Mừng 100 tuổi nhà văn Doãn Quốc Sỹ, đọc lại ‘Đi!’ của Hồ Khanh
Gần một năm sau ngày miền Nam thất thủ (30/04/1975), hầu hết các nhà văn miền Nam bị bắt đi học tập cải tạo. Doãn Quốc Sỹ cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung, cách thành phố Pleiku 25 cây số. Đến năm 1980, ông được trả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con gái là Doãn thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển “Đi!”, được ký với bút hiệu Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại. Cũng vì lý do này, ông đã bị bắt lần thứ hai vào tháng 5 năm 1984, chỉ vài tháng trước ngày đi Úc. Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý… Ông bị kết án 10 năm tù và mãn hạn tù lần thứ hai vào tháng 11 năm 1991. Năm 1995, ông được con trai là Doãn Quốc Thái bảo lãnh để di dân sang Houston, Hoa Kỳ. Ông hiện sống tại Quận Cam, California. [Trích Tiểu sử Tác giả tại doanquocsy.com]
Bài viết bên dưới rút ra từ bài điểm tác phẩm “Đi!”40 năm trước, khi bản thảo cuốn sách này được lén chuyển sang Pháp, không kèm tên tác giả, và được nhà Lá Bối tại Paris xuất bản và phát hành tại các cộng người Việt tại hải ngoại vào năm 1982, dưới bút hiệu Hồ Khanh do chính nhà xuất bản chọn. Trích đăng lại bài điểm sách ở đây, ngoài việc giới thiệu tác phẩm vẽ lại bức tranh vô cùng sống động của Miền Nam sau 1975, còn nhằm vinh danh một nhà văn đáng trân trọng của nền văn học Việt Nam tự do nhân ngày sinh nhật thứ 100 của ông–Với lời cảm tạ chân thành. [TD]
***
Vào tháng 4 năm 1975 khi miền Nam lên cơn sốt cao độ chờ chết, chỉ có một số nhỏ người gốc miền Nam, phần nhiều là những người di cư vào Nam từ năm 1954, tính đến chuyện bỏ nước ra đi. Mặc dù dạo ấy đi khỏi Việt Nam tuy khó nhưng ít nguy hiểm, không phải trốn chui trốn nhũi, bị lâm vào cảnh bị lường gạt năm lần bẩy lượt, và nhất là không bị nạn hải tặc đe dọa, như thời kỳ diễn ra cao trào vượt biên vượt biển từ cuối thập niên 1970 qua suốt thập niên 1980. Ít người gốc miền Nam hồi ấy đã tính đến chuyện bỏ nước ra đi. Đa số có lẽ còn tin tưởng vào việc Mặt trận Giải phóng Miền Nam (Việt Cộng) dẫu sao cũng là người Việt với nhau.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi Cộng sản cuỡng chiếm miền Nam và loại ra khỏi bàn tiệc liên hoan người anh em Việt Cộng thì ngay cả nhiều người gốc miền Nam dù không có gốc “Nguỵ” cũng tính đến chuyện bỏ nước ra đi. Đến đầu năm 1980 khi tác giả khởi viết “Đi!” thì “cả Sài Gòn chỗ nào cũng chỉ nói đến chuyện đi. Gặp nhau hỏi gia đình đã đi được những ai, bản thân đã tính đến chuyện đi chưa, bao giờ đi. ‘Thứ nhất nhà đá (bị công an bắt), thứ nhì cá ăn!’ Đó là khẩu hiệu chung của những người cương quyết ra đi, chấp nhận mọi rủi ro cực khổ để đổi lấy tự do, tìm lại nhân tính, sống lại nhân phẩm.” (“Đi!”, Hồ Khanh, ấn bản Lá Bối, 1982, trang 83)
Đó cũng là chủ đề của cuốn “Đi!” của Hồ Khanh, tác phẩm dài đầu tiên của một nhà văn còn ở trong nước được xuất bản tại hải ngoại, do cơ sở Lá Bối tại Paris và tại Bắc Mỹ đồng ấn hành vào trung tuần tháng 11, 1982 vừa qua. Nhìn tổng quát thì “Đi!” là sáng tác quốc nội thứ ba đuợc in thành sách tại hải ngoại sau tập thơ “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực” (tức “Hoa Địa Ngục”) của thi sĩ miền Bắc Nguyễn Chí Thiện, do Thời Tập ấn hành vào mùa thu 1980; và tuyển tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào” gồm các bài thơ, truyện ngắn, nhạc bản và ký sự của nhiều tác giả còn ở lại trong nước, cũng do nhà Lá Bối xuất bản vào năm 1981. Riêng tập “Tắm Mát Ngọn Sông Đào” sau đó đã được nhà xuất bản Khai Phóng ở Hoa Kỳ tái bản vào năm 1982. Cũng qua tập sách này, tên tuổi Hồ Khanh đã được độc giả hải ngoại biết tới qua hai truyện ngắn “Bố Về” và “Chuyến Xe,” làm nên hai chương trong tác phẩm “Đi!”.
“Đi!” mở đầu bằng sự kiện “Bà nội bẩy mươi tuổi chẳng bao giờ ngờ chuyến đi từ Hà Nội vô Sài Gòn này lại chỉ để chứng kiến đám con cháu nội ngoại trong Nam ra đi gần trọn ổ. Thật buồn! Nhưng qua kinh nghiệm và cảm nghĩ bản thân, cụ cũng thấy rằng điều đó chẳng thể tránh đuợc.” (trang 5)
Chỉ vài nét vẽ phác qua đó tác giả đã cho thấy cái định mệnh cay nghiệt dành cho một bà mẹ Việt Nam trong một bối cảnh lịch sử chỉ toàn những sinh ly với bể dâu. Năm 1954, cụ đã phải gạt nuớc mắt nén đau thương tiễn đưa hai trong bẩy người con, gồm ông giáo là con trưởng, và Quỳ, cô con gái nhỏ, với đám cháu nội ngoại di cư vào Nam. Và giờ đây, 26 năm sau, khi cụ vào Nam thăm con cháu lại phải chứng kiến những chuyến bỏ cửa bỏ nhà bỏ cả quê hương ra đi của đám cháu con.
Mặc dù hình ảnh bà nội được giới thiệu với độc giả trước hết, bằng một giọng văn chân chất như lối kể chuyện của một bà cụ bình dị, nhưng trên suốt 200 trang của “Đi!” phần lớn câu chuyện xoay quanh tiểu gia đình của ông giáo kiêm nhà văn—cái tư cách sau thuộc diện văn nghệ sĩ phản động này đã được chính quyền Cộng sản đưa đi cải tạo hết vài ba năm. Nhờ “học tập tốt”–thực tế thì ông giáo vốn am hiểu và thấm nhuần hơn ai hết lẽ xuất xử của một nhà trí thức, đã thu mình lại trong thế nhu để giữ cho chất cương còn nguyên vẹn—nên ông giáo được trao trả tự do và cho về đoàn tụ với gia đình. Cuộc đoàn viên với vợ con chưa được trọn vẹn, thì xẩy ra việc cô con gái lớn, Hoa, người đã hai lần vượt biên thất bại, bị bắt, ngồi tù, và lại đang mưu tính một chuyến vượt biên lần thứ ba cùng với Lịch, chồng mới cưới, và Thiện, một trong bốn người con trai của ông giáo. Từ đó, câu chuyện xoay quanh chuyến đi lần thứ ba này của vợ chồng Hoa-Lịch và Thiện. Cùng xảy ra một lúc là chuyến đi của đám con của Quỳ, em gái ông giáo, trong khi vợ chồng Quỳ phải ở lại để chờ chịu tang ông bố chồng đang hấp hối gần chết.
Những ngày đầu sau khi hai con và con rể với các cháu đã ra đi, ông giáo thường đi đây đi đó thăm bằng hữu và nghe ngóng những chuyện vượt biên, trong khi chờ đợi tin tức của đám con cháu đã ra đi. Có quá nhiều thảm cảnh vượt biên vượt biển, ông giáo nghe đã đầy tai. Ông cũng chợt nhận ra là những giai thoại đó không giúp ông quên đuợc thời gian chờ ngóng tin con cháu, mà trái lại còn làm thần kinh ông thêm căng thẳng, bứt rứt. Ông quyết định ở nhà, tiếp tay với bà giáo trông nom “vườn trẻ” của bà giáo, gồm ba đứa nhỏ hàng xóm gửi giữ, dọn dẹp cứt đái, cho chúng ăn, dỗ chúng ngủ, vv… Những lúc rảnh rang, để khỏi suy nghĩ lung tung về nỗi đời-sống-như-treo-trên-sợi-chỉ-mành của đám con cháu vượt biên, ông giáo ôn lại những kỷ niệm khi hai ông bà mới quen nhau và đưa nhau đi học đàn dương cầm ở Hà Nội, những kỷ niệm và nhận xét về từng đứa trong đám con, cháu của mình, nhất là về Hoa và Thiện, là hai người đã ra đi; những ngày ông giáo còn nằm trong trại cải tạo, ngày được trả tự do và phải đi hàng mấy ngày đường qua tới mấy chuyến xe từ cao nguyên về Sài Gòn; rồi buổi sáng sớm khi ông lần về tới con hẻm của nhà mình, đã lạng quạng ra sao vì không có kính, vv… Cũng từ những hồi tưởng để quên nỗi khắc khoải trong khi chờ tin tức của các con đang lênh đênh đâu đó của ông giáo mà độc giả có dịp nhìn thấy cái không khí ấm cúng, đùm bọc lẫn nhau, trí thức song cũng rất văn nghệ của gia đình ông giáo.
Đôi khi ông giáo có dịp tiếp các bạn đến thăm trò chuyện, và từ đó ông giáo cũng như độc giả có dịp thấy được xã hội bên ngoài gia đình của ông bà giáo. Trong số những người tới thăm có Bình, một giáo sư dậy Pháp văn cùng trường với ông giáo trước kia, nay vẫn còn đi dậy nhưng phải đạp thêm xích lô mới đủ sống. Và cũng nhờ đạp xích lô nên Bình đã có dịp dọc ngang khắp thành phố, chứng kiến và nghe được nhiều chuyện. Bình là hiện thân của một lớp trí thức biết sống vững mạnh trong bất cứ cảnh huống nào, không hề than vãn, nhưng cũng chẳng chịu khuất phục hoặc chùm chăn. Ngoài Bình, ông giáo còn được tiếp một ông bạn cố tri là Hoàng Nguyên. Cuộc đàm đạo của hai người trải dài từ trang 123 đến 130, chứa chất những suy tư thâm trầm về con người, trí thức, xã hội. Bàng bạc là một niềm lạc quan, tin tưởng, với rất nhiều khoan dung mặc dù những đổ nát hoang tàn xung quanh về cả tinh thần lẫn vật chất của cái xã hội trong đó họ đang sống. Khi chia tay, người bạn cố tri nói một câu mà ông giáo cho là đáng suy nghĩ, mà như nói với chính tâm tinh của bạn.
“Tôi không hiểu là anh đã viết lại chưa, nếu viết rồi e sẽ phải viết lại,” ông bạn nói như nói với chính tâm linh mình. “Hãy để một thời gian suy ngẫm. Chỉ xin nhấn mạnh thêm một điều: hãy tránh căm thù. Căm thù làm thấp kém, làm nhỏ bé, làm xấu xí con người.[…] Chúng ta đi vào vết xe đổ của họ làm gì!” (trang 125)
Trong khi ông giáo có những phương cách và cơ hội để quên đi thời gian chờ đợi điện tín của đám con cháu đã ra đi, thì bà giáo không có được cái may mắn đó. Sự chờ đợi căng thẳng làm bà sinh bẳn gắt, khó khăn đối với cả nhưng đứa con còn ở lại, với cả ông giáo, và bà đổ tại ông giáo quá nuông chiều con, mặc dù cả hai ông bà cùng nhìn nhận là giá “mà nuôi chúng được đầy đủ một chút thì lôi thôi mắng như tát nuớc vào măt chứ rỡn sao. Khốn nỗi mình nuôi chúng nó đói mẹ nó thấy không […] chúng nó gầy rạc như vậy, mắng nhiều làm gì, tội chúng nó.” (trang 131)
Bà giáo biết như vậy nhưng vẫn không thể làm khác, vẫn đi ra cằn đi vào nhằn. Thế nhưng trong thâm sâu lòng mẹ bà cũng xót xa vô bờ. Đuổi một đứa con hư thân mất nết ra khỏi nhà, nhưng lại chỉ thấy yên tâm khi thấy nó lảng vảng về ngồi trước cửa nhà. Bà cố tình thức khuya dọn dẹp trong bếp, nhưng tai vẫn lắng nghe động tĩnh bước chân của đứa con đi hoang lẻn vào nhà rồi vào phòng của nó. Chỉ khi yên chí con đã vào giường nằm bà mới yên tâm đi ngủ.
Bằng một văn phong đơn giản, chân chất như người thủ thỉ kể chuyện, tác giả Hồ Khanh đã tả nhân vật bà giáo một cách linh động. Đó là một phụ nữ chỉ biết sống cho gia đình, chồng con, cho cái giá trị tinh thần mà từ ngày miền Nam đổi chủ, cả hai ông bà đều ra công vun đắp mặc dù sức tàn phá khủng khiếp từ bên ngoài không ngừng gây ảnh hưởng. Như bà giáo, bà nội cũng tiếp tay vun sới cho đám con cháu còn ở lại ngoài Bắc trong suốt 20 năm sống dưới chế độ Cộng sản mà vẫn giữ một niềm tôn kính lẫn nhau và quý trọng nhân phẩm. Mặc dù những chia ly, tan tác, những khắc khoải, đói khổ và đổi đời xung quanh, gia đình ông giáo cho thấy họ luôn tràn ngập niềm tin sống, luôn nhắc nhở nhau gìn giữ các giá trị tinh thần như một nguồn dinh dưỡng đời sống tâm linh của con người.
Bên cạnh sự đề cao các giá trị tâm linh ấy còn là một niềm tin vững trãi nơi định luật nhân quả, có thể gói trọn trong câu tác giả trích dẫn lời của một nhà báo Pháp (trang 220): “Họ [người Cộng sản] sinh ra trong cảnh khốn cùng, lớn lên trong chiến tranh, sống bằng gian dối và bạo lực, giờ đây họ đang hấp hối trong ngu muội và bất lực.”
“Đi!”, căn cứ vào ngày tháng ghi ở trang cuối cuốn sách, được khởi viết từ ngày 28 tháng 5, 1980 và hoàn tất ngày 30 tháng 7 cùng năm, nghĩa là trong vòng hai tháng. Thời kỳ thai nghén hẳn là từ ngày miền Nam đổi chủ. Trong cuộc sống đen tối, bất định như hiện nay tại Việt Nam, tác giả còn ngồi xuống được để viết nên trên 200 trang sách ghi lại những hoạt cảnh xung quanh cho lịch sử và đám hậu sinh, phải kể là một kỳ công đáng trân trọng. Dù là những ghi chép vội vàng, tập sách nhỏ đã cung ứng cho người đọc một cái nhìn vừa toàn diện vừa sâu sắc về xã hội Việt Nam từ sau khi bị Cộng sản cưỡng chiếm, trong đó, mặc dù những băng hoại tinh thần vẫn có những người cha dịu dàng, lạc quan như ông giáo, những người mẹ sắt son, đảm lược như bà giáo, những đứa con biết kính yêu bố mẹ mặc dù những thiếu thốn, đói khổ như đám con của ông bà giáo; những gia đình dù chia cắt về không gian nhưng vẫn toàn vẹn trong tinh thần; những trí thức bất khuất, thà lam lũ nhưng giữ được sự tự trọng, không buông xuôi; những thiếu niên thiếu nữ vẫn còn biết yêu chuộng cái đẹp trường tồn của nghệ thuật; hoặc những bà mẹ, như một bà bạn của bà giáo, thà thấy con mình hoặc chấp nhận “thứ nhì cá ăn” hoặc con theo kháng chiến để sống một đời đáng sống hoặc chết một cái chết đáng chết thay vì sống chui sống nhũi vùi dập cuộc đời ở Sài Gòn.
Toàn tác phẩm “Đi!” như một nhắn gửi tới người đọc ở hải ngoại, rằng: Chúng tôi ở trong nước vẫn giữ cho mình được thơm tho tinh khiết như những bông sen dù mọc trong ao bùn tanh hôi như thế đấy.
Như tác giả “Hoa Địa Ngục”, Hồ Khanh cũng có cái ngạo nghễ thách thức của người trí giả tạm thời khuất thân, song vẫn tin tưởng
Cuộc chiến đấu này chưa phân thắng bại
Ta vẫn còn đây và sắt thép còn kia
Sống chết thầm câm cốt nhục chia lìa
Ta vẫn sống và không hề lẫn lú …
(“Cuộc chiến đấu này,” Hoa Địa Ngục, Nguyễn Chí Thiện)
Sierra Foothills 1982
Trùng Dương
———-
“Đi!” đã được các con của nhà văn Doãn Quốc Sỹ đánh máy lại, độc giả có thể tải xuống tại https://doanquocsy.com/images/file/jkN3wp751AgQAEYo/di.pdf
Hay tại Đây
Bìa cuốn “Đi!” do các con vẽ lại cho Web site doanquocsy.com
Mừng sinh nhật nhà văn Doãn Quốc Sỹ 100 tuổi
Trần Mộng Tú
Văn Việt
12.12.2022
“Chiếc chiếu hoa cạp điều” và tôi
Tuổi thơ của tôi được may mắn lớn lên trong thế giới thơ của thi sĩ Trần Trung Phương, là chú ruột tôi, một thi sĩ của nhi đồng cho học trò tiểu học. Những câu thơ thật trong và thật hiền.
Khi tôi lên 9 lên 10 tôi đã cả ngày nghêu ngao:
Mặt trời như quả cà chua
Chiều nay rụng xuống mái chùa làng ta
Ô hay! em thấy chiều qua
Mặt trời say rượu ngọn đa đầu đình.
Hoặc
Me ơi cái hộp sữa bò
Để trong bát chiết yêu to nước tràn
Thế mà đàn kiến khôn ngoan
Bắc cầu sợi tóc bò sang Me kìa.
Khi qua tuổi lên mười, bước vào trung học, xen kẽ với những sách dịch từ những tác phẩm nổi tiếng như Chiến tranh và hòa bình, Đỉnh Gió Hú, Giã từ vũ khí, Anh em nhà Karamazov, v.v. những tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ là những cuốn sách luôn luôn cha mẹ tôi tìm thấy trên giường, trên ghế, trên kệ, trên bàn ăn, trên bàn học của tôi và đôi khi trong bếp. Những tác phẩm này đã đóng vai trò phụ thân thứ hai trong đời sống trưởng thành của tôi. Những trang sách văn chương trong sáng, trung hậu đã dạy tôi những điều nhân nghĩa, ngay thẳng và đạo làm người. Tôi chắc chắn là những ai đã từng đọc Doãn Quốc Sỹ cũng được hưởng cái tinh thần đạo đức trong từng câu văn của tác giả. Tôi không may mắn là học trò trực tiếp của Thầy Sỹ, nhưng tôi là học trò trong mỗi tác phẩm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.
Một đoạn văn ngắn trong Chiếc chiếu hoa cạp điều dưới dây đã in sau vào tâm hồn tôi qua mấy mươi năm.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn Tết. Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh. Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều.
Đúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên. Mẹ tôi nói: “Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!”
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới được thấy thằng em út tôi có chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bít tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc dây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đấy đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp.
Nhưng chiếc chiếu hoa cạp điều đó thuộc về người khác.
ông (Lý Cựu) ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở dây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:
– Chiếc chiếu này của tôi! Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng, y như sự phản ứng của một người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói: – Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi… Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn dưới nách rồi thản nhiên nói: – Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cạp điều này từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra trải ở bụi tre nghỉ tạm. Lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không trả lại chỗ cũ. Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết hết sự thể là vậy nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi: – Chiếc chiếu này mẹ tôi mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán.)
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết: – Không, chiếc chiếu này của tôi! Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó vợ tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng. Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
– Thôi, sang Giêng trời bất đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi! “Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!” – Mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui. Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác, cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó – kể cả khi hy sinh một chút ít danh dự do sự yếu đuối thường tình của con người – tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.
Sớm mùng một năm đó, mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở lại yên bình, gia đình được qua thì đói, khỏi thì loạn. Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe, nước mắt muốn trào ra.
Tôi đọc tới đây nước mắt cũng trào ra. Thương cho nhà văn, thương cho những người dân Việt trong một đất nước triền miên chiến tranh và thương cho cả chính mình cũng đã lớn lên từ chiến tranh.
Tôi là một người cầm bút may mắn vì tuổi thơ của tôi được trưởng thành với những dòng thơ trong sáng của thi sĩ Trần Trung Phương, nhờ những câu thơ Mặt trời như quả cà chua của Trần Trung Phương mà mấy chục năm sau có câu thơ:
Buổi sáng trong như ly nước lọc
Lòng thấy hiền như một củ khoai
của Trần Mộng Tú.
Nhờ có Chiếc chiếu hoa cạp điều và những tác phẩm trung hậu, đạo đức tràn đầy lý tưởng khác của Doãn Quốc Sỹ mà trong suốt mấy chục năm cầm bút tôi vẫn giữ được cái tâm trong sáng, cái tâm lành ở mỗi chữ mình viết xuống.
Xin cám ơn nhà văn Doãn Quốc Sỹ và chúc người sống an vui khỏe mạnh đến cuối đường.
Ngày 10 tháng 12 năm 2022
Tóc trắng và con đường mùa Thu
Tóc ta trắng và lá Thu màu đỏ
Bầu trời trên cao mây nhẹ nhàng bay
Lưng vẫn thẳng ta chẳng cần gậy chống
Một trăm năm coi nhẹ như một ngày
Ta vẫn một tâm Gìn Vàng Giữ Ngọc
Dòng Sông ơi Định Mệnh chảy về đâu
Khu Rừng Lau xạc xào trong trí nhớ
Gió từ đâu thổi tạt tới phương này
Ở trước mặt có hàng cây lá đỏ
Một mình ta đi hết một con đường
Có ai đợi ở cuối đường không nhỉ
Nỗi Sầu nào coi cũng nhẹ như Mây
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ – Đi bộ trong sáng Thu 2022.
Ta đang bước bằng bàn chân thế kỷ
Cát bụi nào Xóa được Dấu Chân qua
Ta đã sống bằng Tình Yêu Thánh Hóa
Mình Lại Soi Mình trong mỗi sát na
Trên con đường lá mùa Thu đỏ ấy
Ông lão vừa đi vừa nhập Vào Thiền
Bước vững chãi bàn tay nhè nhẹ nắm
Cả bầu trời như chỉ của mình riêng
Tôi ngắm mãi bức tranh mùa Thu đó
Thấy lòng mình như được trải Chiếu Hoa
Cạp Điều đỏ nhuộm tôi hồng tuổi dại
Bao nhiêu năm vẫn chẳng thể phai nhòa.
Viết cho ngày Dec.10-2022
Ghi chú: Chữ tô đậm là tên trong một số những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ.
Gìn Vàng Giữ Ngọc
Giòng Sông Định Mệnh
Khu Rừng Lau
Sầu Mây
Dấu Chân Cát Xóa
Tình Yêu Thánh Hóa
Mình Lại Soi Mình
Vào Thiền
Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều
Doãn Quốc Sỹ: Thế Đấy! (*)
Blog VOA

Doãn Quốc Sỹ là người “đối cảnh vô tâm.” Đó là một tuyệt đỉnh của công phu tu tập mà chúng tôi không dám thẩm định. Nhưng được gần gũi Doãn Quốc Sỹ ít lâu nay, tôi biết mình có thể học cách sống của ông, qua hai chữ “Thế Đấy!”
Hồi đầu 1970 một nhóm sinh viên văn nghệ ở Sài Gòn mời nhà văn Doãn Quốc Sỹ tới nói chuyện. Tiễn ông ra về rồi, mấy phút sau thấy ông quay trở lại. Ông cười hề hề, hỏi có ai dùng xe gắn máy đưa ông về nhà được không. Tại sao? Ông cười khà khà: “Mất xe rồi! Ai nó lấy mất rồi!”
Cái xe “nội hóa” La Dalat ông vẫn lái đi giao những tác phẩm của ông và nhà xuất bản Sáng Tạo cho các tiệm bán sách. Cả một tài sản, và phương tiện mưu sinh cần thiết. Nó biến mất. Mà hồi đó ở Sài Gòn chắc không ai mua bảo hiểm để mất xe sẽ được đền! Mất xe, ông vẫn cười khà khà, như thể mới nghe ai kể một chuyện hài hước!
Cả đời Doãn Quốc Sỹ vẫn cười khà khà, mắt không trợn lên, lông mày không chau lại. Không để cái được, cái mất, cái may, cái rủi làm động tâm. Thường ai cũng muốn tu tập công phu để đạt tới trạng thái này. Hình như Doãn Quốc Sỹ sống tự nhiên như vậy, không hề cố gắng. Ông viết cuốn Vào Thiền, tái bản nhiều lần. Bị cộng sản bắt bỏ tù, vào trong tù ông ngồi thiền. Quản giáo bắt đi nghe gì thì đi. Có gì ăn thì ăn, lúc nào được ngủ thì ngủ. Bị bắt lần thứ hai, vẫn như vậy, lại ngồi thiền. Thở vào, thở ra, nhẹ như mây bay, vững như núi đá.
Khi Doãn Quốc Sỹ được trả tự do, qua Mỹ, tôi đến thăm ông ở Houston, Texas. Ông khỏe mạnh, hàm răng rất tốt vì mỗi ngày đều súc miệng bằng nước muối. Cả một nhóm khách cùng tò mò thăm hỏi nhưng ông chỉ nói mấy câu sơ sài về cuộc sống trong tù; hình như không thấy chuyện gì đáng kể lại. Ông ngồi nghe chuyện của đám bạn trẻ, và họ nói khá nhiều, hầu hết nói về thế giới người Việt ở địa phương. Tất nhiên, người ta kể chuyện các hội đoàn, các nhân vật nổi tiếng hoặc nhiều tai tiếng, kẻ khen, người chê, tranh nhau nói không dứt lời.
Hôm đó, lần đầu tiên được ngồi lâu với ông, tôi mới nhận ra là Doãn Quốc Sỹ chỉ im lặng nghe, miễn cưỡng lắm mới nói, nói rất ngắn. Ông lúc nào cũng mỉm cười. Khi một người hướng về phía ông, nói lớn tiếng, ông chỉ đáp một câu, “Thế Đấy!” Đám bạn trẻ kể chuyện sinh hoạt ở Houston, hùng hồn phê bình người này người kia. Ông ngồi nghe, không buông một lời khen, chê, không bình phẩm, phụ họa mà cũng không bài bác. Nghe chuyện xấu hay tốt ông cũng chỉ cười, lâu lâu mới góp một lời, “Thế Đấy!”
“Thế Đấy!”
Nếu diễn tả dài dòng thì hai tiếng “Thế Đấy” nghĩa là gì? Ah, cuộc đời nó như thế đấy! Ah! Con người ta như thế đấy! Thế Đấy, ở đời cứ cái này nó sẽ sanh cái kia như thế đấy! Đúng, cái nghiệp báo của mọi người nó diễn ra như thế đấy!
Doãn Quốc Sỹ nhìn cuộc đời với đôi mắt “Thế Đấy!” Nghe kể chuyện đời với đôi tai “Thế Đấy!” Cuộc đời chuyển động, lòng ông không lung lay.
Doãn Quốc Sỹ khiến chúng ta nhớ câu kệ của Trần Nhân Tông trong Cư Trần Lạc Đạo; một trong những bài văn suôi đầu tiên, theo lối “phú,” viết bằng chữ Nôm, tiếng Việt Nam. Cư Trần Lạc Đạo tức là sống ở trong cuộc đời, ở cõi trần tục, nhưng vẫn vui với Đạo. Đoạn cuối Cư Trần Lạc Đạo có bài kệ chữ Hán Việt, kết thúc với câu: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Hiểu theo nguyên văn là: Nếu “đối cảnh vô tâm” thì khỏi cần hỏi đến thiền.
Kinh Hoa Nghiêm, bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh, ở đoạn thứ tư trong phẩm thứ nhất, bài kệ thứ 26 đã nhắc đến “Tâm không lay động.” Đối cảnh vô tâm, là đứng trước cảnh ngộ bên ngoài, dù nó biến chuyển thế nào thì lòng mình cũng không động: Không phê phán sạch hay nhơ, hơn hay kém, đẹp hay xấu, trái hay phải, không nổi lên niềm vui sôi nổi hay nỗi buồn rầu rĩ, không mừng hay giận tiếng khen ngợi hay lời chê bai.
Mở đầu đoạn thứ bảy bài Cư Trần Lạc Đạo, Trần Nhân Tông viết:
“Hãy xá vô tâm;
Tự nhiên hợp đạo.”
Vô tâm, là cái tâm trống trải. Tâm bỏ trống cho gió thổi qua. Trong hoàn cảnh nào cũng không để tâm mình xao xuyến. Những người theo học Bụt Thích Ca mong tu tập để có lúc đạt được trạng thái đó, dù chỉ trong một thời gian ngắn cũng đáng gắng sức công phu.
Doãn Quốc Sỹ hầu như bẩm sinh đã mang sẵn một cái tâm kiên cố khó bị lay động vì hoàn cảnh. Ông có phước mang sẵn tấm lòng trống trơn, không cần phải cố gắng.
Trong cuộc sống hàng ngày không biết ông tọa thiền lúc nào. Doãn Quốc Sỹ không báo trước khi ngồi xuống: “Tôi tập thiền đây;” hay là khi đứng dậy “Tôi ngồi thiền xong rồi.” Mỗi giờ phút trong đời sống của ông thể hiện một quá trình thiền tập. Đi, đứng, nằm, ngồi, mặc áo, cởi dép, uống nước, nói năng, hầu như lúc nào ông cũng làm chủ thân và tâm. Đối cảnh, đứng trước cảnh ngộ biến đổi cách nào ông cũng có thể thốt lên một câu: “Thế Đấy!”
Người mang tánh bẩm sinh như vậy chắc phải đã tu nhiều kiếp trước! Cha mẹ sanh ra đã truyền cho hạt giống tốt, tự nhiên không nuôi lòng tham lam quá độ, không nổi cơn giận dữ dễ dàng. Khi biết suy nghĩ thì tự thấy mình chỉ là một tập hợp tạm thời và ngắn hạn của ngũ uẩn, như tất cả mọi chúng sinh, nhờ thế không đeo một Cái Ta quá nặng trong đầu. Dứt trừ nhân ngã. Dừng hết tham sân. Như Trần Nhân Tông viết trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo:
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương;
Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác.
Có lẽ tôi đã viết quá nhiều, nói quá lời, vì yêu mến, kính trọng Doãn Quốc Sỹ, không phải vì văn chương của ông mà vì cách sống, cuộc sống hàng ngày, bình thường, của ông. Không thể nói Doãn Quốc Sỹ là người “đối cảnh vô tâm.” Đó là một tuyệt đỉnh của công phu tu tập mà chúng tôi không dám thẩm định. Nhưng được gần gũi Doãn Quốc Sỹ ít lâu nay, tôi biết mình có thể học cách sống của ông, qua hai chữ “Thế Đấy!”
“Thế Đấy!”
Đứng trước bất cứ cảnh ngộ nào, nếu mình biết thốt ra tự đáy lòng hai chữ “Thế Đấy!” thì chắc cũng quý lắm rồi!
Chú Thích: Bài kệ trong Cư Trần Lạc Đạo như sau:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia tung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
(Ở cõi trần vui với đạo, tùy theo cơ duyên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ. Trong nhà đã có của báu, ngưng đi tìm kiếm. Đối cảnh vô tâm, khỏi hỏi đến Thiền).
(*) Viết nhân sinh nhật thứ 100 nhà văn Doãn Quốc Sỹ