu rất tốn tiền mà không phải trả một xu nào. Báo chí và những tác phẩm xuất bản của Nhà Nước đều truyền bá những văn hoá lành mạnh và có đạo đức nhằm dạy dân chúng yêu chủ nghĩa xã hội và yêu hoà bình. Rạp phim và sân khấu cung ứng những buổi giải trí cho quần chúng đầy chất lượng để nâng cao tinh thần và đào tạo những công dân tốt. Cửa hàng nhà nước ngập đầy thực phẩm và hàng tiêu thụ. Tình hình an ninh được bảo đảm: không có những phạm pháp đáng khinh tởm, không nạn chận đường cướp tiền, không tống tiền, đường phố sạch sẽ, con người sống lịch sự với nhau, trẻ con ngoan ngoãn. Các nước anh em theo sát chúng ta và mang cho chúng ta tất cả những giúp đỡ cần thiết. Ở nước ngoài, chúng ta đạt một uy tín mà nhiều người khâm phục. Chúng ta không biết các bệnh xã hội, như đĩ điếm, hút sách và những hang ổ cờ bạc. Cho tiền puộc boa, chúng ta không biết. Tất cả cán bộ và nhân viên tự hào về tính lương thiện và sự trong sạch của mình: họ không bị mua chuộc và không nhận tiền hối lộ. Chúng ta không biết được trong tương lai chúng ta sẽ có gì trong các cửa hiệu kho hàng, không biết còn hay không còn tiếp tục nhận được những giúp đỡ anh em của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng, trong hiện tại, chúng ta đang hưởng một cuộc sống lành mạnh và hạnh phúc, mặc dù nước ta là một trong những nước nghèo nhất theo như Quốc Tế xếp hạng nước chúng ta. Nhưng không có một thứ của cải nào có thể bù đắp được cái may mắn tuyệt vời được có một Tổ Quốc vinh quang, một Đảng tôn vinh, một niềm tin không lay chuyển vào chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Chúng ta không hãnh diện là những người con của Việt Nam mà số phận đã được thế giới thèm muốn sao?

“Tại sao vào lúc này lại có một số trí thức ngây thơ đến độ đứng lên đòi hỏi tự do và dân chủ như thể là chúng ta đã tước bỏ phần của họ? Đương nhiên, chúng tôi có quan điểm riêng về tự do và dân chủ, nền tự do dân chủ có mang dấu của người cộng sản và ấn của Đảng. Hãy nhìn xem giai cấp trí thức khinh bỉ mấy tay phản bội và thương hại sự mù quáng của chúng như thế nào, hãy xem thiên hạ nhìn mấy tay bệnh hoạn đang nhiểm vi trùng của bọn tư bản như thế nào. Quần chúng biết rõ hơn ai hết món nợ với chủ nghĩa cộng sản: phẩm giá của con người, niềm hạnh phúc được làm chủ chính mình và cùng với đất nước, đánh bại chủ nghĩa thực dân trong trận Đìện Biên Phủ.

“Chúng tôi, những người cộng sản, và nhân dân không coi người trí thức như kẻ thù cần phải loại bỏ, nhưng như một người bị lạc đường và bệnh hoạn, lạc hậu một cách kinh khủng đối với thế giới văn minh, một thế giới tin tưởng rằng tương lai của nhân loại là chủ nghĩa xã hội. Tôi xin hỏi những người chậm trí kia: chân lý nằm phía nào? Về phía của vài tên lạc hậu hay của toàn thể nhân dân, mà trong đó tuyệt đại bộ phận trí thức đang đứng cùng? Vâng, toàn thể nhân dân đều đứng sau lưng Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng.

“Chân lý đứng về phía của nhân dân! Và nhân dân đã đồng tình và ủng hộ Hồ Chí Minh và Đảng của ông. Vì lẽ đó, chúng tôi ra lệnh những ai chối bỏ sự thật của nhân dân là kẻ thù của nhân dân. Tốt hơn là những kẻ này nên lưu ý những gì tôi nói.”

Một sự yên lặng nặng nề lan ra. Không một tiếng vổ tay như thường xảy ra vào lúc kết thức một bài nói chuyện. Cơn bảo đã đến gần. Rời chỗ mít tinh, những người tham gia tụm năm tụm bảy ở khu vực Pasteur, những màn tán gẫu bắt đầu.

– Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là một lời tuyên chiến. Họng súng sẽ nổ. Không cần phải ngụy biện. Chân lý không nằm ở bên có bạo lực.

– Mọi người im lặng không có nghĩa là họ chấp nhận thế đứng của Đảng. Trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất chủ yếu là nhắm chặt đầu giai cấp địa chủ và việc cải cách nhà ở là nhằm tước bỏ quyền sở hữu của các chủ bất động sản ở thành phố, nhân dân cũng giữ im lặng. Họ đã quen, biết giữ im lặng. Đảng đã nhận lỗi trong Cải Cách Ruộng Đất; trong tương lai họ sẽ nhận lỗi về việc cải cách tư sản. Sự im lặng của dân chúng không có nghiã là một sự đồng lòng mà ngược lại đó là sự sợ hãi đã nảy sinh. Người cộng sản biết quá rõ chuyện đó. Đó là tại vì sao thay vì tự mình áp đặt trên nhân dân, họ núp đằng sau thẩm quyền của Hồ Chí Minh.

– Chúng ta biết rõ mức trầm trọng như thế nào khi người cộng sản gắn bó với mấy chữ “kẻ thù của nhân dân”. Trước nhất, chúng ta hãy than phiền cho số phận mấy đồng chí bị gán cho mấy chữ “lầm lạc” và “lạc hậu”. Nếu họ không bị đưa lên đoạn đầu đài, hay trói vào cột bắn, thì họ cũng sẽ bị chết một cái chết kéo dài, đau đớn hơn nhưng trong vòng kín đáo, cô lập bí mật nơi nào đó. Bất luận như thế nào, trên hết là những cái đầu can đảm hay ngây thơ nhất của chúng tôi, họ muốn hạ tất cả trí thức để cưỡng ép họ giữ một im lặng tuyệt đối, nếu không chịu “tự do” chấp nhận một cách tự nguyện sự độc quyền của cộng sản. Từ nay trở đi, ba “kẻ thù” của Đảng đã bị loại bỏ: tầng lớp địa chủ ở nông thôn, tầng lớp chủ nhà ở thành thị, và những trí thức còn xứng đáng với danh xung đó còn lại trong nước. Từ nay, Đảng có quyền tự do làm những chuyện khác thường và kỳ quặc.

– Thế nhưng, tội lỗi của những người bạn bất hạnh của chúng tôi là gì? Họ không hề có dự định nào loại bỏ Đảng trong cuộc sống chính trị, càng không có ý định truất phế Đảng. Họ chỉ mơ ước được hỏi Đảng trong tư cách là một đảng đang lãnh đạo, chấp nhận thực hiện, với chủ đích là làm đời sống chính trị được tốt hơn, một vài cải tổ, để mang lại những điều tốt lành cho nhân dân cũng như cho Đảng. Như thế thật là ngụy biện khi cho rằng nhân dân ủng hộ Đảng và những người “lầm lạc” là kẻ thù của nhân dân. Những người cộng sản sống bằng dối trá, đạo đức giả, nhưng cái sai lầm lớn nhất của họ là đã đặt cái bạo ngược trên cái bề ngoài hão huyền, từ đó đưa ra những diễn dịch theo ý mình để tiêu diệt những ai mà họ gán cho mấy chữ “kẻ thù của dân tộc”.

Chiếc gươm Damocles treo trên đầu của giới trí thức và nhà cầm quyền có thể chọn đưa họ vào nhà thương tâm thần, hay một án tù chung thân để chết dần trong một nhà tù vô danh nào đó hoặc giả ra những vụ tai nạn mà không ai là người trách nhiệm.

Tôi biết số phận của tôi đang chờ, giống những người khác cũng dính líu vào những cố gắng nhằm mở thêm chút không khí trong lành để thở. Chúng tôi đã bị lừa phỉnh bằng những thủ đoạn đê tiện của những người lãnh đạo rất lão luyện trong việc giăng bẩy, sắp xếp những trận phục kích, giết những người mà họ gọi là kẻ thù. Machiavelli, nếu sống lại ở thế giới này, nên phải ghi danh đi học trường của mấy ông lãnh đạo cộng sản là những con người đầy những dã man gian trá và đầy những sáng kiến vô nhân như chưa từng có trong lịch sử nhân loại.

4
Trận đấu bò đầu tiên trong Mặt Trận Tổ Quốc

Tôi nằm trong mẻ đầu tiên. Mỗi người bị kết án đều phải trình diện trước một toà án gồm những thành viên trong tổ chức mà người ấy sinh hoạt. Trong khi đạp xe từ nhà đến cơ quan trung ương của Mặt Trận Tổ Quốc, theo lời mời của Đảng, tôi cố gắng suy nghĩ xem buổi xử án tôi sẽ xảy ra như thế nào. Dường như đây là buổi tự phê bình mà tôi phải tự trình bày. Thật vậy, đây là một vụ xét xử chính trị mà tôi phải đối phó. Đảng đã chỉ định một số người ngồi sau cái bàn phủ khăn xanh và giữ vai trò công tố tuy không đưa ra bản cáo trạng nào nhưng chỉ đưa ra những câu hỏi nhằm chứng minh là tôi là kẻ có tội. Buổi thẩm vấn diễn ra công cộng, và nội dung là những lời buộc tội chính mà “hội đồng bồi thẩm” đã thiết lập nên. Kịch bản đã được nghiên cứu đến từng chi tiết nhỏ nhất. Phán quyết vụ án không được đưa ra vào phần chót của buổi xử án. Chính Đảng, sau đó sẽ trở lại quyết định nội dung của phán quyết. Mục tiêu được nhắm đến là “giáo dục” lại kẻ phạm tội sao cho kẻ này có thể chuộc lại những lầm lỡ, và đồng thời giáo dục quần chúng để cho họ tránh không mắc phải những lỗi lầm như những người kia.

Vì thế, người ta tham dự một phiên toà chứ không phải là một buổi tự phê bình mà người ta gọi là một buổi hội nghị. Người cộng sản, bên cạnh những tài năng khác, rất lẻo mép. Luôn luôn chơi trò hàng hai, chẳng những tự lừa dối mình còn lừa dối đến những người khác, bóp méo sự thật, tìm cách làm hoa mắt mọi người. Họ dùng những mánh lới quanh co y như đầu óc bẩm sinh quanh co của họ. Một từ luôn được lập lại trong ngôn ngữ của họ: “Giáo dục”. Một động tác đưa ra, một sinh hoạt được tổ chức đều phải nhắm vào một mục đích giống nhau: dạy cho quần chúng cư xử trong cuộc sống y chang như người cộng sản.

Nhưng khi Mặt Trận được tổ chức như một Toà Án để xét xử đồng nghiệp của mình, tự nó đã là một khó khăn: Mặt Trận bao gồm nhiều thành viên tiếng tăm từ nhiều khuynh hướng xã khác nhau tiêu biểu cho toàn xã hội đa dạng, đa nguồn gốc. Đặc tính chung của những người này là không phải đảng viên, không được chấp nhận vào Đảng. Chỉ có Chủ Tịch của Mặt Trận là một đảng viên cao cấp. Nhưng tất cả những cán bộ thừa hành trong Ban Bí thư đều là những người cộng sản trẻ, năng động, có cái nhìn sắc bén nhưng chỉ biết mở mồm khi báo cáo công việc cho người trách nhiệm Mặt Trận. Bất cứ lúc nào, thể theo đề nghị của Đảng, Mặt Trận sẽ bỏ phiếu ủng hộ một vài quyết định cho một vài chính sách này, chính sách nọ, Đảng tin rằng tất cả nhân dân đều đứng đằng sau Đảng, mặc dù nhân dân chưa bao giờ bầu ra một thành viên nào của Mặt Trận, chưa bao giờ giao phó một nhiệm vụ nào cho Mặt Trận, khác với Quốc Hội được bầu ra nhưng cũng ít nhiều bị điều khiển từ xa. Khi mà người cộng sản là những người có một sở thích không lành mạnh và không kềm chế được là thích phô diễn, và Mặt Trận lại cung ứng cho Đảng cái vẻ như toàn dân tán thành Đảng, cho nên Đảng cũng làm ra vẻ lưu tâm nhiều đến Mặt Trận một cách chính thức và trọng thể. Huống chi Đảng không tác động trực tiềp lên quần chúng, không phải nhận bất cứ than phiền hay chỉ trích nào, thậm chí còn không thèm lưu ý đến họ; vì vậy cho nên Đảng không phải chịu một rủi ro nào bị nhân dân phản đối. Giữa Đảng và Mât Trận là một sự trao đổi lễ phép, lịch sự, ngoại giao bình dân, hình thức suông, tất cả những gì mà cả đôi bên đếu vui lòng với nhau.

Tôi tò mò tự hỏi rồi đây ai là người sẽ đóng vai công tố và phóng ra những lời buộc tội dưới hình thức những câu hỏi liên quan đến những “lỗi lầm” của tôi. Các ông cha Nhà Thờ Công Giáo, các vị sư Phật Giáo đáng tôn kính đều có một chút quyền hành nhưng họ là những người rất khó mà bị nhồi sọ. Những đại biểu của nghiệp đoàn, của chị em phụ nữ, hay các nông dân trẻ thì không có quyền hạn gì thì tỏ ra thiếu tự tin khi đảm nhiệm vai trò của mình. Như thế, chỉ có một trí thức là Bác Sĩ Phạm Khắc Quang, một người tự trọng và có tiếng tăm mà tôi được biết. Thủ đoạn cộng sản là giao thanh đao cho một người mà quan hệ của người này với người bị buộc tội cho phép họ giáng một cú chém chịnh trị có tính quyết định và đầy ý nghĩa. Trong Cải Cách Ruộng Đất, trẻ con đã được động viên để tố cáo cha mẹ, kẻ thuê nhà buộc tội chủ nhà, người trí thức thiên thần kết án người trí thức quỷ quái! Đó là cái logic trong mọi chuyện của cộng sản.

Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận tổ chức những buổi họp của họ trong căn phòng khách lớn của toà bin đinh mà trước đây là Toà Đại Sứ của Trung Hoa Quốc Gia trên đường Tràng Thi. Tôi đã có khá nhiều dịp đến đây để tham gia những hôi nghị trong thời gian mà tôi nằm trong nhóm đã được chọn đứng bên phải của Chúa Công. Tôi biết tất cả các “đồng sự” ở đó, những người mà ngày nay đang quyết định số phần của tôi.

Lần này tôi đi vào phòng họp như một con bò tót bị đẩy ra đấu trường. Thật như thế, một đấu trường với những hàng ghế xếp sát cạnh các bức tường để trống một vùng ở giữa. Đằng sau những cái bàn là vô số người, một số ngồi nếu là thành viên của Mặt Trận, một số người tò mò đứng bên trong, đa số là ký giả hay những người thuộc những tổ chức quần chúng. Đây là một trận đấu bò trước một công chúng đang thèm khát những cảm giác mạnh, nóng lòng chờ giờ khai mạc một cảnh tượng độc đáo không thể tả được.

Giống như một con bò tót đang tiến vào trường đấu, tôi nhìn quanh toàn thể hội trường. Trong lúc mọi người đang đứng mở to mắt nhìn và vểnh tai để nghe, các “đồng sự” của tôi ngồi sau dãy bàn tỏ ra không được thoải mái trong nhiệm vụ của họ, một nhiệm vụ mà họ chưa hề quen. Mặc dù những câu hỏi để chất vấn tôi đã được những kẻ “có quyền” đánh dấu, họ vẫn không che giấu được sự lúng túng trong giọng nói và cách đọc. Tôi không tránh khỏi thấy tội nghiệp cho họ đã bị đưa vào một hoàn cảnh như thế.

Những câu hỏi xoay quanh vần đề thứ nhất.

– Đồng chí có thấy là đồng chí đã làm tổn hại đến Cách Mạng và hại chính bản thân đồng chí khi đã để bài tham luận của đồng chí trong hội nghị thoát ra nước ngoài?

 Tôi xin bác bỏ sự khẳng định này. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ để bài tham luận của tôi thất thoát ra nước ngoài. Đó là chuyện xảy ra ngoài ý muốn và tôi không hề biết có chuyện xảy ra như thế. Khi phong trào Trăm Hoa Đua Nở nổ ra ở Việt Nam, đồng chí Xuân Thuỷ, Tổng Thư Ký của Mặt Trận đã yêu cầu tôi làm một buổi hội thảo về dân chủ ở Âu Châu và ở Pháp. Việc ấy đã xảy ra ngay chính ở phòng họp này, với sự có mặt của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí Thư Đảng và nhiều thành viên của Uỷ Ban Trung Ương của Mặt Trận là những người đang xử tôi ngay giờ này đây, suốt cả ngày, gồm ba giờ vào buổi sáng và ba giờ buổi chiều. Chính vào thời điểm này Đảng đã phải nhận lấy sự sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất và đã đưa ra những biện pháp sắp xếp lại Đảng. Hai chữ Trường Chinh đã rung lên hồi chuông đưa mọi người vào tâm trạng buốn chán và tang tóc: “Chúng ta đã tự tấn công mình bằng cách tấn công người khác!”. Một lỗi lầm vô cùng to lớn đã lấy đi hàng chục ngàn sinh mạng vô tội. Hàng ngàn quả phụ và con côi, dưới bộ đồ tang trắng, đã đến văn phòng Luật Sư của tôi, đến từ mọi nơi trên đất nước, yêu cầu tôi giúp phục hồi lại danh dự của những người đã mất và đưa ra vấn đề trách nhiệm của Đảng và của những người trách nhiệm. Với một niềm ân hận to lớn, tôi phải trả lời cho họ là việc đó ở ngoài khả năng của tôi, vì đây là một vấn đề chính trị, nó không nằm trong vòng luật pháp và những kiện tụng bình thường. Cú sốc như một phát búa tạ vào đầu tôi và tôi phải rất khó khăn mới đứng được. Tôi tự bảo và bảo với tất cả những người đã làm việc với tôi là không thể để chuyện kinh hoàng này lập lại trong tương lai. Chuyện tàn sát ấy không thể nào có thể xảy ra trong một cái gọi là “nền dân chủ tư sản”, nơi có những điều luật để quản lý quyền lực công, có những quy định hiệu quả để rào cản ngăn ngừa những điều khùng điên sinh ra bởi chủ nghĩa duy ý chí một cách trẻ con và bởi thứ chuyên quyền đui mù rập khuôn cư xử với các nước “anh em”.

Trường hợp bi đát mà trong đó tôi được mời đến nói chuyện là sự có mặt của một công chúng đã quen với tư duy dân chủ nhưng lại ít kiến thức về những qui định luật pháp làm nên cái nền móng và cơ cấu của những sinh hoạt dân đã dẫn dắt tôi trong phần trình bày. Từ khi tôi đã nói chuyện trong nhiều hội nghị với sự có mặt của nhiều nhân vật lãnh đạo Đảng hay Mặt Trận, tôi tự kềm chế những xúc động mạnh và ngôn ngữ của mình sao cho không tổn hại đến phong thái lịch sự và phép xử thế là những nguyên tắc hướng dẫn tôi trong những quan hệ với giới cầm quyền.

Tôi không có thói quen hay thời gian để soạn thảo bài nói chuyện, như tôi thường hay giảng bài cho sinh viên hay những lời lẽ tranh cãi trước toà. Vì có lời yêu cầu của hai ông Xuân Thuỷ và Dương Bạch Mai nên tôi đã viết bài tham luận ra giấy những ý mà những người nghe vỗ tay tán thưởng. Người ta muốn đọc bài viết để có nhiều suy nghĩ. Tôi đã đánh máy ra hai bản và đã đưa ngay cho Ban Thư Ký của Mặt Trận. Vì thế tôi xin nhấn mạnh hai điểm cốt yếu: không phải tôi là người đưa ra sáng kiến về hội nghị, cũng không phải tôi là người quyết định có bài tham luận bằng chữ viết. Trong hai trường hợp trên, đều là do lời yêu cầu của lãnh đạo Đảng và Mặt Trận mà tôi đã hành động như đã nêu. Hoàn toàn không một dụng ý. Vì vậy, lòng trung thực của tôi là toàn diện.

Liên quan đến chuyện một trong hai bản đánh máy bị lấy và gửi ra nước ngoài, trong thới kỳ chiến tranh lạnh hiện nay, một chút sai lầm hay lỗi nhỏ nhất của thế giới cộng sản cũng sẽ nổ ra không chút e dè, không thể buộc tội tôi chịu trách nhiệm về chuyện này. Không có một chứng cớ nào đã và chưa bao giờ được đưa ra để buộc tôi là có tội, hay chứng minh là tôi đã có những gặp gỡ bí mật với gián điệp nước ngoài, hay làm rõ là tôi đã đưa một bản sao cho một ai đó. Nhưng, theo những thói quen đã thành nếp của chúng ta, thay vì cố gắng xác minh trách nhiệm của kẻ phạm luật, chúng ta hãy cố gắng tìm hiểu về sự thiếu chu đáo, thiếu thận trọng trong đội ngủ những người của Đảng và Mặt Trận, những người có trách nhiệm nhận và chuyển những hồ sơ hay những người, vô tình hay cố ý, vung vãi lung tung hồ sơ giấy tờ mà họ cho rằng ít quan trọng, thay vì tự hỏi lấy mình để kiếm cách buộc tội người khác. Như thế thì dễ dàng hơn nhưng nó lại đi ngược với những quy định của luật pháp.

Vậy, cho tôi được phép hỏi ông: giữa chuyện những sai lầm của Đảng trong Cải Cách Ruộng Đất mà Đảng đã từng vỗ ngực, và chuyện lơ đễnh của người nào đó đã làm lạc một tài liệu dính đến những sai lầm như thế, hay nói một cách chính xác hơn là ám chỉ những sai lầm đó: chuyện nào nghiêm trọng hơn? Trong cả hai trường hợp, không thể nào tôi phải chịu trách nhiệm về chúng và tôi yêu cầu ông ghi chú đìều này.

– Thôi được, bỏ qua chuyện này và ta sang chuyện khác. Quan điểm của ông đối với Mặt Trận là thế nào? Theo ông, để cải thiện về cơ cấu cũng như hoạt động, Mặt Trận phải theo con đường nào? Chuyện mà chúng tôi rất lấy làm tiếc là có một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương đã tung ra những tấn công chống lại Mặt Trận. Trò này không hay lắm. Ông không biết là ông đã làm hại chúng tôi, theo như tục ngữ dân gian, là đã vạch áo cho người xem lưng? Chuyện cãi cọ trong gia đình chớ nên đưa ra sân khấu để người xem.

 Tôi nghĩ rằng điều trách cứ của ông nó đi trật chỗ. Ông phải nói những điều ấy với Đảng. Trong những lần cãi cọ “trong gia đình” trong Cải Cách Ruộng Đất, ông còn nhớ lúc ấy chúng ta đã được lệnh xếp đặt cho trẻ con tố cáo cha mẹ chúng không? Những lời nguyền rủa buộc tội, hoàn toàn dựng đứng, phát ra từ cửa miệng của một đứa con đã được giáo dục chu đáo, là một sự thực không thể chối cãi. Được phong cho những danh vọng bởi nhà cầm quyền và được nhận vào hội đoàn của quý ông, mặc dù đó không phải là do tôi mong muốn, tôi không mất nhiều thời gian để hiểu ra bản chất thật của Mặt Trận, nhiệm vụ được giao phó của nó là phải thi hành thành công rực rỡ những chuyện được giao để làm vui lòng lãnh đạo, mặc dù là những chuyện chả có tí gì tác động đến quần chúng. Đó chỉ là những tấm phông được dựng lên dưới sự chỉ đạo của giám đốc xưởng phim, một khi những đoạn phim được quay thì chúng sẽ được đập bỏ và ném vào hố rác. Một bộ óc nào đó chứa đầy những logic và hình thức, đã có sáng kiến tạo dựng một bức tranh hài hoà, một cơ cấu cân bằng giả tạo với những cánh cửa sổ giả mạo đặt để dưới quyền của Quốc Hội. Quốc Hội tập hợp những người được “bầu” lên từ các khu vực cử tri, thường là giới hạn mình trong nhiệm vụ lập pháp. Thật vậy, công việc lập pháp được chia sẻ bởi Hội Đồng Bộ Trưởng chăm lo việc thực hiện những điều Luật đã được Quốc Hội biểu quyết, mà còn phải thi hành những nghị định, thông tư cũng như chuyện làm luật và quản lý đất nước. Hai tổ chức Quốc Hội và Mặt Trận khác nhau là ở chỗ Quốc Hội gồm có những đại biểu được “bầu” lên từ mọi vùng lãnh thổ trên toàn quốc, Mặt Trận gồm những người được chọn lựa trong các đơàn thể quần chúng để tiêu biểu cho mọi ngành nghề xã hội hay khuynh hướng Tôn Giáo khác nhau. Nhưng cả hai đếu gặp nhau trong cùng một thái độ vì Đảng, trong những lần đưa ra đưa ra ý kiến, đều đồng ý với Đảng trên bất cứ chuyện gì và bất cứ lúc nào, hoàn toàn không có một ý kiến khác hay ồn ào kháo chuyện. Toàn Quốc Hội biểu quyết bằng cách đưa tay lên, Mặt Trận biểu quyết bằng cách cúi đầu và buông thõng hai tay. Nhưng cả hai đếu biều hiện một sự nhất trí với lãnh đạo làm cho mặt lãnh đạo ngửa cao với nụ cười mãn nguyện. Đảng tự cho mình là người nắm sự thật và hai tổ chức kia chỉ có nhiệm vụ là phổ biến và tuyên truyền, mỗi tổ chức lo chuyện trong khu vực ảnh hưởng và trong vùng sinh hoạt của mình. Đó là hai cái nạng giúp Đảng tiến bước.

Thưa các đồng chí, tôi chưa bao giờ được mời nạp đơn ứng cử vào những lần bầu cử lập pháp và, nếu tôi có mặt trong nhóm người đáng kính của quý ngài, không phải vì bất đắc dĩ mà do ngoài ý nguyện của tôi là được rời bỏ tất cả những vinh dự chính trị và mong muốn không chuyện gì khác là được thu mình ở ẩn như một kẻ vô danh bất phùng thời, thích hợp cho những sinh hoạt trí thức của tôi!

Một khi gia nhập Mặt Trận, tôi sớm nhận ra ngay tính giả mạo của vị trí mà tôi bị gán cho cũng như sự vô dụng hoàn toàn của vai trò ấy trong Mặt Trận. Tất cả những Luật Lệ và chính sách mà Nhà Nước tự cho mình có bổn phận phải làm như thế được phổ biến mỗi ngày trên Báo Chí và được phóng thanh suốt ngày trên toàn nước, chỉ có những người vừa câm vừa điếc mới không biết chuyện ấy! Mặt Trận không cần phải họp lại để phổ biến tin đến nhân dân trong khi mọi người đã đọc hay đã nghe chúng. Nhưng nếu Mặt Trận không giữ vai trò cái loa, thì thử hỏi Mặt Trận giúp được gì cho Đảng và nhân dân?

Mặt Trận có thể giữ một vai trò tư vấn cho Đảng trong việc xây dựng Luật và đường lối chính sách. Nhờ tập trung được nhiều thành viên tiêu biểu cho nhiều khuynh hướng xã hội, nó có thể đóng góp những suy nghĩ thiết thực và nghiêm chỉnh về những đề nghị hay dự thảo nhận được. Bất hạnh thay, không biết là vì những chỉ thị nhận được hay vì do tự mình sáng kiến, với những lý do hiểu được trong bất cứ trường hợp nào, và cũng không nên săm soi làm chi, Mặt Trận luôn luôn nhất trí với những lần báo cáo hay những văn bản chính thức được gửi đến để giải thích. Sau một vài lần dự những phiên họp như thế, tôi không khỏi nhớ lại thuở nhỏ khi tôi còn chạy chơi trên đường phố, phố Quảng Châu nằm giữa phố Hàng Tơ và phố Hàng Đường, để nhìn những con nộm bẳng sứ với những cái đầu luôn cúi xuống với đôi tay luôn buông thỏng như đang phê chuẩn chuyện gì. Ý nghĩ gì đã nẩy mầm trong trí của người nghệ sĩ thủ công kia khi hình dung ra toàn những con nộm với chiếc bụng bự với cũng chỉ một cử động duy nhất giống nhau? Nó thể hiện chăng một sự coi thường khinh rẽ, một sự cao hứng để giễu cợt và công kích những ông quan triều đình mà sinh hoạt chỉ là một thái độ duy nhất của vâng lời và thuần phục? Khi mà con người đã trở thành một chiếc máy đều nhịp, một con rô bô, máy móc như một cơ động của giây chuyền sản xuất, người ta bảo đời sống ấy đã khô kiệt nguồn sống, một động tác máy móc lập lại đến vô tận chỉ là đấu hiệu báo trước của sự chết. Bergson đã dạy chúng ta rằng mọi vận động, với nhiều biểu hiện đa dạng là một tiêu chuẩn của sự sống, cái tự động hoá tê liệt trong một tư thế là đặc tính của vật chất. Một mặt, sự vận động, sự thay đổi, sự đa dạng là những dấu hiệu của sự sống. Một mặt khác, sự bất động, quán tính, bất biến báo hiệu cho bước tiến của vật chất. Xung đột giữa sự sống và sự chết, giữa linh hồn và vật thể, là một xung đột giữa những gì đang chuyển động, thay đổi, đa dạng và những gì luôn đứng yên một chỗ, luôn cùng một trạng thái, ù lì và bất biến. Để kềm chế, ngăn chận cái lấn lướt của sự vật bất động, duy trì một sự sống nở hoa và có tinh thần trong mọi sinh hoạt, nụ cười sẽ là một phương thuốc bổ thần hiệu. Tôi không chịu trách nhiệm về việc cười ngạo người khác không đúng chỗ, nhưng tôi tự cười tôi rất nhiều khi tôi phải cúi đầu và buông thỏng hai tay.

Một cuộc xét nghiệm phân tích về cái cấu trúc của Nhà Nước, dù là một phân tích ban đầu sơ khởi, cũng làm cho tôi có suy nghĩ rằng lãnh đạo có hai thái độ để chọn:

Hoặc là chủ nghĩa hình thức, tự làm mình thoả mãn với những phương cách hời hợt về con người và sự vật, tìm lấy sự đắc ý với với cái bề ngoài đầy xu nịnh, chấp nhận sự nhất trí của những kẻ chỉ biết cúi đầu vâng dạ, chỉ vui thú được nghe một tiếng chuông, một bản giao hưởng của tung hô, mùi lư hương thơm phức, mắt nhắm như đang được phúc lớn! Trong những điều kiện đó, Đảng cứ tiếp tục bước đi, để mọi sự đứng yên ở nguyên trạng như cũ, dù việc ấy có ích hay gây tổn hại cho nhân dân và vì thế sẽ gây tổn hại cho Đảng là người đã tuyên bố độc quyền chịu trách nhiệm.

Hoặc là lãnh đạo quan tâm lo lắng đến việc thẩm định lòng người và sự tham gia đóng góp của nhân dân, đi kiếm những sự thật đang giấu mình sau những nụ cười, những chào hỏi săn đón, những lời nói ngoa và những tung hô nhất trí. Nhưng làm sao có thể tìm ra những gì mà người đời cảm thấy và nghĩ suy? Thật ra cũng đơn giản thôi. Họ phải được tự do phát biểu, có khả năng gạt bỏ những gì giấu giếm cho đến nay trong tận sâu thẳm của suy tư. Một khi, nhiều quan điểm khác nhau được phát biểu, lãnh đạo sẽ có khả năng điều chỉnh những cái nhìn sai lầm và chưa đầy đủ của mình, để có thể lấy những quyết định chính xác thích đáng, hợp thời và mang lại lợi ích.

Tôi xin các đồng chí nhớ rằng tôi không biện minh cho dân chủ, khi mà dân Âu Châu phải mất hai trăm năm để đạt được nó, như theo một vài người có thẩm quyền đã nêu ý. Tôi cũng không yêu cầu là đảng Cộng Sản phải rút ra khỏi đời sống chính trị, mặc dù, than ôi, đảng đã mất nhiều uy tín và niềm tin từ khi sự mất đạo đức và tham nhũng đã dính vô nhiều đảng viên đang nắm những vị trí khá cao. Tôi chỉ mong muốn là nhân dân có thể nói lên tiếng nói của mình về những suy nghĩ về những người đang trách nhiệm, về tất cả những gì liên hệ đến số phận của họ trong hiện tại cũng như tương lai. Chỉ đến lúc ấy thì mới có thể có được sự hợp tác chân thành giữa Đảng và nhân dân tạo nên những lợi ích cho Đảng và nhân dân! Không thể dành riêng cho chủ nghĩa tư bản được độc quyền áp dụng những quyền tự nhiên của con người trong xã hội. Nhưng càng hơn thế, chúng ta không nên tự giết mình về chữ nghĩa, bằng cách đi đến một cuộc cãi nhau về chữ nghĩa một cách đáng buồn cười. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội là những từ ngữ tự nó chẳng có ý nghĩa mà là những từ ngữ tuỳ thuộc vào mùi vị và sự chọn lựa của những người dùng nó. Trên cửa miệng của một người “xã hội chủ nghĩa”, với thói quen không tránh được nhưng không ít quái dị và trẻ con, chủ nghĩa tư bản là luôn dính tới bất cứ chuyện kinh khủng và bất cứ ai đã bị gán cho cái chứng nhận bỉ ổi đó, cuộc đời của họ xem như chấm dứt ở đây. Bất cứ khi nào một chính sách ăn thịt đồng loại được áp dụng, sự xung đột không còn nằm ở chỗ tranh luận văn phạm, nói như Montaigne, lúc ấy sẽ có máu đổ và sự chết.

Thói quen luôn cúi đầu để tỏ vẻ sự tán thành, dùng hai bàn tay luôn để vỗ tay, mồm luôn mở chỉ để nói câu đồng ý, tất cả chỉ cho thấy sự tê liệt của lý trí, cái chết tiệt của trí thông minh, chặt bỏ những phản xạ của phê bình. Trong đời sống của chúng ta hiện nay, có nhiều chữ đưa chúng ta vào trạng thái hôn mê, thí dụ như: phản động, chống phản động, phê bình. Đồng chí đã dùng từ “phê bình” để gán ghép cho những đề nghị vô hại mà tôi đã trình bày cho lãnh đạo của Mặt Trận. Đồng chí biết quá rõ chuyện gì sẽ xảy ra: đó là bản án tử hình mà tôi phải đối diện.

– Thôi, đừng thổi phồng chuyện ở đây. Chúng tôi đơn giản chỉ muốn nói là đồng chí cứ luôn phê bình chỉ trích Mặt Trận. Thái độ đó làm chúng tôi ngạc nhiên. Đã khá lâu, chúng ta đã quen sống tôn trọng Đảng, nghe theo lệnh của Đảng vì những thành quả quân sự và chính trị của họ làm chúng ta tin tưởng cũng như toàn thể nhân dân đang tin tưởng nơi Đảng. Chúng ta được đào tạo không phải để nhìn bằng cặp mắt của mình mà bằng cặp mắt của Đảng. Được trang bị bởi chủ nghĩa Marx Lenin, với kinh nghiệm, với sự giúp đỡ của các nước anh em, Đảng chứng minh rằng Đảng có quyền và xứng đáng với niềm tin mà chúng ta giao phó. Sự khôn ngoan của chúng ta là tự rập khuôn những suy xét của mình theo mẫu mực của Đảng và cho tới nay, chúng ta có quyền hãnh diện đã làm như thế. Vì thế, chúng tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi không hiểu được đồng chí.

 Về phía tôi, trái lại, tôi hiểu rõ là những nhận định của tôi đã gây sốc cho đồng chí. Vì thế tôi cho rằng số phận đang chờ đợi tôi không phải là cái mà tôi đang mơ ước. Mặc cho dù thế nào, tôi có hai con mắt để nhìn, hai cái tai để nghe. Vì những gì tôi đã thấy và đã nghe làm tôi hãi hùng! Tôi thấy cái tương lai mà chúng ta đang dần đến, và những cái giật mình của lương tâm làm tôi mất ngủ. Để tìm được sự thanh thản trong tâm hồn, tôi đã đi tìm trong những duyên cớ đã gây hại vô cùng cho chúng ta, cái nào là cái cần kíp nhất và đâu là phương thuốc chữa trị hữu hiệu nhất. Tôi muốn lập lại một lần nữa, để mà không ai có thể hiểu lầm tôi và những quan điểm của tôi không bị diễn dịch một cách sai lầm với mục đích để kết án tôi dễ dàng. Tôi chỉ xin một điều là các lãnh đạo, những người theo chủ nghĩa Marx Lenin, cho phép mọi người được quyền mở mồm và nói lên những điều mà họ nghĩ. Các lãnh đạo phải nhớ rằng có nhiều người không dám hé răng, rằng cái hình thức và cái dáng vẻ bề ngoài mang cho họ một niềm hãnh diện, chỉ là một cái mặt nạ để che giấu những ý nghĩ và cảm xúc của họ mà thôi. Lãnh đạo chẳng những phải gạt bỏ những gì không chấp nhận được mà còn phải suy nghĩ đến những chuyện khác còn lại, ngay cả những chuyện cỏn con nhưng nó tố cáo ngược lại những dối trá của những kẻ nịnh bợ hay kẻ vô tâm, và những dối trá làm hại những quan điểm của Đảng.

Trong cuộc đấu tranh nhằm tìm ra sự thật, các đồng chí có một vai trò phải làm. Chính các đồng chí phải tự mình tỉnh cơn mê muội thờ ơ, thoát ra khỏi thái độ im lặng của mình, một khi cáv đồng chí tự mình lắng nghe tiếng nói của lương tâm mà chúng ta đang cố gạt bỏ, ném một sợ giây cứu hộ cho lương tâm đang bị chết chìm. Các đồng chí lúc ấy sẽ thấy đây là vì lợi ích của chính các đồng chí, của Đảng và của nhân dân, mà tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ tái lập quyền tự do tư tưởng. Các đồng chí có trách nhiệm trước nhân dân và Lịch Sử, cũng như Đảng có trách nhiệm của Đảng, như não bộ mỗi người có những trách nhiệm của nó. Tôi xin được phép nhắc lại điều cốt yếu đó với tất cả các đồng chí, với bản thân của từng đồng chí, với Đảng, và với những người trí thức khác. Chắc chắn là tôi sẽ chịu lãnh những hậu quả không tránh khỏi và đau đớn, những hậu quả sẽ xảy ra và sẽ trừng phạt tôi vì đã mong muốn gìn giữ danh dự và tư cách cùa mình.

 

5
Trận đấu bò lần thứ hai ở Đại Học

Trên đường trở về nhà, trong sự cô đơn im vắng, tôi cố gắng nhớ lại những gì đã xảy trong những giờ qua để rút ra một bài học. Đây là lần đầu tiên xảy ra một cuộc xung đột giữa tôi và lãnh đạo. Đây cũng là lần đầu tiên chủ nghĩa cộng sản lập một phiên toà để xử một trí thức. Cho đến bây giờ, tôi luôn giữ yên lặng, và những cơn thịnh nộ chống lại chuyện này, dù rất hiển nhiên, vẫn được tôi kềm giữ không để chúng thoát ra khỏi riêng tôi. Ngay cả vào thời đỉnh cao của Cải Cách Ruộng Đất, khi những chuyện dã man đã làm tôi đau đớn khi nhìn thấy, bóp thắt tim tôi, tôi đã có sự khôn ngoan và nghị lực để giữ yên tôi lại, dù biết rằng vụ biến động này đang xảy ra cuồng điên trên toàn nước, và tôi cũng hiểu rằng tiếng nói riêng rẽ của một trí thức nhỏ nhoi không thể nào đến được giới lãnh đạo đang giấu mình kín bưng trong một thế giới bí ẩn không thể nào xuyên qua được! Như một nhân chứng nhiệt tình nhưng yên lặng, tôi đã chứng kiến những lỗi lầm tai hại và những sai lầm của nhà cầm quyền, tôi hiểu rẳng tai của họ chỉ để sẵn sàng nghe những lời a dua nịnh bợ chứ không sẵn sàng nghe những lời bình luận chói tai, nhất là những lời phê bình liên tục bị gán ghép mấy từ “phản động”. Được trang bị cho mình sự cẩn thận và sáng suốt, tôi đã vượt qua những vùng biển đầy san hô, và cho đến nay đã tránh được một vụ chìm tàu. Nếu, trong suốt quãng nữa đời người đầu, tôi đã nổ lực vượt qua những con đồi của nền văn hoá Địa Trung Hải, nữa đời còn lại tôi phải cố gắng đứng thẳng trên đôi chân dưới sức ép của chủ nghĩa Cộng Sản. Đây là cuộc phiêu lưu lớn nhất đời tôi, những suy nghĩ, cả trong hành động lẫn cảm xúc, tôi đã bị điều kiện hoá trong những cơn lốc của những vùng gió lốc đầy may rủi. Tôi đã trở nên bén nhạy trong việc thủ thế giữ mình, nhìn trước nhìn sau để tự bảo vệ mình tránh những bước sụp lỗ chân trâu, tránh những trò gian trá hay những cạm bẩy giăng dưới chân. Tôi biết, trong những trí thức, tôi là người đang nằm trong tầm ngắm và đang bị công an theo dõi. Tôi biết có vài “con chó săn” đang ở những căn phòng cạnh nhà tôi để có thể để mắt xem ai là những người đến thăm hay xem chừng thư tín của tôi, nghe ngóng những câu chuyện hay tìm hiểu đài phát thanh nào mà tôi hay thich mở nghe.

Nhưng lần này, tôi bị dính vào một hoàn cảnh mà tôi đã trở thành một nạn nhân của một sự lừa dối mà cộng sản đã tung ra phong trào Trăm Hoa Đua Nở, không phải để giải phóng họ ra khỏi những xiềng xích mà để lật mặt nạ của những kẻ ngây thơ tin rằng đã đến lúc có tự do ngôn luận đáp ứng những ước vọng dân chủ của mình. Không thể nào có chuyện một đảng cộng sản độc quyền chính trị lại có thể tự mình thích nghi được với những tự do dân chủ. Dù với bất cứ thể loại dân chủ nào, kẻ phạm tội đếu phải chịu những trừng phạt tệ hại nhất của kẻ cầm quyền. Chính trong cái ý nghĩa đó mà những “đồng chí” của tôi trong Mặt Trận hiểu đâu là tội của tôi. Hoặc quần chúng có thể nổi dậy tự đưa mình lên đỉnh cao của dân chủ hay họ phải mất hàng chục năm thậm chí hàng thế kỷ để thấu đạt được ý nghĩa và những nguyên tắc của dân chủ, chả gì là quan trọng. Tôi chỉ đơn giản đòi hỏi quyền tự do tư tưởng và chỉ với thế tôi đã trở thành kẻ phản bội, kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản. Lãnh đạo hiểu vấn đề tế nhị của tôi: Nếu người dân bình thường có thể nói ra những điều họ nghĩ gì về những chính sách và quyết định của Đảng, thì không thể nào có cái gọi là nhất trí của họ được. Và, chắc chắn ở trong thời kỳ ban đầu của dân chủ, chỉ trích sẽ nhiều hơn là tán dương. Lúc ấy, chuyện gì sẽ xảy ra cho sự độc quyền chính trị của Đảng, sự mất niềm tin sẽ lớn tới đâu vì những chuyện điên rồ của một số lãnh đạo?

Khi tuân phục chỉ thị của lãnh đạo, các “đồng chí” của tôi bắn được hai con chim với một viên đạn: họ chẳng những đã giày xéo lên tôi, mà còn tự học cho mình cách kết án tất cả những ai có những định nghĩa về dân chủ chệch hướng với họ.

Tôi thật lòng rất tiếc cho các đồng chí trong Mặt Trận.

Tất cả họ là những người đàng hoàng chưa bao giờ xin gia nhập vào một hội đoàn không đàng hoàng. Họ đã được đưa vào với lời mời gọi của lãnh đạo mà chính sách đoàn kết quốc gia là qui tụ mọi công dân trong Độc Lập và Tự Do và cũng để hưởng mọi phiếu bầu của họ. Khuynh hướng chính trị, xã hội, tình cảm, tôn giáo của họ có thể khác nhau nhưng tất cả đếu chung một ước vọng và thông cảm. Một tập hợp người như thế, với những bản chất khác nhau, đa dạng về quan điểm của các thành viên, những người được chỉ định bởi Nhà Nước nhưng không đại diện cho ai, chắc chắn sẽ thiếu nội lực, thiếu phần dính kết và chỉ có thể giữ vai trò phụ mà thôi. Chủ nghĩa hình thức mà người cộng sản không thể thiếu buộc Nhà Nước nằm yên trong một cấu trúc đồng bộ với một cái vẻ bên ngoài dễ thương, nhưng hoàn toàn trống rỗng trong nội dung và thiếu vắng tất cả những kỷ năng, một tổ chức mà nhà lãnh đạo không đòi hỏi gì hơn là vổ tay tung hô những quyết định của mình.

Được triệu tập đến để kết án một trong những đồng nghiệp của mình, các “đồng chí” trong Mặt Trận cảm thấy họ bị sập trong một hoàn cảnh trái khuấy. Trận đầu bò mà họ bị buộc phải chứng kiến không phải là một trận đấu mang lại thích thú. Tôi không biết nỗi đắng cay nào đang làm gương mặt của họ giá lạnh, làm ánh mắt họ không còn nét sáng. Tôi đã có nhiều dịp tán gẫu với họ, và họ biết tôi là ai, họ đã từng tâm sự với tôi, đặc biệt là những vị trong Nhà Thờ Công Giáo và các Chùa Phật Giáo rằng chủ nghĩa duy tâm không thể nào thích hợp với chủ nghĩa duy vật vô thần của cộng sản. Những lúc còn kháng chiến chống Thực Dân, ở Phát Diệm, xung đột giữa người Công Giáo và những người cộng sản đã đưa đến máu của người đứng đầu trong huyện phải đổ. Sau đó, Liên Tôn Diệt Cộng là một phiên toà gây xúc động mạnh ở Thanh Hoá, chỉ một thời gian ngắn trước trận Điện Biên Phủ.

Trong những thành viên của Mặt Trận và của Đảng, ai cũng biết phía đối phương muốn gì. Vì thế, những thành viên Tôn Giáo của Mặt Trận như trên giàn lửa: quần chúng không thể hiểu họ, xem họ như những kẻ phản đạo, bội giáo vì họ đã đứng chung với cộng sản. Ngược lại, những người cộng sản thay vì tỏ ra tin họ, thì lại nghi ngờ họ đang có những hành vi thù địch tiềm tàng ẩn giấu. Trong những buổi họp của Mặt Trận ở trụ sở Trung Ương trên đường Tràng Thi, không có gì làm tôi thích thú hơn là được quan sát những điệu bộ đang xảy ra trước mắt và những nụ cười giả tạo nơi này nơi kia. Và họ đang ở đây, được gọi tới để giáng một cú chết người lên cái tên trí thức ác ôn mà số phận cũng y chang như họ, giống họ, không được ngửi mùi thánh thần của Đảng vì những khát vọng dân chủ của nó, xử và kết án nó. Họ càng hiểu là họ đang xử và kết án chính mình. Sự vô nhân đạo của Đảng xảy ra như Pontius Pilatus[4]: sự rửa tay chối tội về chuyện tôi bị đồng nghiệp tôi xử và kết án, và màn hài kịch đã tái diễn ở Đại Học và ở Đảng Xã Hội, trong trận đấu bò lần hai và lần ba. Và với một hòn đá, Đảng đã ném trúng hai con chim: kẻ phạm tội bị trừng phạt, và những kẻ đưa ra trừng phạt phải rút bài học cho chính sự an nguy của mình. Không bỏ một cơ hội nào để giáo dục quần chúng.

Tất cả những suy nghĩ đó đến với tôi trong đêm đầu tiên sau trận đấu thứ nhất ở Mặt Trận Tổ Quốc. Ngày kế tiếp, tôi lại phải đến có mặt ở Đại Học cho trận đấu thứ hai. Con bò tót không được phép ngưng để thở. Những kẻ đấu bò đủ mọi vai trò thay phiên nhau chọc, khủng bố con vật trong lúc chờ hạ thủ cú giết cuối cùng. Mặc dù thế, tôi vẫn không cảm thấy mất can đảm hay tuyệt vọng, hay kể cả mệt mỏi. Tôi phải qua những phiên Toà mà không ai nghĩ là có cho đến ngày hôm nay. Dưới cú đánh, tôi có thể đo lại sức chịu đựng của mình, và sự tò mò đã giúp tôi vượt qua những ức chế! Bất chấp các “đồng sự” đang lay động tấm vải đỏ (đấu bò), tôi đang ở tâm trạng một kẻ tấn công.

Với tâm trạng đó tôi đã đến Đại Học.

Khi nhìn thấy vô số xe đạp đang để kín sân trường, tôi chắc số lượng người đến rất đông. Khỏi cần phải tự hỏi. Khác với lần thứ nhất, trận đấu bò lần hai được mở cho công chúng: bất cứ ai cũng có thể đến xem. Hàng ngàn sinh viên, ban giảng huấn của nhiều Phân Khoa, kể cả phân khoa Y và Dược, các phóng viên được hấp dẩn đến để chứng kiến cái chết của một trí thức khá nổi tiếng ở Hà Nội, thêm một đám người tò mò và nông dân đang tập trung ở hành lang, dồn cứng các phòng đến nỗi như không còn không khí để thở và chuyện di chuyển đi lại xem như là không thể được! Lần này, các quan toà không ngồi sau các bàn mà thay phiên nhau đứng trên cái bục giảng, chỗ mà trong thời trướ

Tôi tự hỏi cái động cơ nào mà khiến cho họ tổ chức một hoạt cảnh hoành tráng như thế? Khi mà những yêu cầu cuối cùng xảy ra sau hậu trường được nói ra, bởi những người điều khiển cho những kẻ lo buộc tội, tôi tin rằng tôi đã thấy ra lý do tại sao có một sự công khai ồn ào như thế. Lý do là cho hai mặt: một mặt cho cá nhân người bị kết án, một mặt là cho quyền lợi của những người xử án và những người đến nghe.

Tôi nhớ, trong mười năm bí mật kháng chiến, mỗi tháng tôi đều đi về các tỉnh để bào chữa miễn phí cho những người bị kết án (nhưng không có tiền thuê luật sư) trong những phiên toà có khi quan trọng và kéo dài suốt đêm. Trong ngày, những cái loa, loan báo khai mạc phiên toà vang xa trong vòng 10 đến 20 km. Những kẻ tò mò phải đạp xe hàng chục cây số để đến xem màn trình diễn hiếm hoi, nhiều khi là duy nhất ở nơi họ ở. Những cái chuông xe đạp thật ầm ĩ đinh tai nhức óc. Những kẻ qua đường, đàn bà, trẻ con, thanh niên nam nữ đi thành từng hàng băng qua những cánh đồng, mỗi nhóm mang theo một cái đèn nhỏ. Đấy là một ngày hội phải đi dự.

Ở Hà Nội, báo chí, đài phát thanh, những cái loa được đẩy hết công suất để chọc vào tính tò mò của mọi người. Tên của kẻ bị kết án cũng đóng góp khá nhiều vào chuyên ấy. Vì thế, tôi hiểu rằng lần đấu tổ chức ở Mặt Trận đã có ý định cách nào đó muốn giữ sự nhạy cảm của tôi bằng cách làm trong yên lặng và kín đáo hợp với Mặt Trận. Lần này, với mục đích làm như một vụ tai tiếng nổ lớn ngay từ lúc mở màn để kéo thanh danh tôi xuống bùn, thuyết phục tôi tính nghiêm trọng của cái mà tôi đã phạm, và để biện minh trước cho cái trừng phạt mà họ sẽ áp dụng cho tôi.

Cùng một lúc, họ cũng có ý định dằn mặt quần chúng, “giáo dục” những người này trong hướng phải tuân phục vô điều kiện những chỉ thị và những quyết định của Đảng, và chấp nhận sự chính thống của cộng sản. Bất cứ vi phạm nào đối với nguyên tắc linh thiêng này đều bị trừng phạt hết sức nặng nề, không kể bất cứ những đóng góp xuất sắc nào của kẻ vi phạm cho Tổ Quốc và cho Cách Mạng.

Dưới chân cái bục giảng, nơi mà tôi đã qua những giờ phút đẹp nhất trong đời, nay cũng nơi ấy tôi lại phải chịu những khoảnh khắc tệ hại nhất trong cuộc đời của tôi. Thật vậy, tôi hiểu ra là chuyện được xếp đặt không chỉ để trừng phạt tôi, à quên, xin lỗi là để “giáo dục” tôi, nhưng tất cả là để làm bẽ mặt và hạ nhục tôi bằng hai cách: buộc tôi đứng với tư cách của một kẻ tội phạm, phía dưới bục giảng nơi mà tôi thường đứng đó trong những ngày huy hoàng và buộc tôi phải nghe những lời thoá mạ thậm tệ và những công kích kịch liệt, không phải từ những đồng nghiệp của tôi như trong trường hợp xử tôi ở Mặt Trận, mà từ những khuôn mặt trẻ mới không biết từ đâu đến và có vẻ là sinh viên hay đã từng là trong đám sinh viên của tôi. Tôi không bận tâm lắng nghe những lời điên rồ láo khoét từ những kẻ đang chỉ trích tôi, tôi hoàn toàn quên đi cái ngoại cảnh nơi mà họ đang tiến hành vỡ kịch và đang cố cắm một những mũi tên xuyên qua người tôi, và tôi tự để suy nghĩ của mình trở về thời Cải Cách Ruộng Đất, những ngày mà những địa chủ bị đấu tố, chịu những sỉ nhục và bị xem như là những kẻ thù của nhân dân và cách mạng, y chang như tôi hiện bây giờ.

Nhưng tôi được hưởng một sự đãi ngộ mà tôi rất cám ơn những kẻ đang hành hạ tôi: họ chỉ tra tấn tôi bằng ngôn từ của đạo đức và tránh cho tôi những đớn đau về thể xác. Tôi chưa bị nhốt kín trong tù, tôi chưa phải mặc trên người những bộ đồ lấm lem bùn đất vì phải ngủ trên sàn đất cứng, tôi chưa phải chịu ngữi những mùi gớm ghiếc của những con vật bị nhốt chung chuồng, tôi chưa bị kéo lê thân mình với vòng xích trên cổ và bị cột ở hai cổ chân, dưới những tiếng la ó và khạc nhổ của đám đông đang hận thù chất ngất. Không, tôi được sống cuộc đời bình thường với gia đình.

Nhưng những tra tấn nhục nhã mà tôi phải gánh chịu không chút nào ít hơn những tra tấn nhục nhã mà những địa chủ bị đoạ đầy trước khi bị giết chết.

Chỉ mới hôm qua, trước ngày những người cộng sản tràn vào các nơi, truyền thống của cha ông ta là dạy học trò phải biết kính trọng Thầy mình, thương yêu và kính trọng Thầy còn hơn cả cha ruột. Cái vinh dự được giao phó là chăm lo đào tạo con người, sao cho được đơm hoa kết trái, đã là khuôn thước do tâm hồn và cách sống của các Thầy Cô. Họ có trách nhiệm với chính mình, với các học trò và cả xã hội. Điều đó đã nuôi dưỡng tâm tánh thuần khiết của Thầy Cô. Những sách dạy của tổ tiên về đạo đức con người được cả thế giới công nhận nay bị ném vào giàn lửa. Đạo đức không còn được dạy trong trường, và ở thời buổi này, người ta dạy trẻ nhỏ nhục mạ Thầy Cô. Chủ nghĩa Marx-Lenin đã thay thế đạo đức trong việc dạy dỗ con người, sự còi cọc chỉ cho ra những loài hoa độc: sự vô đạo đức sản sinh ra thói cay độc yếm thế, tội phạm tăng trưởng cả bề rộng lẫn bề sâu, cả xã hội từ này phát ra những mùi thối tha mà từ trước đần nay chưa hề có. Cộng Sản kịch liệt chối bỏ là không phải nhà nước muốn như vậy, và cũng như mọi người, nhà nước cũng phàn nàn về chuyện xảy ra như thế, nhưng cộng sản không thể chối bỏ trách nhiệm về việc đạo đức bị xuống cấp vì những đường lối chính trị và một cơ cấu xã hội do họ đã đưa ra.

Tôi không nhớ, và cũng chẳng muốn nhớ, tên và nét mặt của những thằng nhãi ranh, kẻ nhận lệnh và được điều khiển bởi kẻ cầm quyền, ném những lời tấn công xúc phạm đến danh dự của tôi, như một người đi đường phải dừng chân cúi xuống để đuổi một con chó đang sủa dưới chân mình. Dù sao, những tên cục súc kia đáng thương hơn là đáng chê trách, chúng nó muốn được hưởng những ban bố của các ông lớn và để có một con đường tương lai trong cuộc sống. Tôi sẵn lòng tha thứ cho chúng, nói một cách chi tiết hơn, với những tư cách như thế mà đổ đống lên tôi thì cũng chẳng làm cho hại cho uy tín mà tôi được các bạn đồng nghiệp và quần chúng dành cho. Tôi đang chờ cái ngày mà, – cũng sẽ tới thôi -, Đảng phải nhận là mình sai lầm về những gì mà họ làm trong Cải Cách Ruộng Đất. Tôi tự an ủi và cho rằng nhân dân sẽ không xử kẻ đã tội phạm thượng đến Đảng cùng một cách như những kẻ cuồng si cộng sản đang mơ tưởng một tương lai huy hoàng, cuồng nhiệt lẽo lự trên cửa miệng và dung bản chải để đánh bóng mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc hơn những địa chủ vì đã không bị chính những con của mình đổ lên cha những lời kết án theo lệnh đến từ trên rất cao.

Tôi khinh thường quá sức những kẻ gièm pha đến nỗi không trả lời những tấn công của họ. Tôi chỉ tiến hành trả lời hai người: một là một sinh viên của tôi, còn người kia là một giáo viên tiểu học được nhận làm giảng viên ở Đại Học, và những vấn đề họ nêu lên cũng đáng được xem xét.

 

6
Hai loại người

Tôi và những đồng nghiệp hay gọi anh sinh viên này là một con chó Nhật vì anh ta có một làn da sáng, mũi tẹt và có mái tóc hơi dợn sóng. Chúng tôi không mất nhiều thì giờ để tìm thấy hắn giữa đám đông. Bất cứ những gì chúng tôi nói trong lúc thuyết trình, bên cạnh những bài học, những câu chuyện trao đổi ở hành lang trong lúc chờ giờ trở vào bục giảng, tất cả những chuyện đó đều được ghi chú cẩn thận và được báo cáo đầy đủ cho giới chức trách nhiệm. Chúng tôi đã biết chuyện kẻ làm do thám gián điệp đã gây ô uế cho giới sinh viên. Nhưng con chó Nhật này là kẻ nguy hiểm nhất vì nó làm chuyện này hết dạ hết lòng, cần mẫn chăm chỉ và, nếu cần, hắn có thể bịa ra những câu chuyện để làm tăng thêm việc hiểu lầm giữa chúng tôi và uỷ viên chính trị chịu trách nhiệm ở Đại Học. Vì thế tôi lắng nghe hắn nói.

– Thưa giáo sư, ông có biết rằng lập trường chính trị nó quan trọng như thế nào với quốc gia, nhất là trên lãnh vực giáo dục? Tôi không muốn sỉ nhục giáo sư khi tin rằng giáo sư không biết gì về chuyện này. Giáo sư là một trí thức nặng cân đã cống hiến tất cả tài sản của mình cho Đảng trước khi tham gia bí mật kháng chiến. Giáo sư đã được bổ nhiệm vào những công tác quan trọng. Vì lẽ đó, giáo sư phải biết về tầm quan trọng mà Đảng đã đặt lên vần đề giáo dục. Nhiệm vụ của giáo sư là đào tạo người cộng sản trẻ cho ngày mai để họ nỗ lực cống hiến những đóng góp trong việc xây dựng đất nước. Chủ Tịch Hồ Chí Minh của chúng ta công nhận là có những khó khăn trong công tác giáo dục, “Phải mất mười năm để trồng cây, nhưng phải cần một trăm năm để trồng người”. Thật vậy, để đào tạo ra những người mà Đảng mong muốn, cần phải tự mình chứng minh là có lập trường chính trị tốt.

 Anh bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết anh đã lấy tin từ kẻ nào về quá khứ của tôi. Có thể là anh đang bỏ tôi vào cối xay với những điều quan trọng để tâng bốc tôi. Cho phép tôi được điều chỉnh vài chỗ sai. Thứ nhất tôi không phải là người trí thức “nặng cân” khi mà tôi chỉ cao có một mét sáu. Như thế tôi chỉ là kẻ bé tẹo bên cạnh những ông “to” trong nước. Nhưng, kẻ thấp lùn như tôi đã vỗ tay đón mừng Cách Mạng Tháng Tám cùng với toàn dân trong nước, và trong những giờ phút đầu tiên, trước những lời kêu gọi đầu tiên, tôi đã trọn mình dâng hiến cho dân tộc. Nếu tôi đã chiêm ngưỡng và quý phục những người đi cách mạng, nếu tôi đã biết ơn những hy sinh mà họ đã chịu, những thành công mà họ đã thắng lợi trong quá trình đấu tranh giành Tự Do cho Dân Tộc và Độc Lập cho Việt Nam, tôi phải thú thật với anh là tôi không hề biết cái Đảng mà tôi không hề xin gia nhập, không hề biết những lễ nghi và những bí mật mà tôi chưa bao giờ được qua buổi vỡ lòng và những chuyện ấy làm cho lưỡi tôi trở nên khô cứng mỗi lần tôi muốn hô “vì Đảng”. Tất cả những gì tôi đã làm, cống hiến toàn bộ tài sản và công việc, là tôi làm cho Dân Tộc.

Chẳng có gì ở đó khác hơn là cái logic. Tôi muốn mời anh hãy suy nghĩ một chút về nguồn gốc của quyền lực. Quyền lực luôn được chinh phục hoặc bằng phương pháp hoà bình hoặc bằng vũ lực. Nhưng dù bằng bất cứ cách nào, quyền lực luôn có một nhu cầu cấp bách là phải tự mình chứng minh với những kẻ đang nắm nó hay những kẻ đang chịu nó nắm. Hơn nữa, việc nắm quyền chỉ có hai con đường để theo: một là tự cho mình là kẻ có Thiên Mệnh, hai là được nhân dân giao phó. Hoặc theo kiểu thần quyền hoặc theo cách dân chủ. Từ khi mà quyền lực được chiếm lấy bằng bạo lực, nó không thể cho rằng là do Thiên Mệnh hay là do dân. Vì thế, nó buộc phải tìm cách khác để tự bào chữa rằng nó không cần hay không cảm thấy cần thiết phải chứng minh, nói cho cùng nó cũng chẳng có gì dựa để biện minh, nó chỉ tự chống chế mà thôi. Nhưng giới quyền lực tự bảo vệ với ai? với nhân dân và với một lực lượng chính trị khác. Để chống lại sư tranh đua của những tổ chức chính trị khác, giới quyền lực đã tuyên bố độc quyền chính trị dưới sự chỉ đạo của mình. Để chống lại nhân dân nó hình thành một bộ máy Nhà Nước với với những cơ cấu, chức năng, với nhiệm vụ là thi hành những mệnh lệnh và xây dựng nên những tổ chức nghề nghiệp và xã hội để gồm nhập cả dân chúng vào một hệ thống tổ chức, theo từng sinh hoạt, tuổi tác, tính phái, niềm tin tôn giáo, thành một cộng đồng dân tộc mà cả tinh thần, con tim và hành động đều bị giới cầm quyền đưa vào khuôn để kiểm soát. Nhưng, khi giới cầm quyền cần làm những quyết định, xác định những quan điểm, đưa ra những biện pháp nhằm bảo đảm cho ưu quyền và lợi ích của họ là những điều cần được giấu kín trước sự tò mò của quần chúng, họ phải tự trốn kín trong một sự bí mật không thể xâm nhập, trùm kín bưng sau những bức màn thần bí không thể xuyên qua được. Cơ cấu hình Kim Tự Tháp của quyền lực đã chế ngự khắp nơi, từ trong cơ quan Nhà Nước và những chức năng của nó, đến mọi tổ chức xã hội với những chân rết của nó. Trên toàn nước, từ làng xã và quận huyện cho đến các Bộ và cơ quan Trung Ương, những chức vụ chủ chốt đếu do Đảng viên đảm nhận việc điều hành, giám sát và kiểm tra, và như thế, thông qua Vụ Tổ Chức để bổ nhiệm tất cả cán bộ công nhân viên nhà nước, và thông qua bộ Nội Vụ và Công An để giữ yên tĩnh cho lãnh đạo có được một giấc ngủ ngon lành.

– Thưa giáo sư, hình như ông thiếu cơ sở chính trị khi mà ông chỉ quan tâm đến cái vẻ bề ngoài hơn là những điều thực tế, và ông đang đào sâu hố chia cách không hiện hữu giữa Đảng và nhân dân. Đảng của chúng tôi không hề tuyên phán là có nguồn gốc Thiên Định: chỉ nội cái ý đó là đã thấy nực cười, lạc hậu và lỗi thời. Một cách khách quan, Đảng không được bầu lên để nắm chính quyền, để nói là bởi nhân dân, và buộc phải giữ cơ chế và hoạt động trong bí mật. Nhưng tôi xin trở lại thời mà chủ thuyết và những đảng cộng sản nắm chính quyền. Hệ tư tưởng của họ trực diện đối đầu với chính quyền đương nhiệm vì họ nhắm tiêu diệt diệt chủ nghĩa tư bản và tất cả những đảng phái chính trị sinh ra trong chế độ đó. Từ đó, mọi chính thể tư bản đếu tìm cách tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản, cho nên người cộng sản để tự bảo vệ đã phải đi vào bí mật. Thói quen kín đáo và bí mật đã bắt rễ trong người cộng sản. Hơn nữa, Đảng cộng sản như một gia đình không muốn người ngoài biết chuyện nhà mình. Chính vì cùng lý do tự bảo vệ chống lại những kẻ thù của cộng sản mà Nhà Nước đã có một cấu trúc hình Kim Tự Tháp và đặt tất cả người của mình dưới những cái chóp Kim Tự Tháp đó. Như giáo sư thấy đó, tuy rằng Đảng đã nắm chính quyền nhưng cuộc đấu tranh với chủ nghĩa tư bản vẫn còn tiếp tục. Vì lẽ đó, và hơn bao giờ hết, những kế hoạch cẩn phải giữ trong bóng tối và việc nắm chính quyền cần phải chặt chẽ hơn để chống lại những đòn tấn công của chủ nghĩa tư bản đến từ trong và ngoài nước. Hoàn cảnh lịch sử mà chủ nghĩa cộng sản đã sinh ra đã quyết định cách làm của họ, cách làm có thể gây sốc cho giáo sư, nhưng có thể thông cảm được.

Cái chuẩn về hạnh phúc của nhân dân có phải chăng là trật tự và an toàn? Vì vậy, không chỉ lãnh đạo của chúng tôi có những giấc ngủ bình an mà toàn dân cũng hưởng cùng ưu đãi đó. Dân chủ không phải chỉ có nghĩa là chính quyền bởi dân, nhưng còn hơn nữa là  dân. Trước quan điểm đó, không có một loại dân chủ nào khác có thể so sánh với nền dân chủ của chúng tôi, trong khi lãnh đạo của chúng tôi chỉ có một niềm lo duy nhất: đó là hạnh phúc của nhân dân!

 Anh vừa nói đến chuyện vàng ngọc. Trong lúc này, tình hình sức khoẻ của đất nước ta có vẻ tốt. Nhưng tìm hiểu thêm về bề sâu, tìm hiểu vể cấu trúc của nhà nước và xã hội, đã thấy những lỗi lầm và những tì vết không sớm thì muộn sẽ chứng minh những lo lắng của chúng tôi là có cơ sở.

Sự độc quyền chính trị mà Đảng bám víu, về lâu dài, sẽ gây nên những hậu quả tai hại vô cùng. Thứ nhất, tất cả những vị trí lãnh đạo, bất kể quan trọng như thế nào, đều do người của Đảng nắm. Chúng ta đều biết rõ rằng lãnh đạo của chúng ta và những người cấp dưới không thể nào cho rằng họ có cùng trình độ văn hoá và kiến thức để hoàn thành một cách hợp pháp và có trách nhiệm những nhiệm vụ được giao trong một nhà nước hiện đại và rất phức tạp mà ở đó sự ngu dốt và thiếu khả năng đành phải thú nhận là vô ích. Nhưng, nếu những người công chức đang gây gánh nặng cho những cơ quan hành chánh và kỷ thuật vì sự thiếu khả năng của mình, gây những mất mát không sửa chữa được cho ngân sách nhà nước thì đồng thời họ cũng làm hại đến uy tín và niềm tin ở Đảng bằng đủ loại phạm pháp: ăn cắp của công, tham ô, biển thủ, gian lận, giả mạo và sử dụng đồ giả mạo… Độc quyền sẽ sản sinh ra lạm quyền và sẽ đẩy người nắm quyền tuột trên con dốc được bôi trơn bởi truỵ lạc và tội ác. Niềm tin của nhân dân đối với đảng mỗi ngày bị giảm và bị xoi mòn, niềm tin ấy đang mờ dần.

Nền kinh tế đang được tổ chức và quản lý bởi một thứ chủ nghĩa duy ý chí theo sở thích sớm muộn sẽ gây nên những hậu quả tàn phá thảm khôc và thê thảm. Không có cạnh tranh, nền sản xuất trở nên trì trệ, luôn giữ và lập lại những lỗi lầm và sai lạc, hàng hoá bị giữ thối mục trong những nhà kho, chỉ đáng một ngày nào đó ném vào hố rác. Về lao động, cả lao động chân tay lẫn trí óc, bị trả lương rẻ mạt, trì trệ trong nghèo đói và chán nản, đang chết đuối dưới cơn thuỷ triều của cay đắng và vô vọng. Ngoại tệ bị xuống thấp, máy in tiền chạy hết công suất không ngừng để in giấy bạc, lạm phát mỗi ngày một nặng. Những quỹ mật không ngừng lớn và các lãnh đạo đã tiêu pha những khoản tiền cực lớn trong những chuyện chi tiêu đáng xấu hổ.

Tầng lớp trí thức, bị xem thường khinh miệt và hạ xuống cho làm những việc tầm thường, không thể nào cống hiến được hết khả năng và kiến thức mà họ chỉ mong được phép cống hiến cho dân tộc. Họ bị chỉ trích, kết án vì nguồn gốc tư sản và tiểu sư sản của họ, vì những liên hệ trong quá khứ, vì họ không chịu từ bỏ tính phản biện, phê phán và những khuynh hướng dân chủ của họ. Một thái độ như thế không thể nào tha thứ được trong thời đại của cách mạng khoa học và kỹ thuật.

Tất cả những phân tích và nhận định này đã đưa tôi tới việc đánh tiếng chuông báo động trong hội nghị lần thứ nhất mà Mặt Trận đã yêu cầu tôi đóng góp. Tôi không có ý định mở ra một cuộc tranh luận về chuyện xứng đáng hay không của Dân Chủ, và tôi cũng không đả phá nền tảng đang thể hiện của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhìn thấy những chuyện đó, trong sự quan hệ giữa Đảng và Nhân Dân, giòng nước của sự chuyên quyền đổ dài từ trên xuống dưới, và khi được hứng ở trong chậu ở tầng chót, nó đã mang theo bao nhiêu là dơ bẩn không thể cho người uống được. Tôi không đòi hỏi ngưng ngay giòng nước hay cắt ngay nguồn, nhưng chỉ mong làm cho giòng nước trở nên sạch, nên trong để có thể uống được.

Bên cạnh đó, tôi cũng nhận thấy ngành tư pháp cũng có lỗi vì thiếu độc lập và quyền tự do, dẫn đến việc trừng phạt nhiều khi rất nặng nề, trong khi họ không chứng minh được bất cứ sự phạm tội nào. Ngược lại, có những vụ phạm tội gây chấn động dư luận lại không bị trừng phạt gì. Tình trạng như thế thật sự đã làm lương tâm của công chúng và dư luận nổi loạn. Dù đã phải chịu ảnh hưởng nhiều ngàn năm dưới chế độ chuyên quyền phong kiến, không có những dịp lý tưởng để tiếp cận Dân Chủ một cách nhanh chóng, nhưng không phải vần đề là ở đây. Vấn đề là có yêu cầu, không hề đụng chạm gì đến guồng máy của Đảng và Nhà Nước, là nhân dân là có thể được tiếp xúc được giới cầm quyền để phàn nàn, kêu ca hay kiến nghị. Đó là, nếu có thể nói được như thế, vấn đề tự do ngôn luận, chuyện này chỉ có thể tăng cường quan hệ tốt, hai chiều giữa Đảng và Nhân Dân, nó chẳng những làm cho hai bên hiểu nhau và nó còn tránh cho Đảng những lỗi lầm mắc phải nếu tiếng nói của dân đến kịp lúc. Tự do ngôn luận, tự nó không hàm chứa gì về dân chủ hay chủ nghĩa xã hội, nhưng bất cứ chính quyền nào tự cho mình làm là CHO dân thì phải lấy đây làm bổn phận và ban bố truyền bá nó. Nếu tất cả những tranh chấp là liên quan đến văn phạm, tại sao chứng ta lại cãi nhau trên nghĩa của từ ngữ? Có cần mặc cho hạnh phúc chiếc áo chủ nghĩa xã hội hay tư bản hay không?

– Thưa giáo sư, đây chính là chỗ mà ông lầm lẫn. Chúng tôi đã nghi rằng ông thiếu lập trường chính trị. Bây giờ thì chúng tôi biết chắc điều ấy là đúng. Trước nhất, ông đã chia cắt Nhân Dân ra khỏi Đảng, trái hẳn với điều mà Đảng không ngừng tuyên bố. Người cộng sản hiểu dân chủ theo nghĩa  dân và làm tất cả mọi chuyện để phục vụ tốt đẹp quyền lợi của nhân dân, không phải chỉ trên lý thuyết suông hay trên giấy, mà là những chuyện cụ thể trên thực tế. Những điều chúng tôi cho rằng quan trọng tột bực thì ông lại bảo đó là chuyện chữ nghĩa. Chúng tôi không đấu tranh trên từ ngữ. Bọn tư sản thề thốt là chúng tôi độc quyền lãnh đạo, chúng tuyên truyền không ngừng nghĩ sự hận thù đối với chúng tôi. Chúng mưu đồ tiêu diệt chúng tôi. Sự chống phá chúng tôi được diễn ra trên bình diện quốc tế bởi cuộc chiến tranh lạnh, làm tê liệt mọi quan hệ đoàn kết giữa các nước và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Cái ngôn từ “tư bản” nó cô đọng tất cả nội dung nói trên, nó làm chúng tôi thức tỉnh và chỉ cho chúng tôi thấy kẻ thù nào đang muốn cái chết của chúng tôi và là kẻ thù mà chúng tôi phải triệt hạ. Đối diện với chủ nghĩa tư bản đang căm hờn chúng tôi và chúng tôi cũng đang ghê tởm chúng, chúng tôi đã xây dựng chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa hiện thân cho những hy vọng và ước mơ của chúng tôi, chỉ cho chúng tôi con đường để mang hạnh phúc lại cho nhân dân và cho thế giới vô sản, một chủ nghĩa tượng trưng cho tương lai của nhân loại. Như giáo sư có thể thấy, đây không phải là vấn đề thuần từ ngữ mà là hai nhận thức về cuộc sống, hai cách sống, hai loại khẩu hiệu đấu tranh. Ngược lại với những gì mà ông đang nghĩ, hạnh phúc xã hội chủ nghĩa là trái ngược với hạnh phúc tư bản chủ nghĩa, vì lẽ rằng người lao động, với mồ hôi trên trán, đã chinh phục được niềm vui trong cuộc sống, trong khi hạnh phúc ở các nước tư bản là qua sự bóc lột thấm ướt bằng máu và nước mắt của nhân dân, thế mà giáo sư lại đòi quyền tự do ngôn luận cho nhân dân. Giáo sư có thấy gì về chuyện ấy không? Nó mở rộng cửa cho đủ thứ loại tiếng kêu phát xuất từ sự ngu dốt, thiếu hiểu biết, ý đồ xấu, thiên vị và đôi khi là những ý nghĩ kỳ quặc điên cuồng. Nhiều người được kẻ thù trả tiền sẽ lợi dụng nó để ngăn chận chủ nghĩa cộng sản, gieo trồng tình trạng thù địch, hận thù chống lãnh đạo. Toàn xã hội sẽ phải gánh chịu một hậu quả đầy bạo lực và hỗn loạn. Giáo sư không có một cơ sờ chính trị lành mạnh, cũng như nhiều trí thức khác, bị ám ảnh bởi những định kiến, những nhận thức và những phản ánh của giáo sư là sai lầm.

Và đối với chúng tôi, là những thanh niên cộng sản, chúng tôi có niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản và Đảng. Đảng chính là tai và mắt của chúng tôi. Đảng đã dạy cho chúng tôi khả năng tư duy và cảm xúc, đào tạo và biến chúng tôi xứng đáng để thành những kiến trúc sư, những người xây dựng và thành viên của xã hội tương lai, xã hội của một chủ nghĩa xã hội thắng lợi. Đó là chân lý của chúng tôi. Chúng tôi xây dựng một nhân loại mới mà trong đó những đức hạnh chủ yếu là kỷ luật, tuân phục và tinh thần hy sinh. Chúng tôi không bàn cãi lệnh, chúng tôi chỉ biết thi hành lệnh, và nếu cần thiết, hy sinh quyền lợi riêng tư, không ngần ngại, nhắm mắt mà thi hành.

 Vâng, anh thuộc về một loại người không giống loại của chúng tôi đang sống. Người trí thức chúng tôi có cái thiển cận là cố gắng hiểu trước khi làm, cân nhắc lợi hại trước khi lấy quyết định, có cái nhìn đủ cảnh giác để có thể nhìn xuyên qua cái túi da đựng rượu chứa đầy kiêu căng và tự đắc, và nắm bắt sự giễu cợt, vênh vang tự đại của những bài diễn văn. Nếu những tình cảm chân thật khiến chúng tôi biết xúc động, thì những điệu bộ của những kẻ ích kỷ làm tôi cao hứng và chúng tôi thật sự kinh hoàng với những tội ác của những ông tai to mặt lớn. Chúng tôi chống lại trong niềm bi quan, chúng tôi phản công tại bằng mỉa mai châm biếm. Loại người của chúng tôi là hoàn toàn trái ngược với loại nhãi con cuồng tín ung mủ chỉ làm bực mình nhăn trán và con tim đau xót.

Một sự yên lặng kinh hoàng bao trùm cả phòng họp. Mọi người trong phòng như nín thở để theo dõi từng chi tiêt trong cuộc đấu giữa hai loại người của nhân loại. Khi con chó nhỏ rời bục giảng thì một giáo sư bước lên thế chỗ.

Có một khoảng cách chừng ba mươi tuổi giữa hai người đó, nhưng cả hai đều thuộc về giống người đi bằng bốn chân với cái đuôi ngoe nguẩy là những dấu riêng dễ biết. Ông ta là một giáo sư trung học của một trường nào đó ở miền Trung Việt Nam. Nhưng, trong thời Nhật chiếm đóng, hắn ta chụp hình mặc nguyên bộ đồ quan lại Triều Đình, với tấm thẻ bài bằng ngà voi đeo trân trọng trên bộ ngực ưỡn ra và với bộ mặt rạng rỡ. Dường như ông ta đã đạt được giấc mơ của cuộc đời. Sau đó, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân, nghề quan-lại mất dần hào quang, bị xoá bỏ trên bản đồ xã hội với xương cốt và tay chân trần trụi bị chôn vùi dưới đống gạch đổ nát của chế độ phong kiến. Viên chức của triều đình Huế kia đã cẩn thận giấu bộ áo quan và cái thẻ bài bằng ngà voi đâu đó và sẽ rất giận dữ nếu ai đó nhắc dậy quá khứ của mình, thay vì nịnh hót hay chỉ trích. Bị tước áo choàng, ông ta cảm thấy cần có một làn da mới. Trở lại với nghề đi dạy, với sự luồn cúi và nụ cười dễ thương, ông ta không bỏ mất một cơ hội nào để khúm núm phục vụ cho những kẻ bạo quyền mà hắn nhận lệnh và được ban cho một vài ưu đãi. Hắn leo lên từng nấc thang một trong lãnh vực giáo dục. Sau hội nghị Genève, khi chính phủ kháng chiến trở về Hà Nội và khi các Phân Khoa Đại Học được mở cửa trở lại, hắn xoay sở có được một chức giảng viên Đại Học mặc dù không có một cơ sở văn bằng hay công trình nghiên cứu nào để chứng minh mà các ứng viên giảng dạy ở cấp đại học thường phải có. Nhưng thực tế là, suốt cho tới khi nào không còn cộng sản, họ luôn luôn nâng đỡ đưa vào những chức vụ trách nhiệm những bạn đồng chí mà khả năng duy nhất của họ chỉ là được ý kiến thuận lợi và quý mến từ những người đang cầm quyền. Một người nào đó phải nói là rất ngu dại mới đến chúc mừng ông ta trong bộ dáng với bộ quần áo quan triều như trong tấm hình mà xưa kia ông ta hay phân phát cho gia đình những người quen biết để nhắc họ rằng ông là một người trong danh mục của triều đình Huế. Ngày nay hắn ta sẽ phải tự cắn ngón tay của mình khi thấy hình hắn ta đang bốc đồng tự cao tự đại chụp ngày trước và phổ biến cho thiên hạ.

 

7
Hai nền văn hoá

Nếu con chó Nhật của tôi nêu lên vấn đề xung đột giữa hai loại người, chó hai chân nhưng biết cười bằng mồm cũng như giống chó biết ngoắc đuôi để mừng đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Nhưng lần này, thật là điều ngạc nhiên lớn lao hơn nữa khi thấy một anh chàng xuất hiện ở đấu trường lại là một kẻ lâu nay luôn chong mắt chờ đợi ở Đảng nhưng không được kết quả gì, cho đến nay vẫn là một người không đảng. Có phải lần này là lần thử thách làm hắn ngời ánh mắt đầy hy vọng, và nếu hắn kết thúc thắng lợi lần này, liệu hắn có được nhận vào hàng ngũ của Đảng và để hắn chu toàn một tham vọng cháy bỏng của những kẻ cơ hội chủ nghĩa mà hắn là một thành viên sáng chói? Có phải cuối cùng rồi hắn cũng có cách giải cơn khát vì đã có thể khiển trách giữa công chúng một giáo sư Đại Học trước mặt các đồng nghiệp vá các sinh viên của ông ta, và trong một lúc nào đó, gạt bỏ những mặc cảm thua thiệt của một kẻ đắm mình khao khát một tham vọng mà khả năng không thể nào đạt tới? Có cần phải chứng minh rằng với tất cả là, trong đám đông của những con người không đảng, ta vẫn có thể tìm ra người ưu tú nhất, đại diện đứng vai kẻ buộc tội đã được Đảng phê chuẩn, và kẻ bị kết án hoá thân của sự xấu xa nhất đang sắp bị những cơn cuồng nộ của Trời cao giáng xuống? Đây không phải tại vì bản chất của việc tranh luận về quan hệ giữa Đảng và tầng lớp trí thực, hay giữa chính trị và chất xám mà là việc giới lãnh đạo ngần ngại trực tiếp can thiệp nên chọn giải pháp giao cho một kẻ không đảng để bảo vệ cho chủ nghĩa cộng sản? Dĩ nhiên, Đảng cũng có thể chọn một luật sư giỏi hơn, nhưng có thể là những người mà Đảng liên hệ đã từ chối không đứng cùng phe với Đảng để chống lại giới trí thức mà ước vọng về dân chủ của họ ai cũng biết.

Kẻ buộc tội tôi tung loạt tấn công đầu tiên.

– Thưa đồng nghiệp, trong những bài giảng của giáo sư về văn chương phương Tây, tại sao giáo sư dành quá nhiều quan trọng cho những tác giả và tác phẩm tư bản chủ nghĩa như thế? Văn chương xã hội chủ nghĩa xem ra chỉ là những người bà con xa nghèo khổ. Điều đó gây cảm tưởng là ông có khuynh hướng thiên quá nhiều về kẻ thù.

 Thưa đồng nghiệp tài ba của tôi, cái nhìn của ông thật vui nhộn, và tôi nghĩ rằng nếu ông không muốn làm vấy bẩn đến danh tiếng của mình, ông không nên có những nhận thức như thế. Tuy nhiên, tôi cho rằng ông chỉ bị chút lãng trí trong bộ óc ưu tú đang bị nhiễm những hơi độc của chính trị, nên tôi mong được nhắc nhở cho ông là văn chương phương Tây đã xuất hiện từ nhiều ngàn năm nay, văn chương xã hội chủ nghĩa mới có chừng một trăm năm nay.

Đến phiên tôi xin được nói là chữ “kẻ thù” mà ông dùng là không đúng chỗ và không đứng đắn. Từ này là thuộc một số ngôn từ chính trị mà một số lãnh đạo hay dùng một cách thái quá. Nó không có một ý nghĩa gì về văn chương, và ngay cả trong lãnh vực chính trị, nó chỉ là một thứ lưu hành đã lỗi thời, cũng không phải là một sự tranh cãi về pháp lý. Ông đã qua những buổi học về duy vật biện chứng thì ông phải biết là mọi sự đếu thay đổi, kẻ thù hôm qua có thể thành người bạn ngày mai, và ngược lại. Một người dạy về văn chương không có chuyện nghiêng về phía kẻ thù hay nghiêng về phía bạn. Những tác giả lớn về văn chương trên thế giới không là bạn hay thù của bất cứ ai, họ là bạn của nhân loại mà họ muốn tìm hiểu và trau dồi trí tuệ. Đừng để chúng ta bị cái kỳ quặc của chính trị trùm lên việc nghiên cứu văn chương.

– Bây giờ chúng ta đã đi vào tâm điểm của vấn đề. Làm sao giáo sư có thể điều chỉnh quan hệ giữa chính trị và văn hoá? Chúng ta đứng giữa hai loại văn hoá: văn hoá cộng sản và văn hoá của giới trí thức. Cả hai đều nhắm vào việc gầy dựng con người. Ông nghĩ thế nào về văn hoá cộng sản?

 Văn hoá cộng sản là muốn đào tạo con người trên cở sở hình ảnh của những nhân vật cộng sản tốt nhất, được yêu quí và được trọng nể bởi những người mơ ước được giống như thế. Không thể chối cãi được là những nhân vật đó được phú cho những đức tính tốt ở một mức cao nhất về phẩm chất con người. Những đức tính đó là yêu quê hương và dân tộc, có tinh thần hy sinh và can đảm bất chấp sự chết và những đòn tra tấn, và tình đồng chí cùng chí hướng. Rủi thay, vẫn có quá nhiều đức tính đáng khâm phục và quí giá lại bị thui chột, trong khi làm nhiệm vụ, vì thiếu văn hoá và kinh nghiệm trong việc quản lý đất nước và con người. Người cộng sản có một tấm lòng trong sáng nhưng do kiến thức giới hạn, nên họ tự bằng lòng trong sự nghiêm túc và thờ ơ trong việc đánh giá con người, sống trong chủ nghĩa duy ý chí và chủ quan trong việc sắp đặt cấu trúc của nền kinh tế. Họ thích đơn giản vấn đề và muốn thống nhất, tiêu chuẩn hoá mọi sự để họ dễ dàng quản lý con người và của cải vật chất. Trong quan hệ với những người trí thức, họ không giúp được gì vì mặc cảm tự ty đã khiến họ có thái độ cứng nhắc không nhân nhượng, tự chứng tỏ mình qua những hình thức chống lại tình hữu nghị và sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên: họ và trí thức; nhưng họ lại giữ cho mình một thái độ nghi ngờ và đầy ác cảm. Họ là loại người chưa bao giờ từng được biết đến trong xã hội Việt-Nam. Nếu quần chúng nhân dân thần tượng hoá họ – ít nhất là cho đến bao lâu mà họ còn giữ được tính trong sáng trong nhận thức, còn đạo đức trong lương tâm, và còn biết bảo vệ danh dự và nhân phẩm của mình – thì người trí thức vẫn còn những dè dặt bảo lưu và còn nhiều cẩn thận để khỏi bị đâm bởi lưỡi kiếm đã sẵn sàng tuốt ra khỏi vỏ, sẵn sàng đâm vào những ai vô tâm và ngây thơ có mâu thuẫn với họ.

– Nếu người cộng sản đã được tôi luyện trong cuốc đấu tranh cách mạng mà trong đó những chiến sĩ thiếu đạo đức sẽ phải bị loại bỏ và chỉ những người xứng đáng có đạo đức mới được giữ lại, những đạo đức như thế phải được dùng để làm ra một hình ảnh mẫu mực của người cộng sản, thì người trí thức được đào tạo qua con đường học vấn và lối sống trong môi trường thành thị của họ trước đây, nơi mà giai cấp lao động vô sản, vừa mới ra đời, đang còn loay hoay tìm kiếm một con đường và đang học hỏi để đóng vai trò của mình. Công an và cảnh sát thực dân, cũng như những trường học thực dân cô lập tách người trí thức ra khỏi thế giới của cách mạng, làm cho họ không thể thấm nhuần và lĩnh hội những tư tưởng cách mạng. Được đào tạo trong những điều kiện như thế, người trí thức không khỏi tiêm nhiễm những thói hư tật xấu và những thiếu sót của nền giáo dục tư bản chủ nghĩa. Họ mở lòng đón nhận những ảnh hưởng của nền dân chủ như thể họ đang tự dâng mình cho phúc âm được giảng dạy bởi những triết gia từ thời đại Ánh Sáng ở thế kỷ 18, chấp nhận ý thức hệ của cuộc cách mạng tư sản năm 1789 và cho rằng được hưởng những quyền tự nhiên của con người là tiêu chuẩn của một xã hội văn minh. Như vậy, họ đã thấm nhuần những đức tính của tư bản, nhưng nếu thiếu sự giáo dục cộng sản chủ nghĩa, họ chỉ còn biết tự giới hạn mình trong sự hưởng thụ an nhàn, sợ xáo trộn và bạo lực, và tỏ ra kinh hãi lo sợ trước bất cứ lực lượng chính trị nào, đặc biết là lực lượng có màu đỏ. Họ chất chứa trong mình những phẩm chất quý giá về trí óc, vận dụng một cách khôn khéo sự hồi kiểm về những chuyện đã qua, phân tích, lô gic và áp dụng những tài giỏi của mình để chỉ trích phê phán. Họ tự gán cho mình những ý niệm trừu tượng tách con người ra khỏi những ngẫu nhiên bất ngờ của xã hội và lịch sử, ra khỏi việc đấu tranh giai cấp. Đó là lý do chính cho thấy tại sao họ lại sợ bạo lực và những lực lượng chính trị. Vì thế, khi tiếp xúc với người cộng sản họ không tránh khỏi mặc cảm tự ti: họ tự cảm thấy nhỏ bé, yếu đuối và hèn nhát khi đứng trước những anh hùng là những người đối diện với cái chết với tia mắt rực lửa hận thù vì bị áp bức và bất công.

 Như thế, về cả hai phía, chắc chắn cái mặc cảm tự ty nó là cái gánh nặng đang đè lên quan hệ giữa chúng ta. Vì vậy, hậu quả đưa đến là chúng ta thiếu tự nhiên, nhiệt tình, thành thật, mật thiết, và chân thành tin cậy lẫn nhau. Sự lễ độ chỉ là gượng gạo, lịch sự với nhau hoàn toàn mang tính ngoại giao và đầy nghi kỵ dè dặt. Mỗi bên chúng ta đếu sợ bị bên phía kia coi thường, và quyền lợi chung bị tổn hại.

– Nhưng người trí thức phải biết chấp nhận cái chuyện không tránh khỏi. Họ phải công nhận là chế độ cộng sản là có lợi cho nhân dân. Kinh nghiệm cách mạng đã khiến cho lãnh đạo của chúng ta dành thắng lợi trong cuộc chạm trán với các đảng phái quốc gia là những đảng đã xuống cấp mà ai cũng biết là vì bất tài, có đạo đức đáng ngờ, buông mình theo những đam mê về lợi lộc và đã vĩnh viễn mất uy tín ở trong nước. Sự thành công của văn hoá cộng sản đã biến con người cách mạng thành một người mạnh mẽ như thép cứng.

 Ông đang đá vào một cánh cửa đã được mở tung. Văn hoá công sản đào tạo con người để đấu tranh cách mạng, văn hoá trí thức đào tạo con người biết suy nghĩ chín chắn. Nhưng văn hoá cộng sản không được quyền nuốt chửng văn hoá trí thức được. Hai luồng văn hoá vẫn có thể sống chung hoà bình với nhau, và tốt đẹp hơn nữa, là có thể hợp tác với nhau vì lợi ích của đôi bên, và của toàn dân.

– Tốt lắm. Ở đây không có chuyện cộng sản tiêu diệt trí thức. Cánh cửa luôn luôn được mở rộng để hoà hợp, để thông hiểu lẫn nhau. Người cộng sản có thể, và đúng hơn là phải yêu cầu giới trí thức tham gia giúp đỡ trong việc quản lý nền kinh tế, quản lý đất nước và triển khai Luật Pháp. Một sự hợp tác như thế là cần thiết và ích lợi cho đất nước.

 Nhưng chuyện này đã không xảy ra trong nước. Những vị trí lãnh đạo và trách nhiệm luôn luôn được giao cho người trong Đảng, và phần lớn trong họ lại thiếu khả năng và không đủ đạo đức. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những người luôn nhắm vào chức vị đó, thường quay lưng lại với nhân dân mà chính nhân dân cũng không trông đợi gì nhiều ở các kẻ này, và chỉ đưa mắt trông chờ vào Đảng là người nắm và thổi cái tù-và phân phát những ưu quyền, những chức ngồi chơi xơi nước, danh phận và ưu tiên. Trong thời kỳ bí mật kháng chiến, muốn được vào Đảng là phải qua những điều kiện cực kỳ khắt khe và phải được tập thể nhất trí thông qua. Bây giờ thì trò vận động ngầm và sự ích kỷ và tham vọng xấu xa đã nổ bung ra hết cỡ, chuyện tuyển lựa đảng viên nay được tính đến số lượng mà không cần chất lượng. Cái quyền lực vô cùng to lớn mà Đảng đã dành riêng cho mình đang dẫn đến những lạm dụng kinh hoàng: tham nhũng đã lan tràn đến từng cán bộ và những đợt sóng của vô đạo đức và tội lỗi đang xâm chiếm toàn bộ bộ máy của Nhà Nước.

Vậy thì, dưới cái nhìn đang thấy cả một cơn thuỷ triều đang đe doạ đất nước bằng một sự tàn phá, nếu xảy ra thì không thể nào đảo ngược lại, tôi xin hỏi ông: ”Giới trí thức có được phép trình bày vấn đề này cho Đảng không?”

– Tôi không biết quan điểm của Đảng là như thế nào, nhưng tôi nghĩ là trí thức ít ra phải có quyền được nêu những vần đề này lên các lãnh đạo. Việc cơ bản ở đây là chúng ta phải tôn trọng thủ tục và tất cả mọi chuyện đều phải bàn bạc ở chỗ riêng tư vì đây là chuyện xung đột trong gia đình.

 Đối diện với một sự tàn phá nhất định sẽ đến, người trí thức tự cảm thấy mình có trách nhiệm đúc kết trình bày những vấn đề trọng đại liên quan đến chủ nghĩa cộng sản để kiếm ra một giải pháp.

Đúng vậy, có nhiều chuyện đã xảy ra làm chúng ta phải suy nghĩ. Đảng là một tổ chức được mà sự thành hình, tổ chức và sinh hoạt đều nằm ngoài nhân dân, thiếu hẳn một cơ chế kiểm sát thường trực và chính quy. Mọi chuyện do Đảng định làm đều được tính toán trong vòng tuyệt đối bí mật, y như bọn mafia. Nếu đây là một công ty hay một hội đoàn tư nhân, được thành lập để bảo vệ quyền lợi cho hội viên của mình, trong vòng Pháp Luật, thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng chính Đảng đã có ý muốn được nắm quyền, và hiện đang quản lý nhân dân, những quyết định của Đảng mang tính ràng buộc về Pháp Lý và phải được áp dụng trên toàn nước. Chẳng phải do Thiên Định hay do dân bầu lên, Đảng vẫn đang quản lý nhân dân. Thật vậy, chẳng có chi nhiều để tranh cãi về chuyện này, nhiều cuộc bầu cử thật ra chỉ là một sự sắp xếp hoàn toàn. bằng những cái gọi là “đề nghị”, “cố vấn” và thậm chí làm áp lực để người dân phải bầu những cá nhân mà không hề biết họ là ai và cũng không giao phó cho họ bất cứ thứ quyền nào. Để biện minh, Đảng tuyên bố là Đảng hành động như thế là  quyền lợi của nhân dân. Như thế nhân dân đã bị đẩy xuống hàng trẻ con hay một loại người tàn tật mà người khác đút cho ăn mà không bao giờ được hỏi là thích món ăn nào! Tệ hại hơn nữa là nhân đân còn bị cấm không cho quyền phát biểu ý kiến, toàn chế độ trở thành những người chỉ biết nói láp dáp một mình và chỉ có những người cúi đầu tuân phục. Chung quanh pháo đài, những hào sâu tường cao là những đội bảo vệ ngày đêm gìn giữ giấc ngủ bình yên của lãnh đạo và gia đình họ, của đĩ hạng sang, che chắn cho họ trước sự xâm nhập của những lời than khóc nức nở của người dân quê về những nỗi khổ đau và bất hạnh của họ.

Có phải văn hoá cộng sản là khuyến khích dối trá và ích kỷ, công nhận sự lường gạt và gian manh, lừa phỉnh nhân dân?

– Đó là những gì giáo sư nói, nhưng theo cá nhân tôi, tôi nhìn chuyện dưới góc cạnh khác. Trước nhất, những quyết định chính trị có thể không mang đến ngay những kết quả trông thấy, nhưng trong dài hạn thì sẽ có. Không thể để mình rơi vào lỗi lầm là nhìn mọi chuyện dưới góc cạnh muôn đời, không thể chối cãi là yếu tố thời gian phải giữ một vai trò quan trọng cho một dân tộc lạc hậu mà lãnh đạo đã hứa là sẽ mang đến cho họ một tương lai sáng chói. Nhân dân cần phải có thời gian để hiểu và thấm nhận những nguyên tắc mới, để có thể leo lên những bức thang của tiến bộ xã hội. Quan điểm của tôi khác với những quan điểm của giáo sư. Tôi dám khẳng định với giáo sư là bất cứ nơi nào có bầu cử, nơi đó có dân chủ, một khi mà mọi chuyện là do dân. Và, một khi mà nhà lãnh đạo không tìm cách vơ vét đầy túi, không tích luỷ tài sản riêng cho mình, lúc ấy tôi có thể khẳng định những chính sách đưa ra là  dân.

 Giả dối! Thưa đồng chí, đó chỉ là giả dối. Những cuộc bầu cử xếp đặt không thể nào là dân chủ. Đảng không kiếm cách làm giàu nhưng túi tiền một số khá lớn đảng viên lại căn phồng, trong khi chờ tới lúc cái ung nhọt tham nhũng nó bao trùm lên tất cả những kẻ có chút quyền hành trong tay. Đồng chí nói mọi chuyện đều do dân làm. Tốt, vậy cho tôi hỏi đồng chí: nhân dân có được hỏi ý kiến về những chính sách quan trọng của Đảng như Cải Cách Ruộng Đất và Hợp Tác Hoá ruộng đất, kế hoạch kinh tế, và đặc biệt là việc hướng dân tộc vào con đường xã hội chủ nghĩa không? Không và không. Độc tài chính trị đã đóng cửa đất nước và khoá mồm cho tất cả dư luận. Quyền tự nhiên của con người mà mọi người trong thế giới văn minh đều được hưởng thì hoàn toàn không có ở đây, và lại còn bị cấm không được quyền đòi hỏi, thậm chí là chỉ bàn bạc về nó. Đồng chí đang nhìn thấy những điều không có thật bởi niềm tin chính trị mà đồng chí đã được kẻ cầm quyền đã gieo vào đầu. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, toàn thể nhân dân cùng một lòng đứng dậy để giành lại Tự Do và Độc Lập. Nhân dân đặt niềm tin vào lời nói của lãnh đạo cộng sản là toàn những người với quá khứ vinh quang đầy hy sinh cho Tổ Quốc. Nhưng sau đó, từng bước, nhân dân bị áp đặt dưới cái gọi là “dân chủ nhân dân”, rồi sau đó là chủ nghĩa xã hội. Chúng ta không còn tôn thờ Khổng Tử, trong khi vẫn gìn giữ những giá trị của đạo Khổng, chúng ta bị cải đạo sang tôn giáo Ba ngôi của chủ nghĩa Marx: Marx-Lenin-Stalin, với ba tấm hình được treo cao để ba ông được nhìn xuống đám thần dân! Từ lúc nào và ở đâu chúng tôi được hỏi ý về những ước ao và mong muốn của chúng tôi? Chuyện chẳng hề xảy ra. Đảng là con mắt nhìn mọi chuyện dùm chúng tôi, quyết định cho chúng tôi, rồi ra lệnh chúng tôi phải tuân theo quan điểm của Đảng mà họ cho rằng sẽ mang đến một tương lai huy hoàng và hạnh phúc. Đó là cách mà văn hoá cộng sản đã đào tạo lãnh đạo và muốn đào tạo cả chúng tôi. Nó chỉ trích văn hoá Tây Phương là đã tưởng tượng ra con người lý thuyết cô lập khỏi thực tế và tưởng tượng ra nhóm người tách ra khỏi cuộc đấu tranh giai cấp, một cuộc đấu tranh đang sắp mang lại hạnh phúc cho mọi người, bằng cách làm mới xã hội hiện tại và xây dựng một xã hội mới. Văn hoá phương Tây sẽ kết án chủ nghĩa Cộng Sản là tạo ra những con người cháy bỏng với những cuồng tín về chính trị, chỉ biết theo chân của lãnh đạo, nhắm mắt bịt tai với những thực tế của thế giới, ngậm miệng không dám chỉ trích bất cứ chuyện gì. Thật đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy một con người, được nhào nặn trong lò bánh của cộng sản, đã mất cả con người riêng, còn mất luôn cả nhân cách của mình, thay vào mình một con người chỉ biết động đậy theo những tín hiệu từ xa bấm nút bởi người khác. Cổ tích phương Tây kể chuyện một kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ. Người cộng sản, được đào tạo trong lò văn hoá cộng sản, đã bán linh hồn cho Đảng.

– Cứ cho rằng chuyện đúng như giáo sư nói, tôi thấy không có gì hại trong chuyện đó. Giáo sư có muốn đẩy câu chuyện tới mức là kẻ độc tài cấm mọi người đi tìm sự thật, và khi kiếm thấy nó sẽ theo nó suốt con đường? Khi người Công Giáo nhìn Chúa Giê Su như là Sự Thật của mình, người Phật Tử xem Phật là Chân Lý của mình, thì tại sao Giáo Sư không muốn người cộng sản được chọn Đảng là Chân Lý của mình?

Mỗi con người đều đi tìm con đường cứu rỗi cho mình, ở bất cứ nơi nào mà ông đó hay bà đó có thể tìm thấy được. Chúng tôi là những người thấy sự soi sáng đó trên đường đi tìm chân lý. Đó là chủ nghĩa Cộng Sản.

 

8
Trận đấu lần thứ ba tại Đảng Xã Hội Việt Nam

Nếu những người tổ chức cuộc đấu tố ở Đại Học hy vọng là tôi sẽ bị sỉ nhục, mất thanh danh thì họ đã lầm. Ngoại trừ một ít gián điệp, chỉ điểm đang lẫn lộn trong đám đông, cũng như thường lệ trong những cuộc họp quần chúng khác, đại đa số đều đứng về phía tôi, dành cho tôi những cái nhìn đầy thiện cảm, những cái nhìn thật làm tôi ấm lòng. Không ai dám biểu lộ tâm tình của họ một cách nào khác, dù là vài cử chỉ hay lời nói, vì họ sợ bị công an điểm mặt và sẽ bị phiền phức. Chủ nghĩa chính trị cực đoan đã thất bại cay đắng và lãnh đạo đã rút một bài học.

Chính vì thế mà trận đấu ở Trụ Sở Trung Ương của Đảng Xã Hội được xảy ra, nếu tôi nghĩ đúng, là trong vòng riêng tư. Chẳng có gì bất thường đến cuối ngày. Chuyện khác thường trong cảnh riêng tư này là nó không giống như lần ở Đại Học, hôm mà những con rối đã được nhận chỉ thị và những thông tin nhằm để đấu đá tôi, được có ghế ngồi và tung những lời buộc tội. Trong phòng họp, chỉ có tôi và ba người xử ngồi sau một chiếc bàn phủ khăn xanh. Tôi ngồi đối diện với họ trên một cái ghế. Tôi có cảm tưởng là đang trở về với lúc đang bảo vệ luận án Tiến Sĩ, hay đang là thí sinh của một lần thi nào đó. Trong thực tế, tôi sớm nhận ra là tôi đang đứng trước một phiên toà của Đảng được triệu tập để bí mật xét xử một đồng chí đã phạm một tội trọng, một chuyện tai tiếng đã làm nhơ bẩn Đảng, và gây ra những hậu quả nghiêm trọng.

Năm 1951, trong thời kỳ bí mật kháng chiến, Đặng-Châu-Tuệ, một đảng viên Cộng Sản, đến hỏi tôi và một người khác là Bác Sĩ Nguyễn-Xuân-Nguyên, nạp đơn xin gia nhập vào hàng ngũ của Đảng. Những tư cách và hành động của chúng tôi đã được trên cao lưu ý. Khi mà những người cộng sản rất thích chủ nghĩa hình thức và luôn bị ám ảnh bởi chuyện tập thể hoá con người như là những vật sở hữu, xếp mỗi người tuỳ theo tuổi tác, nam nữ, nghề nghiệp để đưa họ vào những tổ chức quần chúng, để giáo dục và dễ dàng quản lý. Một mặt khác, họ không cho phép trí thức được hưởng tự do cá nhân, họ muốn kéo trí thức vào Đảng, vào những vị trí cao và vị trí lãnh đạo, để họ hãnh diện. Thật vậy, vào thời ấy, những kẻ tham vọng, cơ hội chủ nghĩa, mơ ước được đứng vào hàng ngũ cộng sản đã làm nhiều cử chỉ hạ cấp để được chiếu cố dưới mắt của những kẻ tuyển dụng. Hơn nữa, cũng trong thời kỳ đó, khá nhiều trí thức nhận thấy tính hẹp hòi không thể chịu được của lãnh đạo, và tính ngoan cố của họ đã bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về Hà Nội và ở đó họ đã bắt đầu một chân trời mới khá hơn. Hậu quả là mặc dù không ai bảo ai, Bác Sĩ Nguyên và tôi cho rằng việc dành cho chúng tôi cái “vinh dự” chỉ là một hành động chứng tỏ họ nghi ngờ chúng tôi, muốn đưa chúng tôi vào vòng kềm toả chặt chẽ hơn qua sự kiểm soát chặt của chi bộ Đảng và ngăn ngừa chúng tôi có có những ý nghĩ toan tính đó. Cả hai chúng tôi đều từ chối lời mời ấy. Nhưng lãnh đạo không chấp nhận cho chúng tôi đứng ngoài tổ chức. Họ đề nghị chúng tôi gia nhập đảng Xã Hội. Cuối cùng, để được yên thân, chúng tôi chấp nhận đề nghị. Thật không khôn ngoan nếu mình tỏ ra chống đối bằng khẳng định và rõ ràng từ chối ý muốn của Đảng, nhất là trong thời kỳ bí mật kháng chiến, có nhiều cặp mắt vô hình đang theo dõi mọi hành động chúng tôi. Rủi ro quá lớn.

Nhưng đảng Xã Hội mà chúng tôi gia nhập là cái gì? Theo ý kiến riêng cá nhân của tôi, đây là chỗ tập trung một số trí thức, một số rất nổi tiếng như ông Nguyễn Xiển, một cựu giáo sư có Cử Nhân Toán, ông Hoàng Minh Giám, trước đây tốt nghiệp ngành Giáo Dục và đã dạy ở một trường tư thục tên là Thăng Long. Dường như cả hai đã được liên lạc trong thời kỳ bí mật kháng chiến. Vì vậy, trong những ngày đầu tiếp theo Cách Mạng (tháng 8, 1945) Nguyễn Xiển được giao trách nhiệm làm Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Chính Bắc Bộ, Hoàng Minh Giám thành phụ tá cho Hồ Chí Minh và sau đó được đưa làm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Việt Nam. Tôi chỉ biết sơ là họ ở trong một đảng thuộc cánh tả, trong đoàn Đại Biểu Quốc Hội lần thứ nhất, họ đã làm cho mọi người chú ý bởi họ đều mang cà vạt đỏ trong suốt kỳ họp. Trong thời bí mật kháng chiến, tôi được biết cái đảng này, được trang hoàng với cái tên “Xã Hội”, đã tập trung một số trí thức trong số những người tham gia kháng chiến tự xưng mình là thuộc đảng trí thức mặc dù một số người gia đầu tiên gia nhập lại là nhưng người mà tôi có dịp gặp trong những vụ án mà tôi được chỉ định là luật sư miễn phí, họ chỉ là những người lao động chân tay không hề có cái gì gọi là trí thức. Trở về Hà Nội, ngoài tổ những người dạy học, đa số là giáo sư Trung Học, còn có tổ bác sĩ y khoa và dược sĩ, và tổ thứ ba là kỹ sư và chuyên viên kỹ thuật, cùng với tổ thứ tư tuyển chọn những thợ thủ công và những viên chức nhà nước hạng thấp cho từng khu, và cuối cùng là tổ thứ năm gồm những luật gia, những người đã tốt nghiệp trường Luật ở Hà Nội, với đa số trong họ là những quan lại bổ nhiệm ở các tỉnh trước khi được cải biên qua nghề quan toà trong ngành Tư Pháp Việt nam.

Trước vụ án Trăm Hoa Đua Nở, cuối cùng đã biến thành một cuộc tai biến lớn cho giới trí thức, cái mác “Trí Thức” vẫn được xem là có giá. Đảng Xã Hội thường tự cho mình là cao hơn đảng Dân Chủ là đảng bao gồm những “tư sản”, những kỹ nghệ gia, thương gia đã từ bỏ niềm tin quá khứ, đã hiến dâng tài sản cho Nhà Nước, và giữ những ghế trong Mặt Trận Tổ Quốc. Có phải sự xuất hiện của nhiều đảng như thế có nghĩa rằng cộng sản đang thực hiện dân chủ?

Than ôi, chẳng có chuyện ấy đâu. Trong lãnh vực này, cũng như trong những lãnh vực khác, chúng nó bịp bợm một cách đáng xấu hổ, làm quáng mắt nhân dân, và chúng đã tiến quá xa trong nghệ thuật hoá trang và đóng vai giả mạo người khác. Trong cái nhìn đầu tiên và trong những cuộc mít tính trước công chúng, đảng Cộng Sản tỏ vẻ kính trọng hai đảng anh em kia, nhưng cao trên tường, là hai cán cờ đan chéo, một là cờ của Liên Xô với búa liềm và một là cờ đỏ sao vàng của Việt Nam, và trên đó là hình của bộ ba Marx-Lenin-Stalin, và ở dưới nhô ra tượng của Hồ Chí Minh bằng thạch cao đang nhìn cảnh tượng của những nụ cười qua lại, vô số những cú cúi đầu chào nhau giữa ba đảng với nhau và cho thấy cái vẻ rất đoàn kết giữa ba người làm quần chúng rất ngưỡng mộ.

Không có gì còn có ý nghĩa hơn: phông cảnh dàn dựng, sân khấu, thứ tự ưu tiên. Trên đỉnh cao là ba vị thần Marx-Lenin-Staline tiêu biểu cho chủ thuyết Cộng Sản. Dưới nữa là cờ hai nước, và, dưới nữa là lãnh tụ nước. Trên đỉnh cao của khối tháp, trên ngai vàng là chủ thuyết chính trị của quốc tế vô sản nó đang cai trị các nước và các dân tộc. Người ta có thể tranh cãi lâu dài trên những nguyên tắc, chơi với câu cú từ ngữ, ầm ĩ cãi cọ, tung vào nhau những cú đấm qua bài viết, chuyện đấu chữ láp dáp có thể kéo đền muôn đời, nhưng trở về trên cơ sở những sự kiện thì việc dẫn ra câu kết luận là không thể bác bỏ được. Ở Việt Nam, trong tất cả những buổi mít tinh công cộng, việc dàn dựng như vừa nói trên là những chứng cứ cho thấy độc quyền chính trị trên tất cả những sinh hoạt khác của con người. Nó đặt dưới quyền lực tuyệt đối của nó mọi quá trình suy nghĩ và mọi bước đi của linh hồn, một thứ quyền lực đang khống chế toàn diện mọi diễn đạt biểu lộ của con người, nó đặt ra một hệ thống giá trị và buộc mọi người phải tuân theo mà theo đó vô sản quốc tế đã biến chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cá nhân của nhân dân thành nô lệ.

Văn hoá cộng sản đào tạo ra con người cộng sản chỉ có lời thề nhân danh Marx và Lenin, chĩ biết tin vào Đảng, người nắm giữ Sự Thật, biểu hiện một chủ nghĩa cực đoan làm cho họ không còn biết gì đến những hiện tượng và những chuyện thưc tế đang xảy ra. Họ đã trở thành những con người với những tình cảm thật lạ lùng xa lạ và bị người đời kết án. Bất cứ tiến bộ chính trị nào của họ cũng bị trả giá bằng một sự thụt lùi về trí tuệ và lòng dân.

Cũng như thế, mọi bước tiến của vương triều quốc tế vô sản cũng đồng thời là một bước lui cho bản sắc của dân tộc. Điều tuyệt vời mà ai quan sát cũng thấy là cả dân tộc, trước đây bị vướng vào vết lún của phong kiến, nay lại rơi vào vòng kẹp của các nước anh em và phải tung hô những khẩu hiệu của chủ nghĩa cộng sản. Về phía nhân dân, họ hoan hô tán dương thành quả của những người kháng chiến, trong thời kỳ bí mật và tán dương những người rao giảng sau ngày Cách Mạng thành công, thì cũng có nhiều người khác còn nghi ngại về những chuyện sai trái của đám vẹt. Nhưng dù sao, cũng nên tự hỏi về mức độ thành tín của quần chúng nổi dậy, đặc biệt là giai cấp nông dân, khi họ phát biểu niềm tin mới. Chuyện này đã thấy trong thời kỳ hợp tác hoá ở nông thôn. Nếu giai cấp nông dân càng hoan hô Đảng trong thời Cải Cách Ruộng Đất, trừng trị giới địa chủ và chia nhau những mãnh ruộng của họ, thì họ lại càng ngần ngại gia nhập vào những hợp tác xã nông nghiệp, nơi mà họ không chút gì hăng hái làm việc, lại càng thờ ơ về năng suất, điều này có thể xem như một sự phá hoại công khai! Nếu tiểu tư sản thành phố biểu lộ một cảm tình nồng nhiệt đón mừng Chính Phủ Kháng Chiến trong ngày họ tiến vào Thủ Đô, họ cũng cảm thấy cay đắng khi chuyện tập thể hoá các căn phố, tước bỏ khỏi họ những phương tiện sinh sống, làm cho một vài chủ nhân nhỏ rơi vào cảnh thiếu thốn cơ cực đến mức tự ném mình vào sông Hồng để tự tử. Một số trí thức sẽ nói gì, khi mà họ, những người ngay khi vừa mới vào Đảng, đã kêu gào như thể mình là những người cực kỳ cộng sản hết lòng căm thù chống bọn xét lại đủ cả mầu sắc và, nói một cách chung, là tất cả những kẻ hôm nay bị nghi là dị giáo, nhưng biết đâu một vài chục năm sau, có thể đột ngột thay đổi tư duy và đắm vào đúng những tội lỗi năm xưa mà họ đã trừng phạt một cách hăng say cay độc?

Trên cơ sở những sự kiện mà sự thật không ai có thể chối bỏ, người có thể cho phép mình tự hỏi cái nhiệt tình của kẻ tín đồ mới có đủ sâu, đủ thực như người ta tưởng như thế không?

Đó là cái ngơ ngác kinh hoàng khi người ta nhìn thấy bạo lực nhân dân đã xảy ra tràn ngập các nước Đông Âu. Những kẻ cuồng tín chai sạn nhất bắt đầu cảm thấy những nghi ngờ làm lòng mình kinh hãi khi họ thấy nước Liên Xô vĩ đại đang lung lay sụp đổ, mà đó là lại nước sớm nhất đã dạy chủ nghĩa Mác Lê cho thế giới. Chủ nghĩa hoài nghi càng lớn mạnh khi người ta nghe chính những tay giáo điều mới hôm qua còn hô hào cỗ võ cho một tương lai xã hội chủ nghĩa, thì hôm nay lại gọi chủ nghĩa xã hội với những nhóm từ mà trước đây họ dùng để kết án chủ nghĩa tư bản: kinh tế thị trường với tự do cạnh tranh, luật cung cầu, xí nghiệp tư doanh … Họ tự hỏi với mình là làm sao phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, tại sao cùng một thứ câu chữ mà ý nghĩa lại đổi thay một cách nhanh chóng kỳ diệu như thế? Họ lo lắng là vẫn còn một số ít nước vẫn còn bám víu vào thứ chủ nghĩa xã hội mà số lớn các nước “anh em” đã quay lưng chối bỏ, như một cơn ác mộng cần phải quên một khi đã thức. Về phía dân chúng, họ cũng kinh hoàng khi thấy đâu cũng tràn ngập những tội ác đã nhấn chìm một số lớn người của Đảng đang cầm quyền mà bộ mặt đạo đức giả đã bị phơi bày trần trụi.

Nhưng, vào năm 1956, cộng sản Việt Nam đang trên đà vinh quang và tự hào với những niềm vui chiến thắng. Đặc biệt là trong khía cạnh đạo đức, Đảng cầm quyền vẫn còn giữ được mình trong sáng, được nhân dân vinh danh, kính trọng và tin tưởng. Nó cưng chiều bao trùm với cặp mắt đầy thoả mãn hai đảng Xã Hội và Dân Chủ, hai đứa con được sinh ra từ cái tội lỗi dễ thương của chủ nghĩa hình thức, để chúng làm hết khả năng hầu chứng tỏ đạo làm con trung hiếu với người cha sinh thành ra chúng. Đảng đã sinh ra, nuôi dưỡng chúng với những giọt máu đỏ tốt nhất của mình, cho chúng những căn nhà đẹp nhất, cho người phục vụ chúng, và đặc biệt nhất là giúp chúng sống cuộc đời vương giả bằng cách chu toàn mọi tiền bạc để chúng sinh hoạt. Tất cả chỉ để duy nhất yêu cầu chúng thay Đảng đóng tuồng, gây ít nhiều tiếng vang cho Đảng.

Nhưng trò đùa đó không đánh lừa được một ai, ngay cả trong hay ngoài nước. Tính đa đảng tiêu biểu cho một nền dân chủ không có ở đây. chỉ có bức tranh biếm hoạ được sinh ra bởi những ý nghĩ kỳ quặc của chủ nghĩa hình thức tưởng rằng đã đánh lừa thiên hạ mà thật ra là tự mình đánh lừa mình mà thôi. Trò chơi kéo dài trong nhiều năm, đã làm cho lãnh đạo tách mình riêng thoả mãn sống đời phúc đức. Những món tiền kếch xù được tung ra xài cho những chuyện đó và tới lúc công quỹ quốc gia sẽ phải lên tiếng kêu cầu cứu sau khi đã thắt lưng buộc bụng cho tới đồng xu hào cuối cùng! Duy trì hai người bà con đáng thương kia tốn rất nhiều mà chả được tích sự gì, nên đã có quyết định là đá chúng đi, và chúng đã biến mất không kèn không trống, như những kẻ ăn mày xấu hổ lỉnh đi với những cái bát xin ăn từ nay sẽ trống hoác.

Người dân rồi cũng biết trong bầu không khí ngập tràn yên tĩnh và tôn kính, nơi mà bọn ký sinh ăn bám xã hội đang đòi hỏi những kẻ lợi dụng nó phải biết thần phục và ngoan ngoãn, đã xảy ra chuyện điên rồ của một anh trí thức “xã hội chủ nghĩa” mà hậu quả là như một quả bom của bọn khủng bố. Vụ tai tiếng quá lớn để có thể giấu giếm hay chẹt giấu nó dưới thùng gạo. Đưa kẻ tội đồ ra xử trước thẩm quyền của Mặt Trận và của Đại Học là nơi mà nó sinh hoạt cũng chưa đủ; nó phải được giao cho đảng Xã Hội mà nó là một đảng viên xử tội, bất kể nó muốn hay không muốn. Rõ ràng là đang có một yêu cầu cấp bách và cần thiết là tất cả những tổ chức mà nó là thành viên, phải tẩy chay và thẳng thừng loại bỏ nó như một người xấu một cách không thương tiếc, để giáo dục nó cũng như giáo dục những người khác.

Vì thế, trận đấu tố lần thứ ba này được tổ chức tại trụ sở trung ương của đảng Xã Hội. Khác với hai lần trước, không có đám đông tham gia: trong yên cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn đang xuống, tôi phải một mình đối diện với các quan toà, với người thẩm phán gốc quan lại mà tôi vừa tả trong phần trước đây, một thẩm phán thuộc Toà Án và một luật sư, cả ba đều thuộc về cho chi bộ Luật Gia mà tôi cũng là một thành viên. Ba người như ba bóng ma trong một cái địa ngục yên lặng cô quạnh đang chờ đợi với một sự kín đáo không ngờ. Tôi thật sự ngạc nhiên và tự hỏi mình vì sao thế. Có phải tại vì thương hại mà người ta muốn cho tôi bớt nhục nhã? Thật sự tôi không thấy là chủ nghĩa cộng sản lại có những đức tính đó, dù là tự nhiên hay được dạy, mà trái lại họ trốn biệt sau lưng sự lạnh lùng dửng dưng, không chút rộng lượng khoan dung đối với những lỗi lầm chính trị đã gây ra những thiệt hại, dù là nhỏ nhoi, cho quyền lợi của họ.

Cuối cùng rồi tôi cũng hiểu ra vì sao có sự thay đổi về tấn tuồng như thế, nó đi với vấn đề dàn dựng và với các kịch sĩ trên sân khấu. Tôi được biết rằng hai lần đầu tố ở Mật Trận và ở Đại Học đã gây hậu quả trái ngược với những gì họ chờ đợi. Tôi đã thoát hai lần đó, không những không bị sỉ nhục và phải đấm ngực thú tội mà còn được tiếng thơm của một kẻ chiến thắng đã biết gìữ vững vị trí của mình, băng mình qua cuồng phong bảo tố để bảo vệ quan điểm của mình đối mặt với những tấn công nhắm vào nó. Người ta đã chờ đợi kẻ phạm tội thành khẩn hối lỗi và nhận thức tội lỗi của mình để hắn có thể giữ lại được chỗ của mình trong Nhà Nước. Nhưng tôi đếch cần để ý đến những lời hiểu ngầm đầy hăm doạ, đến chiếc đao đang treo lơ lửng trên đầu, tôi là một trí thức, với đủ cách lý luận và khôn khéo, đã thọc ngón tay vào vết thương và đã mở mắt cho những kẻ hèn nhát quá sợ chủ nhân trả thù trừng phạt, run sợ trước tù đày và sợ mất quyền lợi của mình và người, tự đâm lủng con ngươi, xuyên lủng màng nhĩ để không phải nghe, không phải thấy bất cứ gì về sự thật. Vì thế họ cảm thấy cần phải tránh không cho quần chúng tham dự và nghe được những lời tự bào chữa mà dường như đã trở thành những lời buộc tội.

Tôi cũng được biết rằng, nếu đã có vài chục trí thức không được mời, có ba luật gia cùng từ chức: Đinh Lộ, Vũ Như Giai và Nguyễn Hữu Đắc, và nếu lần này họ không làm công khai vì họ không muốn làm giới trí thức lưu ý, là vì cuộc tranh cãi giữa những quan toà và bị cáo đã mở ra cuộc tranh luận về thái độ của người trí thức sống trong thế giới cộng sản và đối mặt với chủ nghĩa cộng sản. Những người đến xem không được vào để biết những điều mà họ chưa bao giờ để ý đến từ trước đến nay.

 

9
Thái độ của người trí thức trong thế giới cộng sản

Viên thẩm phán chủ trì phiên toà là người mà người đọc biết khá rõ là ai, mở màn đợt tấn công. Với cái nhiệt tâm của một kẻ “không-thuộc-đảng-nào” đang mong muốn được chuộc lại cái quá khứ tai hại của mình, với ánh mắt toé lửa, thoả mãn được có dịp tấn công một trí thức mà vị thế xã hội của người đó đã làm cho ông ta ganh tị. Ông ta chuyển giọng giận dữ điên tiết:

– Đồng chí, ông đã đạt những thành công chưa từng có trên con đường Đại Học, đã được lòng tin của lãnh đạo của chúng tôi và ông đã được đưa vào trung ương của mười tổ chức quần chúng, ông còn tham vọng gì nữa chứ? Học sinh và sinh viên không hề quên những bài giảng của ông cũng như họ không hề quên hành động mà ông đã từ chức ngay tức khắc khi tay thanh tra thực dân đến gây khó cho ông, và sau đó quay lại hành nghề luật sư mà ông đã tuyên thệ vào năm 1932 ở Pháp, nhanh chóng đạt được sự tin cậy của thân chủ, và từ đó giành được một vị trí nổi bật trong xã hội. Chúng tôi cũng biết rằng trước khi gia nhập bí mật kháng chiến, ông đã hiến tặng toàn bộ ba căn nhà thừa kế của gia đình, và suốt mười năm trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân trong vai trò vừa là giáo sư vừa là luật sư ông đã cống hiến rất nhiều cho Đất Nước. Đáng lẽ ra ông nên tiếp tục hưởng niềm hạnh phúc của một cuộc sống rất đầy đủ về mọi mặt, không cần xen vào những chuyện đấu tranh chính trị mà ông đã tự đưa ông vào thế đối nghịch để giáng những cú đánh vào Đảng là người đã luôn nuông chiều và đưa ông lên những vị thế làm nhiều người khác ganh tị. Đó là một sự phủi ơn, chỗ này thì tôi không thể lầm! Có bao giờ ông suy nghĩ về một thái độ đúng đắn mà ông phải có đối với những người cộng sản chúng tôi đang bị kẻ thù tấn công trên mọi mặt trận? Ông phải biết rằng thái độ mà ông đang có là đã làm hại cho ông và hơn thế nữa đã làm hại cho một Đảng đã làm nên những chiến thắng vĩ đại đáng được nhân dân vinh danh, kính trọng và ca ngợi.

Đó là lời buộc tội mà tôi là đối tượng và được đưa ra dưới hình thức những câu hỏi. Cho phép tôi được tóm tắt và cô đọng những đề tài buộc tội chính để có thể dễ dàng đưa ra những nét chính. Mặt khác, cũng xin cho phép tôi được tóm tắt và trình bày những nét chính về những trả lới của tôi để mọi người có thể dễ dàng nắm các ý.

 Thưa đồng chí, tôi tin rằng ông sẽ không phiền lòng khi tôi cho rằng ông đã có một nhiệt tâm rất thành thực, ít ra tôi cũng mong là như thế, xây dựng Đảng. Thật ra những vinh dự mà Đảng đã hoang phí ban cho tôi cũng chẳng đáng chi so với những gì mà Đảng đã dành cho những ai hết lòng hết dạ với Đảng. Tôi đã bị loại ra khỏi uỷ ban trung ương của hơn chục tổ chức quần chúng mà chắc ông cũng như tôi đều biết, đó là những chức vụ hoàn toàn có tính lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chẳng có thực quyền, đó chỉ là những chức vụ mà tôi là chỉ kẻ dư thừa, trong tinh thần của Mặt Trận Tổ Quốc để làm kẻ đi rao giảng cổ vũ cho sự đoàn kết và hoà hợp, ủng hộ Đảng một cách không sai chạy và toàn diện. Về phần đồng chí, thì ngược lại, đồng chí có một cuộc đời nghề nghiệp rất ấn tượng. Nếu, mới ngày hôm qua đây thôi, đồng chí còn đang mò mẫm trong vũng lầy thối rữa của phong kiến, thì ngày hôm nay đồng chí đang ngồi trên cái ngai Chủ Tịch của Toà Kháng Án trong khi đang chờ ghế khác ở Toà Án Tối Cao. Đảng đã tha thứ cho cái quá khứ của đồng chí, đã coi đồng chí là người xứng đáng. Đồng chí đã thành đạt tốt nghiệp trường Luật, làm vìệc siêng năng và không ngơi nghỉ để trả lời về tất cả những vấn đề mà đồng chí được hỏi ý kiến. Đồng chí là người tiêu biểu cho tinh thần một công bộc hoàn hảo nhất, luôn bên mình với chiếc cặp da đầy giấy tờ và với thói quen luôn ghi chép mọi góc cạnh của mọi lãnh vực. Hơn thế nữa, tốt hơn thế nữa, đồng chí đã chứng tỏ là cái vững chãi sáng suốt và sắc sảo khôn ngoan đã giúp đồng chí thành công trong tất cả các nhiệm vụ và nghề nghiệp mà đồng chí đã trải qua, và nhờ thế đã thoả mãn được tham vọng của mình. Ngày hôm qua, đồng chí là một mệnh quan của Triều Đình, ngay hôm nay đồng chí chủ toạ Toà Án Hà Nội, lấy những quyết định, và dĩ nhiên với sự phê chuẩn và dưới sự giám sát của Đảng, trên số phận và ngay cả mạng sống của những người bị giao cho đồng chí xét xử. Dù ở bất cứ Toà Án nào mà ông đang triển khai khả năng, ở Huế hay ở Hà Nội, ông luôn luôn chứng tỏ mình là người của Toà Án, đã cống hiến cho cả hai định chế hoàn toàn đối nghịch với nhau, một bên là quân chủ vả phong kiến, một bên là cộng sản và cách mạng, với cùng một nhiệt tình, một sự hết lòng và cùng một sự ngoan ngoãn dễ bảo! Đồng chí cho rằng cuộc sống của tôi là được lấp đầy hạnh phúc. Làm sao nó có thể sánh bằng với cuộc đời của đồng chí? Tôi thì như người bị tàn tật không khả năng đùa với nước và lửa. Một người cộng sản dù có đỏ thắm đến đâu vẫn không thể nói gì thêm về những lời lẽ ngôn từ của ông dầu rằng ông vẫn chưa được vào Đảng.

Cho phép tôi được khen tặng ông về sự sắc sảo và con người dễ thay đổi của ông. Ông luôn luôn đứng đúng chỗ, đúng nơi bất kể những thăng trầm của Lịch Sử, và ông luôn luôn là người thắng cuộc. Người “đồng chí” mà ông đang xử án là người đã mất tất cả: những của cải có được với sức lực mồ hôi mà hắn đã cống hiến cho chính nghĩa của Tổ Quốc và Nhân Dân, mất cả vị trí trong Luật Sư Đoàn, ngày mai đây sẽ bị trục xuất ra khỏi Đại Học là nơi hắn đang giảng dạy cho tới nay để kiếm sống.

– Đồng chí, ông đã đi ra ngoài chủ đề. Tôi đã đặt cho ông một câu hỏi rõ ràng và tôi đang mong ông trả lời câu hỏi đó. Tôi chắc rằng ông biết rõ những điều tai hại mà ông đã gây cho chính nghĩa của chúng tôi, của nhà nước Cộng Sản. Ông sẽ cãi với tôi rằng quần áo dơ là phải mang đi giặt. Vâng, chuyện phải là như thế, nhưng phải ở trong gia đình. Nhưng mà ông đã phơi tuột chuyện ấy ra trước thanh thiên bạch nhật! Chủ tịch ngàn lần và ngàn lần kính mến và yêu quí của chúng ta đã thường nói là chỉ có những người chết và những đứa bé nằm trong nôi mới không phạm sai lầm. Chuyện mà Đảng phạm sai lầm cũng là chuyện bình thường! Nhưng đó không phải là chuyện phải đem ra trước công luận, dù ở trong nước hay quốc tế, nhất là hành động đó lại phát xuất từ một trí thức nổi tiếng như ông.

 Chuyện giặt đồ dơ phải nên làm trong gia đình, chuyện ấy không sai. Nhưng nếu Đảng mà có làm sai là điều chấp nhận được, và những sai lầm ấy phải được sửa chữa, thì thử hỏi có cách nào báo cho Đảng biết những sai lầm để những sai lầm đó được sửa chữa? Có một cơ quan nào để nhân dân có thể đến đưa những khiếu kiện mà họ hy vọng là sẽ lên đến cấp thẩm quyền có trách nhiệm không? Cái thùng chờ người ta vứt rác giấy tờ vào thì không thể tiết ra được những lời tung hô thơm tho mà lãnh đạo thich ngửi. Hơn thế nữa, nhân dân có quyền hành xử và quyền được phát biểu những gì họ không đồng ý với Đảng. Tôi cũng muốn nhắc với ông rằng, trong những lần họp của Đảng Xã Hội, ngay khi chỉ vừa nghe có người tỏ ý bất đồng quan điểm là ban chủ toạ lập tức loại ngay người bạn ngây thơ đang tưởng rằng mình đang chia sẻ những suy nghĩ cho mọi người. Đảng cầm quyền đã cài đặt một ít người của họ trong Trung Ương cũng như trong các Uỷ Ban Điều Hành địa phương của đảng Xã Hội để theo dõi và ngăn chận mọi tiếng nói chói tai. Những “lãnh đạo” của đảng Xã Hội, mà trong đó có ông, đều biết những hậu quả gì cho mình nếu để một sự chống đối dù là nhẹ nhất hiện diện trong hàng ngũ.

– Nhưng, quả thực đây là một sự khôn ngoan, khi mà trí thức không biết hay không thể biết đi thế nào cho đúng hướng, họ hay có những bước đi loạng choạng, vì thế cần phải có những người giám hộ để giúp họ giữ vững lập trường và có một đầu óc lành mạnh. Tại sao phải bận tâm về những chi tiết tầm thường thấp kém đó khi mà một người đã toàn sức cho một mục tiêu nhằm tạo nên một hình ảnh vĩ đại của một dân tộc đồng lòng đứng sau lưng một đảng đang hãnh diện có được niềm tin trọn vẹn của quần chúng trong nước và được sự hỗ trợ quốc tế của các nước anh em, và các nước tiến bộ trên thế giới?

 Thú thật là tôi rất nhạy cảm với cái hình ảnh đẹp đẽ mà trong đó những dân tộc anh em cùng theo sát gót chân của hai ông anh cả Liên Xô và Trung Quốc, cùng kêu gào về sự dẫy chết của chủ nghĩa Tư Bản và tung hô niềm tin vào chủ nghĩa Xã Hội. Nhưng tôi rất ngần ngại khi phải trả một cái giá quá sức cao, quá đáng và không thể hình dung nỗi để đạt cái chiến thắng của chủ thuyết Marx-Lenin và đạt cái gọi là đoàn kết của nước cộng sản, đạt cái hạnh phúc cho các dân tộc, buộc họ phải chấp nhận những giá trị mà tới nay chưa bao giờ ai biết là gì, bất chấp đạo lý của những giá trị mà họ đang có từ lâu đời, cướp mất khỏi tay họ những thứ quyền tự nhiên nhất, đúng đắn và có ích nhất từ hàng ngàn năm nay, đưa họ vào khốn cùng và nghèo đói ở hôm nay và làm họ nghi ngờ cả tương lai. Tôi tôn trọng những ý kiến nhưng tôi càng tôn trọng con người mà chỉ có số phận của họ là làm tôi lo lắng.

Tôi muốn nhấn mạnh ở một điểm. Quan điểm của tôi là có nhiều sắc thái. Những ý kiến, tôi tôn trọng chúng, nhưng tôi luôn giữ thái độ cảnh giác và sáng suốt, tôi giành quyền được xem xét chúng, xuyên suốt nghiên cứu chúng đến từng chi tiết nhỏ nhất, phê bình và suy nghĩ, và cố gắng tách những hạt mầm ra khỏi rơm rạ. Tôi chẳng đẩy tôi thành kẻ thù của bất cứ ai về bất cứ chuyện gì, tôi chỉ muốn phấn đấu phân biệt cái gì là tốt nhất giữa những cái xấu nhất. Khi mà tất cả những cá nhân và những chủng tộc ai cũng có những phẩm chất và những sai lầm, thì tất cả những chủ thuyết cũng có những điều tốt và những điều xấu. Một chiết trung xứng đáng sẽ tránh cho chúng ta một thái độ thờ ơ, một sự bất công trong đánh giá, một thái độ cực đoan trong hành động. Tôi đánh giá cao chủ nghĩa Marx Lenin vì những điều mới lạ dồi dào của nó, về cách tiếp cận trí não mới và độc đáo, về quan điểm biện chứng đối với thực tế của cuộc sống, nhưng tôi không thể lấy màn che mắt mình trước những sai lầm to lớn, tàn ác và đầy tội ác được gây ra bởi những kẻ đang áp dụng nó, và những kẻ vô văn hoá, ích kỷ, đầy định kiến và mê muội một cách đáng xấu hổ đang gây ra đầy dẫy những bất công và vô nhân đạo. Tôi xét đoán dựa trên những sự kiện, và xem xét chúng trên cơ sở nhân và quả. Tôi tự mình tránh xa những logic cong vẹo và có tính hình thức mà lãnh đạo hay dùng để bào chữa cho những quyết định của mình, trong khi cái chuẩn duy nhất để đánh giá một chính sách hay những đường lối chính trị là tự hỏi mình xem nhờ đó mà dân tộc thực tế ngày nay đã được cải thiện những gì? Chúng tôi không phê phán chủ nghĩa cộng sản hay những người cộng sản mà chỉ trích một số lãnh đạo cộng sản đang bị thui chột với những cách thức lý luận phức tạp và đang hành xử một thứ chủ nghĩa duy ý chí bệnh hoạn, quay lưng lại với hiện thực, đưa ra những lời hứa đẹp đẽ để lừa phỉnh quần chúng, sẵn sàng tuốt gươm nhẫn tâm tàn sát những kẻ bất hạnh dám nghi ngờ tính bách chiến bách thắng của họ.

– Có thể thấy rõ là ông đã bị méo mó bởi những gì ông đã học được từ văn hoá phương Tây. Ông đã biến thành người bi quan, đâm ra nghi ngờ mọi chuyện, ông không còn thấy được những gì vĩ đại của con người và sự vật, ông đã tự mình biến mất trong chi tiết và không còn khả năng thấy những gì là tổng thể, đại cuộc và đặc biệt là cái gì cũng bị ông chỉ trích. Người ta tự hỏi có phải chăng chính nền văn hoá Tây Phương đã ngăn chận bước đi để chận con đường dẫn ông về với Dân Tộc và Tổ Quốc?

 Năm 1932, khi tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên, và đặc biệt là lần vào năm 1940, khi tôi phổ biến những bài viết của tôi bằng Pháp ngữ, ngay trong thời thực dân Pháp, tôi cũng đã bị những lời sỉ nhục tương tự. Tôi không chối là tôi chưa bao giờ đi học ở một trường tiếng Việt nào, tôi đã học trường Paul Bert và sau đó là trường Albert Sarraut đã cho phép tôi lấy xong bằng tú tài vào năm 16 tuổi và lấy hai bằng Tiến Sĩ Quốc Gia về Luật và Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương vào năm 22 tuổi. Văn hoá Pháp và phương Tây đã đào tạo tôi như ngày nay. Tôi đã hấp thụ những phẩm chất và những yếu kém của tinh thần văn hoá Pháp: yêu mến sự rõ ràng, chính xác và logic, nhưng cũng yêu tính phê phán trong phương pháp tiếp cận con người hay một vấn đề. Tôi luôn đề cao thực tế, sự thực, sự công bằng và tôi rất ghét sự dối trá, kinh hãi đối với sự cuồng tín, tôi muốn đả phá những vĩ đại giả hiệu, những kiêu căng dị hợm. Tôi rất ghét chính trị vì nó làm hư hỏng con người, biến họ thành những người nói láo, bất công và tàn bạo, chất chứa những gì đủ để làm điên loạn lương tâm. Tôi tránh xa quyền lực để không bị vướng vào hai thái độ sống hèn hạ như nhau: hoặc sống xa hoa với cái lưng luồn cúi và nụ cười nịnh bợ, hoặc phải chấp nhận chuyện điên rồ quái dị, theo ý của họ, chia sẻ những thành kiến và luôn đứng chung với họ trong mọi lễ lộc, biến cố. Tôi tránh đi lại với mấy ông lớn và càng tránh xa những kẻ này. Tôi giữ mình được tự do, độc lập trong tư tưởng và hành động, tôi hoàn toàn ý thức về những tội ác của các lãnh đạo tư bản, những đồng thời tôi cũng thấy được những tàn bạo của lãnh đạo cộng sản. Tôi như bị kẹt, ép giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, tôi tìm quên trong tình yêu dân tộc và những truyền thống mà tôi đã biết rất rõ mọi điều vinh nhục. Sống trong một thế giới cộng sản như ngày nay, thái độ sống của tôi là một trí trhức trước sau như một, không thể phản bội lại tư cách của một người có học.

Cái gi đã khiến tôi phải chọn một thái độ sống như thế? Là cái được đề nghị rằng nhân dân phải được quyền quyết định cho số phận của mình, là mọi chuyện phải được quyết định do dân và cho dân. Chọn cái tên nào để đặt cho một chính quyền như thế không quan trọng. Từ “dân chủ” là tên gọi hay nhất nhưng nó cũng chỉ diễn đạt được một khía cạnh: chính quyền do dân. Công thức cái tên gọi phải thể hiện đầy đủ việc chính quyền cho dân. Một nền dân chủ thật sự chẳng cần đến cái tên gọi gán ghép cho nó. Chẳng có gì là vấn đề nếu nó được gọi là “tư sản” hay “xã hội chủ nghĩa”, câu hỏi hiển nhiên nhất là dân có được hạnh phúc và được quyền làm chủ vận mệnh của mình hay không? Dân có thực hiện được mơ ước của mình trên mọi lãnh vực sinh hoạt, cá nhân hay tập thể, thể chất, trí thức, đạo đức và tinh thần hay không?

– Ông không biết những gì đang chờ đợi ông. Nhà Nước cộng sản của chúng tôi chỉ chấp nhận duy nhất một thái độ sống của người trí thức. Họ phải nằm trong đường lối chính trị của cộng sản, biểu lộ lòng tin nơi Đảng, trung thành với Đảng, sống và suy nghĩ dưới sự chỉ đạo và theo cách mà lãnh đạo Đảng đã xếp đặt. Những ai đi chệch xa con đường này, trở thành kẻ xa lạ dị giáo, sẽ bị trừng phạt như những kẻ phản bội phản động. Đây là cơ hội chót để ông tự ăn năn hối cải về sự táo tợn và trơ trẽn của mình. Rán mà biết lấy nhé.

 Mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của mình. Nếu xã hội, nói cách khác là nhân dân, có thể đạt đến một trình độ văn hoá cao, ở mức lương tâm trong sáng, biết suy nghĩ chin chắn, thì những người can đảm có tư duy khác với con đường chung cũng không ai sẽ bị trừng phạt, nhưng ngược lại sẽ được khuyến khích, vì mọi tiến bộ của đất nước là tuỳ thuộc vào đó. Nhưng lịch sử của loài người đã chứng minh là không có một dân tộc nào có thể tự mình kiếm ra con đường để ra khỏi khu rừng của ngu dốt, của thành kiến và hèn nhát để đi đến một vùng trời đầy nắng và ánh sáng. Ở thành phố Athenes, Socrates đã uống thuốc độc để làm gương suy nghĩ cho trí thức trên thế giới phải những ngưởi giữ vai trò tiên phong, trinh sát dẫn đường trong cuộc hành trình đầy khó khăn và cực nhọc đê đưa những dân tộc đi tìm chút niềm vui và hạnh phúc.

Hơn nữa, dân tộc ta đã chịu sự du nhập của một chủ nghĩa hoàn toàn ngoại lai. Không hề dính dáng đến cội nguồn của dân tộc. Những nhà yêu nước vĩ đại mà mọi người đang yêu mến và kính phục đã ủng hộ chủ nghĩa đó, bảo trợ nó, đề nghị nó, rồi áp đặt nó trên đầu dân chúng, đồng thời đưa ra lới hứa chắc là nó sẽ là chiếc chìa khoá để mở cửa thiên đường hạ giới. Dân tộc tin vào lời hứa của lãnh đạo và đang chờ giờ lời hứa thành hiện thực. Chính là nhờ vào sự đồng lòng của dân tộc mà chúng ta đã giành lại tự do và độc lập. Những bàn tay lao động và những bộ óc trí thức đã chung sức góp phần quan trọng cho Đảng đang cầm quyền.

Nhưng rủi thay, cuộc hành trình đã xảy ra không suôn sẻ. Những lãnh đạo, luôn hãnh diện với những thành quả quân sự vinh quang đã đạt được mà họ cho rằng chủ nghĩa Marx Lenin là căn cơ chính, niềm tin đó được họ mang đi áp dụng vào mọi lãnh vực, không cần biết đến khoa học và thực tế, mặc dù những người cộng sản luôn tuyến bố tôn trọng chúng. Sự nghèo khổ của nhân dân đã trở nên kinh hoàng mặc dù lãnh đạo vẫn cứ khoe khoang điều ngược lại.

Đối mặt với hoàn cảnh thảm thương như thế thử hỏi người trí thức phải chọn thái độ nào? Có những kẻ tự che mắt bịt tai hoà chung với ban hợp ca gồm những kẻ cơ hội chủ nghĩa và bợ đỡ cùng cao giọng “Chủ nghĩa cộng sản bách chiến bách thắng. Đảng Cộng Sản quang vinh!” Những kẻ này thu góp những vinh quang và đặc quyền và vui sướng hưởng lợi cho đến đời con, đời cháu. Công chúng quá biết họ và không dành cho họ một chút kính trọng nào. Những ai biết suy nghĩ và có lòng yêu thương dân tộc và tổ quốc thì không thể kéo dài sự im lặng và thờ ơ với nỗi đắng cay của một niềm hy vọng đã mất và một giấc mơ bị giễu cợt. Họ lớn tiếng tố cáo những nguyên do của những sai lầm và đề nghị những biện pháp để sửa sai. Họ lại bị đánh gục, bỏ tù suốt đời với cái tội là phản đảng, phản cách mạng và kẻ thù của dân tộc! Họ chỉ còn một niềm an ủi duy nhất là nhân dân hiểu, thương xót họ dù rằng không ai có thể làm được gì để giúp họ. Họ chỉ còn biết chờ một sự công bằng của lịch sử.

Không có một bản án nào được đưa ra. Cộng sản luôn luôn thích bí mật. Mọi quyết định đều lấy và đem áp dụng trong vòng yên tĩnh đến chết người. Không có gì được hé ra cho công chúng biết: sự bí mật được giữ gìn kín đáo để tránh gây những xúc động không cần thiết hay những xáo trộn đáng tiếc. Cộng sản luôn tiên liệu mọi chuyện và tuỳ đó mà xử lý.

Phần Ba
HÀNH TRÌNH ĐI VÀO SA MẠC

 

1
Lưỡi kiếm của Damocles

Ba phiên Toà: ba lần xuất hiện ở những toà án chính trị của Mặt Trận Tổ quốc, Đại Học và đảng Xã Hội. Mấy ông bạn, giữ vai trò ông thần Công Lý, là những người được chỉ định qua một sự lựa chọn rất chặt chẽ. Cái khéo léo nhất ở đây là họ không chọn những người nằm trong hàng ngũ của Đảng. Nếu không, sẽ như họ đã chọn huy động cả dàn đội pháo binh để bắn một sinh vật nhỏ bé và không chút tự vệ, dùng xe tăng và đại bác bắn vào đám biểu tình tay trần không súng đạn. Bên cạnh đó sẽ làm cho thiên hạ nhận ra là những người cộng sản không đủ trình độ để xử lý chuyện đời, họ sẽ bị mất mặt và uy danh của Đảng sẽ bị tổn thương. Vì thế, cách hay nhất là lựa chọn những kẻ cơ hội không thuộc đảng nào, nhưng lại có một quá khứ cần được chuộc lại và sẵn sàng nhận những khạc nhổ khinh bỉ của giới trí thức. Chúng đang giữ những vai trò nhỏ mọn, nhưng vì quá mong được nổi lên và được nhận những mảnh ăn thừa của Đảng, nên đã tự ép mình vượt qua những xấu hổ để được làm con ngựa trong gánh xiếc chạy quanh trên diễn trường dưới hiệu lệnh từ chiếc roi của người dạy thú. Như thế là Đảng được phủi tay và Đảng sẽ nắm những người không-phải-là-cộng-sản trong một cuộc thanh toán giữa các người gọi “đồng chí” với nhau. Nhưng ông thánh Công Lý được chọn lọc kỹ lưỡng đã được chuẩn bị rất kỹ vì họ là những người phát ngôn của Đảng. Nếu họ thi hành tốt những việc được giao phó thì Đảng sẽ khen thưởng cho tôi tớ. Nếu chúng không hoàn thành nhiệm vụ thì chỉ có chúng nó là người phải chịu cái sức nặng của sự thất bại.

Tôi hiểu chuyện này và vận dụng toàn sức cố gắng để bảo vệ danh dự của mình trong cuộc đụng độ giữa chiếc lọ bằng sắt và chiếc lọ bằng sành. Nhìn ánh mắt của những người có mặt trong hai phiên xử ở Mặt Trận Tổ Quốc và ở Đại Học, tôi hạnh phúc hiểu rằng tôi đã thắng, trước cái ngượng ngập lúng túng của các ông thánh Công Lý đã tự ném mình xuống đất đễ tìm cách rượt cắn bắp chân tôi. Mọi người đều đứng về phía tôi.

Ngày hôm sau, khi tôi khoẻ lại, có một người bạn hàng bộ trưởng tạt ngang viếng thăm và cho biết rằng trong giới thẩm quyền họ đã quyết định bắt nhốt tôi. Tôi có thể làm gì hơn? Ai cũng biết chính tên quan chức cao cấp đó là người đã từng đích thân bắt những người cộng sản khác dù rằng đó là những người cả đời hy sinh cho Cách Mạng với một danh sách dài đầy thành tích, những kẻ mà lòng lương thiện chân thành đều được mọi người quý trọng. Đó là trường hợp của V.Đ.H. mà tôi có dịp gặp trong thời bí mật kháng chiến, đó là trường hợp của Đ.K.G. là người giữ chức vụ rất cao trong một khu Kháng Chiến. Nếu những người cộng sản có đăng ký với danh dự không tì vết còn phải chịu những đối xử như thế, chắc chắn là do quyền lợi chính trị hay đấu đá phe nhóm, thì có nghĩa lý gì đối với kẻ quái gỡ khốn khổ như tôi, không bạn bè trong xã hội và không được ai trong Đảng bảo vệ? Tôi không mơ đào thoát đâu đó vì công an đã dàn trải tay chân, do thám và chỉ điểm khắp mọi nơi. Hơn nữa, tôi cũng không lưu ý nhiều đến giải pháp giảm giá trị đó: làm như thế là cho thiên hạ có cảm tưởng là tôi đang chối bỏ những quan điểm và những điều mà tôi tin. Mấy người cộng sản sẽ nghĩ gì khi mà trước đây họ đã quen thói ca tụng nhân cách của tôi?

Tôi đành chịu thua cho số phận, để chuẩn bị cho một chuyến đi một chiều không ngày trở về, tôi đã soạn một chiếc vali đựng quần áo và đồ ấm. Tôi cũng đã cẩn thận soạn mang theo một cuốn Essais de Montagne trong bộ Pleiade, cùng với giấy, viết, mực và viết chì. Tôi muốn trám hết những thì giờ bị buộc phải nhàn rỗi đến vô tận bằng một số việc làm trí óc để tự cứu mình trong cảnh tù đày dễ gây điên loạn. Biết đâu, những tay cai ngục còn có lòng nhân đạo sẽ không lấy đi mất hành trang cuối cùng mà tôi khẩn thiết cần chúng.

Trước đây tôi cũng từng đi vào những nhà tù theo những yêu cầu công việc để gặp những người tù mà tôi là luật sư bào chữa, vì thế tôi đã biết những gì sẽ xảy ra ở những nơi tù đày này. Những tên đầu gấu đánh đập những kẻ mới đến và cướp đi phần lớn trong phần ăn dành cho tù nhân, nhất là những phần lương thực dự trữ mà gia đình thỉnh thoảng gửi quà cho họ. Số lượng rõ là đã bị cắt xén khi gói quà qua tay những kẻ giữ tù, phần còn lại trở thành nhỏ nhoi sau khi bọn đầu gấu và đồng bọn tự chiêu đãi thêm một phần lớn khác. Những hy sinh của gia đình chỉ để duy trì cho cảnh phát đạt của bọn cai tù và những kẻ tàn ác đang áp bức những kẻ khốn khổ bị nhốt trong từng xà lim. Bạo lực đã biểu thị cái hung bạo và thống trị kẻ khác một cách vô liêm sỉ và tàn bạo. Bạo lực được triển khai không chút ngần ngại lúng túng, đầy đạo đức giả, và không che đậy để lừa gạt mọi người. Nó hiện mình trần trụi và, nếu ta có thể nói, hoàn hảo. Ngược lại, khi bạo lực cải trang sau cái logic nguỵ biện, giấu mình sau những lý luận có vẻ đúng, nói tóm lại, là chỉ để tự bào chữa, không phải với công luận mà với chính cái sâu thẳm của một lương tâm chưa chết hẳn, cái đó mới là điều bệnh hoạn đáng ghê tởm và kinh hoàng.

Khơi dậy những chuyện đã qua từ khoản sâu của trí nhớ trong những năm tháng làm việc trong Luật Sư Đoàn, tôi vẫn còn nhớ những chuyện bí mật được nghe kể trong những chuyến đi về những vùng làng mạc thôn xóm. Thường khi, trong những túp lều tranh vào buổi tối, những người chủ kể cho tôi nghe những câu chuyện thương tâm buốt nhói. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của hoàng hôn, ở bìa những cánh rừng, họ thấy từng hàng người lê chân, ốm đói như những bộ xương biết đi. Một giờ trôi qua, hàng loạt tiếng súng từ trong rừng vọng về kéo họ choàng dậy ra khỏi giấc ngủ đang say. Một cuộc thảm sát tập thể vừa xảy ra và đó là chuyện mà mọi người không nên kiếm cách tìm hiểu để thoả mãn tính tò mò của mình. Không ai thấy gì và cũng không dám tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng từ túp lều tranh này qua túp khác, tin tức chuyền đi từ người này sang người khác, mọi người chết lặng sợ đến lạnh xương sống. Không trách nhiệm nào được qui trách cho lãnh đạo, có khi họ cũng không được báo cáo về chuyện đã xảy ra, nhưng sự đổ tội đã bắt đầu gán cho tại-vì-sự-quá-cuồng-nhiệt của một số thuộc cấp muốn tranh đua lập công nên đã vượt quá xa mức mong muốn của các ông chủ. Bất cứ thể nào, dù là những tin đồn không có cơ sở, nhưng cũng không phải là dở khi cho rằng những chuyện như thế là có khả năng đã xảy ra. Bất cứ chính quyền nào trên thế giới, vào bất cứ thời điểm nào, dưới bất kỳ chế độ nào đều nuôi dưỡng một sự căm thù tàn bạo đối với những kẻ thù muốn tiêu diệt mình, và từ đó dai dẳng truy kích kẻ thù dưới đủ loại hình thức có thể tưởng tượng được. Khi mà những chuyện khủng bố, giết người không thể mãi giấu giếm và bao trùm trong bí mật, vì thế chúng cũng không thể tránh khỏi bị nhân dân khám phá, chúng bèn đổ đùn lên nạn nhân toàn những tội lỗi đầy ô nhục, và đưa một số người ra trước những phiên toà hèn hạ và đang run bắn, để tự trấn áp những tiếng vọng của lương tâm và cố gắng đánh lừa, nhưng không thành công, sự sáng suốt của nhân dân.

Với những chuyến đi đày, từ quyết định của nhà cầm quyền, đều là những chuyến có đi mà không có về, tôi sẵn sàng.

 

2
Sửa soạn cho chuyến đi không có ngày về

Điểm đặc trưng dễ phân biệt của chính quyền Việt Nam là họ không bao giờ cho người trong cuộc thanh trừng biết những biện pháp dành cho họ. Họ có nhiều cách để thực hiện ý muốn của mình. Mặt Trận không còn mời tôi dự những phiên họp của họ. Đại Học lấy lại chiếc xe đạp công vụ mà họ đã cấp cho tôi để đi đến lớp giảng. Các Toà Án gửi trả lại cho tôi những lá thư uỷ nhiệm luật sư. Tôi hiểu là tôi đã bị loại khỏi mọi chức việc, đã trở thành một thứ cùi hủi, một người hạ đẳng, một kẻ bị mất phép thông công! Vì thế, tôi đành phải tìm quên trong triết học để trám đầy những giờ khắc bị buộc phải nhàn cư rỗi rảnh, để tránh phải trùm kín đầu, đeo cái chuông lúc lắc kêu vang báo cho người trên đường phải tránh không đụng tôi.

Tôi bắt đầu suy niệm bằng một câu khá nổi tiếng “mens agitate molem” (Tinh thần làm chuyển động vật chất). Khi còn trẻ, tôi nghĩ ngược lại và cho rằng thành ngữ ấy là do một anh trí thức hoặc quá cuồng nhiệt kiêu căng tự đại cho rằng mình là trên hết mọi sự dù rằng hắn chẳng phải như thế, hoặc là hắn đang trải qua một cuộc khủng hoảng mất niềm tin và đang cố vượt qua một tự ti mặc cảm đang lớn dậy trong bản thân. Tư tưởng hay trí tuệ, vì bản chất là phi vật chất thì không thể tác động trực tiếp lên quần chúng vì quần chúng là một dạng vật chất với một sức mạnh toàn diện và nó chỉ có thể là đối tượng bị tác động và chịu ảnh hưởng từ một khối quần chúng khác. Trong mọi xung đột giữa tư tưởng và vật chất, sự đối kháng của bên này đối với bên kia sẽ được giải quyết bằng sự chiến thắng của vật chất. Chính trong nghĩa này mà chủ nghĩa Marx xác tín rằng quần chúng nhờ sức mạnh vật chất của mình là người làm nên lịch sử. Nhưng quần chúng không làm nên lịch sử nếu chỉ biết sử dụng những phương tiện bạo lực của vật chất. Trong chuyện tàn phá, hay ngay cả trong xây dựng, quần chúng luôn phải nhờ đến những khả năng của trí tuệ để hướng dẫn mình cho cả hai lúc: huỷ diệt và xây dựng. Từ đó tư tưởng xen vào ảnh hưởng lên sự vận động của quần chúng. Chỉ có lúc đó, tư tưởng mới thật sự làm chuyển động quần chúng.

Nhưng tư tưởng chỉ có thể làm chuyển động quần chúng khi nó tiến hành những động thái xuất phát từ những cái nhìn sâu sắc về thực tiễn để rút tỉa, suy diễn ra cái logic của quần chúng. Tốt hơn nữa, khi quần chúng được giáo dục tốt, tư tưởng sẽ tiếp tục nhiệm vụ của mình mà giữ vững hướng đi đúng. Vì thế người ta thấy có những những kẻ gây kích động và những chính trị viên tiến hành đấu tranh chống lại sự thất học chính trị, gia tăng cố gắng theo dõi những sai lệch để nhằm đưa quần chúng trở về con đường tư tưởng chính thống thẳng tắp. Và người ta có thể thấy một cảnh tượng vĩ đại trong đó quần chúng đang bày tỏ niềm tin trước một thứ đạo giáo mang tên chủ nghĩa Cộng Sản, tạo nên một khối đồng nhất sau lưng Đảng, hoàn toàn tin tưởng vào những gì Đảng khẳng định, vào chính sách và đường lối của Đảng. Chưa bao giờ người ta thấy tư tưởng lại đạt được một chiến thắng trên vật chất như thế. Sự cuồng tín của quần chúng đã đạt được một mức hiểm ác, dù trên thực tế có những vụ việc thảm khốc đã xảy ra là những chứng cớ về mức độ trầm trọng của những sai lầm đã phạm, kinh tế bị xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân đã gia tăng, phần lớn nhân dân, kể cả những người cộng sản chân chính nhất, vẫn tiếp tục tin vào lời hứa của Đảng là sẽ phục hồi đất nước và sẽ nhanh chóng đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội mà thế giới không còn ai tin và chính ngay những nước cộng sản trước đây cũng đã dứt bỏ. Và đây là cái nguy bị rơi xuống vách đá của những người đang đứng bên bờ vực. Từ đó, vấn đề nêu ra là chuyện nhồi sọ chính trị cho quần chúng biến họ thành cận thị hay làm cho trí thông minh của họ trở nên mù mụ, là biểu hiện của thứ con người lành mạnh hay không lành mạnh?

Cái gì đã sản sinh ra những vụ kinh hoàng và đầy tai tiếng, những điều quái gở bệnh hoạn của một tư tưởng chính trị? Đó là sự biến dạng của con người, của một thứ thói quen trí não chỉ biết thấy một phần của thực tiễn, thui chột trong khả năng đánh giá phán đoán, tinh thần phê phán bị bóp chết, và những sinh hoạt tâm linh bị giới hạn với sự phê chuẩn vô điều kiện của lãnh đạo và dưới sự kết án không thương tiếc của những kẻ gièm pha, và hoàn toàn bất chấp công lý và nhân đạo.

Kinh nghiệm xã hội và lịch sử đã cho thấy chừng nào tư tưởng trở nên điên loạn, dù bắt nguồn từ chính trị, chủng tộc hay tôn giáo áp đặt trên quần chúng, thì ngay tức khắc chuyện thả lỏng cho những hành động dã man sẽ đưa nhân loại trở về thời quá khứ nhục nhã đầy máu và chết chóc.

Cái giáo lý cơ bản mà chúng ta phải không bao giờ quên và nó phải bao trùm lên tất cả những nhận thức về cuộc sống là mỗi người phải tự nhắc mình là tất cả những cá nhân con người ai cũng có phần sự thật của riêng mình, chúng ta phải biết tôn trọng sự thực của người khác, và pháp luật, công lý, đạo đức, loài người không bao giờ cho phép một ông hay bà được quyền áp đặt cáí sự thật của mình lên người khác. Chính những người theo tà giáo từ chối không chấp nhận sự thật của Jesus mà đã đóng đinh người này trên Thập Tự Giá. Chính vì những kẻ đứng đầu trong Nhà Thờ thời Trung Cổ đã từ chối sự thật của một kẻ không tín ngưỡng hay kẻ có suy nghĩ tự do mà họ đã thiêu sống những người này trên giàn hoả. Tự do tư tưởng có thể là cái chinh phục lớn nhất của thế giới hiện đại. Nó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ của văn minh.

Khi một người nắm giữ một sự thật và tin tưởng đó là điều hay tốt, vì nhiều động cơ khác nhau, có người muốn thông đạt nó, truyền bá nó đến người khác. Không có gì cấm một người muốn truyền bá sự thật của mình đến nhiều người khác.

Nhưng những gì phải bị cấm tuyệt đối là dùng sức mạnh, bạo lực, hành động hung ác khủng bố để ngăn cấm niềm tin của những người khác. Vì lẽ, nhà cầm quyền cộng sản đã phạm một lỗi lầm không cứu vãn được là đã gắn nhãn tên cho những khác biệt về quan điểm bằng những tội lỗi không thể tha thứ được để mà trừng phạt họ một cách nặng nề. Rốt cuộc, vì lo lắng cho an nguy của mình, không ai muốn mở mồm bảo cho lãnh đạo biết những hậu quả xấu gây ra bởi thái độ của chính lãnh đạo. Nhà nước, thiếu vắng sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng như con tàu đâm vào vùng san hô và chìm đi trước sự thờ ơ toàn diện. Ngoại trừ khi, với sức mạnh của mình, nhân dân vùng lên lật đổ độc tài và thay vào đó một chế độ dân chủ đa nguyên, thì cái lợi ích lớn nhất là cho phép tự do ngôn luận; dù có nhiều khác biệt, bất đồng nhưng ý kiến được tự do phát biểu trong lợi ích chung của mọi người. Giữa nhà nước và nhân dân sẽ không còn cái-không-thể-sống-chung nào nữa. Một đảng phải loại trừ đảng kia.

Vì thế, tôi biết là tôi đang phải chịu nhiều rủi ro. Nhưng hình phạt trực tiếp và tức khắc dường như chậm đến: có thể cái vòng khoá để còng tay tôi chưa được chế tạo. Chuyện phải tiêu diệt tôi đã được quyết định nhưng việc tiến hành nó phải được tổ chức tinh vi hơn. Bất kể như thế nào, tôi vẫn lo trám đầy cái khoản thời gian chờ đợi bằng cách chào từ biệt cái cách sống mà mai đây sẽ bị chôn biệt vào quá khứ.

Sau đó tôi đã qua những ngày và cả những đêm chong mắt nhoà đi với những cay đắng và thường là nước mắt, lang thang trong cái thế giới nhỏ bé mà tôi đang sống, ngày đêm đắm mình trong nỗi buồn và cái trời-ơi-đừng-bao-giờ-xảy-ra-cho-tôi. Và đây là những đồ đạc bàn ghế mà tôi thừa hưởng của cha mẹ tổ tiên: những cái bàn bằng đá cẩm thạch, những chiếc ghế bành bằng gỗ khối, những chiếc ghế ngồi, những chiếc bàn ngủ, những chiếc sofa, tất cả toàn bằng gỗ quí và chạm trổ tinh xảo bởi bàn tay vàng của một lớp người thợ thủ công nay không còn nữa. Thời gian đã làm những lớp gỗ lên nước bóng loáng. Đây là bàn thờ tổ tiên sơn son thếp vàng, bát nhang đầy tro tàn và chân nhang cắm đầy với đốm nhang đang thắp đỏ, bình hoa bằng sứ Tàu được để những chậu hoa lan vào mùa đông và những chậu hoa sen vào mùa hạ, hai chiếc tủ kiếng treo trên tường với những con rồng đang uốn lượn trên cánh cửa chứa những đồ cổ và bộ ấm trà. Tất cả những vật bất động kia chứa bao nhiêu là hơi thở của cha mẹ tổ tiên ông bà, trải qua bao nhiêu năm tháng dài để lên nước bóng loáng.

Tôi hay thích đứng hàng giờ trước cái tủ sách có bộ sách Guillaume của những tác giả người Hy Lạp và La Tinh đặt phía trên dãy sách của những tác giả người Pháp của bộ Pleiades. Tôi không hề thấy mệt khi đứng vuốt ve những cái bìa sách bằng da nâu của những cuốn sách mà tôi có dịp mua ở những tiệm sách cũ ở Paris hay từ những kẻ bán sách đã qua tay bày bán dọc sông Seine. Trên kệ sách dành cho những tác giả thời cận đại đang mang niềm hãnh diện của những tác phẩm của Valéry, Claudel, Gide, Montherlant, Mauriac, Maurois, Maurand, Giraudoux… Trên kệ chót, tôi để cái máy thâu băng hiệu Columbia và hàng trăm cuộn băng mà tôi mang về từ Pháp và nghe chúng mỗi buổi tối, thay nhạc tuỳ theo tâm trạng mình lúc ấy, một vài bản của Mozart nếu gặp lúc đang vui, bản Pavane In a Dead Infant của Ravel khi gặp lúc ưu tư sầu muộn, bản Dance Macabre của St-Saens nếu gặp lúc đang gặp những chuyện đời làm tôi kinh hãi, nhưng đặc biệt là bản Giao hưởng số 5 của Beethoven đưa tôi vào những trầm tư mặc tưởng và bản Passionnata gặp lúc hừng chí và muốn sáng tạo.

Tôi giết phần lớn thì giờ trong cái “thư viện” của tôi nơi mà mùi thơm đầy kích thích của quá khứ làm tôi vui thích và say đắm. Tôi không phải là ngưởi chỉ biết tán dương quá khứ, tôi cũng biết nhận diện và quý trọng những điều tuyệt vời của hiện tại. Trong lịch sử, trong mỗi thời kỳ, nhận loại đều qua những lúc vinh quang và lúc nô lệ khốn khổ. Sự nô lệ đượm trùm những tội ác mà nhân loại không phải là kẻ trực tiếp chịu trách nhiệm, nhưng nó đã làm hoen ố một vài giai đoạn hiện hữu của nó. Những vinh quang xảy ra cùng với những tiến bộ mang lại những điều tốt và hạnh phúc cho các dân tộc. Thời gian là yếu tố sàng lọc của lịch sử: sự nô lệ sẽ được chôn sâu trong sự lãng quên, ngoại trừ những tội ác kinh hoàng làm nổi loạn lương tâm, và chỉ có những vinh quang huy hoàng kia sẽ mãi mãi chói sáng qua thời gian và là nguồn động viên cho những tâm hồn biết suy nghĩ. Hiện tại mang những cảm xúc lộn xộn: con người có đủ thời gian để ngạc nhiên thán phục với những tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy con người tiến rất xa về phía trước của tương lai, họ phải khóc vì điên giận khi đối diện với những hành động của một vài tầng lớp chính quyền đã và đang giết những kẻ phản lại hay chống đối họ, những tầng lớp người mà hành động đã đưa con người về những thời kỳ man rợ xa xưa đầy xấu hổ. Cái hiện tại mà tôi đang sống và cái tương lai đang chờ tôi, vì thế, đẩy tôi trốn chạy về với quá khứ huy hoàng của con người, thoả mãn những khát khao hạnh phúc qua những gì mà những con người tuyệt vời nhất đã làm ra để tránh cho tôi những thống khổ hôm nay và ngày mai bởi những kẻ tệ hại nhất trong những người lãnh đạo. Nhưng trong hoàn cảnh mà tôi đang chào biệt những vật bất động nhưng chất chứa bao nhiêu tâm trí của tôi kia, tôi cảm thấy mình bị tràn ngập bởi nỗi buồn là không biết bao giờ có thể gặp lại chúng.

Nhưng nhiều ngày trôi qua. Không có bọn cai tù mang xe đến kiếm bắt tôi, với hai cổ tay trong cùm. Tôi bắt đầu ngạc nhiên. Nhưng cuối cùng tôi cũng hiểu là chuyện tiêu diệt tôi không xảy ra bằng con đường tù nhốt ở một nhà lao nào đó. Nó sẽ tiến hành trong dài hạn bằng nỗi đau quằn quại của những cơn đói. Sự tra tấn trở nên tinh vi, nó sẽ xảy ra trong một thời gian dài, không biết lúc nào dứt, giống y như một cuộc hành trình trong sa mạc, trong nghĩa trần tục nhất của vấn đề. Giống người lữ hành bị bỏ rơi trong sa mạc mênh mông, không thức ăn nước uống, không một chỗ trốn cái nắng thiêu đốt ban ngày, không một mảnh chăn chống cái lạnh cóng người ban đêm, tôi phải lê những bước chân cho đến khi tấm thân khô nước, cạn máu như một bộ xương biết đi kiệt sức bởi đói, khát, dưới cái nóng thiêu đốt của mặt trời, cái lạnh tê người về đêm, tôi sẽ té ngã trên một đồi cát nào đó và buông hơi thở cuối cùng. Bao nhiêu đau khổ đó, tất cả đều giấu mặt sau tấm mặt nạ của Thần Chết, đang bao quanh tôi, nhảy múa nhạo báng, đang chuyển mình trong một điệu múa ghê rợn chung quanh và trong chính tôi, hành hạ tôi bằng những trận cười châm biếm mĩa mai, những cú đòn giáng xuống để cho cái mong muốn được chuộc lại cái lỗi lầm là đã dám suy nghĩ khác với Đảng trở thành cái đau đớn tột cùng trước khi Thần Chết đến ca khúc khải hoàn trên đống xương trắng của tôi trong sa mạc. Chỉ có những kẻ đao phủ với những suy tưởng của quỷ dữ mới có thể sáng tạo ra thứ tra tấn bằng cái đói ở giữa một thủ đô của một nước văn minh, ngay giữa thế kỷ thứ hai mươi, giữa những kẻ thừa mứa đang tiêu phí hàng đống tiền vào những buổi chiêu đãi. Để quấy thêm nỗi đau khổ của kẻ “phạm tội” người ta còn bắt nó phải làm chứng nhân trước cảnh đói của vợ con mình mà người ta cũng buộc phải chịu dù vợ con hắn là những người vô tội.

Và Đảng phủi tay dễ dàng. Họ hợp lý vấn đề một cách thâm hiểm. “Tôi có một nhân viên, nay tôi không thích nó, tôi cho nó nghỉ việc. Có gì không đúng?”. Có một câu trả lời từ hắn: “Đây không phải đơn giản là một chuyện cho nghỉ việc, khi có một hệ thống cửa hàng nhà nước và tem phiếu, một người bị đuổi việc thì không thể mua gạo bất cứ ở đâu, cho hắn và cho gia đình, khi mà hắn không có tiền và tem phiếu chỉ dành cho công nhân viên nhà nước! Hơn nữa, các ông đã căn cứ trên điều Luật Hình Sự nào để trừng phạt một tội bất đồng ý kiến và được Thế Giới công nhận về nhân quyền? Các ông có biết được cái đặc biệt nghiêm trọng của cái án phạt mà các ông tuyên phán trong nhà nước công sản của mấy ông khi các ông lẫn lộn giữa hành chánh và luật pháp? Các ông đã kết tội tôi phải chết, một cái chết chậm và lâu cho cả một gia đình chỉ vì các ông bị mất vui? Một chuyện giả dối như thế có xứng đáng là một Nhà Nước tự cho mình là văn minh không? Nhưng con cừu thì không thể lý luận với một con sói.

Con sói có thể hùng hồn tuyên bố là nó đã tử tế cho phép con cừu được tự do hạnh phúc, nhưng rốt cuộc nó cũng không thể thuyết phục những con cừu với những lý lẽ để biện minh cho tội lỗi của mình, cũng chẳng chứng minh được gì ngoại trừ sự tàn ác và dối trá của nó. Những văn kiện linh thiêng nhất, những lời hứa trang trọng nhất luôn ẩn chứa những ảo tưởng cũng chỉ với mục đích gìn giữ cái dáng vẻ bề ngoài trong khi sự thực là đang chà đạp lên thực tế. Chủ nghĩa hình thức chỉ là một trò ảo thuật, nhưng là một trò ảo thuật tệ hại xấu xa nhất vì nó không nhằm làm vui mọi người nhưng nhằm cắt cổ họ.

Trong suốt một thời, nhân dân đã bị kinh hoàng vì tội ác của chế độ phong kiến, họ luôn luôn mơ ước một nền công lý, mong có kẻ công minh phân biệt thiện ác như Bao Công để bảo vệ những người dân chân chất chống lại những kẻ bạo quyền. Nhưng niềm mơ ước sâu thẳm nhất của người dân chưa bao giờ thành sự thật. Những kẻ to đầu vẫn cứ tiếp tục áp bức, khủng bố, bắt nạt người yếu kém vô tội. Khi mà Nhà Nước không còn bảo đảm công lý, niềm tin vào chính nghĩa cũng mất đi, những người mờ mắt vì ích kỷ tham lam, hư hỏng vì mê muội và chẳng cần “lo cho mọi người” và chằng cần lo cho có sự công bằng thì dân chúng quay ra cầu xin sự can thiệp của những quyền lực siêu nhiên, tin vào chuyện nhân quả “ác giả, ác báo”, gây gió sẽ gặp bảo, gây ác sẽ gặp chuyện ác.

Những con người tích cực thì không muốn chờ công lý của toà án “quả báo” vì nó đến quá chậm, quá lâu. Họ muốn thay một nền công lý chậm chạp và chưa bao giờ được hiện hữu một cách vững bền bằng một chế độ hoàn toàn gồm những nguyên tắc và tổ chức nhằm mang lại những gì mà nhân dân khát vọng. Luật Pháp là đoá hoa tinh khiết nhất của văn minh, toà án áp dụng luật và phổ biến Công Lý, như bản Tuyên Bố Quốc Tế Về Nhân Quyền đã mở đầu cho kỷ nguyên Dân Chủ, là những thành quả quý báu của nhân loại. Bất hạnh thay, bộ máy tuyệt vời đó chỉ chứng tỏ một thứ chủ nghĩa duy tâm, một bộ óc khéo léo ranh ma vận hành một cách chu đáo khi quyền lực đưa ra để thực hiện những ý định mong muốn. Nếu theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản thì người dân, thông qua tiếng nói của những người đại diện và qua trò chơi bầu cử, sẽ có trong tay một phương tiện luật định để ngăn chận sự quá đà của giời cầm quyền và những lạm dụng của họ; trái lại, trong những nước cộng sản, thứ quyền lực độc tài, độc đoán sẽ khiến cho nhà lãnh đạo khuynh đảo luật pháp, chỉ áp dụng nó để bảo vệ quyền lợi của mình, xếp đặt, cơ cấu những tổ chức quần chúng và những cơ quan luật pháp sao cho những nơi này biến thành những người đầy tớ trung thành ngoan ngoãn cho họ. Luật Pháp lúc ấy mất hết cả quyền lực của mình, chỉ còn là một thứ đồ chơi nằm trong tay giới chức quyền, chỉ còn biết thú nhận cho nỗi bất lực của mình. Trong khi chờ những ngày phúc phần, ngày mà nền công lý được vận hành hết công xuất, sự tàn ác phải chịu trừng phạt, ngày mà quần chúng quá kinh tởm với những bất công của giới lãnh đạo, mất kiên nhẫn và nỗi lên làm nên Lịch Sử, nhân dân dưới chế độ cộng sản đối mặt với những kẻ độc quyền có con tim đóng kín, câm lặng sau cửa Thiên Đường không còn nghe đến lời cầu xin và ước vọng của con người, chẳng còn một giải pháp nào khác hơn là thu mình trong cam chịu và tuyệt vọng.

Chính trong một tâm trạng như thế mà tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng. Chìm trong vùng cát sa mạc của tuyệt vọng làm cạn khô giòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn, với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn của chua cay và vị đắng của mật. Không một tia sáng của niềm vui trong đêm đen của địa ngục trần gian mà tôi đang bị quét đi trong nỗi cô đơn, nhưng tôi cố gắng tự cứu mình, vượt qua cảnh địa ngục tối tăm, những cơn sóng dữ, để một ngày nào đó có thể kêu lên chuyện đoạ đày của tôi.

3
Cái đói thê thảm

Lãnh đạo thật phúc đức. Họ đã tránh cho tôi phải chịu một chế độ tù giam mà ở đó tôi có khi thành đứa hầu lo quét dọn cho các đại ca đầu gấu, cho những tay trùm phòng giam, thành nạn nhân bị bóc lột bởi bọn cai tù, bởi bọn du côn tham lam tàn bạo tước đoạt đi chút lương thực dự trữ và phải chịu những hành hạ tàn khốc của chúng. Tôi cũng không bị đưa vào những trại cải tạo nơi mà từng hàng tù nhân phải thi hành những công việc lao động đất đai dưới sự điều khiển của những ông quản giáo. Tôi được tha khỏi bị những ngày tháng dài, rất dài trong trong tù, có khi đền tận ngày lìa đời, giữa những chấn song của một căn phòng chật hẹp của công an ở một nơi nào đó mà không ai biết là ở đâu, bao trùm bởi một màn đen bí mật và huyền bí, hay bị nhốt kín ngày đêm không thấy ánh sáng mặt trời, không hít thở được không khí bên ngoài dù chỉ một phút giây, hình phạt buộc phạm nhân không được chút sinh hoạt nào trong một đêm dài vô tận ngập tràn trong tiếng inh ỏi khua vang của soong chảo và nồi đồng mà những cánh tay lực lưỡng của mấy tên cai ngục thay phiên mà đập để tra tấn cho đến khi nạn nhân biến thành kẻ khùng điên. Và, trong khi đầu óc và đôi tai bị tra tấn vì những tiếng khua đập vào thành của kim loại như muốn xuyên thủng các màng nhĩ, thì bao tử của người tù phải chịu những cơn đau thắt vì bị viêm do những thức ăn hư thối cho tù nhân ăn. Những kẻ bợ đỡ cộng sản kêu gào là những người cộng sản đã phải chịu tra tấn trong những “chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo và ra sức lên tiếng tố cáo những việc làm vô nhân đạo của thực dân. Người ta có thể tự hỏi: thế thì ở mức độ hùng biện và nhiệt thành nào họ sẽ lên tiếng khi họ biết những gì đang xảy ra trong chế đô cải tạo để bành trướng chủ nghĩa công sản hiện nay?

Phúc đức thay cho những lãnh đạo nào đã tha cho tôi khỏi phải chịu những khổ đau như thế. Những kẻ đã trừng phạt tôi, cho dù là do chính ý muốn của họ, hay vô tình không hay biết vẫn là những kẻ muôn phần hiền lành so với những con người kia, những con người còn hơn quỷ dữ. Nhân dân sẽ phán xét.

Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói.

Cả mấy tháng qua, buộc phải mua thực phẩm và những thứ nhu yếu trên chợ đen vì tôi không còn được phát tem phiếu kể từ khi tôi bị loại, mặc dù với tất cả dành dụm có được, số tiền dự trữ ngày càng thu hẹp. Ngay từ lúc đầu, với viễn tượng những ngày khó khăn trước mắt, với dự trữ ít oi, chúng tôi bắt đầu một giai đoạn hạn chế, tiết kiệm. Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen xa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tối. Khẩu phần cơm và rau mỗi ngày một ít đi. Và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói. Họ tự hỏi tại làm sao mà các bà tự nhịn ăn để có một thân hình thon thả?

Nghĩ đến chuyện vay mượn bạn bè là điều vô ích vì chính bản thân họ cũng đang cùng số phận, đang trong cảnh chỉ đủ cầm hơi khỏi bị chết đói. Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống? Tìm ở đâu những nguồn hàng mà chỉ qua con đường buôn lậu mới có được? Món duy nhất mà vợ tôi không phải bán là cái máy may để mua gạo cho gia đình, mà dùng nó để may đồ mang ra chợ bán. Nếu bà còn trẻ bà có thể đạp xe về nhà quê mua rau cải lên bán ở những nơi đông người qua lại. Nhưng tất cả những dự tính dễ thương nhỏ nhoi đó đều không thể thực hiện đã làm cho vợ tôi khóc trong sầu khổ vì không thể làm một chút gì đề mua gạo cho gia đình.

Con gái tôi dạy Toán và phải dạy ở một nơi cách xa Hà Nội 40 cây số, trong suốt bảy năm liền, đơn giản chỉ vì nó không có cha mẹ nằm trong Đảng. Nó bị ép phải từ nhiệm để có thể về dự một cuộc thi tuyển ở trường Cao Đẳng (Đại Học Sư Phạm) và đã chọn ngành Văn và ngôn ngữ Pháp. Nhưng sau 5 năm học xuất sắc và tốt nghiệp, nó chờ đợi một chân giáo viên ở một trường Trung Học ở Hà Nội. Vô ích! Cho đến một ngày có một chỗ ở Trường Chu Văn An. Cũng có một cô gái khác mong làm chỗ ấy. Hai thí sinh được đưa ra trước hội đồng giáo sư để tranh tài. Con gái tôi được hội đồng giáo sư chấm. Nhưng đứa con gái kia lại được nhận, vì cha của cô ta là một đảng viên. Trong khi chờ kiếm việc, con gái tôi phải đạp xe đi về mỗi bận 20 cây số để đi học nghề làm gốm trong một hợp tác xã ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng đến lúc học xong, thay vì được hưởng một tí tiền bồi dưỡng người ta lại buôc nó phải trả tiền học phí. Nó muốn đóng góp được một chút gì cho ngân sách gia đình nhưng vô vọng vì không thể làm được gì.

Tôi muốn dạy tiếng Pháp tại nhà. Nhưng vừa mới bắt đầu là đã có một đám công an, chắc chắn là đã được bọn gián điệp và điềm chỉ quanh tôi báo động cho họ, xuất hiện và bảo cho tôi là dưới chế độ cộng sản không có gì là tư nhân mà được cho phép, dù chỉ là việc dạy học của những ông thầy tận tuỵ. Phải làm gì đây? Tôi không thể ra đạp cyclo như một số đồng nghiệp trẻ đang làm, không phải vì chuyện “thiên hạ xầm xì” mà chỉ vì tôi đã không còn ở tuổi để làm chuyện đó: hoặc người ta không dám gọi tôi, hoặc nếu có, số tiền công còm cõi của một hai chuyến đi không đủ để mua thuốc cho tôi lại sức với cái thân thể đã tiều tuỵ lắm rồi. Tự nhủ là không có nghề gì là đáng khinh, tôi xoay ra sửa chữa xe đạp bên vệ đường như những sĩ quan cao cấp già của bộ đội về hưu đang làm. Những kiến thức về văn chương và ngôn ngữ trở nên vô dụng trước những chiếc xe đạp hư cần sửa chữa như một quan hoạn đứng trước người đàn bà không mảnh vải che thân.

Trong thời gian đầu khó khăn, người bõ già vào làm việc ở nhà tôi từ những năm kháng chiến, hơn mười năm về trước, thông hiểu tình trạng tài chánh kiệt quệ bất khả cứu vãn của tôi, đành xin phép nghỉ việc về quê. Chúng tôi đã xem bà như một thành viên của gia đình, và chưa bao giờ nghĩ đến việc cho bà ra đi, đã quyết tâm chia sẻ ngọt bùi sướng khổ với bà. Nhưng chính bà lại khéo léo đề nghị chia tay, chúng tôi không còn cách nào hơn là đồng ý. Cuộc chia tay thật cảm động, không bên nào kềm được dòng nước mắt.

Chúng tôi có một con chó do bạn bè cho. Nó rất khôn và chúng tôi yêu nó lắm. Nhưng nó đã già và chúng tôi không còn khả năng mua cho nó thịt và những thức ăn tăng sức, nó không còn sức đứng lên trong chuồng, ngẩng đầu nhìn tất cả chúng tôi, với một ánh mắt tin yêu của loài vật, chắc chắn với những dòng nước mắt và một nỗi buồn sâu thẳm vì đã đến lúc phải rời chủ. Chúng tôi bật khóc khi nó nấc những hơi thở cuối cùng. Trong số gia súc chúng tôi chỉ còn con gà mái mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên. Chúng tôi không thể giết thịt vì nó đã đáp lời kêu cứu của chúng tôi và ngày nào cũng đẻ cho một trứng. Không như trứng vịt, có thể luộc dầm nước mắm để chấm rau cải luộc, trứng gà chỉ dành cho một người, thay phiên nhau mỗi ngày một người ăn. Đó là thức ăn dinh dưỡng duy nhất mà chúng tôi còn có. Tới lúc chúng tôi không còn gì để nuôi con gà, bắp cũng không, lúa cũng không, mỗi ngày vào lúc hoàng hôn khi mà chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để kẻ qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó.

Sống trong một tình trạng như thế, con người luôn luôn đói. Vợ và con gái tôi làn da càng ngày càng tái, thân hình càng ngày càng tiều tuỵ ốm tong. Họ không dám mở mồm nói một điều gì vì sợ làm cho tôi phiền não, chỉ dám giấu những dòng nước mắt trong đêm khi một mình trên giường ngủ. Tôi biết nhưng giả tảng như không biết. Về phần tôi, chưa hơn một lần, phải khóc. Bị đói và hơn thế là phải chứng kiến những kẻ mình yêu thương phải chịu đựng cái đói hành hạ vì bao tử trống rỗng. Tôi nhường bát cơm duy nhất cho họ cáo lỗi rằng tôi không thấy thèm ăn, và có khi đặc biệt hơn với lý do là đã dùng cơm với một người bạn mà tôi vừa viếng thăm. Một sự dối trá không thể kéo dài và thuyết phục được ai, nhưng trước cái chối từ cứng đầu của tôi, hai mẹ con đành phải chia chén cơm để khỏi phí.

Vì thế tôi phải liên miên chịu đói. Sự chán nản đến cùng cực, không còn sức chịu đựng, tràn ngập toàn thân tôi như con nước tràn đê bao trùm lên mọi vùng chỉ chừa những đầu ngọn cây và đỉnh núi. Tôi có cảm tưởng như đang lịm đi trong một trạng thái mê muội với cái minh mẫn của ý thức bị đục khoét đó đây bởi những ngọn lửa. Tôi cố gượng mình đứng dậy làm một vài động tác cho giãn gân cốt thì bất chợt đổ sầm xuống trên chỗ nằm, tất cả những sức còn lại của gân cốt đã hoàn toàn biến mất. Cùng lúc đó, cái bao từ co thắt từng chặp làm cho tôi vô cùng đau đớn. Cơn đau thắt buộc tôi phải chọn cách luân phiên vừa chịu đựng vừa nghỉ ngơi trước khi bị cơn sóng dữ nhấn chìm trong sự vô thức, bất tỉnh không còn biết suy nghĩ hay cảm giác gì nữa. Rồi tôi cũng thoát được cơn đói đau thắt với cái lưng đau và một tâm hồn bầm dập quá đỗi. Tôi vừa xong bài học nhập môn về sự đói.

Trong hoàn cảnh như thế, cuộc đời tiếp tục trôi như một vòng quay tự động, cứ quay và quay đều trên một dây chuyền sản xuất, quay vô tận, trong khoảng không. Một vòng quay thay vì như thông thường là môt sự kết nối cân đối, một sự ăn khớp nhuần nhuyễn của ba trục máy để hướng đến một mục tiêu đầy sinh động: chuyển động nhờ chân tay, suy nghĩ của bộ óc và rung động của con tim để cảm xúc và yêu thương. Giờ đây thì không còn bất cứ thứ mục tiêu gì, mọi thứ đều biến mất: ngọn lửa hy vọng, giận dỗi, hận thù, cay đắng cũng chết đi, những suy nghĩ cuồng nộ như trong cơn giông bão, như điệu vũ điên cuồng ghê gớm rồi yếu dần, kéo lê, bung ra rồi biến mất như những bóng ma tan biến trước ánh sáng ban ngày. Thân phận con người bị vỡ nát trôi lạc loài vô định, như một chiếc bè trên biển cả mênh mông, phó mặc cho sóng cao, bão tố. Nó không còn là người sống, chỉ để cuộc sống trôi đi, cứ để cái u mê nó bao trùm từ đầu đến chân, như cây độc cần, chẳng cần một cú hích làm giật mình, mà cũng chẳng cần nó phản ứng cục cựa. Một sự chán ngắt mênh mông, mệt mỏi và yếu sức tràn ngập đến tận từng tế bào của cơ thể, tận từng sợi dây của linh hồn, báo hiệu cho một cái chết đang tới gần trên những bước đi không nghe tiếng.

 

4
Bi hài kịch của một cuộc trả giá

Nếu cái bi kịch đói chỉ có một kịch sĩ duy nhất và chỉ là màn độc thoại đang ngang qua những câm nín đầy bi thương, thì những cuộc mặc cả mà tôi kèn cựa để bán những tài sản riêng có thể bán được đã xảy ra như một màn bi hài kịch mà nụ cười cứ xen lẫn cùng nước mắt. Người bán, kẻ đang cố nuốt giòng nước mắt, khóc thầm cho nỗi khổ đau và niềm tủi nhục mà cái đói là nguyên do chính, lại phải nở nụ cười cho cái dối trá và điệu bộ của người mua đang cố cò kè cắt xén bớt số tiền phải trả để mua một món hàng thật sự quí và có giá trị với cái giá thấp tột cùng.

Những gì chúng tôi bán trước tiên là những bộ trang phục mà vợ chồng tôi hay mặc lúc còn thời vàng son để dự những buổi chiêu đãi hay lễ lộc được mời, trước khi Cách Mạng về làm đảo lộn mọi trật tự của xã hội, kéo người dân ra khỏi những truyền thống và thói quen đã có từ hàng ngàn năm mà cái thần thánh của các lãnh đạo và cái phong cách sống trong sáng của họ phải là mẫu mực mới cho xã hội! Tất cả nữ trang bằng vàng chúng tôi đã bán hết trong thời Kháng Chiến để giúp gia đình cầm cự qua ngày và trụ lại trong hàng ngũ kháng chiến. Nhưng sau khi về lại Hà Nội, cha mẹ tôi và bạn bè đã cho chúng tôi vô số quần áo đắt tiền: áo lụa, sa tanh, gấm thêu, vải nhung từ Trung Quốc, những bộ quần áo mà vợ tôi từ nay không còn dịp để mặc. Về phần tôi, tôi đã mang về, sau những chuyến công tác ở Bắc Kinh, Vienna, Lục Xâm Bảo những bộ âu phục may đo bởi những người thợ may bậc thầy chuyên cung cấp quần áo cho nhân viên các sứ quán.

Nay thì nhiều tập quán thói quen đã thay đổi. Tất cả phụ nữ phải phô trương diễn hành với những bộ đồng phục mà các cán bộ nữ quyết định: quần đen, áo trắng. Tất cả các ông đều mặc đồng phục kiểu Stalin hay Mao, sau đó là kiểu dáng do quí ông lãnh đạo cộng sản và các cán bộ quyết định: áo cổ đứng, quần rộng. Áo dài, quần trắng của phụ nữ, áo sơ mi và cà vạt của đàn ông thì bị cái khắc khổ của những người cộng sản kết án là những tàn tích của tư sản. Người ta có thể cười hay khóc vì đó. Người ta có thể cười khi thấy cả dân chúng trong những bộ đồng phục rõ ràng là đơn giản và rẻ tiền, nhưng vô danh, giết đi tính cá biệt của con người, giết đi nhân cách riêng của họ, và giết đi những tính cách riêng của mỗi người là những cái cho phép người ta có thể hiểu, gây thân thiện và ngay cả để giao tiếp, chia sẽ thông cảm với họ. Một người nước ngoài, hay ngay cả người bản xứ cũng không thể dễ dàng phân biệt thiên hạ, giữa người này người kia. Có người cười cho rằng đó là điều giả dối, nhưng người ta vẫn thấy đó là điều vĩ đại. Cả dân tộc đã trở thành nô lệ cho ý muốn của lãnh đạo, nô lệ tới mức vâng lời cả những ý tưởng bất chợt và kỳ quặc của họ, trở thành một khối đồng nhất với một kích cỡ quá lớn. Đó là một điều vĩ đại không thể chối bỏ nhưng nó cũng là một nguy hiểm cho an ninh của các dân tộc và cho hoà bình thế giới. Một Hitler ở Đức, một Moussolini ở Ý, chỉ có quân đội và thanh niên là mang đồng phục, thế mà cái tội ác của chủ nghĩa phát xit đến nay vẫn còn làm nhân loại kinh hoàng, lợm giọng. Làm sao có thể lường trước được những tai hoạ kinh hoàng gây bởi cả một dân tộc đang dậm những bước chân lính trận dưới lệnh của những ông chủ mà quyền hành là quá lớn, không giới hạn, không kềm chế, nảy sinh những ý tưởng hoang đường điên rồ có thể gây ra những thảm hoạ ở tầm thế giới.

Người ta cười, khóc. Nhưng, tệ hơn nữa, người ta đang cảm thấy thật đáng tiếc cho một dân tộc đang bị kết án phải mang một thân phận tôi tớ về tư tưởng, một sự tự sát về tâm hồn và con tim.

Vì thế, tôi hiểu rằng không thể có gì nhiều trong việc đi bán những quần áo đắt tiền ở một thủ đô mà chuyện ăn mặc khắc khổ đã được cộng sản quản lý chặt chẽ. Không có một cửa hàng bán đồ cũ nào ở Hà Nội. Đồng phục nam, nữ đều dùng những loại vải rẻ tiền, làm trong nước, không được bền, khi người ta muốn bỏ thì chỉ có việc vứt vào thùng rác như những miếng giẻ rách.

Tôi đến những tổ hợp may mặc. Họ lịch sự từ chối: “Chúng tôi biết những quần áo của ông thuộc loại đắt tiền. Nhưng chúng tôi biết bán cho ai bây giờ trong khi không còn ai mặc những thứ ấy? Chúng tôi đành phải làm mỗi một việc là cắt nhỏ nó ra để may quần áo cho trẻ con. Nhưng đấy cũng lại là một điều đáng tiếc nữa. Những cán bộ bình thường thì đâu có tiền, mà dẫu có tiền họ cũng không dám mua cho con vì sợ bị các đồng chí khác phê bình, khám phá ra những kẻ này còn mang những mầm mống của chủ nghĩa tư bản! Con cái những ông lớn thì ăn mặc như những hoàng tử, công chúa với những bộ quần áo do những cán bộ trong ngành ngoại giao hay ngoại thương mang về biếu sau những chuyến đi công tác ra nước ngoài để cầu mong những đặc ân và che chở.

Nhiều ngày tôi đã đi quanh những con đường, lê theo mình gói quần áo, từ phố Huế qua phố Hàng Lụa, từ phố Hàng Đường quanh qua phố Hàng Gai. Không ai muốn những đồ cũ của tôi. Cuối cùng khi tôi qua phố Hàng Buồm, một người đàn bà tốt bụng khi nhìn thấy dáng bộ thiểu não của tôi bèn hỏi thăm cớ sự. Chính bà ấy đã cứu tôi khi cho tôi địa chỉ một nhóm kịch may ra họ có thể mua đồ của tôi để các nam nữ diễn viên có trang phục mà diễn trên sân khấu. Tôi nghe theo lời khuyên và xoay sở lần chót để thanh toán gói đồ.

Chuyện xảy ra làm cho tôi mang nhiều suy nghĩ. Không biết là có phải áo cà sa làm nên ông sư không, nhưng những bộ quần áo tôi mặc trong thời mà tôi còn chút tự do thật sự là một phần trong cách ăn ở của tôi, không thể lộn ngược bề để may thành bộ áo riêng cho những người hầu trong nhà. Và khi tôi không có phương tiện và khả năng để đóng một vai diễn phụ hay một tài tử chính, chẳng thà để những bộ quần áo này cho những diễn viên nhà nghề mà cuộc sống là hai mặt: một ở ban ngày ngoài xã hội và một về đêm trên sân khấu, giữa cái thực và cái tưởng tượng. Chính đó là cái logic của sự đời.

Tôi cũng được biết qua người phụ trách trang phục cho Nhà Hát, cũng là người đã mua quần áo của tôi, kể cho tôi nghe rằng hiện tại một cô gái có địa vị đang chuẩn bị lễ cưới và muốn kiếm một bộ đồ đẹp nhưng không thể thực hiện vì thiếu tiền. Cô gái ấy bèn đến Nhà Hát hỏi thuê một bộ đồ để có dáng một nàng công chúa huyền thoại hay con của một đại đế nào đó. Người con gái nào cũng chỉ một lần trong đời làm đám cưới. Cô ấy có thể được tha thứ vì đã làm một chuyện giả dối ngây thơ, cũng chỉ để tránh né trong một vài giờ cái thực tế hiện ra như một bài văn nhạt phèo và chán ngắt, để trốn chạy vào những vần thơ mơ mộng, để xoá tan đi cái ham muốn không được thoả mãn và cho phép con người tự lừa dối lấy mình. Tất cả xã hội trên thế giới đều có đầy nhan nhản những bà Emma Bovary[5]  với con tim chứa đầy những cơn thèm khát không được thoả mãn, họ mỏi mòn chống chọi những khổ đau mà chờ đợi ảo ảnh của một “nơi nào đó” có niềm vui và tự do lấp lánh. Ở Việt Nam, mỗi người đều phải sống hai mặt trong kiếp sống người máy. Bề ngoài, họ chơi trò xưng tụng giáo điều để tránh không bị tập thể trừng phạt, khẳng định cái tính láu cá ranh mãnh của một kịch sĩ. Bên trong họ cố dồn ép những đòi hỏi của hy vọng vào bóng tối và im lặng, đẩy những thèm khát không được thoả mãn, những khát vọng cháy bỏng vào những vùng đất trời huyền bí mà không một thần linh chính trị nào có thể khám phá được.

Trong một đất nước bị sống trong khắc khổ và nghèo nàn, tất cả những ham muốn dù chính đáng dường như đều bị đông lạnh, cho nên số quần áo cũ, dù rất đắt tiền, được mang ra bán đổ bán tháo với giá rẻ mạt cũng không nuôi gia đình tôi được lâu. Ăn uống tiết kiệm đến mức cao nhất giúp chúng tôi khỏi chết đói nhưng với điều kiện là chúng tôi phải chịu đựng cảnh mắt mờ, chân bước muốn không nổi và những cơn co giật đau quặn của cái bao tử phải bóp cái trống không. Những bữa ăn mà rau muống là món chính đã làm da chúng tôi trở nên thâm tái. Bà con tưởng chúng tôi mắc bệnh sốt rét. Chẳng thà để họ nghĩ như thế để tránh cái xấu hổ vì bị đói.

Sau quần áo cũ, đến phiên chăn màn, chén kiểu và những dao nĩa bằng bạc. Tôi gói dễ dàng 24 cái khăn ăn cùng với hai khăn trải bàn màu mè thêu rồng, lân. Hai gói mỗi gói gồm 12 bộ đồ dùng theo cách ăn Á Đông có tô chén, đũa ngà và bộ kia cho bữa ăn kiểu Tây gồm dao, nĩa và muỗng bằng bạc chạm trổ, mâm và ly pha lê hiệu Bohemia, chúng tôi để kín cả mặt bàn. Những tia nắng còn sót lại của buổi chiều quét lên một góc của những món đồ sứ và bạc làm chúng trở nên rực rỡ lộng lẫy. Bộ chén đĩa, những đồ dùng bằng bạc toả nét lung linh trắng như tuyết bên cạnh những chiếc ly thuỷ tinh lấp lánh như những đốm lửa. Chúng tôi bị choá mắt trong một lúc. Dường như đối với tôi, giữa cuộc hành trình trong sa mạc, một cảnh tượng đẹp đẽ như thế đã gợi lại trong tôi kỷ niệm những ngày huy hoàng trong quá khứ. Tôi chao đảo những bước đi đầy buồn tủi và cay đắng, chẳng còn mấy chốc tôi sẽ ngã quỵ xuống đất dưới cú sốc của cái khổ sai hiện tại so với cái huy hoàng của năm xưa. Một trang sử đời tôi đã sang trang, tôi buông mình bật khóc cho nửa đời người còn lại, con người của tôi năm xưa và con người của tôi hôm nay đã thật sự chết rồi.

Tôi hiểu rằng tôi không nên gõ cửa nhà các ông lớn: họ thường tổ chức yến tiệc trong nhà để chiêu đãi những nhân vật chính trị, kinh tế, văn hoá đến viếng thăm Hà Nội từ các nước cộng sản. Hơn nữa, mặc dù trong túi lúc nào cũng đầy ngập vàng, nhưng các ông lớn không để mình sơ suất làm lộ ra cái giàu sang vì nó sẽ là sẽ là đề tài cho những tin đồn làm cho họ bị mất uy tín dưới mắt của Đảng. Tôi không thể mang những đồ sành sứ, chỉ cuốn bộ khăn ăn và khăn trải bàn vào một gói và để nó vào cái giỏ sau cái xe đạp. Tôi biết mình phải đi đâu. Tôi bước vào sảnh của một khách sạn lớn nhất Hà Nội dành riêng cho những khách viếng người nước ngoài giàu sang qua đấy. Tôi mở gói đồ và giới thiệu nó cho người trách nhiệm của khách sạn và mời ông ta đến nhà để xem những đồ sứ và bạc. Hắn kênh kiệu và làm duyên như một con mụ lố bịch trước một kẻ bảnh bao như muốn cầu cạnh một ân huệ nào đó. Hắn thú nhận: “Đây là những món hàng rất đẹp. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng ông muốn tôi làm gì với chúng? Khách đến từ các nước anh em cũng nghèo kiết xác. Họ chưa bao giờ gọi gì thêm, luôn luôn bám vào tờ thực đơn thường ngày, không bao giờ uống rượu mạnh và khi phải cho tiền phục vụ thì họ tỏ ra rất dè xẻn. Thật ra, nói họ là dân keo kiệt thì cũng không công bằng lắm, vì tôi nghe nói ở các nước anh em, cũng như Việt Nam mình, lương bổng công nhân viên bị tiết giảm đến mức tối thiểu, hay có khi còn ít hơn thế! Tôi thấy ông đã lớn tuổi chắc ông đã qua một thời kỳ khá dễ thở.”

Người đối thoại với tôi, sau khi đảo mắt nhìn quanh để biết chắc là không có ai đang nghe lén, rồi trả lời cho tôi: “Mấy cán bộ công sản dạy chúng tôi rằng dân chúng trước đây phải lê cuộc sống đầy đau khổ vì phải chịu áp bức bởi phong kiến và thực dân. Tôi không biết ở những nơi khác thì như thế nào, chứ ở nơi tôi ở, thiên hạ không hề vui sướng hạnh phúc như họ nói. Dĩ nhiên là thời ấy vẫn có người giàu kẻ nghèo nhưng ai nấy đều có cái mà ăn và nếu quần áo có phải vá, họ cũng có áo quần để mặc! thực dân Pháp cũng không ra mặt một cách dễ dàng trông thấy. Họ nằm ở đâu trên giai cấp cao, và nếu có đàn áp và bóc lột, thì họ làm qua một giai cấp trung gian nào đó”.

– Thông qua trung gian một cái gọi là nền hành chánh bản xứ mà đứng đầu là tầng lớp quan lại.

– Nhưng, thực tế phải công tâm mà nói, những ông quan lại nói trên là những người tốt nghiệp từ Trường Luật Hà Nội, họ biết rõ những chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu bị lọt vào tay những anh cộng sản đỏ. Dĩ nhiên, họ ngồi trên những chiếc ô tô và sống cuộc đời xa hoa giàu có. Nhưng họ tham nhũng một cách vừa phải, và nếu tôi có thể nói thêm là họ còn có nhân đạo. Luật Hình Sự mà họ biết rõ là một hàng rào an toàn buộc họ giữ mình không đi ra ngoài chấn song của pháp luật. Bên cạnh đó, tờ báo châm biếm Phong Hoá, những bài viết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn bằng cách liên tục chế nhạo các quan lại đã dựng nên một rào cản xã hội ngăn chận những bóc lột vô chừng mực của họ. Kết quả là ngay ở những làng quê, nhà riêng dù bằng tranh vẫn còn tồn tại, và nông dân vẫn chưa bao giờ biểu tình phản đối hay yêu sách. Ít ra là theo như tôi biết.

– Nhưng ở phố thì tình hình ra sao?

– Dân thành phố thì sống tốt hơn nhờ những việc trong chính quyền, trong những xí nghiệp thương mại hay công nghiệp lớn, hay trong những ngành buôn bán nhỏ. Đường xá sạch sẽ, lòng đường cũng như lề đường. Tất cả những vi phạm về vệ sinh công cộng đều bị phạt tiền. Không còn trộm cướp, ngoại trừ một vài bọn móc túi hoạt động ở các chợ, nhưng ở phố yên tĩnh và an ninh là rất tốt. Tôi không phải là một giáo sư để phân tích nghị luận, tôi chỉ nói theo những gì tôi thấy mà tôi cũng không tìm hiểu nguyên do hay đưa ra những lời bình luận. Vì còn nợ mái tóc bạc của mình nên tôi phải tôn trọng sự thật, giữ danh dự và nhân cách của tôi.

– Ông có nghĩ đến việc rút lui về nghỉ ngơi cho khoẻ không?

– Tôi đã nghĩ đến chuyện đó và đã nạp đơn xin về nhưng lãnh đạo buộc tôi phải ở lại để huấn luyện cho bọn trẻ mới vào làm. Tôi làm bếp trưởng đã hai chục năm nay. Vào những ngày Thứ Bảy và Chủ Nhật, thiên hạ nhảy đầm, còn tôi thì phải phục vụ rượu săm banh cho họ. Trong những bữa ăn lớn, mấy món nhậu kiểu Na Uy và món thịt dăm bông trộn vỏ bánh mì là món rất được ưa chuộng của một số khách không keo kiệt tí nào về phần tiền phục vụ. Tôi như con cá vẫy vùng trong nước.

– Và bây giờ thì sao?

– Thời thế đã thay đổi. Tất cả tiếp viên là những công an hay là những người quen của họ. Họ theo dõi khách hàng, lục lọi hành lý, nghe ngóng xem họ nói gì để đi báo cáo cho những “nơi trách nhiệm”. Tôi cũng nằm trong hệ thống giám sát của họ. Thật chán hết sức. Cạnh đó, nếu họ chỉ làm công việc của họ thì tôi cũng nhắm mắt để cho họ làm những chuyện bên lề đó. Nhưng ở đây họ lại phá hoại bao nhiêu là thứ: nhà cầu, vòi nước, máy hút bụi, máy giặc, chén đĩa sành sứ. Nhưng khốn nạn thay, chuyện như thế đó, tôi chẳng làm gì được.

– Vui chuyện với ông làm tôi quên mất mục đích tôi đến đây: liệu ông có thể mua cho tôi mấy bộ bát đĩa và khăn ăn này không?

– Chắc chắn chúng tôi sẽ cần chúng cho những buổi tiệc lớn và những buổi hội hè. Tôi chỉ là kẻ vô tích sự thôi. Có lẽ ông nên nói chuyện với ông uỷ viên chính trị. Chính ông ta là người quyết định mọi chuyện.

Người đàn ông già đời trong nghề đã hết sức trong công việc để làm người có ích, nhưng lại không có chút tiếng nói nào trên các vấn đề. Đó là cách mà mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới cộng sản.

Cái Tết đầu tiên xảy ra trong phiền não và nước mắt. Chúng tôi phải nhịn bốn bữa ăn để có thể dành ra tiền để trang hoàng bàn thờ của tổ tiên với một nải chuối xanh, bó nhang, vài nắm hoa và một cái bánh chưng. Chúng tôi thật hạnh phúc dù đang trong cảnh thiếu thốn vẫn có những món truyền thống trên bàn thờ của gia đình dù không phải là những món có giá trị cao như chúng tôi muốn, nhưng cũng xem là khá đầy đủ. Trong khi chờ nén nhang cháy hết, nỗi thống khổ làm chúng tôi thật đau lòng, cố nén dòng nước mắt chực trào dâng trên khoé mắt. Ngày mai rồi ngày kia, chúng tôi sẽ làm sao đây khi chúng tôi không còn gì để bán? Dĩ nhiên là chúng tôi có thể kéo rê thêm nhiều ngày nhiều tháng, nhưng chừng nào chúng tôi mới ra khỏi con đường hầm? Câu hỏi cứ theo chúng tôi ngày đêm làm chúng tôi mất ngủ.

Bây giờ là đến lúc những cuốn sách và những băng nhạc bước vào đường của bóng tối và cõi chết. Tôi làm một danh sách khoảng ngàn cuốn sách và cả trăm cuốn băng mà tôi mua sắm qua bao nhiêu năm, và lấy đó làm niềm vui thú. Tôi ngây thơ tin rằng cái gia tài văn hoá quí giá và duy nhất ở Việt Nam kia sẽ được chào đón nồng nhiệt và giúp tôi có chút gì để ăn trong nhiều năm sắp đến. Nhưng than ôi, không phải thế.

Tôi tìm đến Cục Lưu Trữ và Thư Viện Trung Ương và đề nghị với họ một bản sao của tất cả các tác phẩm của tôi, bắt đầu là những luận án Tiến Sĩ của tôi và toàn bộ những tác phẩm mà tôi đã phát hành tiếp theo sau đó.

Tôi chờ đợi được người ta long trọng đón tiếp. Người giám đốc Thư Viện Trung Ương xưa kia là một công chức ngành quản thủ thư viện của thực dân và đã học được nghề qua công việc, như người ta thường nói. Ông ta không phải qua trường Pháp-Điển Văn Khố chuyên về quản thủ Văn Khố (Ecole des Charles). Người tốt nghiệp xuất thân từ trường Văn Khố là ông Ngô Đinh Nhu, nhưng vì công việc ở đó không thích hợp với mình, ông Nhu quay ra làm chính trị nhưng lại trúng loại chính trị tệ hại nhất vì bị cả nhân dân và cộng sản kết án. Với bản án kép xếp như một án tử hình. Sớm hay muộn, ông ta cũng sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng của số mệnh.

Như thế, ông giám đốc Thư Viện Trung Ương của tôi ngày xưa đã làm một chọn lựa đúng. Ông ta được gia nhập Đảng và khi trở về Hà Nội, bỗng nhiên được đề bạt lên chức Giám Đốc của cái Sở mà xưa kia ông ta là một nhân viên. Cái chi tiết nhỏ này giúp chúng ta hiểu cái giọng lưỡi của ông ta khi ông ta chính thức từ chối mua bộ sách riêng của tôi:

– Đồng chí, tôi vẫn tiếp tục gọi ông với hai tiếng “đồng chí” vì chúng tôi, những người cộng sản, vẫn hy vọng là ông sẽ ra khỏi những sai lầm bắt nguồn từ nền văn hoá Tây Phương mà ông hãnh diện đang khoe khoang, nhưng chúng tôi thì ghê tởm. Ông không tự cho mình là kẻ chống cộng, ông huênh hoang cho mình là người thực tiễn bởi vì ông dựa trên thực tế để đúc kết thành những phê phán, và ông tự cho mình là công lý khi vạch trần những thành công bên cạnh những thất bại. Ông cho rằng khi ông tuân thủ cái logic mà chúng tôi coi như đã lỗi thời, tệ hại, là ông vẫn còn trung thành vào cái thiên hướng của người trí thức là không muốn phản bội. Một nước tư bản như Pháp, kiêu hãnh với chủ nghĩa tự do của họ, chấp nhận thái độ đó. Nhưng về phía chúng tôi, chúng tôi kết án nó. Chúng tôi kết án thái độ đó, nhân danh chủ nghĩa cộng sản mà chúng tôi tin đó là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật, và kẻ đã dạy cho chúng tôi rẳng người dân khôn ngoan là phải biết tôn trọng và tuân hành nhà chức trách. Nhà chức trách thấy xa và thấy rõ hơn chúng ta. Họ là hiện thân của sự tốt đẹp, và nếu các ông không đứng về phía họ thì phải biết rằng cái xấu đang chờ đợi các ông với những thói hư và kinh hoàng của nó. Giữa chúng ta, cho tôi hỏi ông: có phải Đảng đã dành cho ông biết bao nhiêu là ưu đãi hay không? Mười uỷ ban chấp hành trong các tổ chức quần chúng, còn có trí thức nào đạt kỷ lục như thế? Và người ta đã đòi hỏi ông những gì? Chỉ cần ông nhắm mắt làm ngơ trên một số sai lầm mà tất cả ai trong chúng ta cũng đều biết. Chúng tôi muốn che khuất nó đi, chỉ làm toả hương những chiến thắng mà những tràn vỗ tay phải kích động và cao hơn lúc thất bại rất nhiều. Chúng tôi chỉ yêu cầu ông hoàn toàn im lặng trước về phần hư hại của thực tiễn, không cần ông phải dối trá với lương tâm của mình bằng cách phát minh ra những thắng lợi tưởng tượng. Một thái độ sống như thế sẽ rất có lợi cho Đảng và cho chính cả ông. Tại sao ông không làm như một số trí thức khác? Họ chỉ thề trung thành với Đảng là đã nhận được bao nhiêu là lợi lộc cho bản thân họ và cho gia đình? Ngược lại, cứ khư khư bám vào cái văn hoá Tây kia, cứ giữ cái nhận thức khách quan và tự tin kia về công lý, về thực tiễn, ông đã phạm tội phá hoại mà ngày nay ông phải gánh chịu những hậu quả tai hại.

– Đồng chí, tôi rất cám ơn ông đã giúp những ý kiến tốt. Nếu ông là một mỹ nhân ngư, tôi đã phải nhờ các thuỷ thủ cột tôi vào cột buồm như Uylisses, người đang mê mẩn tiếng hát của người cá nhưng vẫn cố thoát ra khỏi hai cánh tay đẹp đẽ của nàng. Ông làm cho tôi nghĩ đến chuyện con rắn trên vườn Địa Đàng đã rót những tiếng nói độc hại vào tai Eva để làm cho nàng vào bẫy. May mắn thay, tôi không phải là đàn bà, và ngày nào đó bên cạnh trái táo sẽ còn có nhiều thứ trái cây ngon lành khác để cho người ta chọn. Dầu thế nào, tôi cũng phải công nhận là cái tinh quái xảo trá mà ông đang thừa hưởng nó thật là hùng hồn thuyết phục. Cho phép tôi được trả lời cho lý lẽ của ông. Cái văn hoá Pháp mà ông đang kết án, nó đã thấm nhập và đang chảy trong dòng máu con người tôi. Nó đã tạo ra con người tôi như bây giờ, luôn luôn đi tìm công lý, quan tâm một cách đam mê đến khách quan và thực tế nhưng rất tin vào con người, yêu mến con người và chấp nhận tranh đấu cho con người tránh khỏi sự tàn ác và tuỳ tiện của những kẻ độc tài độc đoán. Ông khuyên tôi phải tuân phục nhà cầm quyền, được thôi, nhất là khi tôi chỉ muốn không gì khác hơn là trật tự và yên bình. Nhưng chuyện tuân phục nhà chức trách và tuân phục uy quyền cũng không có nghĩa là không được mở mắt nhìn những sai quấy và lỗi lầm của họ. Nếu tôi giữ yên lặng thì dĩ nhiên chuyện đó sẽ được dàn xếp giữa chính quyền và nhân dân, nhưng nó sẽ tự làm cho mình mất uy tín và lòng tin của quần chúng. Vì vậy, đây là vấn đề là phải biết thái độ nào là thích hợp nhất trong những trường hợp như thế: hoặc không nói gì hết để ngồi hưởng những ban phát của nhà cầm quyền, đứng ra đồng ý với họ và như thế sẽ tránh bị họ đánh, hoặc đứng ra làm một hành động đúng đắn để tôn trọng ý muốn của nhân dân, mở mắt cho những ai đang cầm quyền và chấm dứt những nỗi bất hạnh đang làm hao mòn niềm tin của họ đối với lãnh đạo. Như thế với một hòn đá ta ném trúng hai con chim: làm cho nhân dân và nhà nước hoà thuận với nhau, cả hai cùng nhịp bước hưóng về một tương lai huy hoàng và hạnh phúc của toàn thể nhân dân. Tôi tuân phục nhà cầm quyền nhưng tôi mở to hai mắt, minh mẫn đầu óc và sẵn sàng cây bút. Tôi nghĩ đây là thái độ đúng đắn nhất của một người trí thức có lòng tự trọng, có tình yêu dân tộc, biết lo lắng cho hạnh phúc của nhân dân trong khi vẫn mong muốn không chuyện gì hại cho Đảng. Nếu ông nghĩ rằng những điều tôi nói là đúng thì đó cũng là nhờ tôi hưởng một nền văn hoá của Pháp và vùng Địa Trung Hải.

– Tôi đành phải nói với mình rằng quan điểm của ông và của tôi là không thể đi chung với nhau. Tôi rất tiếc, tôi không thể mua những bộ sách của ông, dù tôi biết đó là những cuốn sách rất có giá trị. Hiện nay, tôi không có ngân khoản đề mua những thứ đó. Hơn nữa tôi cũng không thấy điều gì ích lợi từ những cuốn sách về những nền văn hoá đã có từ ngàn năm hay từ nhiều thế kỷ nay mà tư tưởng đã có từ những thời kỳ nô lệ, phong kiến của phương Tây và của chủ nghĩa Tư bản, chúng không thể được dùng để đào tạo những người cộng sản Việt Nam.

Trên đường về, tôi như bị hụt hẫng vì cái khía cạnh đần độn của một lối lý luận phát sinh từ một thứ chủ nghĩa cuồng tín chính trị, nó làm tim tôi tan nát. Tôi tự trách mình đã quên lời dạy của Phúc Âm, đừng bao giờ mang những viên ngọc trai mà cho heo mang, margaritas ante porcos, mất cả buổi sáng tôi mới gượng quên đi chuyện bực mình vừa xảy ra.

Cái sự thực tàn nhẫn làm tôi khóc thét lên vì giận điên người là không thể chờ đợi chi nhiều từ những người trí thức được nhận vào Đảng. Mặc dù là thế, nhưng cũng có một vài trí thức, quá mệt mỏi sau bao năm sống tự dối mình, tự nén mình vào những lúc nổi dậy của lương tâm, đã để cái chất trí thức của mình nổ ra thành những biểu lộ diễn tả sự coi khinh Đảng và những hà khắc của nó. Lợi dụng những chuyến công tác ra nước ngoài họ đã dứt áo ra đi và không bao giờ quay lại. Và khi qua được với Thế Giới Tự Do họ không còn gìn giữ hay giới hạn những lời công kích kịch liệt. Nếu họ còn ở lại trong nước họ sẽ bị kết án tù chung thân và chỉ được khênh ra ra khỏi nơi giam cầm trong tư thế nằm với đôi chân ra trước. Nhưng phần lớn các trí thức lầm lẫn gia nhập vào hàng ngũ của Đảng chỉ còn biết từ bỏ nhân cách của mình, biến thành những tên nịnh bợ mà lòng tận tâm chỉ làm thiên hạ cười và khinh bỉ.

Bài học đau đớn mà tôi đã học từ người đối thoại trên là từ nay tôi phải tránh nói chuyện về văn hoá với những ông bà trí thức đã thành người cộng sản. Nhưng, tôi cũng phải làm gì để có cái ăn trong những ngày tháng sắp đến, tôi cũng phải kiếm cho ra người mua dù phải bán với giá rẻ cho bộ sưu tầm băng cát sét và những bộ sách của tôi. May mắn là vẫn còn những kẻ yêu nhạc, dù là những người nằm trong Đảng, vẫn còn thú nghe nhạc và có một đầu óc phóng khoáng, biết đánh giá cao những tác phẩm của những nhà soạn nhạc lớn của Âu Châu. Sau một vài liên lạc, tôi may mắn thanh toán được cái máy nghe băng và các băng nhạc cổ điển. Nhưng khối sách về văn hoá nước ngoài thì khó tìm được người mua. Đương nhiên, tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp không còn được dùng ở Việt Nam, không thể bán được bộ sách Bude. Mặc dù tiếng Pháp đã bị mất chỗ cho tiếng Nga, tiếng Anh bắt đầu trở lại, vẫn có một số thầy giáo có nhu cầu đọc tiếng Pháp nên tôi đã bán được một số ít. Cuốn Odyssé do V. Berard dịch, bản dịch cuốn Eneide của A.Bellesort thì có được người mua, nhưng những tác giả Pháp thời Trung Cổ, thế kỷ 16, 17, 18 và ngay một số vào đầu thế kỷ 19 thì không ai muốn. Với những tác giả thời cận đại, tôi bán được một số tiểu thuyết của Maurois và Mauriac, những cuốn sách khó như của Valéry, Gide và Caudel thì chỉ gặp sự lạnh lùng của khách hàng. Nhưng cái đói thì không thể làm lơ được, tôi phải mỗi ngày lượn quanh các con phố để tìm gặp những tay bán sách cũ chuyên bán hay cho những người chơi sách tài tử thuê vài cuốn sách của các tác giả lớn.

Cuối cùng tôi cũng phải hiểu ra là mình không nên đắm mình trong cái ảo tưởng về số phận của những cuốn sách không bán được của tôi. Tôi đành phải cân ký bán cho những người thu mua giấy vụn về bán lại cho nhà máy làm bột giấy. Những cuốn sách được mang lên trên cái cân hiệu Roberval. Tôi được trả tiền theo số cân đo được. Tim tôi đập loạn lên mỗi khi tôi phải chất những cuốn sách vào cái giỏ sau của chiếc xe đạp để đem đi bán giấy vụn. Không, nó không phải là giấy, nó là những thịt da của tôi đang bị xé ra từng mảnh. Khi những người mua ném chúng vào góc nhà, tôi phải quay mặt đi nơi khác cố giấu giọt nước mắt đang trào ra! Không có người cha nào còn dám nhìn con mình đang bị ném vào lửa bởi bọn đao phủ! Cái tra tấn đó cứ tái hiện mỗi lần đi bán sách làm giấy vụn, tôi như bị một mũi tên bắn xuyên qua tim mình. Nhiều lần, tôi phải nhờ vợ hay con tôi làm chuyện đó vì tránh cho tôi phải chịu nỗi đau mỗi lần. Một lần trên đường về nhà, cái đau lòng khi phải nhìn thấy bao giá trị quí giá tan biến trong gió thoảng, nhất là trong thùng giấy vụn, những giá trị mà tôi đã dày công sức và thời gian để có, những giá trị đã xây nên con người và đã đi vào máu tôi, cái đói thiếu những chất cần thiết trong cơ thể làm chân tôi trở nên mềm như bún và run lên. Không biết vì cái đau kia hay cái đói triền miên hay cả hai, đã làm ý chí và sức lực tôi bay biến. Cách nhà khoảng một trăm thước, tôi đã té xe đạp và không thể đứng dậy. Tôi phải gượng dậy ngồi bên lề đường, giương mắt nhìn sự vật quay tròn, tôi rán lấy lại hơi thở, sau khoảng hơn mười phút mới đứng dậy nổi và cố dắt chiếc xe về nhà.

Trong lúc tôi phải lượn quanh để bán những cuốn sách thì vợ tôi cũng muốn giúp tôi bằng cách mang những đồ lót và các phụ tùng trang điểm, những chai nước hoa hiệu Chanel, Patou còn được giữ nguyên trong hộp và còn gói trong giấy hoa màu vàng kim tuyến thắt nơ nhung rao bán cho các bà trong giới chức quyền. Không may cho vợ tôi, bà gặp toàn là những bà vừa mới từ quê ra tỉnh, nhiều bà còn bộ răng nhuộm đen thời xưa. Mấy bà tròn xoe mắt, lần đầu thấy những món hàng mà họ chưa bao giờ thấy hoặc nghe nói đến trước đây. Mấy quan, mấy xếp cưới mấy bà trong thời bí mật kháng chiến vì hai lý do: thứ nhất, để đi đúng đường lối chính trị với lý luận rằng quần chúng vô sản ở thành thị và nông thôn đều bị áp bức và bóc lột bởi phong kiến và thực dân, thứ hai là do những phong tục đơn giản còn lại trong nếp sống chưa bị vẩn đục, chưa bị lây nhiễm bởi những thói hư tật xấu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, những phụ nữ nhà quê kia với niềm tin và sự kiên trì đã thay thế cho việc trau dồi sắc đẹp, đã sống cô đơn một mình trong nhiều năm dài chờ đợi những người chồng đã từ lâu đi làm chiến tranh cách mạng và chỉ trở về khi cần để đánh lạc hướng hay cắt đuôi những tên gián điệp hay để được nghỉ ngơi một thời gian ngắn trước khi lên đường tiếp tục cuộc chiến giành thắng lợi cho giai cấp vô sản.

Bây giờ, Cách Mạng thắng lợi, được đặt vào những vị trí cao nhất của quyền lực, họ mang một nửa kia lên Hà Nội để hưởng những vinh hoa của chủ nghĩa cộng sản, những vinh hoa mà không có cách nào để phân biệt với thứ vinh hoa tư bản chủ nghĩa. Cũng những toà biệt thự đó, với những con chó dữ tợn và đám người hầu thận trọng, cũng những chiếc ô tô bóng lộn, cũng một nếp sống gia đình theo lối đó. Cái khác biệt duy nhất so với những quý tộc tư sản là, những thứ xa xỉ đó giờ đây hoàn toàn do Nhà Nước chi trả, phải cắn răng chi tiêu một số lớn ngân sách lẽ ra phải để dành cho những chuyện cần, thiết yếu. Một điều khác biệt nữa là vợ các ông lớn không nắm giữ chức vụ nào và không xuất hiện chung với chồng trong những dịp lễ chính thức hay những buổi chiêu đãi tiếp tân. Loại logic đó thật là khó hiểu khi mà người ta cứ mãi nêu cao cái nguyên tắc nam nữ bình đẳng, ít ra là trong xã hội. Cũng có thể là các vị hiểu rằng cái nữa kia của mình chưa quen với cái hào nhoáng của giai cấp thượng lưu, không biết cười hay ăn nói sao cho đúng, không biết dùng dao nĩa làm quí ông bị mất mặt. Quí ông chỉ còn biết để vợ ở nhà ngồi chơi trên ghế như những di vật linh thiêng để trên bàn thờ sơn son thiếp vàng.

Vợ tôi trở về mệt mỏi sau những lần tiếp xúc với các bà trong giới mệnh phụ cộng sản. Bà phải cố gắng và kiên nhẫn rất nhiều để giải thích cái vui thú thanh tao mà người phụ nữ ở một tầng lớp cao của xã hội khi dùng những thứ hảo hạng, đến thẳng từ Paris, thủ đô của hoa lệ và ánh sáng. Vợ tôi xoay sở để đạt được mục đích và đã mang về một số tiền đủ để sống vài tháng.

Nhưng với các bà mệnh phụ khác, bà nào cũng là hiện thân của Eva bị mấy món xa hoa hấp dẫn, thật khiếp đảm. Tiền xài cho những món kia được bí mật lấy từ công quỹ. Nếu họ không chùn tay lấy cắp công quỹ thì họ cũng xoay sở để làm sao không gây tai tiếng và làm hư chuyện thăng quan tiếng chức của chồng. Cũng dễ, vì họ không bao giờ chường mặt ra trước công chúng, và chỉ phô trương đến chín tầng mây những quần áo lụa là, những mùi dầu thơm đầy khoái lạc với chồng trong cảnh riêng tư chồng vợ.

Phần tôi, tôi cố mở những lớp dạy tiếng Pháp. Không thiếu sinh viên, họ đều hiểu rằng biết biết thêm một ngoại ngữ, bên cạnh tiếng Nga dạy ở các trường Trung và Đại Học, là một phương tiện tốt để kiếm việc sau này. Một vài người muốn học tiếng Anh. Nhiều người cần học tiếng Pháp đến gõ cửa nhà tôi. Những kẻ hăng hái nhất là những anh chị có tham vọng được đi làm ở Madagascar hay Algérie vì ở đó người ta trả lương như một ông hoàng. Mặc dù Nhà Nước đã lấy đi từ 70 đến 90 phần trăm tiền thù lương và tiền thưởng, để trả nợ cho mình, với phần còn lại họ vẫn còn dư để sống.

Nhưng để được phép đi đến những xứ giàu sang đó, họ chẳng những phải cẩn thận bôi trơn bàn tay của các quan chức ở bộ Ngoại Giao và bộ Lao Động, họ còn phải qua một cuộc xét nghiệm về tiếng Pháp tại sứ quán Algérie hay Madagascar.

Một chân trời sáng sủa được mở ra trước niềm hy vọng của tôi. Nhưng ngay trong buổi học đầu tiên được mở tại nhà tôi, một đám công an đã đột ngột xuất hiện. Xếp của chúng là một gã béo lùn, đôi chân ngắn củn, trán thấp, cặp mắt soi mói, hai lỗ mũi phập phồng như một con chó đang đánh hơi một khúc xương ngon lành. Cả bọn chiếm cả phòng khách và tên xếp, dù không được mời vẫn ngồi đến ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành. Trước bộ mặt kinh ngạc của tôi, hắn gằn lên từng tiếng một như để nhấn mạnh cái nghiêm trọng của vấn đề:

– Ông có biết tại sao chúng tôi vào nhà ông không?

Tôi đã học từ nhiều năm nay là không ngạc nhiên trườc bất cứ chuyện gì: điều ngớ ngẩn nhất, điều bệnh hoạn nhất, điều đê tiện nhất đều có thể xảy ra ở một nơi mà lòng tin và Luật Pháp không có, nơi mà những giá trị, dù cao quí đến thế nào, đều có thể bị vứt vào đống rác, ngoại trừ đó là những thứ của chủ nghĩa Cộng Sản và của những tôi tớ bệnh hoạn của nó, với sự tôn sùng cá nhân được hàng ngày thực hiện và tệ sùng bái áp đặt. Tôi lắc đầu tỏ vẻ không biết. Hắn ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành, đôi chân ngắn gác chéo một cách trịnh trọng, xoa xoa hai tay và giương cặp mắt long lên nhìn tôi giận dữ.

– Ông giả vờ làm người khờ không biết. Ông biết rõ ông là một tên trí thức thối tha, mình chứa đầy những tư tưởng phản động. Ông dám ngẩng đầu đòi hỏi dân chủ! Ông còn muốn gì hơn cái mà ta đang có? Ông không thấy trước những công sở của chúng ta, trên những giấy tờ chính thức đều có nêu rõ khẩu hiệu của Nhà Nước: Tự Do – Độc Lập – Hạnh Phúc? Tự do, hạnh phúc là cho ai, nếu không phải là cho nhân dân? Đảng đã mang lại cho chúng ta cái vinh quang của một thắng lợi cách mạng, một chiến thắng không thể tượng tượng trên chủ nghĩa tư bản. Nếu chúng ta không tin vào Đảng, vào lãnh tụ vô vàn kính yêu của chúng ta thì thử hỏi ta phải tin vào ai?

– Cám ơn ông đã nhắc cho tôi bài học mà tôi đã thuộc nằm lòng. Có phải ông đang đến viếng để cho tôi cái vinh dự được lặp lại những điều đó thêm một lần nữa chăng?

Hắn không trả lời ngay. Với cử chỉ của một ông giám mục, hắn đưa ngón tay út lên ngoắc. Một trong những tay hầu cận vội chạy đến lấy ra từ trong túi xách một cái phích nhỏ đựng đầy nước chè, đổ vào một cái tách nhỏ rồi đưa cho ông chủ kèm theo một ống tre nhỏ, món mà ở nhà quê không nhà nào là không có. Tôi quan sát cảnh tượng đang xảy ra. Nó xảy ra đúng y như những gì đã xảy ra thuở trước, khi các quan lại di hành đâu đó, mọi thứ là đây: một đám tuỳ tùng, một cái phích đựng trà, một ống tre nhỏ để hút nước, và đặc biệt là cái ngoắc ra lệnh bằng ngón tay út mà đám tôi tớ thấy là hiểu ngay phải làm gì. Hãy hy vọng là những tác phong cổ xưa này sẽ chứa những tinh thần mới của cách mạng.

Quan cách mạng nhấp một ngụm trà và ngay tức khắc, người hầu đưa cho ông ta cái điếu cày đã nhét đầy thuốc. Với cái bật lửa, người hầu đốt một thanh gỗ nhỏ, ông chủ đưa chiếc điếu vào mồm, hít lên một hơi dài rồi phun ra những vòng khói màu xanh. Sau đó, với cặp mắt khoái trá, nửa nhắm nửa mở, cổ dựa vào đầu lưng ghế, với giọng nói chậm chạp và trang trọng, hắn buông những lời ra khỏi đôi môi dầy thịt:

– Ông chả hiểu gì cả. Ông đã phạm một cái lỗi tày đình. Nhưng Đảng vẫn cao thượng, cảm thấy tội nghiệp cho tính hấp tấp và cả tin của ông. Đảng không bỏ tù ông, Đảng chỉ lấy lại những vinh dự đã dành cho ông. Để tỏ ra biết ơn sự rộng lượng và tốt lành của Đảng, lẽ ra ông đã phải tự giam mình nơi cô đơn tĩnh mịch để sám hối cho cái tội lỗi ghê gớm của mình. Ngược lại, ông còn mở lớp dạy tiếng Pháp, quan hệ với những thanh niên mà ông có thể đầu độc và làm họ xa rời Đảng. Vì lý do đó, tất cả lớp dạy tư nhân đều bị cấm.

Với bộ dạng bệ vệ uy nghiêm, với bước đi của quan lớn, hắn bước ra khỏi nhà, theo sau là bầy chó sói. Cái độ lượng của Đảng vừa chối từ một cái phao cứu hộ cho kẻ đang bị chết đuối. Phúc đức thay cho thứ nhân đạo không muốn làm kéo dài mạng sống của một sinh vật khốn khổ, nhưng rất xứng đáng, đang lê lết trong sự đoạ đầy của cơn thuỷ triều cộng sản, hoàn toàn bất lực cho mình và bất lực cả cho những người đang quản lý nó.

Chuyện trả giá để bán những bàn ghế thì rất khó khăn và kéo dài. Đồ đạc gồm toàn những thứ đáng giá: những chiếc ghế bành, chiếc trường kỷ, tủ chưng những món lạ và đồ kỷ niệm, bàn giấy, tủ sách, thảm lót hiệu Hàng Kênh, những bức tranh sơn mài của Coromandel, tất cả đều làm theo kiểu xưa và toàn bằng gỗ gụ, những bình hoa lớn bằng sứ của Trung Quốc đạt trên những cái đế ba chân, những bình đựng bông bằng pha lê, những bức tranh của các hoạ sĩ danh tiếng đóng trong những cái khung mạ vàng… Lê Phố là hoạ sĩ đã vẽ kiểu mấy cái tủ đựng bát đĩa, những cái ghế bành gỗ và những món đồ gỗ khác từ những kiểu dáng xưa, nhưng tất cả đều do nhà điêu khắc nổi tiếng Ngô Trâm chạm trổ. Trong thời tôi còn huy hoàng, những món này là cả một gia tài, nhưng lúc còn làm luật sư, tôi chỉ có việc mở vòi là tiền chảy vào như nước. Đời thật ngắn và chịu bao nỗi thăng trầm. Nếu một người có thể tự cho mình các thứ mà vẫn nằm trong khuôn khổ của xã hội, thích hợp với những ý thích của mình thì tại sao không họ lại không được vui hưởng một cách thanh tao và thuần khiết những cái đẹp và đường nét? Khi tương lai tôi vẫn chưa bị phủ mờ bởi những hiểm nguy nhất định, tôi đã rất bằng lòng với cuộc sống mà không hề cảm thấy có nhu cầu tự đặt cho mình câu hỏi liên quan đến chuyện mình thích gì hay đam mê gì. Nhưng khi biết không sớm thì muộn tôi phải chia tay vĩnh viễn những vật dụng đã cho tôi những niềm vui không tả và không bao giờ quên được, tôi đã dành hết niềm vui để mở ra những đối thoại với từng món trong bọn chúng để gợi nhớ cho tôi những kỷ niệm dính liền với chỗ đó, và cũng là biểu lộ con người đạo đức và tâm linh của tôi. Tôi cố tìm thấy tôi, nhận ra tôi qua những đồ vật mà tôi đã treo móc vào chúng những thớ thịt và mẩu vụn của cuộc đời và quá khứ của tôi.

Tại sao ngày xưa tôi không mua sắm những món làm theo phong cách phương Tây tiện dụng hơn mà những đường nét sắc sảo gọn gàng, cái đơn giản về mầu sắc và cách bố trí hài hoà rất hợp với cái tính Cartesien của tôi[6], hợp với cái tình yêu của tôi dành cho sự logic và sự sáng tỏ? Tại sao giờ đây tôi phải chịu một ngọn lửa bất ngờ sôi sục kéo dài cháy đốt tâm can cho những dấu vết của quá khứ đầy dân tộc và truyền thống kia?

Bất chợt, tôi lại nhớ vào năm 1936, khi tôi trở về Việt Nam luôn, tôi học tiếng Trung, tham gia phác hoạ văn phạm Việt Nam với nhóm Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ, và hợp tác làm cuốn tự điển với Khai Trí Tiến Đức. Cái gì đã khiến tôi luôn giữ thái độ sinh hoạt đó? Tôi, một người là chưa bao giờ ngưng tán dương đề cao những tác dụng lợi ích của nền văn hoá Pháp, một nền văn hoá đã tôi luyện thành một người như tôi ngày hôm nay? Tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi như thế này: “Tôi trở về với truyền thống và dân tộc, không phải với cái giá của một cuộc đấu tranh cam khó và với những cố gắng bền bỉ, nhưng bằng cách để mình trôi theo một con đường dốc không thể thiếu một cách dễ dàng và tự nhiên. Những kẻ dù có trang bị một kiến thức khoa học rộng lớn, những người chống văn hoá Pháp mà tôi đã tiếp đón ở trường, và hay những kẻ chống văn hoá Việt, văn hoá mà tôi thấm nhuần suốt cuộc sống, tất cả bọn họ đều không có những cái nhìn lành mạnh và đúng đắn về văn hoá là gì. Một nền văn hoá xứng đáng với tên gọi của nó không bao giờ có chuyện tự phân biệt mình qua sự duy nhất, không bao giờ kiếm cách biến mình thành độc tôn, không bao giờ tự mình đóng khung trong tường kín. Ngược lại, văn hoá là khoảng không gian ngự trị ở tầng cao vi vu muôn ngàn ngọn gió, nơi đến của tất cả những tâm hồn tốt lành không có bất cứ thứ phân biệt đối xử nào, như là một con suối trong dành cho mọi sự khát. Mỗi người có một nền văn hoá riêng, nhưng tất cả cùng hoá chung trong nền Văn Hoá lớn của nhân loại, mục đích duy nhất và sau cùng là nhằm tạo nên một con người toàn diện, tinh hoa, với những đức hạnh không thể thay hình đổi dạng được, có những giá trị riêng của con người, đưa họ lên tầng cao nhất của nhân tính. Khi tất cả những nền văn hoá của từng quốc gia quyện chung thành Văn Hoá của nhân loại, như những giòng sông cùng đổ vào biển cả, thì làm sao lại có chuyện có thể hình dung ra những đối kháng, mâu thuẫn hay xung đột giữa các văn hoá riêng và nền Văn Hoá lớn?

Cái gì có thể phân chia rạch ròi giữa animus và animas[7]? Cái gì không thể hoà được giữa cái văn hoá Pháp đã tạo nên tri thức của tôi và cái văn hoá Việt đã nặn khuôn linh hồn tôi?

Để lòng mình trầm lắng, yên tĩnh lại, tôi cảm xúc mủi lòng nhìn từng món đồ trong nhà. Mỗi món là một phần của những ngày qua và một phần của linh hồn tôi, tất cả chúng là một nữa của con người và sự sống của tôi. Nay mai, chúng sẽ rời tôi, từng đứa một, đi về một nơi vô định, rồi sẽ đến ngày mà trí nhớ của tôi chỉ đủ sức nhớ lại những hình ảnh mờ ảo, chợt ẫn hiện như một cảnh vật lúc hoàng hôn thoáng vụt qua cánh cửa sổ của con tầu hoả đang chạy nhanh. Chưa bao giờ tôi lại thấm thía bởi câu thơ nhức nhối: “Đi là chết trong lòng một ít…”

Người khách đầu tiên là một cán bộ cộng sản trong bộ đồ kaki xanh, với áo cổ cao và mang đôi dép cao su làm bằng lốp xe bỏ, một vẻ bề ngoài cho biết ngay ông ta thuộc gốc chính trị nào. Ông ta không có cái vẻ của một kẻ lang thang, mặc dù cặp mắt đang nhớn nhác ngạc nhiên, hết nhìn món này nhìn qua món khác như đang tự hỏi làm thế nào mà có tay trí thức có thể mua sắm và sống với những món đồ như thế. Tôi có thể đoán được những ý nghĩ đang xảy ra trong đầu của ông ta. Hắn chắc đã tự bảo đây là một tay phản động có tầm cỡ mới có thể sống xa hoa như thế: quả thực, hắn chỉ nghĩ rằng trong bất cứ xã hội cộng sản nào, như ở Việt Nam, giới trí thức đã bị đưa vào cuộc sống nghèo khổ, bị nguyền rủa dồn dập dưới sự khinh thường của lãnh đạo, nếu một tay trí thức nào đi ra ngoài qui luật đó, hắn ta chẳc chắn là một tên phản động làm giàu bất chính. Nhìn cặp mắt chằm chặp soi mói và cử chỉ của hắn ta, tôi nghĩ, nếu hắn không manh động với tôi thì hắn cũng không dành cho tôi những kính trọng phải có. Đương nhiên, hắn đang thi hành lệnh của chủ nhân. Nhưng để làm gỉ? Chính hắn đặt câu hỏi đầu tiên: “Vì sao ông muốn bán đồ đạc?”

– Chắc là ông cũng thừa biết, tất cả trí thức ở Hà Nội đều làm chuyện đó. Tôi đã phạm lỗi lầm, dường như thế, và đã bị loại khỏi đoàn Luật Sư và công việc giảng dạy. Không còn nguồn lợi tức nào, và để nuôi gia đình tôi đành phải bán những đồ đạc mà tôi có từ nhiều năm nay. Đó là những món chót còn lại của tôi.

– Ông vừa nói hai chữ “Chắc là”. Như vậy ông vẫn chưa nhận lỗi và vẫn còn hận Đảng. Có người sẽ thất vọng thấy ông vẫn không quay lại với con đường của lý lẽ.

– Ông bạn trẻ của tôi ơi, tôi không biết là ông có hiểu là mọi phán đoán đều dính dấp đến tính chủ quan của người đưa ra lý luận đó. Dưới tác động của cái chủ quan, ai có thể cho rằng mình là đúng đây? Trong một nền dân chủ đích thực, xứng đáng với tên gọi của nó, luật là do đa số quyết định. Trong một số nơi khác, luật là do những kẻ nắm quyền. Một phán quyết bằng bạo lực và dựa vào bạo lực thì không thể có một giá trị chung cuộc của sự thực. Nó sẽ bị lịch sử huỷ bỏ, và chuyện đó xảy ra ngay trong lúc những kẻ làm án kia còn sống, thời gian và hoàn cảnh trong quá trình tiến hoá, sẽ lôi họ ra khỏi những giấc mơ trì độn và họ sẽ phải tự đấm ngực sám hối. Nhưng tôi nghĩ là ông đến đây hôm nay không phải để nói những chuyện đó, mà tôi cũng chẳng có hứng thú để nói đến. Vậy xin ông cho biết lý do của cuộc viếng thăm.

– Tôi được lệnh đến xem ông đã ra làm sao và giá cả những món ông muốn bán.

– Thật vậy, Đảng có tai mắt khắp nơi, không để cái gì vuột khỏi tầm mắt. Nhưng tôi nghĩ là những báo cáo của công an cũng đã cung cấp đầy đủ tin tức về con người khiêm tốn của tôi. Không, vẫn chưa đăng cáo phó tôi chết, cũng chưa phải lúc, nhưng cũng sắp thôi. Nhưng dù sao tôi cũng cám ơn sự rộng lượng và lòng cao thượng của Đảng đã chưa đưa tôi lên máy chém hay ra đứng trước trụ xử bắn. Đó có thể là điều tốt đã dành cho tôi. Cám ơn Đảng đã quan tâm muốn biết tin về tôi. Những món đồ đem ra bán là những cái gì cuối cùng mà chúng tôi có, và đó cũng là tấm ván cứu hộ cuối cùng cho gia đình chúng tôi. Tôi hy vọng là chúng có thể bảo đảm cho chúng tôi sống còn khoảng hơn chục năm nữa.

– Hơn chục năm? Ông định đòi giá bao nhiêu vậy?

– Trước khi trả lời câu hỏi của ông, cho phép tôi được hỏi ông, lãnh đạo định mua lại đồ đạc của tôi để dùng vào chuyện gì vậy?

– Ồ… Chuyện đó thì tôi chưa thể nói được, chưa thể nói là sẽ đem những của này đi về nơi nào. Nhưng tôi nghĩ là hiện nay các quan hệ ngoại giao đang lớn mạnh, chắc cũng dễ kiếm chỗ để những món ấy trong các phòng tiếp tân hay đại sảnh.

Tôi vừa kiếm ra câu thần chú cho điều bí ẩn. Thực tế là, chuyện mua đồ chỉ là một cái cớ cho cuộc thăm viếng bất ngờ của một tay cớm để vào nhà một kẻ đang bị một án chết đang treo. Tôi nghĩ rằng giới quyền cao chức trọng đã xem tôi như một kẻ không thể cứu được nữa và như dân gian thường nói, là tại sao phải nuôi ong tay áo! Người ta không muốn giết tôi vì không muốn khuấy lên những xúc động của giới trí thức và những khối nhân dân khác. Nhưng người ta cũng mong tôi chết đi để tránh cho Đảng phải chịu những phiền phức do ngòi bút và tiếng nói của tôi. Vì thế, biết được thâm ý của Đảng, tôi dễ dàng tìm ra câu trả lời để nói cho kẻ thay mặt họ:

– Tôi muốn yêu cầu ông khi về lại, nhân danh tôi mà cám ơn các quan chức đã gửi ông đến gặp tôi. Tôi sẽ rất cảm kích nếu ông nói giùm với họ là tôi sẽ biết ơn họ đến chết về những việc mà họ đã làm cho tôi. Dù đang nắm sinh mạng tôi trong tay, họ vẫn không kết án chết vì cái “tội ác” của tôi, nhưng họ, vì công lý và nhân đạo, đã chọn kết án tôi cả đời. Một đời dở sống dở chết, hấp hối và cuối cùng cũng hết đời. Nếu bây giờ các ông ấy thấy đồ đạc tôi cũng gọi là xem được thì họ cứ lấy chúng đi, như họ đã lấy ba căn nhà thừa tự mà tôi đã hiến cho nhân dân. Nếu họ không muốn mang tiếng là mang gương mặt của kẻ cướp thì họ trả cho tôi bao nhiêu cũng được. Như vậy là tôi cống hiến tất cả những gì tôi có như là một người cộng sản chân chính.

Tôi đã không lầm. Tôi không còn gặp lại anh chàng vô tích sự đó, và sau đó cũng không có người nào như bọn đó đến nhà. Chỉ với ý nghĩ là Đảng cho người đến mua rẻ đồ đạc của một người mà họ kết án sống trong sự đói cũng đủ làm tôi không thể nén mình để bật ra những tràn cười ha hả… Người ta có thể phiền trách những lỗi lầm của Đảng, nhưng với cái thâm hiểm như thế. Không là không!

Một thời gian sau đó, bỗng dưng có một người ăn mặc trang trọng, com lê cà vạt hẳn hoi, đến gõ cửa nhà tôi. Thời buổi này mà ăn diện thế thì hoạ là mấy anh Việt kiều thôi. Tại sao? Thời ấy chỉ có những người nước ngoài và những người trong ngành ngoại giao có việc qua Hà Nội mới không phải mặc những đồng phục cộng sản. Nhưng khi nhà ngoại giao xong công tác ở nước ngoài về, trở lại vai trò công chức của bộ Ngoại Giao, họ phải cải đạo về lại với cái tôn giáo của áo đại cán và đôi dép râu, như thế chỉ có Việt kiều là đóng bộ, cà vạt.

Người khách Việt Nam của tôi tự giới thiệu là một doanh gia đang có ý định mở một khách sạn cao cấp tại Hà Nội dành cho du khách quốc tế. Chỉ cần nhìn là có thể biết ngay ông khách từ nước nào đến và thuộc giới người nào. Ông ta có một khổ người cao lớn so với người Việt trong nước với một làn da sáng của những người sống ở các nước ôn đới mà nắng không làm đen da, khuôn mặt nhẵn nhụi, vầng trán rộng, cao dưới một mái tóc chải chuốt cẩn thận thoáng một mùi nước hoa kín đáo thơm phức. Sau cái gọng kính vàng, đôi mắt ông ta nhìn kẻ đối thoại như muốn tìm sâu những ý nghĩ của họ. Với giọng nói chững chạc rõ từng chữ từng âm như để tránh những lỡ lầm của đầu lưỡi có thể làm lộ ra những ý định đằng sau của mình nhưng cũng đủ để cho thấy sự nghiêm chỉnh trong lời nói và sự trình bày. Nhưng nụ cười ông ta thì rất thân thiện, mời đón dễ gây thiện cảm và dường như có thể tạo nên một cuộc trao đổi chân thành và thông cảm. Ông ta tự giới thiệu:

– Tôi đã ra khỏi nước từ ba mươi năm trước và đã lập nghiệp ở Mỹ, mở một công ty nhập khẩu và vận tải biển với một đội thương thuyền nhỏ. Ở nhà tôi chưa bao giờ bỏ qua bất cứ chương trình truyền hình phát thanh nào bằng tiếng Việt hay tiếng Anh về Việt Nam. Tôi có nhiều liên lạc với ngưới Việt ở các nước như Pháp, Canada, Anh Quốc, Úc, Đức và dĩ nhiên là cả ở Mỹ. Tôi không phải là cộng sản, nhưng tôi cố tìm hiểu cái ý thức hệ đó, nhưng sẽ không bao giờ ngần ngại giúp sức nếu những việc làm của họ chừng nào họ còn làm vì yêu nước chứ không phải vì chủ nghĩa. Chúng tôi, những người Việt sống ở nước ngoài không bao giờ ngần ngại nói thẳng: cho dù là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản hay bất cứ thứ chủ nghĩa nào mà đem lại hạnh phúc cho nhân dân, kiếm cách làm cho dân tộc bớt nghèo, bớt khổ thi chúng tôi sẵn sàng đóng góp, đặc biệt là những giúp đỡ nhân đạo như trường hợp nạn đói hay lụt lội chẳng hạn. Chúng tôi dạy con nói Việt, giáo dục chúng những phong tục tập quán của quê nhà và chúng tôi cảm thấy hạnh phúc được thấy thế hệ sau rất xứng đáng với sự chờ đợi của chúng tôi, thấy chúng vinh dự mang tên Việt và có tổ quốc Việt Nam.

– Chúng tôi được thông tin về những gì quí ông bà mang lại cho dân tộc và đất nước. Đặc biệt là ở những vùng thường bị thiên tai, dân ở đó không ngần ngại nói rõ là gạo cứu đói không phải đến từ Chính Phủ mà đến từ những tấm lòng yêu nước thương dân của nhân dân trong nước và hơn nữa từ những người ở nước ngoài.

– Chúng tôi hạnh phúc vì chuyện ấy. Cái truyền thống đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau của những người cùng chung một mẹ, không phải mới có đây mà có tận thời bà Âu Cơ. Chúng tôi có một điều thấy tiếc về vấn đề này, nếu chúng tôi có thể nói được, đó là sự hiểu lầm giữa Nhà Nước và chúng tôi. Trong mấy chục năm, họ chỉ chúng tôi bằng đủ thứ tên gọi, đổ đống lên chúng tôi đủ thứ nhục mạ ti tiện, cho chúng tôi là những kẻ phản quốc. Khi chính trị che mờ lý lẽ, chúng tôi chấp nhận chuyện đó. Nhưng từ đó mà quay lưng với cả khối đáng kể người Việt ở nước ngoài với rất nhiều người thành đạt, đầy khả năng về khoa học, kỹ thuật, là những quản trị viên trong mọi ngành kinh tế, đặc biệt là những người có khả năng tài chánh lớn có thể góp phần xây dựng tổ quốc. Đó là một điều bệnh hoạn, một điều khùng điên không thể tha thứ được. Nếu những người muốn giúp Việt Nam đang phàn nàn về chuyện đó thì những kẻ chống lại vỗ tay hoan nghênh là Việt Nam đang tự mình cắt bỏ những đóng góp giúp đỡ của những đứa con của mình, như vậy sẽ làm cộng sản tan rã nhanh hơn.

– Thật đúng lúc để nhớ lại một câu nói dân gian là Jupiter làm mù mắt những kẻ mà nó muốn bị thua. Nhưng hiện nay chính phủ đang chăm chút Việt Kiều, đề cao lòng yêu nước của họ!

– Nhiều người trong chúng tôi đã phì cười về chuyện đó. Tiền làm thay đổi bộ mặt của thói đời và tấm lòng con người. Có lẽ ngưởi ta nên cám ơn mãnh lực của đồng đô la làm nên phép lạ đã làm biến hình, tẩy trắng khuôn mặt đen quỷ dữ của Sa Tăng biến chúng thành thiên thần của Thiên Đàng. Nhưng tôi thấy có một sự kiện mà tôi cho rằng có ý nghĩa. Có một số người trong chúng tôi đã dấn thân vào một cuộc đấu tranh bền bỉ cho nhân quyền ở Việt Nam. Lời nguyền rủa mà những người cộng sản đã tung ra ào ạt chẳng chứng minh gì khác ngoài cái hận thù tàn bạo mà họ có đối với nhân quyền: họ đứng về phía phi nghĩa và một thiểu số độc tài. Họ ngoan cố không chịu thấy sự thực là chuyện bảo vệ nhân quyền không có gì là phản quốc hay phản nhân dân cả. Kẻ nào trộn lẫn hai thứ đó vào nhau sẽ bị nhân loại đào thải. Họ là những kẻ đáng thương tội nghiệp hơn là đáng sợ. Sớm hay muộn, giờ trừng trị cũng sẽ đến.

Nhưng chính cái bệnh ấu trĩ của người cộng sản mới làm tôi kinh hoàng. Với tất cả những quyến rũ của chủ nghĩa tư bản, người ta lại kéo kinh tế thị trường, luật cung cầu, lý thuyết về giá cả, kinh tế tự do gộp chung lại và gọi đó là kinh tế năm thành phần, lợi nhuận, etc… rồi người ta dán lên đó cái nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa, và thế là trò chơi đã sẵn sàng: người ta đã có thể giương cao cái cựa và ném ra tiềng gáy cúc cu của chủ nghĩa xã hội… Người ta đã khởi sự dân chủ từ lâu nay, nhưng vì chê bai chủ nghĩa tư bản nên người ta lại phải trang điểm thêm cho dân chủ một tính từ “xã hội chủ nghĩa”. Và giờ đây thì sự loạn ngôn đầy náo nhiệt: khẩu hiệu được tung ra, kêu gào đó là Đổi Mới, nhưng chẳng có gì thay đổi: tham nhũng, hối lộ càng ngày càng toả rộng vùng bị nhiễm, không có một ông trùm nào bị đưa ra Toà hay bị những bản án. Nhục nhã và tệ hại hơn nữa là người ta đã sắp xếp cho kẻ phạm những tội quy mô đào thoát ra nước ngoài, hay nhắm mắt làm ngơ cho họ di dân đến nước khác để tránh những cuộc điều tra hình sự, trước dự thẩm hay trước Toà, để không làm liên luỵ tới những vị chúa tể và khỏi gây ra những phẩn nộ có thể hiểu được của công luận. Trong khi chờ đợi, những kẻ hút máu của nhân dân đã cất giấu an toàn những tài sản trộm cắp được, và sau một thời gian bị lưu giữ hoàn toàn hình thức dưới một thứ tù giam mà chúng có thể sống một cuộc sống xa hoa, họ có thể được giảm án, tha tội và được trả lại tự do để trở về sống yên bình, được tôn kính để tận hưởng thành quả của tội ác trước đây. Việc kiếm ra giải thích cho hiện tượng này là rất dễ dàng: cộng sản không cho rằng những tội hình sự mà các đồng chí của họ phạm là phải bị đem ra bêu thây và bị trừng phạt nghiêm khắc. Thật vậy, nếu thanh danh Đảng bị giảm và bị ô nhục thì niềm tin của nhân dân vào Đảng cũng mất đi, điều đó chẳng phải là vì do kẻ thù mà là do chính kẻ nằm trong ruột Đảng. Từ khi tôi vào Việt Nam, nhiều người bạn của tôi cho biết những tin tức đó, dù là những tin có thể làm lương tâm nổi loạn, đều là điều có thật. Những kẻ bị các lãnh đạo hận thù và bị kết án với những cái chết đầy bí ẩn là những kẻ thù chính trị đã đi sai “đường lối” của Đảng và nhất là những kẻ muốn bứng họ ra khỏi những chức vụ lãnh đạo cao nhất. Thật vậy, đó là những cuộc đấu đá dơ bẩn để dành quyền lực được che đậy dưới cái áo khoác đỏ của chính trị. Nhưng cái gì kinh hoàng và không thể tưởng tượng được là ở trong cũng như ngoài Đảng, có những trí thức nổi tiếng đạo đức mà ai cũng kính phục lại tham gia vào cuộc chơi, chấp nhận lời biện minh của Đảng, đưa cao quả đấm lên trời, bước đi trong hàng ngủ của Đảng, vừa gào to những khẩu hiệu giả dối. Ở đây phải công nhận là nền giáo dục cộng sản là thành công, họ thuyết phục được những người, dường như đầu óc vẫn còn minh mẫn nhưng lại không tin vào những gì mắt thấy, tai nghe mà ngược lại còn tôn xưng những tôn chỉ của Đảng, để tăng thêm niềm tin vào những gì Đảng quyết định và ra lệnh như là kẻ duy nhất nắm giữ sự thật và là nhà tiên tri Phúc Âm Marxist-Leninist. Loại cuồng tín biến sự đa dạng thành rô bốt, biến con người thành những cỗ máy chỉ biết cử động khi có lệnh đến từ bên ngoài thật sự làm những cái đầu biết suy nghĩ lo ngại.

– Tôi thấy chỉ có một phương thuốc duy nhất là cái văn hoá trí thức làm phát triển lý tính, gìn giữ tinh thần phê phán, rèn luyện năng lực phán đoán, rao giảng sự thật và khách quan, cỗ võ cho sự trong sáng và chính xác trong việc quan sát và thấu hiểu các hiện tượng, tính logic trong lý luận và nhất là biết hoài nghi đố với những anh Don Quichotte vừa cưỡi ngựa vừa tung ra những lời khoe khoang khoác lác chẳng những không thuyết phục được ai mà còn tỏ ra ngây thơ, dốt và ngu xuẩn! Chính nhờ nền văn hoá của Pháp được hưởng ích lợi mỗi ngày đã giúp tôi giữ được, chăm sóc và phát triển con người của tôi giữa cuộc sống bị xói mòn bởi chủ nghĩa hình thức và thân phận nô lệ.

– Cái ý thức phê phán và chủ nghĩa hoài nghi thì ít phát triển ở những nước nói tiếng Anh, như nơi tôi đang sinh sống, nhưng đầu óc thực tế và chủ nghĩa thực dụng lại giúp chúng tôi tự giữ mình không tuột trên con giốc của sai lầm bởi những định kiến và chủ nghĩa theo thời mà đập mình vào khối đá của quyền lợi mà tan vỡ. Cũng vậy, những gì tôi thấy ở Việt Nam làm tôi thật sự kinh hoàng. Trong những lần đi thăm nhiều nơi trong nước, đặc biệt là ở những vùng phía Bắc, tôi vẫn không thể hiểu được sự chịu đựng của giai cấp nông dân phải sống cảnh nghèo hèn đau khổ mà chưa bao giờ thấy họ vùng lên phản kháng, cũng không thấy họ kiếm cách tìm hiểu nguyên do hay thuốc trị. Khi tôi rời nước ra đi ba mươi năm trước, người ta lúc ấy rất hiếu động, năng động và luôn dám chế giễu những kẻ đang cầm quyền chứng tỏ là cái đầu của dân chúng vẫn tốt và vẫn biết cái gì là hợp tình hợp lý. Cái năng động càng làm cho dân chúng thêm tức giận khi phải đối mặt với cái nghèo, cái bất công. Ngọn lửa năm xưa đẩy quần chúng nổi dậy làm Cách Mạng Tháng Tám đã tàn lụi nơi nào rồi? Tại sao giờ đây họ trở nên như chết rồi không còn sinh khí, bất động trong sự thờ ơ? Tại sao họ lại chịu đựng ngồi khóc một cách thụ động hay có thể đang khóc vì tuyệt vọng như thế? Họ không còn tin mình còn sức gì trong trí óc và hai cánh tay nữa sao? Họ, những người đã viết nên những trang sử rực rỡ.

Tôi không thể thấy cái gì ngao ngán hơn là cảnh tượng sáu mươi triệu người đang trôi dật dờ không chút nghị lực như những xác người trên biển cả. Họ đã bị lừa bịp, phỉnh gạt, phản bội và điều không thể hiểu được là người ta chỉ biết kêu than đói khổ trong khi tài nguyên thiên nhiên thì đầy dẫy và đang chờ khai thác. Những quan hệ làm ăn khiến tôi phải đi qua các nuớc như Thái Lan, Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai Á. Ba mươi năm trước đâu có nước nào trong nhóm đó dám nói rằng dân tộc họ là hơn dân tộc Việt Nam? Có phải chăng họ cũng bắt đầu từ nghèo khó, có cùng những điều kiện kinh tế, xã hội, tinh thần, cũng phải trải qua những mâu thuẫn, những xung đột tương tự? Thế mà ngày nay thì họ được hưởng mức sống cao hơn, hưởng thụ những tiện nghi tối thiểu về nhà ở, nhiều tự do hơn trong cuộc sống và nhiều nụ cười lạc quan hơn trên khuôn mặt. Tại sao cái sung túc tối thiểu làm cho cuộc sống trở nên hiện hữu và có ý nghĩa, dân mình, một dân tộc chưa bao giờ nhường bước cho bất cứ nước láng giềng nào trên bất cứ khía cạnh nào, vẫn chưa có? Điều quan trọng cho mỗi người trong chúng ta ở Việt Nam là cần phải đặt câu hỏi và kiếm ra giải pháp, dẫu sao cũng nằm trong tầm tay mà thôi.

– Tôi thật phục ông đã có những nhận xét xác đáng và những lý luận có chất lượng của ông. Tôi thấy rõ là ông đã lấy cảm hứng từ một tình yêu chân thành và nóng bỏng cho dân tộc mà ông là một thành viên. Nhưng tôi thì không chia sẻ với ông cái lạc quan mà ông ước tính rằng giải pháp là nằm trong tầm tay. Theo quan điểm riêng của tôi, vấn đề chính yếu là việc giáo dục các tầng lớp quần chúng. Giáo dục phải dạy về những giá trị mà lòng trung thực và sự biết tôn trọng. Con người sẽ trở nên loại người gì mà Trường học muốn tạo như thế đó. Thứ giáo dục theo kiểu Spartan[8]  chỉ để dành cho việc đào tạo ra những người lính, đẩy tuổi trẻ vào những cối xay người đen tối, và những bài tập quân sự. Nhưng giáo dục chỉ có thể vận hành có hiệu xuất và cống hiến những kết quả tích cực nếu có toàn xã hội cùng góp sức với nó. Những giá trị bồi đắp cho tuổi trẻ chỉ có ý nghĩa và hiệu quả nếu toàn nước, bất kỳ nơi đâu, nhân dân đều tán dương và vinh danh chúng. Trong thời phong kiến, người dân được dạy và buộc phải tuân thủ những điều răn của Tàu và tuân phục cả những người thầy đã tuyên dạy chúng. Một kẻ nông dân thất học, nếu có nhặt được một mẩu giấy có chữ viết những điều răn trên đó thì hắn ta cũng ném vào lửa. Trong bậc thang xã hội, người thầy được đặt trên cao hơn cả người cha. Nếu chuyện là vậy là vì cha là đấng sinh thành và thầy có công dạy dỗ nên người. Nên người, đó là cái mục đích duy nhất và tối hậu của giáo dục. Vì vậy, muốn được xứng đáng mang danh “nên người” là con người phải được tô điểm bằng những đạo đức, chỉ riêng chúng, đã nâng cao và tán dương nhân tính của con người. Trường học dạy nguyên tắc, đạo đức ứng dụng nó trong gia đình và ngoài xã hội. Chế độ quân chủ ngày xưa bổ nhiệm những nhà nho, nhất là những người thi đỗ những kỳ thi Hương, ba năm tổ chức một lần, vào những chức vụ cao nhất của triều đình. Tên những người đỗ Tiến Sĩ được khắc trên bia đá, các làng không ngừng hãnh diện đã có con em đỗ đạt ra làm quan, trong số đó có những người đã làm điều tốt lành cho đồng bào nên lúc chết đã được dân làng tôn lên thành Thành Hoàng của làng và xây đình thờ phượng. Văn chương, bằng chữ viết hay truyền khẩu, đều đưa ra những tấm gương phải theo của những ông quan thanh liêm và trung chính với Vua và nhân dân, và đả kích không chút thương xót những ông quan leo được lên những nấc thang cao của vinh quang duy nhất nhờ những thủ đoạn nô lệ và hạ cấp. Trong một xã hội như thế, sự vô đạo đức là khó xen vào để kiếm chỗ. Quần chúng nhân dân không cần phải lên tiếng đòi hỏi trừng phạt những kẻ lạm dụng chức quyền hay ăn hối lộ. Cơn thuỷ triều đen của sự vô đạo đức không thể ngập trùm cả xã hội, cả nước được.

Cái khác biệt cơ bản và sâu sắc giữa xã hội ngày xưa và xã hội ngày nay là mục tiêu của giáo dục đã thay đổi. Ngày xưa người ta tôn vinh con người và đạo đức. Ngày nay, chủ nghĩa cộng sản và cái chính trị quốc tế chủ nghĩa của nó thì được ca tụng bằng trời. Khi cái giá trị chính trị nó đánh bật cái giá trị trí thức và đạo đức, đó là cả một cuộc cách mạng, những thành viên của Đảng không nghi ngờ điều đó. Họ không ngừng kêu gào hai tiếng “Đổi Mới” nhưng khẩu hiệu không thể thay cho hành động; sự xuống cấp của con người và đạo đức đã tiếp bước đi theo hay đi cùng với sự sụp đổ của kinh tế, làm nặng thêm cái nghèo và cái khổ đau của nhân dân.

– Tôi đã thấy ngay điều đó khi tôi vừa ra khỏi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất. Nhiều nhà trí thức phải đi đạp xích lô, trong khi những nhà chính trị lại chễm chệ ô tô. Trong khi những trí thức phải đi rửa xe máy, sửa xe đạp cạnh lề đường hay bán rau ở các cửa chợ thì các quan lãnh đạo đang thoải mái trong các biệt thự sang trọng với cái thân thể ngày càng đẫy đà qua những lần yến tiệc chiêu đãi sự hiện diện của họ. Trong khi người trí thức phải quần quật nghèo khổ thì các quan quyền cùng với vợ con vẫn chưa thoả mãn cuộc sống nhung lụa vẫn tiếp tục vơ vét vàng và đô la đem gửi ngân hàng Thuỵ Sĩ. Trong khi đó các kho bạc của Nhà Nước không còn tiền mặt, nhân viên bị sa thải, những người còn ở lại thì được phép ra ngoài buôn bán, kể cả ngay trên mặt bằng của cơ quan và được phép nhận những số tiền thù lao lớn nếu xoay sở mang hợp đồng về cho cơ quan chủ quản của họ. Cánh cửa được mở rộng cho thứ chợ đen nhà nước, gian lận thuế, ăn cắp những số tiền đáng kể của nhà nước thông qua những vụ nâng giá bất hợp pháp để được hưởng những khoản tiền hoa hồng. Không có một đất nước nào mà ở đó nhà nước trực tiếp khuyến khích sự phạm tội như thế!

– Cái vấn đề cốt yếu, cơ bản và cấp bách nhất là phải thay đổi con người, cái cỗ máy chính cho mọi hoạt động của xã hội, phải đề nghị cho Giáo Dục tự giao phó cho mình cái mục tiêu cao nhất: con người có văn hoá và đạo đức. Dĩ nhiên chuyện làm nên con người có văn hoá và đạo đức cũng phải thích ứng với đà tiến bộ hiện đại của khoa học kỹ thuật: nó không thể dừng lại xơ cứng với những giá trị Khổng giáo. Thật là nực cười là trong thời đại nguyên tử, điện tử và chinh phục không gian mà con người lại không quan tâm đến thành quả của khoa học. Nhưng khoa học chỉ dạy con người một cách sâu rộng về thế giới của vật chất. Nếu nó trang bị cho con người một thiết bị trí thức hàng đầu, một phương pháp suy nghĩ hợp lý, trên cơ sở kép của sự quy nạp và loại suy, nó chẳng giúp được gì trong việc khảo sát thế giới của đạo đức, việc tìm hiểu những chuyển động của linh hồn, trong chuyện giải trình những lý do của con tim hay tìm cách giải thích về sự hình thành, phát triển và huỷ diệt. Tới đây là lúc Văn Chương vào cuộc và chứng minh khả năng của nó. Văn hoá của một con người hiện đại được xây dựng và triễn khai trên cả hai khung trời khoa học và văn học. Từ đó, đạo đức của con người hiện đại sẽ thích nghi với những đòi hỏi của xã hội mới. Con người không còn đâm chém giết nhau, người ta không còn đòi người chiến sĩ phải là người can đảm, hy sinh và độ lượng dũng cảm, trên chiến trường người ta không còn thách đố với Thần Chết để bảo vệ cho đấng Thần Linh của mình hay cho người tình yêu dấu! Không, con người hiện đại tự chứng minh mình qua cái nhìn trong sáng và công bằng, bởi khả năng tiên liệu về những gì sắp xảy ngày mai, bởi khả nắng phán đoán chính xác về đối thủ và thời cơ, bởi sự bền gan chấp nhận những thất bại trong ngắn hạn để đạt đến những thắng lợi lớn trong tương lai. Họ có được những đức tính này qua những kinh nghiệm của cuộc sống, qua những đấu tranh và cũng nhờ ở văn học. Nhưng những đạo đức có tính quyết định nhiều nhất là tính trung thực, lòng lương thiện, công bằng, trọng danh dự và có lòng tự trọng, nhân đạo và rộng lượng.

– Tôi đồng ý với ông hoàn toàn. Nhưng con người có văn hoá và đạo đức là một lý tưởng lâu dài và khó khăn mới có được. Cái khó khăn chính là sự chống đối mãnh liệt của Nhà Nước không muốn thay thế con người lý tưởng của họ. Mặc dù, chỉ cần một tí thông minh và cởi mở là đủ để hiểu rằng con người lý tưởng cộng sản quốc tế vô sản là đã chấm dứt và sẽ được đưa vào bảo tàng viện những người bằng sáp của Grevin về Lịch Sử các Hiệp Sĩ Thời Trung Cổ. Nếu họ còn bám víu vào nó, không phải vì cái tự ái của các đấng sinh thành mà là do cái lợi ích đầy ích kỷ đang bị nguy hiểm của Đảng đang muốn được sống còn. Để đạt cái mục đích này, họ tung ra những khẩu hiệu “Đổi Mới”. Nhưng trong nước, bất kỳ nơi nào tôi đến, chỉ nghe nhân dân bàn tán về chuyện tham nhũng của giới cán bộ công nhân viên, mà hầu hết những kẻ này là người của Đảng. Đơn thuần là những quan chức nào đó được nắm những chức vụ cao và chịu những nhiệm vụ lớn thì dễ dàng thu vén đầy túi. Nhân dân đòi hỏi phải trừng phạt chúng, Đảng từng tuyên bố chống tham nhũng, nhưng cho đến nay, chỉ có vài tép riu du côn là bị trừng trị, nhưng đó chỉ là những kẻ phạm tội có tính riêng rẽ và cá biệt chẳng có gì liên hệ để làm hại cho các ông trùm. Thật là một điều sai lầm khi tránh không trừng phạt hay tránh né quá lâu trong việc trừng phạt các người phạm tội có tầm cỡ. Trừng phạt hay không trừng phạt Đảng đều mất uy tín. Trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, Đảng càng tự làm mình mất uy tín hơn nữa nếu cứ dừng ở những giải pháp nửa chừng, trì hoãn thực hiện, và những gì làm người ta kinh hoàng khi thấy Nhà Nước luôn gắn thêm cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” vào những gì thật ra là luôn luôn thuộc về chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu đó là những gì thuộc chủ nghĩa xã hội, tại sao phải chờ nền kinh tế bị sụp đổ mới đưa chúng ra áp dụng? Nếu nó không phải là phát minh của chủ nghĩa xã hội, việc tiếm đoạt tài sản của người khác là một việc làm bất lương, nhất là sau khi đã kéo chủ nghĩa tư bản vào bùn đen trong nhiều thập niên? Thật vậy, việc đánh lận con đen có thể giải thích được: bị dồn vào thế thất bại không thể tránh khỏi, cộng thêm cái lo sợ bị mất mặt, họ đã chọn trở thành trò cười cho thiên hạ. Đó là một sự sai lầm. Ở đây, hay bất cứ ở đâu, sự chân thành thẳng thắn là bắt buộc. Chẳng thắng được gì nếu cứ lừa bịp người chơi với những hột súc sắc đã được gian lận. Chẳng những chứng tỏ mình là vô tích sự mà còn làm cho danh dự của mình bị nhơ bẩn. Có gì phải xấu hổ khi nhận mình sai lầm nếu bài học rút tỉa sẽ mang lại những điều kiện thuận lợi cho một thành công trong lần thử sức mới?

– Thế thì ý ông thế nào?

– Tôi trở về đây để nhìn lại đất nước, nhưng tôi có nhiều bạn bè đang chờ ý kiến của tôi trước khi có thể vào đầu tư ở Việt Nam. Những gì tôi có dịp nhìn thấy không khuyến khích tôi tiến hành được chuyện gì. Tôi phải nói với ông là thị trường Việt Nam là hấp dẫn: tài nguyên đầy dẫy và chưa được khai thác, nhân công dồi dào, nhưng viễn thông và đường xá thì rất tệ, nhân viên hải quan thì quá tỉ mỉ soi mói, cảnh sát công an thì gây phiền hà. Luật Pháp, mặc dù gần đây đã có nhiều thay đổi, vẫn chưa đầy đủ và nhất là chính phủ dù đã cố nguỵ trang một cách vô ích, dưới lớp dầy của phấn son, cái màu đỏ vẫn còn đậm nét trên da mặt. Họ vẫn cố chấp trong việc độc quyền chính trị, phe lờ dân chủ, không chấp nhận nhân quyền, xem thường và đối xử tệ bạc với trí thức. Có ông nhà báo người Pháp, người đã viết bài ca tụng dân tộc Việt Nam thời chiến thắng Điện Biên Phủ, vừa rồi có quay lại Việt Nam đã viết: giờ đây sự ngu dốt và bất tài đã được dối trá và ích kỷ xông vào nhập cuộc. Kết luận: phải chờ thôi.

– Chờ đợi! Ông chờ và chúng tôi cũng vậy. Tất cả, chúng ta đều chờ những ngày tốt đẹp hơn cho Việt Nam.

– Sự chờ đợi có thể là lâu, nhưng ít nhất chúng ta cảm thấy điều đó sẽ xảy ra. Ở đây, trong tôi cứ xen kẽ hai tâm trạng: chờ đợi và thất vọng. Tôi hy vọng khi nghĩ tới tiềm năng phong phú về thiên nhiên và con người của Việt Nam. Nhưng tôi lại thất vọng khi vẫn là chứng nhân cho cái nghèo kinh hoàng mà nhân dân phải gánh chịu vẫn còn tồn tại, nhất là ở những vùng nông thôn. Dĩ nhiên, bây giờ có nhiều nhà ngói hơn xưa, nhưng than ôi không phải ai cũng được thoải mái, ngay nhiều nơi ở miền Trung dân vẫn còn kham khổ vì thiếu thốn và bị đói. Không thể chấp nhận được! Tôi thấy lòng mình dấy lên niềm hy vọng khi nhà nước và nhân dân cùng gào lên “Đổi Mới” và nhất là khi khi Đảng tham khảo ý kiến của nhân dân để xem nên cải cách thế nào. Nhưng tôi thật thất vọng vì chỉ thấy những quan điểm chính thức thì được hoan nghênh trong khi những quan điểm không chính thống khác thì bị đẩy lên giàn bêu thây trong khi chờ đợi những trừng phạt nghiêm khắc sẽ đến. Tôi đã hy vọng vào những cuộc tham khảo ý kiến trong nội bộ Đảng nhưng tôi đâm ra thất vọng khi thấy trên Ti Vi những đảng viên với một sự nhất trí, hơn cả sự tự nhiên, tung hô niềm tin vào Đảng cũng như Đảng dâng trọn niềm tin vào chủ nghĩa Marx-Lenin. Tôi tự hỏi, giữa hai niềm tin đó, còn niềm tin nào dành cho dân tộc và việc cải thiện cuộc sống của họ? Và nhất là tôi cảm thấy như mình bị hụt hẫng sai lệch khi nghe lãnh đạo Đảng bênh vực cho kinh tế thị trường là nền kinh tế chỉ có ý nghĩa trong chủ nghĩa tự do. Tôi đã hy vọng khi nghe Đảng công bố rằng dân chủ đã ngự trị, nhân quyền được tôn trọng, và tôi đã thất vọng khi biết được là có hàng ngàn trí thức đã hô hào cho dân chủ và đã nói ra một cách tự do những ý kiến của mình giờ đây đang ngồi suy nghĩ sau cánh cửa nhà tù để hiểu xem họ hay lãnh đạo ai là kẻ đúng lý. Tôi đã hy vọng khi thấy các nước Đông Âu đã quét sạch cộng sản và bọn lãnh đạo nó, thì tôi lại càng thất vọng khi thấy dường như Việt Nam vẫn còn là thành trì chót của chủ nghĩa cộng sản và vẫn còn đang nhắm mắt bịt tai đối với những gì đang xảy ra trên thế giới. Tôi đã hy vọng khi nhìn thấy nhiều sinh viên Việt Nam thắng nhiều giải trong các cuộc tranh tài thế giới. Nhưng tôi lại càng thất vọng khi thấy nhiều trí thức bị đẩy ra rìa xã hội, bị vào thế phải cực khổ làm những công việc chân tay thấp kém để khỏi phải bị chết đói trong khi những cán bộ có chức có quyền lại ung dung thoải mái trên các chiếc ô tô đắt tiền và gửi con cái đi “du học” nước ngoài và một ngày nào đó sẽ quay về Việt Nam để thay chỗ, thay quyền cho họ trong những chức vụ cao. Tôi chỉ kể ra một số sự kiện đã làm tôi kinh ngạc và dám thách bất cứ ai có thể chứng minh điều ngược lại. Có thể làm gì để chữa tình trạng thê thảm này không?

– Những việc mà ông vừa nêu ra không phải là do ông tưởng tượng đâu. Chúng tôi ở trong nước đã đau khổ nhiều vì những điều đó nhưng không bao giờ dám ám chỉ đến vì chỉ cần la lên chuyện thần thoại Midas có lỗ tai lừa là đã bị gán ghép thành tội phạm. Chỉ có những kẻ cơ hội chủ nghĩa đang thèm khát danh vọng và lợi lộc là sẵn sàng sang sảng ở bất cứ góc đường nào để vinh danh mụ Messalina ngoại tình kia là người đàn bà trung trinh nhất thế gian. Giới lãnh đạo luôn luôn hô hào như người ta thường nói là chớ bao giờ vạch áo cho người xem lưng. Mặc dù thế tôi vẫn không đi đến chỗ cực đoan là đòi phải loại bỏ tất cả những người cộng sản. Một cái đầu biết suy nghĩ rất kinh sợ cho những điều “mới mẻ” có thể gây ra những xáo trộn nặng nề cho xã hội, gây tác hại trên quyền lợi của người và của. Tôi cũng sẽ làm như người đàn bà hàng ngày chăm lo cầu nguyện cho ông vua ác Syracuse đang trị vì được nhiều sức khoẻ sống lâu vì bà ta sợ rằng người kế vì có khi lại còn tàn độc hơn hắn ta. Vì thế, tôi đặt tin tưởng vào Đảng và là Đảng đã được tái sinh. Mặt khác, tôi cho là bất cứ bàn tay nào có thể mang lại hạnh phúc và ấm no cho dân tộc, bất cứ ai mà mối bận tâm lớn nhất là không chỉ riêng cho họ mà cho cả nhân dân, cái đó mới là quan trọng. Cá nhân tôi, tôi rất kinh sợ chính trị, và nhất là khi tất cả những con người chính trị đều giấu mặt sau những chiếc mặt nạ đầy ích kỷ và dối trá, thối rữa trong tội ác và kiêu căng tự đại. Làm sao có thể khác hơn khi họ chỉ là con người, để mà nói rằng, trong tự bản thân mỗi người luôn có sự xung đột giữa cái xấu và tốt, mà cái tốt lại hiếm khi thắng? Tôi cứ cho tất cả chúng một cái túi là xong.

– Ông có thể dành một ngoại lệ cho những người cộng sản mà lâu nay vẫn được hàng triệu người trên thế giới tán dương?

– Cộng sản đã giết nửa cuộc đời của tôi, đã buộc cả gia đình chúng tôi phải chịu kéo dài những đầy đoạ vì cái đói bằng cách cắt đứt mọi cách kiếm sống của tôi trong nghề dạy học và làm luật sư. Nhưng những kẻ đáng thương kia đang bị một thứ bệnh ấu trĩ, chỉ biết nói như con vẹt: họ đoạ đầy trí thức để theo gương bọn Stalinist và Maoist. Tôi tha thứ cho họ về những chuyện đó: chẳng qua họ cũng chẳng biết họ đang làm gì. Nhưng tôi không bỏ qua chuyện họ đã cấm đoán tôi có cái hạnh phúc trong nhiều chục năm có dịp đào tạo nhiều thế hệ thanh niên như tôi đã làm vào thời trước khi họ lên nắm chính quyền, nghĩa là cả một lớp trẻ rất khá về ngôn ngữ và văn chương Pháp, một lớp người được trang bị một nền đạo lý lớn của Pháp và một nền văn hoá có chất lượng cho phép họ cùng nhau tham gia lèo lái con thuyền chung vượt qua những vùng đá ngầm của cuộc sống. Tôi đã không có dịp truyền đến cho họ ngọn lửa nhiệt tình soi sáng tinh thần và những bước đi của tôi trong cộng đồng con người.

– Cái khôn ngoan và cái vốn văn hoá đó đã gợi ông có thái độ nào đối diện với chính trị và đặc biệt là đối với những người cộng sản?

– Tôi mở tuyển tập Montaigne. Đó là cuốn sách gối đầu giường, là nguồn tiếp sức cho tôi. Có rất nhiều bài học rất tốt mà những người cộng sản, nếu họ có chút văn hoá, có thể học hỏi từ những tác phẩm đó. Đọc qua tập Những tấm gương sáng của cổ nhân trong tuyển tập Montaigne họ sẽ nhận thấy là không nên giữ trong đầu những gì chỉ vì do cấp trên bảo ban và những gì không có gì chứng minh, là bất cứ ai theo chân người khác thì không theo cái gì cả. Nói rõ hơn là không bao giờ quỳ luỵ bất cứ ai, kể cả Mác hay Lê Nin, kể cả Stalin hay Mao. Họ không nên tự giam, xây tường nhốt mình vào một thế giới kín bưng mà phải mở rộng giao thiệp với người, cọ sát và mài dũa trí óc của mình với trí óc của người khác, xâm nhập vào thế giới rộng lớn này, phải nhìn ở đâu để nhận ra những con đường vòng tốt nhất và những điều cóp nhặt có thể học hỏi từ người khác; mỗi người phải biết nhào trộn biến chúng thành thứ của riêng xem đó như là lý luận của mình. Cái thu hoạch theo cách học đó làm kiến thức mình ngày càng lớn và rộng thêm. Ở đây, nói tóm lại, đó là những gì người cộng sản cần phải học để tự xây dựng bản thân trước khi lãnh đạo người khác.

Và ngày nay, đối diện với những người cộng sản, người ta phải sống với thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình? Hãy nghe lời của các bậc thầy. Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm, bày biện nó và vui với nó. Cái khẩu hiệu “tự làm chủ lấy bản thân” là một điều chỉ có thể thực hiện ở chỗ khuất mắt sau nhà. Phải tách cái góc nhà đó ra khỏi cộng đồng vợ chồng, kể cả con cái, kể cả người dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy mình, chúng ta có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để từ đó tự đánh giá và điều chỉnh bản thân của mình. Cái chắc chắn nhất là hãy đặt niềm tin vào chính mình và dựa trên những gì tất yếu cho mình. Nếu như chúng ta sống trong những thời kỳ khó khăn, và chứng kiến cảnh đáng lưu ý về cái chết chính tri của chính chúng ta, thì hãy biết rằng trong hoàn cảnh đầy xáo trộn mà chúng ta sống ba mươi năm qua, mọi người đều có thể chỉ nội một giờ là số phận có thể sụp đổ hoàn toàn. Từ đó, thái độ có tư cách nhất, ngay cả lúc chúng ta buộc phải nhận một chức vụ trong chính quyền, là phải chẳng những không được phủ nhận những phẩm chất đáng khen của phe đối thủ mà cả những phẩm chất đáng chê của những kẻ mà mình theo. Nói một cách ngắn gọn là chúng ta phải đề cao cảnh giác, phải có một cái nhìn rõ ràng, và tránh thái độ phe nhóm hay có thành kiến gây ảnh hưởng trên thế đứng của mình trong xã hội và đặc biệt là trong cộng đồng chính trị. Cái khôn ngoan sắc xảo nhất là nghe theo tác giả: “tôi không biết dấn thân một cách thật sâu và thật toàn diện như thế: khi tôi muốn cống hiến cho một đảng thì không phải vì một nghĩa vụ mang tính bạo lực mà tôi để cho lý trí tôi trở nên đồi bại”. Chính vì không muốn lý trí của mình trở nên đồi bại mà không ít một số trí thức đã từ chối lời mời gia nhập Đảng.

– Hay! Tôi hoàn toàn hiểu ông. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, suy nghĩ của ông là thế nào? Làm sao có thể thoát khỏi con đường bế tắc mà ta bị giữ trong đó, và bị giữ trái với ý muốn của mình?

– Phái cực hữu thì muốn truy sát phe cộng sản cho đến tận sào huyệt bí mật nhất. Cánh cực tả thì muốn chiến đấu bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bất chấp mọi trở ngại, ngay cả việc phải thực hiện một vài thay đổi hay nhượng bộ. Tôi nghĩ rằng giải pháp cần phải có nhiều sắc thái hơn. Cái khuôn vàng thước ngọc nào buộc ta phai luôn nhớ và đang chi phối cái trận chiến điên cuồng giữa các đối thủ đang hiện hiện? Nếu con người là điểm phát xuất và cũng là điểm đến cuối cùng của giáo dục và văn hoá thì nhân dân cũng phải là điểm xuất phát và điểm đến cuối cùng của mọi lực lượng chính trị. Chúng ta hãy thực tế. Chúng ta coi thường bất cứ thứ ý thức hệ nào chỉ toàn đưa ra những loạn ngôn để làm duyên cớ. Nhân dân đòi hỏi gì? Ít và thật ra là nhiều. Ít là vì họ chỉ mong chờ một cuộc sống vật chất vừa phải: một chỗ ở tươm tất, những bữa ăn thich hợp, quần áo sạch sẽ. Trong đời sống tri thức và nghệ thuật, họ chỉ yêu cầu được học hành đào tạo và có văn hoá, được giải trí lành mạnh. Trong đời sống chính trị họ mong muốn được tham gia ý kiến về những vần đề quan trọng liên hệ đến hiện tại và tương lai của họ, và được tự do phát biểu những ý kiến và suy nghĩ chân thành của họ. Trong đời sống xã hội, họ chỉ mong được giáo dục và có cuộc sống đạo đức, có những phong tục tập quán trong sáng đẹp đẽ, những cư xử chuẩn mực của từng cá nhân và nhất là của những kẻ đang nắm quyền. Họ coi tất cả những xung đột về ý thức hệ hay về những thứ tương tự chỉ là vấn đề văn phạm trong ngôn ngữ mà thôi, như Montaigne đã viết. Họ cũng chẳng cần biết những chính sách đưa ra là tư bản hay cộng sản. Cái chính yếu là làm sao mang lại ấm no cho dân tộc: tất cả những thứ khác đều là những chuyện ba hoa chích choè và vô nghĩa.

Hiện nay, đảng cộng sản đang nắm quyền trên đất nước. Họ đã qua những lúc vinh quang và những lúc khổ nhục. Không thể chối cải là nhân dân không có một thứ quyền gì trên những bí mật và sinh hoạt của Đảng: đó là một thế giới riêng rẽ, nằm bên trên thế gian này. Cái độc quyền chính trị mà họ đã bảo vệ bằng mọi giá đã rèn dũa thành một sự kết hợp chặt chẽ và đã củng cố khối người của ho nhưng nó cũng đã đưa đến việc phạm những tội ác kinh hoàng không thể nào chuộc lỗi được, những tội ác mà chính họ cũng đã công nhận là sự tàn phá là vô cùng nghiêm trọng. Bây giờ, họ muốn tự khảm xa cừ lên mình, họ đã tổ chức hoàn hảo một guồng máy bạo lực. Muốn bứng họ đi là có đổ máu. Họ tuyên bố là họ rất mong muốn đổi mới bằng những thay đổi cơ bản và cốt yếu. Hãy cho họ một thời gian ân huệ, một án treo. Nếu, nhờ vào những cố gắng nhiệt thành, những hy sinh với giá cao, tự mình đổi mới, thực tâm và chân thành áp dụng cái nguyên tắc mà họ từ lâu nay tuyên cáo: đó là “vì dân và do dân”, thì tại sao chúng ta không dành cho họ một cơ hội chót? Nếu chúng ta loại cấm họ như là một đảng chính trị, thì chúng ta sẽ lại chơi trò chính trị, đang chứng tỏ lại với họ cái cuồng tín mà chúng ta đã từng lên án họ. Cái đặc ân này sẽ làm họ suy nghĩ lại, họ sẽ cố gắng trở nên xứng đáng hơn với lòng tin của nhân dân bằng cách thoả mãn quyền lợi của nhân dân và biết tôn trọng ước nguyện của nhân dân.

Chúng tôi đã không ngã giá trên các món đồ. Thật quá sự mong đợi của tôi, người khách đã trả cho tôi gấp đôi cái giá mà tôi đề nghị.

 

5
Bi kịch bị mất phép thông công, bị cô lập và cô đơn

Từ xưa con người đã sống quay quần trong một cộng đồng. Một khi các nhu cầu đòi hỏi đã vượt quá sức lực và khả năng của cá nhân và gia đình thì chúng chỉ được thoả mãn thông qua sự giúp đỡ hỗ tương và hợp tác trong cộng đồng, nhất là trong lãnh vực quốc phòng, canh nông cây lương thực, chỗ ở, quần áo, giáo dục… Cái sinh hoạt muôn mặt chung góp cho việc duy trì cuộc sống vật chất của mỗi cá nhân, chú trọng đến sự phát triển về thể chất con người, từ đó bảo vệ sự toàn vẹn của con người và sự tiếp diễn của cuộc sống.

Nhưng ra ngoài những giới hạn của thể chất và cuộc sống vật chất là cái không gian vô giới hạn và vô cùng của cảm xúc và con tim. Xã hội không muốn và không thể can thiệp vào hai lãnh vực này. Cái bên trong đó chính là phòng xét nghiệm, là nơi cấu thành những quyết định của nội tâm, dẫn tới những hành động thể hiện nhân cách và biểu hiện ước vọng của con người. Có một sự hỗ tương qua lại giữa hai thế giới, thế giới bên ngoài tạo ra những điều kiện buộc con người phải phản ứng, thế giới bên trong phản ứng lại làm cho ngoại cảnh lại trở lại tác động trên con người. Cái cơ chế với hai chuyển động qua lại này giúp bảo đảm một sự quân bình cho cá nhân, những trao đổi giữa hai thế giới, bên ngoài và nội tâm, giúp định vị và duy trì con người giữa một hệ thống phức tạp gồm những tác động, phản tác động giúp cho con người cảm nhận sự sống.

Bởi vì, cộng sản đã ngăn cản những tiếp xúc và trao đổi giữa hai thế giới, ngoại cảnh và nội tâm, cắt đứt cái quan hệ giữa chúng và bộ máy ngưng không chạy hết công sức mà chỉ chạy cầm chừng, làm chậm đi một cách đáng kể chuyển động của các bánh quay và mắc xích. Trong những trường hợp quá nặng, cá nhân bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài, họ sẽ mất đi những cảm xúc rồi dần mất luôn cả những khả năng của lý trí và tâm lý sẽ rơi vào sự tê liệt càng ngày càng lớn. Cá nhân có thể trở thành khùng điên và tổ tiên sẽ không mất công chờ đợi lâu để đón họ ở bên kia thế giới. Đó là thứ hình phạt nặng nề nhất dành cho con người. Bên kia chuyện đó chỉ là án tử hình.

Trong trường hợp cá nhân tôi, không hề có một bản án được tuyên, không nhà lao, không phòng nhốt tù. Nhưng trong nhà nước cộng sản, có bao nhiêu thứ hình phạt không tên được tiến hành, không chính thức, nhưng về lâu đó chỉ là những án tử hình không hơn không kém. Đó là hình phạt cắt phép thông công mà những kẻ cuồng tín chính trị đã cóp nhặt từ kho tàng tội phạm thời Trung Cổ, cắt phép thông công là vũ khí quyết liệt của bọn cuồng tín tôn giáo. Người ta đã cấm tất cả những người trong họ đạo không được chứa chấp, nuôi ăn hay cho mặc những kẻ bị mất phép thông công là những kẻ đã mất nhà cửa, kế sinh nhai, quần áo, không còn cách nào có được một cuộc sống bình thường như trước. Chuyện cắt phép thông công của tôi chỉ dừng ở chỗ cấm cửa không cho tôi vào dạy ở Đại Học và bước vào các Toà để hành nghề Luật Sư. Cả mười Uỷ Ban Chấp Hành Trung Ương của mười tổ chức quần chúng không chính thức đã tiến hành loại tôi ra nhưng họ chỉ dừng ở chỗ là không mời tôi đến dự những buổi họp của họ. Thái độ của cộng sản là có ý nghĩa: họ là những tín đồ của những biện pháp nửa chừng, rình đâm sau lưng, bỏ thuốc độc vào tách trà hay gian trá tạo ra những vụ tai nạn chết người. Tội ác đã phạm nhưng không để dấu vết. Dưới mắt của Luật Pháp, họ có thể kêu gào là chuyện xảy ra là không có chứng cớ, và hơn như thế, trong xã hội, họ đã tránh được những tai tiếng, tránh làm dấy lên những dư luận chính trị, mà vẫn giữ được danh tiếng cho người bị trừng phạt trong đời sống xã hội và chính trị. Chủ nghĩa Machiavelli vẫn được tiến hành dưới một lớp nguỵ trang đầy nghệ thuật.

Liên quan đến chuyện của tôi, tôi không bị ném vào tù hay bị còng tay. Tôi không bị bắt đưa ra bất cứ toà án hình sự hay chính trị nào. Tôi không bị bắt đày đi xa nhà hay xa gia đình. Nhưng cả xã hội và mọi người đều biết: để tránh phải chịu những phiền phức, những ai muốn tiếp xúc với tôi, dù bất cứ chuyện gì, đều không dám. Nhà tôi như đang chứa một người đang bị bệnh dịch, không nên đến gần. Ra đường, mọi người thấy tôi từ xa đã quay ra ngõ khác để tránh đụng mặt, nếu người nào đó, vì vô tình vô ý hay vì can đảm đến gõ cửa gặp tôi, ngay sau khi vừa rời khỏi nhà là đã có công an mời về cơ quan để tra tấn họ với những câu hỏi về họ là ai, về gia đình và tầng lớp xã hội và đặc biệt là có quan hệ gì đến tên tội phạm là tôi đây. Chắc chắn rằng tên tuổi của người đó sẽ được ghi vào sổ đen và từ đó sẽ thường xuyên bị theo dõi. Không cần phải có cặp mắt tinh anh để nhận biết rằng ở tất cả những ngã tư đường dẫn đến nhà tôi lúc nào cũng có một hay hai tên cớm dù đã thay đổi căn cước hình dạng nhưng không đổi nhiệm vụ cảnh giới và canh gác, để chận bắt những người chỉ vì vô tâm hay gặp lúc số phần bị xấu mà đến bấm chuông nhà tôi. Thật là một màn hài kịch, vừa tức cười vừa bi đát, mỗi khi tôi ra khỏi nhà để đi lang thang đây đó, tôi luôn luôn bị bám đuôi theo dõi chặt chẽ. Nhiều người bạn thấy tôi từ xa đã ngay tức khắc quay lưng và biến mất như chiếc bóng trong đêm. Nếu gặp đôi lúc, để giữ gìn sức khoẻ, tôi ra ngoài tản bộ quanh những con đường kế cận, tôi không bao giờ bỏ qua cơ hội, mỗi khi đi ngang qua những người công an đang theo dõi tôi, cẩn thận giở nón chào họ một cú ra trò làm cho họ không được vui lắm. Cả họ và tôi đều biết rõ họ đang diễn trò gì. Như thế họ phải hiểu là tôi quá biết rõ những lệnh lạc mà họ nhận từ chủ nhân và cái tinh quái của tôi là không bao giờ để cho cái cảnh giác của họ có thể thình lình bắt tôi được. Dĩ nhiên, tất cả thư từ của tôi đều bị mở và một số không bao giờ đến tay tôi. Tất cả thông tin đều được ghi vào hồ sơ, về tên tuổi những người gửi thư cho tôi và dĩ nhiên họ sẽ tiến hành điều tra về những người này. Tất cả những con chó to đùng được gửi đến để cắn tôi đều không thể táp với những cái răng nanh vì chúng không thể tìm ra khoảng trống nào có thịt của tôi cả. Sau nhiều năm dài theo dõi, chủ nhân của chúng khám phá rằng chẳng được tích sự gì nên đã buộc phải chấm dứt sự theo dõi đó.

Vào thời gian đầu của cuộc sống đầy bất hạnh của tôi, và trong suốt những chuỗi ngày đen tối đó, tôi thật bất ngờ khi thấy những nhân vật chính trị có tầm cỡ đến nhà tôi, như đồng chí Hà Huy Giáp. Tôi không biết ông ta tự ý đến hay có ai đó đã giao cho ông việc làm đến thăm tôi như thế. Ông ta tỏ vẻ lo lắng cho sức khoẻ của tôi và đặt những câu hỏi vô thưởng vô phạt về sinh hoạt của tôi. Trước đây tôi được nghe những lời đồn tốt về ông nhưng chưa có dịp gặp ông ta. Cuộc trao đổi không đi sâu đến mức riêng tư nhưng tôi có cảm tưởng là có những động lực thân thiện đã đưa ông đến nhà. Một người trong Trung Ương, một nhân vật khá quan trọng của Đảng, đã cất công đến thăm một kẻ bị loại, bị mất phép thông công. Bất kể cái gì, bất kể từ động lực tình cảm nào, cuộc viếng thăm của ông ta như thể một tia nắng chiếu vào đêm tối cô độc của tôi.

Mặc dù với cuộc viếng thăm rạng rỡ và đầy ánh sáng của Hà Huy Giáp như là một tia chớp làm sáng lên đêm tối của đời tôi, tôi vẫn cảm thấy đau khổ cô đơn sống cô lập vì người ta đã kết án tôi. Tôi không bị cô lập với gia đình nhưng vợ con cố giấu nhịn những dòng nước mắt để không làm tôi khổ thêm, và tôi biết những giọt nước mắt của họ lại sẽ tuôn trào những khi tôi vắng nhà. Về phần tôi, tôi rán tránh nhìn trong mắt họ để không nhìn thấy những nếp nhăn trên gò má vì những đêm mất ngủ và phải chịu quá nhiều đau khổ. Một khi quyền lực đã ném sức nặng vào tay giới cầm quyền, họ hống hách tuyên bố, dưới cái nhìn của họ, là đã có kẻ đã phạm một tội ác không dung thứ được, thì cái sợ hãi đã lan ra đến nỗi không ai dám mở cửa hay mở lòng đón tiếp kẻ “phạm tội” đó. Kẻ “phạm tội” chỉ còn cách tự buộc mình sống trong cô lập mà cũng chỉ có nó là phải chịu đau khổ bởi những dày vò đau đớn của sự cô đơn. Không có nhà nào dám che chở cho nó ngủ, không một bộ quần áo nào có thể che chở cho nó chống chọi đêm đông lạnh giá, không món ăn nào làm ấm bụng, giúp cho nó chút sức để đứng dậy trên đôi chân mà bước đi, không còn một đôi tai thân thích nào để nghe lời than vãn của họ, không một tiếng nói đầy lòng thương nào để ban bố cho tiếng kêu than.

Người đời nhìn tôi, tôi nhìn họ, không còn ai nhận ra ai. Vâng, một kẻ bị trục xuất, bị cắt phép thông công thì phải sống cô đơn ở mọi nơi, ngay cả khi đang sống trong đất nước của mình.

Nhưng cuộc sống bị cô lập giữa những người xa lạ, dù họ là những người cùng nòi giống với bạn, đau đớn bao nhiêu cũng không sánh bằng cái khổ khi phải thấy cái thống khổ của chính gia đình mình, của những người thân thương nhất, của người bạn đời và của máu mủ của mình! Cái cô đơn này cũng là cái quí giá hiếm hoi làm lộ ra cái tình yêu sâu đậm tạo nên sợi giây liên lạc thiêng liêng giữa tôi và vợ con. Họ đau khổ khi nhìn thấy tôi khổ. Họ nghĩ suy cho đó là bổn phận và tình yêu nên cố giúp tôi bớt đau khổ bằng cách giấu đi khổ đau của chính họ. Tự nó, đó là cái động lực rất đáng khen, quý phái, đáng được thán phục và vinh danh, nhưng rủi thay, người chồng và cha, mà họ mong muốn làm cho bớt khổ, dù chỉ trong muôn một, lại làm cho hắn khổ đau gấp hai khi thấy không thể chia cho nhau những tiếng thở dài và niềm đau cay đắng. Trong cuộc chơi đầy bi thảm và đau đớn, mỗi người trong ba chúng tôi là lo cho người kia, cho hai người kia, tin rằng mình mới là kẻ có khả năng chịu những đợt tấn công của nghịch cảnh và giữ được sự thanh thản và cân bằng bên trong để có được sự an bình của tâm hồn. Nhưng cái mà đang giết chúng tôi là ai cũng biết mình đang lừa dối với chính mình, và muốn lừa dối người kia hay cả hai người kia. Không ai bị lừa cả, nhưng cả ba người đều tự cho rằng mình là người được nhiều an ủi, để rồi tuôn trào nước mắt nhiều hơn khi nỗi cô đơn đến trong đêm khuya.

Vì thế tôi rất đau khổ khi biết rằng vợ con đã phải chịu khổ vì mình, sức khoẻ họ đang kém đi vì những đêm không ngủ kéo dài, và cứ lặp đi lặp lại mỗi ngày. Ý nghĩ đó tra tấn tôi ngày đêm, xé nát tim tôi, làm tôi luôn thao thức trên giường, buộc tôi phải ngồi dậy, bước quanh trong phòng cho tới khi đi nằm lại. Trong nhà, cả ba con người đều không nhắm mắt ngủ được, và nhờ cái đói, họ đành cứ phải lê những buớc yếu ớt quanh phòng và nếu có một cơn ngủ đến làm họ nằm xuống, chẳng qua là nhờ sự kiệt sức đã làm tan biến chút năng lượng hay sức lực còn lại. Thật là một phép lạ khi chúng tôi đã vượt qua biết bao lần như thế, trong khi chỉ cần một lần là có thể đã dễ dàng lấy đi mạng sống của chúng tôi.

Nếu cứ mỗi cuộc khủng hoảng làm chúng tôi đau nhức chết người, thì những lúc tĩnh lặng sau đó, khi dài khi ngắn, lại làm cơn đau dồn dập hơn nữa. Cái đau đớn đã xé tôi ra từng mảnh, đè nghiến, xé toạc tôi, xuyên thủng tim tôi những lỗ sâu bén, cắn xé hồn tôi ra từng mảnh với hàm răng sắc nhọn. Đó là một thứ sức mạnh hiện hữu, có nét riêng và, nếu tôi có thể nói là xác thực, mà tôi không thể đo lường được cái cường độ, cái năng động, sức mạnh, sự tiến hoá và chu kỳ, thời gian ngưng đọng và tái diễn. Ngược lại, những cảm giác thống khổ mới đang tra tấn tôi lại thuộc về một chủng loại hoàn toàn mới mà tôi chưa bao giờ được biết. Ngược với cái đau đớn mà tôi gọi là hiện hữu xác thực đang đập nát tinh thần và đang xé nát tim tôi, thì những cái đau mà tôi cảm nhận là những tác động tiêu cực làm tan rã ý chí, làm mềm đi hệ thần kinh, làm chậm dòng sinh khí, làm nhu nhược hoàn toàn thể chất và tâm lý của tôi, biến tôi thành một thứ giẻ rách chỉ xứng đáng để ném vào sọt rác. Cái khổ đau này, nó như cơn thuỷ triều đang dâng, tràn ngập và nhấn chìm tôi trong một tình trạng suy nhược và tê liệt, chỉ để lại trong tôi một mảnh ý thức rời rạc đủ để tôi nhận ra cái sức nặng của một khoảng trống rỗng không. Trước đây cuộc sống của tôi thật sống động, cho những bài giảng ở Đại Học, tranh cãi trước Toà Án, viết những bài tham luận, khảo cứu văn chương. Tôi thường có một cảm giác sung mãn, nóng bỏng muốn hành động và biểu lộ ra ngoài. Ngày nay tôi trở nên gật gù trong trạng thái lừ đừ yếu đuối, tưởng như đang trôi dạt trên một biển cả không bờ không bến và bị tan biến trong cái vùng nước mênh mông không động đậy. Ngày xưa, thời gian đối với tôi là một kho tàng quí giá nhất, nó trôi qua quá nhanh ngược lại ý mình, đã làm tôi tuyệt vọng; ngày nay nó chỉ là một chiếc khung hình hoàn toàn không có gì trong đó, hiện ra một khoảng trống không màu sắc, chỉ để làm hư tầm nhìn và tiêu diệt cả ý chí. Tôi căng óc lấp đầy cái hư ảo này với những cảm xúc nghe, nhìn. Tôi phải tìm nhìn chăm chăm vào từng chiếc lá trên cây bên đường, chú mục vào từng kẻ đang bước trên phố, từng cái xe chạy, tôi như một người mù vừa mới tìm được lại ánh sáng, vừa xem xét chăm bẳm từng thực tiễn của cuộc sống, vừa ngạc nhiên trước những điều mới lạ. Nhưng mọi cố gắng đều trở nên vô ích, và sự kiêu hãnh của họ đã ném tôi vào một niềm thất vọng không thể chịu đựng được. Cả thời gian đó, dù tôi đã cố gắng quên mình trong những chuyện tầm phào, nó vẫn tiếp tục làm cho tôi hoang mang lẫn lộn, nó vẫn quấy phá tôi bằng cái rỗng tuếch của nó.

Tôi nảy ra ý nghĩ một mình lang thang khắp phố, tập trung với tất cả chú tâm nhìn ngắm những sinh vật, tất cả các căn nhà, tất cả những hoạt cảnh đang chuyển động, những thứ kết hợp thành bao nhiêu là chuỗi phim tài liệu về đời sống ở thủ đô. Không có một du khách nào đã đẩy trí tò mò của mình đi xa như tôi như thế. Nhưng tất cả những bận bịu, mà tôi hiểu rõ hơn ai hết đó là chuyện vô ích, cũng không cho phép tôi lấp đầy hết khung thời gian của tôi. Tất cả những việc làm vô hồn đó không thể nào thoả mãn một tâm hồn đang khát bỏng những ước vọng chưa thoả, với những nhiệt tình nhất định. Tôi tự so sánh mình với người lữ hành đang băng qua sa mạc, nặng chĩu trên vai một gói vàng và không cầu xin gì hơn là được trao tất cả số vàng kia để đổi lấy một cốc nước.

Tôi lang thang trôi dạt đến khu Ba Đình, nơi mà xưa kia tôi hay đến chơi tennis trong những lúc rỗi rảnh. Vẫn chưa đến giờ tan sở, trên sân vẫn vắng bóng người chơi. Đang ngồi cạnh sân, bỗng nhiên tôi hết sức ngạc nhiên thấy như một cục gì đang lăn tròn dưới chân tôi mà lúc đầu tôi cứ tưởng là một cục len. Đó là một con mèo bé tí chắc mới đẻ vài ngày trườc đây, chắc là mẹ nó, theo thói quen, đã quyết tâm bỏ đi để nó tự một mình khám phá thế giới. Tôi bế nó lên trong lòng bàn tay, dịu dàng vuốt ve nó và tôi cảm thấy nó thật tội nghiệp. Nó và tôi là hai kẻ lạc loài đang trôi dạt bơ vơ trong cuộc đời, cả hai cùng chung cái đói, nạn nhân cùng bị cô lập và sầu não chung một số phận. Sau khi đi một vòng trong khu nhà hỏi xem ai là chủ nó, câu trả lời luôn là không biết, tôi cám ơn sự may mắn hay Đấng Cứu Thế nào đó đã trao cho tôi một người bạn đồng hành bất hạnh và khốn khó để tôi có thể thì thầm chuyện vãn hầu lấp đầy cái khoảng thời gian trống vắng, để cho tôi có một kết nối tình cảm mà tôi không dám đòi hỏi nơi vợ con vì sợ rằng sẽ đào sâu thêm nỗi khổ đau của họ. Giữa tôi và vợ con, sự im lặng là cái hùng biện hơn là những lời nói và nó không làm tuôn thêm những dòng nước mắt. Câu chuyện giống như tôi và con mèo con kia: chỉ cần nhìn nhau trong ánh mắt là quá đủ cho những trao đổi tình cảm.

Trở về nhà, tôi chia cho nó chén cơm trắng của tôi. Tôi rất vui khi thấy nó bằng lòng một chút cơm như thế và nó lên cân khá nhanh. Mỗi khi tôi ngồi thiền hay ngồi mơ mộng bên cạnh cửa sổ, nó leo lên ngồi trên đùi tôi, về đêm nó đến nằm kề bên cạnh. Nhờ đó, tôi bắt đầu bước những bước đầu tiên, bước ra khỏi con đường hầm vô tận của cô đơn, tự cho mình một lý lẽ để sống bằng cách lấp đầy những khoảng trống trong sự hiện hữu của tôi. Tôi không thể đi dạo một mình ngoài đường vì lúc nào cũng có bọn chó săn bám gót phía sau. Tôi không thể ghi danh vào câu lạc bộ tennis Ba Đình vì giá vợt, banh và giày vải để chơi là quá cao với một giá thật điên khùng và tôi không thể nào vươn tới. Nhưng điều làm tôi đau lòng nhất là thấy biến mất những bạn cùng chơi ngày xưa nay kiếm cách tránh và chạy mặt tôi. Sự bỏ chạy của họ như là những cú dao đâm vào tim tôi, tôi không thể nào đóng vai một kẻ vô gia cư hay cùi hủi. Tôi hiểu thái độ những người bạn chơi tennis kia, tất cả đều là những chức sắc cao cấp trong chính quyền, dĩ nhiên là những người của Đảng, là những người luôn luôn lo lắng hơn ai hết về tương lai quan chức và chính trị của mình. Vì thế họ sẽ bị kinh hoàng khi phải bắt tay một kẻ đang bị bệnh dịch và phải chơi một trận tennis với kẻ này. Họ cũng chỉ là con người, với những tâm hồn yếu kém, tôi không thể nào mong họ bớt mất tư cách hơn, bớt hèn hạ, bớt mất phẩm giá hơn.

Con mèo lớn nhanh và nó được tôi dành cho nhiều săn sóc. Nó giúp tôi hoà giải lại với cuộc đời, nó làm nẩy nở trong tôi cái thú vui được có lại những sinh hoạt trí thức, những sinh hoạt ngày xưa đã đem lại cho tôi những niềm vui thanh khiết. Tôi phải làm cách nào để khởi động lại cái máy trí thức của tôi đây? Tôi lượt xét lại tất cả từ năm 1932, năm mà tôi trình luận án Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương và Tiến Sĩ Luật. Trong lúc chọn đề tài khảo cứu, tôi dành phần như nhau giữa phương Tây và phương Đông, giữa nước Pháp và Việt Nam. Luận án chính của tôi về văn chương viết về Musset, luận án về Luật viết về cá nhân trong xã hội xưa dưới các triều đình An Nam (Bộ Luật nhà Lê). Riêng về cái luận án bổ túc về Văn Chương, nó nhằm giới thiệu đến công chúng Pháp một tác giả người Pháp đã viết về đề tài “Việt Nam vào cuối thế kỷ 19” tên Jean Boissière. Niềm ưu tư về sự cân bằng và giao hoà giữa hai thế giới đã gây cảm hứng cho tôi trong bốn cuốn sách viết vào khoảng năm 1940. Cuốn thứ nhất, Nụ cười và nước mắt của tuổi trẻ, trình bày cái tâm lý và những sinh hoạt trí thức và xã hội của một cô gái trẻ người Việt, được đào tạo ở Pháp, có trách nhiệm phải xây dựng phương Đông của ngày mai. Chính cái “xây dựng phương Đông của ngày mai” lại là cái cảm hứng để tôi viết hai cuốn sách, một cuốn dành riêng viết về những giá trị của Pháp: Những viên ngọc của nước Pháp và cái khác với những giá trị vùng Địa Trung Hải (Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp), một cuốn là Bước đầu của Địa Trung Hải. Tác phẩm thứ tư là một vở kịch mang lên sân khấu cái xung đột, trên khía cạnh tình cảm, giữa một kẻ du hành hiện thân cho phương Tây với những nhu cầu hay di động và thay đổi, và một cô gái tiêu biểu cho tình cảm qua sự trung thành và bền vững: “Cuộc hành trình và tình cảm”.

Từ năm 1940 đến 1945, nhiều xáo trộn cực kỳ nghiêm trọng đã xảy ra trên thế giới và ở Việt Nam: từ nay, nước Pháp không còn tập trung vào những hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nơi mà Cách Mạng cộng sản đã thắng thế từ năm 1945 và đang điều hành nhân dân. Từ 1945 đến1956, tôi và gia đình bỏ vào bưng cùng tham gia Kháng Chiến chống thực dân. Khi trở về Hà Nội, tôi trở lại đi dạy Văn Chương ở Đại Học và mở lại văn phòng Luật Sư ở Hà Nội. Tôi được bổ nhiệm, nhờ Đảng ban ân huệ và cũng chẳng phải do tôi xin, ngồi trên ghế của Uỷ Ban Trung Ương của mười tổ chức quần chúng. Từ năm 1958, vì đứng ra bảo vệ cho dân chủ, tôi đã bị tước bỏ mọi nhiệm vụ; tôi đã nhắc lại những diễn biến này trong phần đầu của cuốn sách này.

Đó là những sinh hoạt trí thức của tôi từ 1932 cho đến ngày hôm nay. Giờ đây tôi sẽ phải bám víu vào thế giới nào đây? Đó là một điều cực kỳ quan trọng. Cái vấn đề chính yếu mà tôi đã dựa vào để làm căn cơ cho cả cuộc đời trí thức của tôi là điểm gặp nhau giữa Đông và Tây, ngược với luận đề của Rudyard Kipling là chối bỏ cái khả năng đó. Tôi tự cho mình cái công việc là lo giúp sự hiệp thông qua lại của hai thế giới, trên cơ sở đó hai bên có thể thực hiện cuộc gặp gỡ. Mỗi thế giới đều có một thang giá trị riêng, đôi khi kình chống lẫn nhau. Sự gặp gỡ, trên cơ sở của sự thông cảm lẫn nhau, sẽ kéo theo việc bên này giúp đỡ bên kia để bổ sung lẫn nhau và cùng đào luyện để mang những lợi ích chung cho nhân loại. Chính theo hướng đó mà tôi đã đặt hết suy tư để hoàn tất tác phẩm của cuộc đời tôi.

Nhưng phương Đông, đặc biệt là Việt Nam lại va phải một số khó khăn trong việc đi tìm những giải pháp cho những vấn đề cấp bách và quan trọng. Thí dụ như vấn đề đào tạo con người mới. Ở Việt Nam nhiều lần cải cách về giáo dục vẫn chưa mang được gì thoả đáng. Có lẽ nên cần thiết hoàn toàn xoá bỏ và làm lại tất cả những quan niệm chính trị, nhưng đảng cộng sản Việt Nam sẽ nhìn với con mắt rất xấu những ai nêu lên cách đó như một giải pháp cho việc cải tổ giáo dục. Có lẽ phải làm cho các vị lãnh đạo nghiền ngẫm về những tư duy về sư phạm của Pháp, chỉ trong hai thế kỳ, từ Érasme đến Rousseau, đã thành công đào tạo con người, nói đúng hơn, con người trí thức hiện đại, thiếu họ cuộc cách mạng Khoa Học Kỹ thuật không thể nào thành công. Công việc nghiên cứu của tôi là nhắm vào điểm này.

Một vấn nạn có tầm cỡ khác là giới trí thức Việt Nam phải giải quyết thế nào về cái quan hệ giữa chính trị và văn học. Rất nhiều văn nghệ sĩ không thể chấp nhận cho chính trị quản lý chi phối những sáng tác văn học. Đảng đã tuyên cáo rằng chính trị phải đứng ra quản lý văn chương và mục đích của văn chương là phải phục vụ chính trị trong những đường lối chung và những đường lối riêng của Đảng. Tất cả những nhà văn vâng theo nguyên tắc này đều nhận được công danh và bổng lộc, cho mình và cho cả những người trong gia đình. Nhưng đa số những người khác thì nhăn nhó mà theo hướng này. Như vậy vấn đề cũng quan trọng như việc đào tạo con người. Như vậy, rất cần thiết cho tôi được đưa ra những suy nghĩ về vấn đề kia. Không phải để nhắm làm thay đổi những kẻ ương ngạnh đã dính luận cương của Đảng, tôi cảm thấy có điều ích lợi để trình bày cho độc giả về vấn đề đã được giải quyết thế nào dưới thời Cổ Đại Hy Lạp và thời Cổ Đại La Tinh.

Hy Lạp thời cổ đại đã đưa ra mẫu mực của Eschyle (Aiskhylos), một trong những bậc thầy về bi kìch Hy Lap, mà những tác phẩm đều được chính quyền và nhân dân ngưỡng mộ và trọng nể. Thật không có gì quan trọng khi chính trị thích nghi với văn chương hay ngược lại. Cái hiển nhiên là tác phẩm của Eschyle là đượm mùi thơm của chính trị, là niềm vinh quang của nhân dân đã đánh thắng giặc ngoại xâm. Người đọc Việt Nam ta sẽ tìm thấy trong đó tiếng vọng của niềm vinh quang của chính chúng ta.

Một hình ảnh tương tự được thấy trong tác phẩm Virgile (Vergilius). Đường lối chính trị của Auguste là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp; như thế vai trò nhà thơ là ca tụng vẻ đẹp của nông thôn, viết nên những vần thơ của nông nghiệp. Auguste còn đưa ra một đường lối chính trị hoà hợp và đoàn kết để củng cố nền tảng của vương quốc sau khi gầy dựng nên nó. Việt Nam ta có lẽ có cùng hoàn cảnh như thế, trong những vinh danh tán dương về nền nông nghiệp cũng như trong đường lối chính trị của mặt trận dân tộc cho Tổ Quốc.

Cuối cùng là tuyệt phẩm của Eschyle: vở kịch bộ ba Oresteia cũng đáng cho Việt Nam quan tâm, vì tác giả đã nêu lên chuyện trả thù cá nhân được chuyển biến thành chuyện trừng phạt bằng pháp lý của Nhà Nước, và, một mặt khác, từ những nhóm trùm buôn nô lệ tiến đến một nền dân chủ có nô lệ. Nền dân chủ bắt đầu thăng hoa và nhận sự giúp đỡ của thần Hoà Bình, những Erinyes, thần Báo Thù, tất cả được biến hình thành những Euménides là những thiên thần của dịu ngọt và lòng nhân.

Để giúp mình vượt qua những dằn vật của sự trống trải đã thấm nhập vào con người tôi làm tôi trở nên tê liệt trong bạc nhược và rầu rĩ. Cái suy nghĩ cả ngày lẫn đêm dẫn tới việc tôi định ra một chương trình làm việc mà theo tôi ước tính là có thể kéo dài đến hai mươi năm.

Như vậy, trong cái khung suy niệm về chỗ gặp gỡ giữa Đông và Tây, để theo đuổi chủ tâm của tôi là làm sao cung cấp vật liệu của phương Tây cho một công trường phương Đông, tôi nhấn mạnh đến những cống hiến của nền văn minh Cổ Đại của Hy Lạp và La Tinh. Những cống hiến này có thể là rất bao la, nên tôi chỉ chọn những gì có liên hệ trực tiếp đến thời sự Việt Nam, và chính xác hơn là những đóng góp đặt ra cho trí thức và giới nhà văn. Và cũng như, trong những năm dài trong mật khu, người ta đã đề nghị chúng tôi học tập về chủ nghĩa Marx, với tôi đấy là cơ hội ngàn năm một thuở để đưa vào áp dụng những gì trong chủ nghĩa Marx để giúp tôi hiểu nhiều hơn sự tiến triển của xã hội và sự xuất hiện của những biến cố lịch sử.

Sau rốt, vì các nhà lãnh đạo Việt Nam là những người đầu tiên quan tâm đến những nghiên cứu của tôi nên chúng được tôi viết bằng tiếng Việt chứ không bằng tiếng Pháp.

Bốn tác phẩm đã hoàn tất sau những cố gắng của tôi:

1) Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII (Erasme đến Rousseau);
2) Eschyle và bi kich của Hy Lạp;
3) Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu;
4) Virgile và sử thi Hy Lap.

Mỗi tác phẩm gồm chừng 500 trang máy đánh chữ. Tôi đã gửi một bản sao cho các Uỷ Ban của Trung Ương Đảng (Uỷ Ban Giáo Dục và Uỷ Ban Văn Hoá Nghệ Thuật); tôi đã nhận được những lời khen ngợi và được giấy phép ấn hành. Rủi thay, những cơ quan ấn hành, nơi mà tôi giao các bản thảo, đều từ chối vi họ không có ngân sách để in chúng. Tôi đành chịu thua. Thât là cộng sản.

Tôi đã lên kế hoạch là sẽ làm việc một thời gian dài, chẳng cần bận tâm muốn biết là tôi có thể hoàn tất nó trước khi tôi chêt hay không. Hai mươi năm nữa thì tôi đã sáu mươi lăm. Biết tôi còn sống đủ lâu để đạt tới mục đích của tôi không? Chẳng quan trọng, cái thiết yếu của tôi là làm sao phá vỡ cái khoảng không vô tận đang níu chặt lấy tôi, thoát ra khỏi cái chán nản làm suy nhược con người mà tôi đang bị dính nhựa, tiêu pha thời gian ngâm mình trong những dòng nước cứu giúp của một sinh hoạt có ích và say mê. Nỗi khổ đau dai dẳng của tôi xem như chấm dứt, và chắc chắn là tôi đã lấy lại nét mặt vui tươi vì vợ và con gái tôi không còn khóc khi nhìn chăm vào mặt tôi. Góp vào cái âu yếm của vợ con là cái nũng nịu của con mèo nay đã lớn trông thấy, khoanh mình nằm trên đầu gối tôi khi tôi đang ngồi làm việc và cọ sát cái đầu nó vào chân tôi khi tôi đứng dậy. Con vật thật đáng thương! Nó thiếu tất cả các thứ mà những con mèo đang vênh vang trong phòng khách của các ông lớn ngập đầy: mẩu thịt, chút sữa hay chút canh gà. Tôi thì thầm vào tai nó rằng nó đã được sinh ra dưới một ngôi sao xấu vì nó đã rơi vào nhà của một kẻ bị mất phép thông công, ông ta cũng thế, keo kiệt từng miếng cơm, lấy cớ là để giữ gìn “đường nét” như một cô gái đẹp có lẽ đang cố gắng cho lần chinh phục sắp đến. Tôi đã ép con mèo phải tự chăm lo đường nét của nó, để gìn giữ cái dáng vẻ thanh tao của giống mèo, khi nó phơi bộ xương sườn ốm nhách trên tấm chiếu, đặt dưới sàn nhà, nơi mà nó dùng như bàn ăn. Như một nhà thơ đã kêu gào: “Ôi lao động, cái luật thanh thản của thế giới!”, chính sự làm việc đã cứu tôi: tôi như được sống trong môi trường của mình, tôi như con cá được vẫy vùng trong nước. Tôi làm sống lại niềm vui sống và niềm vui này sẽ không bao giờ ra khỏi tôi, dù chỉ trong chốc lát, cho tôi được hít thở không khí của trời đất và thời gian.

Việc bán tài sản của tôi hết món này đến món khác đã giúp chúng tôi một ít tiền bạc, cái ít ỏi mà nhờ đó chúng tôi có những bữa ăn đạm bạc hằng ngày. Số chén cơm cho cả ba chúng tôi, bữa trưa và buổi tối, đã được nâng lên con số 12 và phần rau cũng được nâng lên. Thật là một bữa tiệc cho chúng tôi ngày Chủ Nhật, khi tự cho phép mình mỗi người một trái chuối! Tình trạng bị cô lập chúng tôi vẫn thế: không ai trong dòng họ dám gõ cửa nhà tôi và không một người bạn nào thoáng qua cửa sổ. Tất cả họ đều đi vòng để tránh phải đi qua con đường chúng tôi ở. Tôi không ra khỏi nhà nữa, cũng không ra khỏi cái bàn làm việc của tôi để loại cho những người quen một cuộc gặp gỡ mà họ sợ còn hơn là sợ ngọn lửa của địa ngục.

Dù thế, tôi không biết họ làm cách nào, những người bạn xa gần vẫn không quên tôi. Nhiều lần, khi tôi mở cửa nhà buổi sáng, tôi chợt thấy nhét dưới cánh cửa là một phong thư nhồi đầy giấy bạc. Chúng tôi khóc vì xúc động và chúng tôi tuyệt vọng vì không biết làm cách nào để tỏ lòng biết ơn những ngưới đầy lòng tốt mà chúng tôi không hề biết tên! Nhiều lúc, khi màn đêm buông xuống, vào lúc trời còn nhá nhem, có những lần tôi làm vài bước đi dạo ngoài đường. Bọn cú vọ lẽo đẽo một khoảng cách phía sau, nhưng rất khó cho chúng nhận ra mặt của những người, đạp xe ngang qua rất nhanh, vội vàng nhét vào tay tôi một phong thư hay một gói nhỏ. Chả thấy, chả biết! Tất cả những thao tác ấy xảy ra chớp nhoáng: mấy tay công an chỉ kịp thấy ánh đèn xe đạp nhấp nháy!

Tất cả những cử chỉ hào phóng mà tôi là kẻ được hưởng làm tôi suy nghĩ. Tôi nhận thấy cái bất lực của nhà cầm quyền trong việc ngăn những tin tức được truyền đi. Họ đã quyết định tước bỏ vĩnh viễn quyền công dân của tôi, ngăn cấm mọi liên lạc của tôi với thế giới bên ngoài. Trong nước, cái sợ hãi bị trừng phạt, trực tiếp hay xa gần, đã đánh gục những kẻ ngây thơ hay bạo gan dám liên lạc với một loại “bị bệnh dịch” như tôi, xoá sạch những tấm lòng đầy thiện ý. Dường như với tôi, bị cô lập cả trong và ngoài nước, cái chết tự nhiên sẽ tiếp nối không sớm thì muộn cái chết dân sự kia. Nhưng cái hy vọng đó xem ra là vô ích. Những tin tức dù bí mật nhất rồi cũng sẽ thoát ra ngoài xã hội, chúng lan truyền với tốc đô chóng mặt, nhờ những phương tiện truyền thông hiện đại và bởi cái tác động của tính tò mò mà mọi người đang cháy bỏng muốn biết những gi đang xảy ra ngầm trong hậu trường chính trị.

Tôi sẽ vén lên cái bất lực thứ hai của nhà nước: Có thể chăng họ không muốn cái chết của tôi, một cái chết mà họ không muốn bị bẩn tay và cẩn thận tránh không bị nhân dân quy trách nhiệm, nhưng họ sẽ không được nhìn cảnh tượng biến mất của tôi bằng cặp mắt thiếu thiện cảm. Họ đã dùng mọi thủ đoạn để loại bỏ một trong những giống trí thức tồi tệ này: bằng cách chối bỏ bất cứ phương tiện kiếm sống nào của người này. Tôi và gia đình không chết vì đói: chúng tôi quá khổ đau vì đói, mất hàng kí thịt trong cơ thể, trên mặt chúng tôi là những vết tích của cái bụng lõm sâu và cái bao tử trống không, nhưng chúng tôi chịu đựng được! Tiền thu được của những lần bán liên tiếp các tài sản giúp chúng tôi kéo dài những ngày dật dờ trong nhiều năm nhưng chúng tôi không cho phép những kẻ căm ghét chúng tôi được vui khi hay tin chúng tôi chết. Và, vào những khi chúng tôi cạn kiệt tiền bạc thì lòng hào hiệp của những người bạn trong nước hay đang ở nước ngoài ném cho chúng tôi những chiếc phao cứu hộ giúp cho chúng tôi nổi trên mặt nước thay vì phải chìm sâu đến tận đáy sâu của hư không. Nhiều người bạn trong nước cũng như ở Pháp, sau bốn mươi năm bặt tin, cứ tưởng rằng tôi đã bị gạt tên khỏi danh sách của những người còn sống. Nhưng tôi đã trả lời cho họ: “Tôi là một loài cỏ dại. Người ta có thể bước lên nó, đạp bẹp nó nhưng một khi có một giọt sương mai, giọt nước mưa hay một dòng nước mắt rớt xuống, nó lại bừng dậy mỉm cười trước ánh sáng mặt trời”. Nguồn sống của chúng tôi, bắt đầu khô cạn sau khoảng chục năm, lại được đong đầy bởi những dòng thác sôi sục của lòng hào hiệp của những người bạn, những người quen trong nước và trên thế giới. Họ là những kẻ không tên, không biết mặt nhưng không phải là không thận trọng, đã sáng tạo ra những phương cách tài tình chế nhạo tất cả những kẻ cầm quyền trên thế giới, bất kể cái hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã chung tay làm nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của lòng trắc ẩn và sự tử tế, để đưa bàn tay cứu giúp những nạn nhân của bọn độc tài khát máu. Cái nhiệt tình của họ sinh động là nhờ lòng vị tha và lòng vô tư đã gạt qua tất cả những toan tính của ích kỷ. Cái mục tiêu mà họ muốn đạt đến có hai khuôn mặt: một mặt là tinh thần nhân đạo và tình anh em giữa những người trí thức, mặt kia là cái kinh hoàng của những kẻ bạo ngược và sự tàn bạo. Cuộc chiến đấu của trí thức tiến công chống lại cái độc tài mù quáng và vô nhân đạo, bởi lẽ kẻ độc tài đã ra tay đoạ đầy người trí thức kia! Một trí thức, trong cái liêm chính của con người và với cái minh mẫn trong tinh thần, là một người lính chống lại sự chuyên chế chuyên lặp đi lặp lại những lời hứa hão huyền và sự bất lực đã phải cầu cứu đến đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng cua họ.

Sau hai mươi năm, tôi đã hoàn tất công trình mà tôi tự đặt cho mình. Nhờ sự đồng hành của Montaigne, Rousseau, Eschyle và Virgile, tôi đã thoát ra khỏi sự cô lập và nỗi cô đơn của tôi, tôi như nở hoa trước ánh nắng của sáng tạo và dưới ánh mặt trời của tự do trong lòng tôi. Từ 1958 cho đến nay, gần bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách tồi tệ nhất mà người ta có thể gán cho một trí thức, một con người. Nhưng đó lại là những năm tuyệt vời mà tôi biết được. Tôi như được thăng hoa, sung sướng là đã thắng những nghịch cảnh mà người ta đã đưa ra để chận con đường sống của tôi, đã điều khiển những sinh hoạt của mình hướng theo sở thích và sự chọn lựa của mình và cống hiến những khả năng khiêm nhường của tôi cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng những tâm địa độc ác và đồi bại của những kẻ đã thề phải hạ gục được tôi. Nhưng tôi vẫn tha thứ cho họ bằng cách lặp lại câu nói bất hủ: “Chúng cũng không biết chúng đang làm gì!”. Người ta sẽ quên đi Cinna, nhưng sẽ nhớ mãi August[9] và lòng khoan dung quảng đại của ông ta.

Năm 1989, vào tuổi tám mươi của tôi, những người bạn Việt Nam và Pháp mời tôi làm một chuyến viếng thăm Pháp. Sau Đại Hội VI Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, lần đầu tiên trong lich sử của họ, đã tuyên bố chấp nhận chủ nghĩa tự do còn hôi sữa, tôi lợi dụng cơ hội xin chiếu khán đi Pháp. Tôi cũng không mong mỏi đơn xin của tôi sẽ được chấp thuận, nhất là đối với một người mà hồ sơ chính trị lại dầy cộm như của tôi. Thật là bất ngờ đến sửng sốt, sau đâu chừng hai tháng chờ đợi, tôi nhận được cả hộ chiếu lẫn chiếu khán để đi Pháp. Rủi thay, chính phủ Pháp đã kéo nhiều tháng dài mới cấp chiếu khán nhập cảnh cho tôi. Thiệt tình! Thế giới đã bị lộn ngược.

Tôi xuống máy bay ở phi trường Orly vào một buổi chiều Tháng Mười. Những người bạn Việt và Pháp đã dành cho tôi một cuộc đón tiếp thật cảm động. Sau sáu mươi năm, tôi tìm lại tổ quốc của tri thức của tôi, cùng lúc với một sự hiếu khách đầy tinh tế và ân cần của những trái tim vàng. Cái cơ thể đã suy nhược bởi bốn mươi năm thiếu thốn về vật chất và khốn khổ về tinh thần đã xỉu ngã quỵ ra sàn. Đây là lần thứ nhất trong đời, ở tuổi tám mươi, tôi nhập viện vào một nhà thương của Pháp và nhận được những chăm sóc hết lòng. Mười ngày sau, tôi liên lạc lại với bạn bè và tiếp tục những sinh hoạt. Tôi được đài truyền hình TF1 phỏng vấn. Tôi đã làm hai cuộc hội thảo, một ở Clermont l’Herault, gần thành phố Montpelier, nơi mà ngày xưa tôi đến thu thập tài liệu về ông J. Bossière cho đề tài của luận án bổ túc Tiến Sĩ Quốc Gia về Văn Chương của tôi; và một Đại Học Sorbonne ở Paris VII. Tôi đã đến thăm thủ lãnh Luật Sư Đoàn Paris.

Một biến cố quan trọng, vượt khỏi sự mong đợi của mọi người, đã bất ngờ cuốn hút chú ý của tôi, là cuộc nổi dậy của nhân dân các nước Đông Âu. Mỗi ngày, tôi theo dõi hàng giờ trên truyền hình và báo chí và cố gắng tìm hiểu cái gì muốn nói lên khi quần chúng đang gào lên những khẩu hiệu căm thù cộng sản và đã ném xuống chân ngai vàng những tên lãnh đạo và chúa tể cùng một giuộc, những kẻ, vì sự ngu đần của đầu óc, vô nghĩa trong nhân cách, thiếu vắng những khả năng để lèo lái đất nước, đã theo bước chân của Stalin, và đã mòn gối quần quỳ lạy tung hô Lenin va Stalin! Suy nghĩ thật kỹ, những ai đã quan sát và nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản, qua những áp dụng thực tiễn của nó hơn là những gì trong những bài học lý thuyết của nó, sẽ nhận thấy là sẽ rất khó cho các nhà lãnh đạo còn giữ được vị trí của họ trong hệ thống hành chánh ở một nước, trong chính phủ gọi là của nhân dân, bởi lẽ chính họ đã trâng tráo phạm pháp ở những nơi này mà không bị hề hấn gì, những định luật của kinh tế học và đã chà đạp hung bạo lên những nhu cầu hằng ngày, những niềm tin gốc rễ của con người. Cứ theo chiều hướng đó, họ còn có thể đứng vững bao lâu nữa trên một sự mất cân bằng cơ bản? Nhưng không ai có thể ngờ rằng sự sụp đổ của nó đến nhanh như thế. Nhiều ký giả đến hỏi thăm ý kiến của tôi về những biến cố có thể xảy ra ở Việt Nam. Họ hỏi tôi: “Ông nghĩ bao giờ thì chế độ Việt Nam sẽ sụp?” Tôi trả lời họ: “Tôi không làm nhà chiêm tinh và cũng không tham khảo mấy lá bài tây. Kiên nhẫn, kiên nhẫn đang ở trên trời, mỗi hạt li ti của yên lặng là cơ hội cho một trái cây chín tới!”.

Đã sống đến tuổi tám mươi trong lòng tổ quốc, tôi bắt đầu nhận biết nhân dân Việt Nam. Nhờ sống bốn mươi năm dưới địa ngục cộng sản, cuối cùng tôi cũng hiểu được những người đã thực hiện chủ thuyết đó. Tôi cho là một cuộc cách mạng bằng bạo lực là không đúng lúc, không hiệu quả và không nên có vì nó sẽ phát sinh ra những biến động phi thường, những hỗn độn không thể dập tắt, mà cả dân tộc sẽ khóc ra máu.

Cái tiêu chuẩn hợp lý và lô gic là tài năng phải đi song hành với đạo đức, vì lẽ nếu người trí thức tràn đầy tài năng mà đạo đức của họ vẫn chưa gợi được sự tin cậy. Họ hư hỏng vi chủ nghĩa cơ hội, lòng ích kỷ và tính kiêu ngạo của ho. Những kỹ nghệ gia và thương gia đã gặt hái được tài sản và tích luỹ được kinh nghiệm trong lãnh vực kinh doanh và kinh tế, nhưng nhiều khi họ rất cận thị trong chính trị, thường hay thiếu sự điềm tĩnh và khôn ngoan. Lòng yêu nước và tính trung thực là hai đức tính được quý trọng nhất, nhưng tài sức phải được sinh ra từ một văn hoá trí thức và khoa học. Có đảng phái chính trị nào mà không mong có trong hàng ngũ của mình những người kết hợp được văn hoá trí thức và khoa học cùng với lòng yêu nước và tính trung thực? Ngay cả khi vấn đề đa nguyên đa đảng, chuyện đã làm tốn bao giấy mực và nước bọt, chuyện mà đảng cộng sản phản đối kịch liệt với một sự bền bỉ không thể hiểu nổi, được tuyên cáo và công nhận, người ta cũng chưa biết được đảng nào có thể đạt được trong tức thời số lượng phiếu bầu phổ thông đủ để có thể thành lập một chính phủ cho cả nước.

Một lý do khác mà chúng ta phải ghi nhận. Dù có ghét hay thương cộng sản, mình cũng phải công nhận rằng những người lãnh đạo nó đã phải chịu đoạ đầy vì lòng yêu nước của họ. Những thế hệ kế tiếp và những người nối nghiệp thì không thể tự hào là có cùng cái hào quang đó. Dù vậy, trong số những kẻ kế thừa vẫn có những người mà lòng trung chính, dù thiếu khả năng, vẫn xứng đáng để chúng ta ngả mũ chào, còn bao nhiêu kẻ khác chẳng có chút khả năng nào lại thêm thiếu đạo đức nhưng hết mực bám vào Đảng vì Đảng đã tổ chức và bảo vệ quyền lợi cá nhân của họ. Những tay cộng sản đó hết sức quyết tâm chiến đấu đến chết cho Đảng. Cuối cùng, trong quần chúng người ta thấy hàng trăm ngàn người như thế, trong quân đội, trong nhà máy, trong tầng lớp nông dân, là những người đã hưởng một sự giáo dục tư tưởng trong nhiều năm, nhưng lại không có văn hoá, thiếu đầu óc phán xét và tinh thần phê bình và lại sa vào sự cuồng tín, có niềm tin sắt đá vào những sự thực được dạy bởi Đảng và sẵn sàng đổ máu, và nếu cần cả tính mạng để bảo vệ cái Đảng của Hồ Chí Minh, chống lại mọi kẻ đối nghịch và kẻ thù nào muốn lật đổ họ hay tiêu diệt họ. Quân đội một bên, một bên kia là hàng triệu kẻ cuồng nhiệt và kẻ cuồng tín, hai thành trì có thể tiêu diệt mọi đám người muốn đến giải phóng Việt Nam. Họ phải ngưng tự ảo tưởng về mình, phải ngưng trò Don Quichotte.

Cái bí mật của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán đoán những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật pháp quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh tế của nước liên hệ mà sự thịnh vượng, dù đã bị giới hạn, là rất cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền của con người. Đối với những gì mà cộng sản đã tuyên truyền cho chủ nghĩa Marx – Lenin, người ta cũng phài làm như thế để quảng bá dân chủ. Muốn áp dụng dân chủ, chúng ta cần phải học những nguyên tắc và tổ chức những định chế cho phép sự vận hành nó. Bản chất của dân chủ, trong ý nghĩa sâu sắc và cái tác dụng toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm không thể phân ly, cái này dính với cái kia: đó là nội hàm ‘Chính phủ do dân’ và nội hàm ‘Chính phủ  dân’. Thật là xấu hổ nếu cứ mưu mẹo lập lờ trên chữ nghĩa và cho rằng ‘Chính phủ cho dân’ là đủ. Đó là điều bịp bợm. Nếu nhân dân không hành động và kiểm soát thì không một ai có thể thay thế vào chỗ của họ. Dưới danh nghĩa là làm CHO dân, họ đã phạm bao nhiêu điều bỉ ổi và đã lấy những quyết định gây thiệt hại ít nhiều cho quyền lợi của nhân dân.

Nhân dân có quyền đặt cho Nhà Nước vài câu hỏi: trước đợt thuỷ thiều đang dâng của dân chủ và chủ nghĩa tự do, tại sao các ông cứ cứng đầu chối bỏ cái hiện thực và các ông cứ bám chặt một cách tuyệt vọng vào cái tôn chỉ đã lạc hậu không còn cứu vãn được gì nữa? Giữa chủ thuyết của các ông và quyền lợi của Tổ Quốc và Nhân Dân, các ông nghiêng về phía nào? Những đoá hoa đang cắm ở bình, hoa mà các ông đã du nhập từ nước ngoài vào, nay đã héo tàn. Cho đến bao giờ các ông không còn khư khư yêu mến cái xác ướp không bao giờ còn có thể hồi sinh được nữa? Và, nhất là hãy giải thích cho nhân dân tại sao các ông lại căm ghét sự đa nguyên đa đảng như thế! Thật xấu hổ khi thấy những kẻ cuồng tín gồm một phần lớn là những người đã nhận sự giáo dục và lệnh của các ông, và số còn lại là những con cừu thiếu văn hoá, không chút gì hiểu biết về thực tiễn của thế giới, ù lì không thể thấm hiểu được những đổi mới, những thay đổi. Tới nay thì các ông cũng buộc phải thú nhận cái thất bại tả tơi trong xã hội và chính trị, nơi mà cái độc quyền chính trị đã cho phép một sự phình to của quyền lực, mở cửa cho một sự bùng nổ của ích kỷ; đạo đức của những người có quyền có thế càng ngày càng suy sụp và mức phạm tội hình sự của họ càng ngày càng tăng với một tốc độ chóng mặt. Các ông phải công nhận thêm rằng, trong lãnh vực kinh tế, các ông đã chịu một thảm bại không thua gì cái thảm bại của trận Waterloo. Bởi cái ngu dốt và thói con vẹt của các ông đã dẫn dắt các ông theo gương của những ông anh, các ông đã khinh thường khoa học và thực tiễn, nói một cách gọn là những định luật khoa học. Kết quả không cần phải chờ lâu: sự sụp đổ, đẩy cả nền kinh tế duy y chí vào đổ nát, hàng triệu người lao động tay chân và trí óc bị buộc phải thất nghiệp và khổ sở kinh hoàng và nền kinh tế của cả nước với ước vọng là sẽ cất cánh, nhưng lên khỏi mặt đất là chỉ những khu vực không đáng kể như công nghiệp nhỏ, thủ công mỹ nghệ và nông nghiệp, và cho thấy không thể bay cách nào hơn là cứ la đà trên mặt đất! Nếu, những gì liên quan đến những gì về xã hội, chính trị và kinh tế, là một sự sụp đổ hoàn toàn, thì thứ gì còn lại được an toàn vô sự trong một đất nước mà những nền tảng đã sụp, và, mà sự phân rã không thể che giấu được? Âm điệu rỗng tuếch của những lời tuyên bố và những lời hứa làm tức tối những người đang bị dính vào nỗi khổ đau không dứt, những người đang tự hỏi tại sao Đảng không áp dụng cho chính họ điều mà họ đã dạy “Một tội tự thú là một tội đã được giảm 50% án phạt”. Làm thế nào những người cộng sản để giài quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng và quyền lợi của Dân Tộc và Tổ Quốc? Quyết định của quý ông sẽ là cơ sở để Dân Tộc và Lịch Sử dùng để phán xét các ông và Đảng của các ông.

Công luận nhận thấy các ông đã làm một bước tiến trên con đường “đổi mới”. Như thế là các ông bắt đầu thú nhận cái thất bại của các ông. Nhưng các ông, cũng như nhân dân Việt Nam, có bằng lòng về giải pháp nửa chừng chỉ có một số tác động điều trị trên một vài lãnh vực được chỉ định, trong khi cơn bệnh đã tấn công toàn cơ thể của quốc gia và cơ cấu của nó? Các kiêu hãnh về những hy sinh đáng kể trong đời mình mà với chúng các ông tỏ lòng biết ơn Đảng. Chủ nghĩa anh hùng của các ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ của Tổ Quốc và Nhân Dân? Đất Nước và Nhân Dân Việt Nam đang chờ câu trả lời của các ông.

Hà Nội ngày 13 tháng 5 năm 1991
Nguyễn Mạnh Tường

Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009

Chú thích

[1] Dalloz và Sirey là tên riêng rẻ của hai nhà xuất-bản chuyên về các tạp chí nghiên cứu pháp luật của Pháp, có mặt từ năm 1945. Về sau Dalloz và Sirey sáp nhập làm một nên có tên mới là “Dalloz và Sirey” hay “Dalloz et Sirey” hay “Dalloz-Sirey”. Các tạp chí này lần lượt được chọn lọc, gộp lại và tái bản thành một bộ sách dày, bao gồm các số đã phát hành trong nhiều năm trước, gọi là Dalloz and Sirey Repertoires, tiếng ta gọi là Dalloz-Sirey Toàn Tập.(N.D.)

[2] Trissolin là nhân vật chính trong vở kịch Những người đàn bà thông thái của đại văn hào Molière của Pháp. (N.D.)

[3] Mỏm đá Tarpeienne nằm ở Ý, vào thời kỳ La Mã người ta xử chết những kẻ phản bội hay tội hình bằng cách ném các tử tội từ trên mỏm đá cao.

[4] kẻ giết Chúa Giê Su

[5] Ý nói về câu chuyện về cuộc đời vô vị buồn chán của một bà tên Emma, vợ của một ông bác sĩ tầm thường sống ở một vùng quê buồn bã… (N.D.)

[6] René Descartes (1596 – 1650), nhà triết học, nhà toán học, nhà vật lí học người Pháp. Descartes là nhà nhị nguyên luận. Trong học thuyết về nguồn gốc của vũ trụ, trong vật lí học, Descartes là nhà duy vật, coi “vật chất là thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và của nhận thức” (Mac). Descartes đưa ra giả thuyết về sự phát triển tự nhiên của sự sống trên Trái Đất; theo quan niệm của Descartes, vũ trụ là một cỗ máy khổng lồ, con người và cơ thể động vật là những cỗ máy phức tạp, tất cả vận động theo các định luật cơ học. (N.D.)

[7] Animus: nam tính của người phụ nữ, anima: nữ tính của người đàn ông (N.D.)

[8] Giáo dục kiểu Spartan: nói giáo dục lòng can đảm, sự anh dũng, bền bỉ, khắc khổ, có ý thức kỷ luật cao, chiến đấu giỏi.(N.D.)

[9] Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la Clémence d’Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời người yêu là Émilie mà rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua giết tội. Mặc dầu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.

 

16-12-09

 

 

Durch die weitere Nutzung der Seite stimmst du der Verwendung von Cookies zu. Weitere Informationen

Die Cookie-Einstellungen auf dieser Website sind auf "Cookies zulassen" eingestellt, um das beste Surferlebnis zu ermöglichen. Wenn du diese Website ohne Änderung der Cookie-Einstellungen verwendest oder auf "Akzeptieren" klickst, erklärst du sich damit einverstanden.

Schließen